Saturday, October 31, 2020

TRẬN CHIẾN ÁC LIỆT TRÊN QL-19 CỦA SƯ ĐOÀN 22 VNCH THÁNG 3/1975

Bài chuyển ngữ này nhằm mục đích ghi ơn những chiến sĩ của SĐ 22 bộ binh, đặc biệt là trung đoàn 47, đã hy sinh trong trận đánh giữa đầu đèo phía đông của đèo An Khê và Bình Khê; dù cái chết của họ đã không cứu vản VNCH sụp đổ trước sự xâm lăng của quân CSBV, nhưng chiến công của họ để bảo vệ khu vực trách nhiệm sẽ lưu danh thiên cổ.-- Tài Trần, một cựu quân nhân của trung đoàn 10 sư đoàn 7 bộ binh - một sđ đã có hai vị danh tướng đã tuẩn tiết trong ngày 30.4.75 vì đã không thể cưởng lại số phận nghiệt ngã của dân tộc. 

- Lời nói đầu: trước khi trận Ban Mê Thuột bùng nổ ngày 10/3/75, ngay từ NGÀY 4/3/75, TĐ 1 và 2 của trung đoàn 47 sđ 22, bảo vệ đầu đèo phía đông của ĐÈO AN KHÊ trên QL-19 đã đẩy lui nhiều cuộc tấn công của trung đoàn 2 và 141 thuộc sđ 3 csbv. Chỉ trong 9 ngày chiến đấu ác liệt với địch quân vượt trội về quân số và vũ khí, tính tới ngày 13/3, chỉ riêng TĐ 1/47 đã có BỐN tiểu đoàn trưởng anh dũng hy sinh. Sau đó tđ phải về hậu cứ SĐ để bổ sung quân số vì thiệt hại 50/100 do chết và bị thương. 

. . . 

"TRONG KHI CHIẾN SỰ ác liệt tại tỉnh lỵ Ban mê Thuột và các khu vực lân cận, và ba sđ csbv đã tấn công sđ 23 VNCH, vừa yếu về hỏa lực và quân số (out-gunned and out-manned); sđ 22 VNCH, dưới quyền chuẩn tướng Phan đình Niệm, vẫn tiếp tục chiến đấu tại tỉnh Bình Định. Dù sđ 22 ko thể phá vở áp lực của sđ 3 csbv trên Đèo An Khê nằm trên QL 19, các chiến sĩ bộ binh, pháo binh, và các cuộc không kích của VNCH đã gây thiệt hại nặng cho địch. Trong những ngày đầu của cuộc chiến, tướng Niệm đã nghĩ rằng với những thiệt hại nặng nề này, ko sớm thì muộn sđ 3 csbv sẽ rút lui. Nhưng bất hạnh thay, ông đã ko dự đoán được tình hình đã thay đổi quá đột ngột (precipitous turn of events) ở phần còn lại của Quân khu (QK) 2, đã khiến, những chiến thắng của sđ 22 tại Bình định trở nên vô ích.  


1. QL-19 VỚI CÁC TRẬN ĐÁNH TẠI ĐÈO AN KHÊ BÌNH KHÊ: ta thấy quân CSBV đã cản đường ở phía tây Đèo Mang Yang và phía đông của Bình Khê

               2 : PHÍA ĐÔNG CỦA BÌNH KHÊ 

3. ĐÈO AN KHÊ VỚI ĐÈO MANG VỚI KHÚC QUẸO CÙI CHỎ Ở NÚI CÂY RUI. 

      

                4. QUỐC LỘ 19 VÀ BÌNH KHÊ 

Cuộc tấn công đầu tiên của sđ 3 csbv tại ĐÈO AN KHÊ và BÌNH KHÊ, xem bản đồ số 1, đã thành công khiến các đv phòng thủ, phần lớn là ĐPQ, đã rút khỏi các vị trí - từng giúp họ kiểm soát đèo này hay giữ các cầu trên QL-19. Trong vài trường hợp, ĐPQ đã rút lui chỉ sau một thời gian chiến đấu ngắn ngủi. Đến lúc tướng Niệm có đủ cả ba TĐ để có thể phản công, csbv đã khai thác những thành quả ban đầu và đã có những thành phần lớn của cả ba trung đoàn của sđ 3 csbv - 2, 12 , và 141 - cộng với các đv đặc công, pháo, và địa phương, tập trung ở đầu của THUNG LŨNG VĨNH THẠNH, giữa Đèo An Khê và Bình Khê, xem bản đồ 1.

NGÀY 10/3, khi sđ 320 csbv tiến vào Ban Mê Thuột, tướng Niệm đã có BA trong bốn trung đoàn phụ trách khu vực giữa ngã ba AN NHƠN, nơi tiếp giáp giữa QL-19 và QL-1, và ĐẦU PHÍA ĐÔNG của ĐÈO AN KHÊ, xem bản đồ số 1. TĐ 1 và 2 của trung đoàn 47, ở đầu đèo phía đông của Đèo An Khê, đã đẩy lui nhiều đợt tấn công của trung đoàn 2 và 141 csbv. NGÀY 11/3, TĐ 3/47 được không vận đến quận lỵ BÌNH KHÊ, để cho trung đoàn 47 có đủ 3 TĐ. LIÊN ĐOÀN (LĐ) 927 ĐPQ vẫn còn giữ những vị trí trong đèo này nhưng ko thể kiểm soát con đường đi qua đèo. TĐ 209 của LĐ này đã bị tràn ngập ngày 11/3, và TĐ 218 cũng của LĐ, với các đ.đ. đóng rải rác trong đèo, ko phải là đối thủ của địch quân.

TRUNG ĐOÀN 42 bộ binh của ĐT NGUYỄN HỮU THÔNG, với BCH đặt tại Bình Khê, đã tấn công về hướng tây dọc theo QL-19 nhằm bắt tay với hai TĐ của trung đoàn 47 đã mất sức vì đụng độ liên miên. TRUNG ĐOÀN 41 bộ binh, đã tiến từ BỒNG SƠN ngày 8-9/3 để tới AN SƠN trên QL19, nhằm bảo vệ tuyến phòng thủ (line of communication) ở phía tây tới BÌNH KHÊ và bảo vệ SÂN BAY PHÙ CÁT. 

TRUNG ĐOÀN THỨ TƯ của sđ 22, trung đoàn 40, vẫn ở bắc Bình Định, giữ đường vào thung lũng AN LÃO và giữ Đèo PHÙ CỦ trên TL-506 bắc PHÙ MỸ. 

NGÀY 11/3, TĐ 1 và 2 của trung đoàn 2 csbv BỊ THIỆT HẠI NẶNG bởi pháo và không quân VNCH. TĐ 7 trung đoàn 141 csbv, bị đẩy lui khỏi hợp lưu của Sông Côn và Sông Đông Phổ với hai đ.đ. gần như tan rả. TĐ 3 trung đoàn 2, và TĐ 5 trung đoàn 12 cũng bị thiệt hại nặng. Những xe tải chở đạn và quân mới tinh xuất phát từ thung lũng Vĩnh Thạnh và sau đó chở lính chết và bị thương về lại căn cứ này của csbv phía bắc của Vĩnh Thạnh. 

NGÀY 13/3, một đại diện của cơ quan DAO thăm một tiền đồn của sđ 22. Báo cáo của ông này phản ảnh sự tin tưởng của tướng Niệm và lạc quan tại BTL của tướng Niệm. Những cuộc tấn công dữ dội của năm TĐ CSBV chống lại TĐ 1 và 2/47 VNCH, đã bị đẩy lui, dù BỐN TĐ TRƯỞNG CỦA TĐ 2 LẦN LƯỢT TỬ TRẬN KỂ TỪ 4/3. Nay được chỉ huy bởi một đại úy, TĐ này chỉ còn 1/2 quân số và rút về hậu cứ sđ để bổ sung. Dù ko có TĐ 2, trung đoàn 47 đc lịnh tấn công địch ở chân đèo phía đông của đèo An Khê, và bắt tay với ĐPQ ở trong đèo. LĐ 927 ĐPQ, dưới quyền của trung đoàn 47, có BCH ở phía tây đèo An Khê với các đ.đ. của ba TĐ thiếu quân số gồm tđ 209, 217 và 218 - giữ các tiền đồn dọc theo đèo. Khi bch của TĐ 218 đpq và một đ.đ. của TĐ bị tràn ngập ngày 12/3, trung đoàn 47 VNCH có vẻ ko thể vượt qua đèo kịp thời để bắt tay với các đv ĐPQ. TĐ 218 ĐPQ đã tái bổ sung, vẫn giữ một số vị trí ở đầu đèo phía tây, nhưng ngày 17/3, tđ bị tấn công bởi tđ 5/12 csbv. 

Cuộc chiến diển ra ác liệt ở đầu đèo phía đông và Bình Khê từ 15-17/3.  Trung đoàn 42 VNCH định đẩy lui 3 tđ của sđ 3 csbv đang chiếm cao điểm gần đầu đèo phía đông. Dù giết gần 500 ĐỊCH QUÂN TRONG HAI NGÀY, trung đoàn 42 ko có tiến triển đáng kể. ĐT Thông, BỊ THƯƠNG HAI LẦN nhưng ko tản thương. Trong khi đó, trung đoàn 41 chuyển về nam quận lỵ Bình Khê.

Tướng Niệm đã rút hai TĐ còn lại của trung đoàn 47 và gửi họ lên bắc Bình Định để thay thế tđ 2 và 3/40, đã được lịnh về Khánh Dương tỉnh Khánh Hòa. Sau khi tđ 2/47 bổ sung quân số tại hậu cứ SĐ, ông gửi lên phía bắc để thay thế tđ 1/40, giờ làm trừ bị cho SĐ. 

Với chỉ có hai trung đoàn khả dụng và ko có trừ bị, ngày 17/3 tướng Niệm đã quyết định rằng sẽ ko thông thương đèo An Khê và ra lịnh các tđ đóng tại chỗ. Dù vài ngàn dân thường và vài trăm lính ĐPQ tại An Khê ko thể rút về Qui Nhơn, ông thấy ko có lý do gì để tiếp tục tấn công. Trong khi đó, cuộc di tản đang diển ra ở LTL-7B.

NGÀY 19/3, csbv đã kiểm soát đèo và tiến về phía tây, tới gần ngoại ô của An Khê. Ngày 22, tđ 5/12 csbv đã vào An Khê. Mọi kháng cự của QLVNCH đã chấm dứt, và hơn 5.000 người đã di tản trong hoảng loạn về phía nam trên các đường làng và đường mòn để cố gắng tới Qui Nhơn. Ngày 24/3, tr.đ. 42 rút lui dọc theo QL-19, phía đông Bình Khê, và tr.đ. 41 giữ nhiệm vụ bảo vệ Bình Khê. 

Cùng ngày,cuộc tấn công của csbv vào Bình Khê bắt đầu, và tr.đ. 41 và 42 đã BỊ KHÓA ĐUÔI (were cut off). SĐ 3 csbv cho trung đoàn 141 và 12, trừ TĐ 5 vẫn còn ở An Khê, tiến hướng đông về sân bay Phù cát. Trong khi đó, tr.đ. 95 của mặt trận B3, từ Pleiku đi theo QL-19, hợp lực với tr.đ. 2 để tiếp tục tấn công tr.đ. 42 đông Bình Khê.

Nhưng tr.đ. 41 và 42 ko chờ đợi cuộc tấn công này. Thay vào đó, ngày 27/3, họ phá vòng vây và đánh về hướng đông để tiến về Qui Nhơn, mang theo hơn 400 lính ĐPQ - được trực thăng cứu ngày hôm trước từ khu vực An Khê. Trong khi tr.đ. 41 và 42 đang cố thủ bảo vệ Qui Nhơn, lịnh từ Sài gòn ra lịnh cho sđ 22 phải di tản. QK 2 gần như đã mất. 

Khi quân csbv tấn công sân bay Phù Cát ngày 31/3, KQ VNCH đã mang đi khoảng 32 máy bay, để lại khoảng 58 chiếc, phần lớn hư hỏng hay hủy diệt trên mặt đất. Ngày 1-2/4, khoảng 7.000 binh sĩ của sđ 22 và đpq tỉnh Bình Định đã lên tàu hải quân tại Qui nhơn đi Vũng tàu. Xe tăng và bộ binh csbv đã tiến vào Qui nhơn.

...

Dịch từ: "From cease-fire to capitulation" (Từ ngưng bắn đến đầu hàng) của cựu ĐT Le Gro thuộc cơ quan DAO. 

Bản đồ số 1 từ sách đã dẫn, các bản đồ còn lại lấy từ mạng. 

Đọc thêm: https://quanvan.net/cac-tran-danh-nam-1975-36-binh-dinh-di-tan/#.X5914ZCSk2w


5 VÀ 6:  THÀNH PHỐ AN KHÊ 

                                   

7. ĐÈO MANG YANG





SỐ MẠNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA QUA LĂNG KÍNH CỦA LÝ THUYẾT SỐ

1/ Dựa vào LTS, tôi thay các chữ bằng trị số tương ứng của chúng, cộng từng phần và thu nhỏ nếu lớn hơn 9, sau đó cộng các phần.

VIỆT = 6 1 5 4 = 16, vì 16 lớn hơn 9 nên thu nhỏ = 7

NAM = 5 1 4 = 10, vì 10 lớn hơn 9 nên thu nhỏ = 1

CỘNG = 3 7 5 3 = 18, vì 18 lớn hơn 9 nên thu nhỏ = 9

HÒA = 5 7 1 = 13, vì 13 lớn hơn 9 nên thu nhỏ = 4 

Cộng các phần : 7 + 1 + 9 + 4 = 21. Như vậy số mạng (destiny) của thực thể (entity) VNCH chịu tác động của số 21.

Sau đây là ý nghĩa của số 21 theo Lý Thuyết Số/LTS (Numerology).


NHẬN XÉT: 

Theo quan điểm của LTS thì năm 1975 cũng được xem là một thực thể (entity) và khi cộng lại cũng bằng 22 (1+9+7+5 = 22): MỘT SỰ TRÙNG HỢP KHÔNG THỂ TIN NỖI. Do vậy nó cũng có ý nghĩa của số 22 kể trên.

* Bà Linda Goodman là một cố chiêm tinh gia nổi tiếng của Mỹ, tác giả của nhiều sách trong đó có quyển Linda Goodman's Star Signs mà tôi dùng để viết về LTS.

Ảnh: vì tôi tuổi Bảo Bình (Aquarius) nên có số của kẻ "chuyên đào giếng cho kẻ khác uống hay trồng cây cho kẻ khác hưởng quả".




 

Sự hào hùng của Đại tá Nguyễn Hữu Thông

HQ Nguyễn Đức Thu

vhch vbdalat

Ngày 31 tháng 3 năm 1975, tại Thành phố Qui Nhơn, người ta nghe rất rõ nhiều tiếng đạn nỗ từ đèo An khê, tiếng rít kinh hồ của đại bác từ dãy nuí Nam triều và mọi người đều nhận ra rằng Bắc quân sẽ tấn công thành phố này nay mai.

Sáng ngày 1 tháng tư năm 1975, có một vị Ðại Tá , người cao lớn, còn rất trẻ, da hơi ngâm đen  đã bất thần đến thăm Quân Y Viện Qui nhơn. Thấy tình cảnh  chỉ còn một bác sĩ và vài y tá cùng hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh  chết chưa được chôn cất, ông đã bật khóc trước mặt vị Bác sĩ này. Đó là Y sĩ Trung úy Nguyễn Công Trứ, người Bác sĩ duy nhất còn lại trong Quân y viện.

REPORT THIS AD

Chiều ngày 2 tháng tư, Quân Y Viện lại tiếp nhận thêm một tử thi nữa, và đau buồn thay, đó chính là tử thi của vị Ðại Tá hôm qua , Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung đoàn trưởng Trung Đoàn  42, một Trung đoàn thiện chiến nhất của Sư đoàn 22BB . Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát sau khi  từ chối lên tàu Hải quân để được hải vận về Nha trang với 3 Tiểu đoàn (-) của ông trên bờ biển Qui nhơn . Xác ông được Quân y viện chôn cất dưới cột cờ chung với 46 tử sĩ QLVNCH.

Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, nhập học khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam năm 1959, khóa đầu tiên với chương trình 4 năm đào tạo Sĩ quan Hải Lục Không Quân hiện dịch. Ông tốt nghiệp ngày 22 tháng 12 năm 1962 và chỉ không đầy 10 năm sau, được  thăng cấp Đại tá thực thụ tại chiến trường Cao nguyên năm 1972 .

nhanva dt nhthong
Hình trên : Tổng Thống Đệ Nhị Cọng Hòa với các Trung Đoàn Trưởng Khóa 16 tại chiến trường Cao nguyên : Trung tá Đinh Văn Mễ,  Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47, Đại tá Nguyễn Hũu Thông , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 và Đại tá Nguyễn Thiều, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 41 thuộc Sư đoàn 22 BB.

REPORT THIS AD

Quân nghiệp lẫy lừng nhưng đầy bi hùng của Đại tá Thông bắt đầu từ cuối năm 1971 khi ông còn là Trung tá, được chỉ định về làm Giám đốc TTHQ/TKBĐ, nhưng chỉ chừng 3 tháng sau, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42/SĐ 22BB để trực chiến ngay với Bắc quân trong một trận chiến kinh hoàng nhất trong mùa hè đỏ lửa , tháng tư năm 1972, trận DAKTO-TÂN CẢNH.

vnch bd tancanh

REPORT THIS AD

Mở đầu Mùa Hè Đỏ Lửa tại Dakto-Tân Cảnh ngày 22 và 23 tháng tư năm 1972, các Sư đoàn  Bắc quân đã bất thần tấn công trực diện vào Bộ Tư lệnh tiền phương và 2 Trung đoàn của Sư đoàn 22 , với sự yểm trợ của đại pháo cường tập tối đa và Thiết giáp hạng nặng  cùng với chiến thuật biển người.  Trung đoàn 42 và 47 và Bộ tư lệnh của Sư đoàn đã chống trả mãnh liệt, Thiếu Tá Nguyễn Bá Như, Trung Đoàn Phó 42, cùng Đại Úy Cố Vấn Kenneth Yoman đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12 ly 7 để tác xạ địch, cũng bị hỏa tiển Sagger bắn trúng, bồn nước nổ tung và cà hai vị sĩ quan này chết tại chỗ. Tân cảnh thất thủ !

Ban cố vấn còn lại  được cố vấn trưởng Quân đòan John P Vann di tản lúc 4 giờ sáng bằng trực thăng, nhưng vị Tư lệnh Sư đoàn 22 , Đại tá Lê Đức Đạt cương quyết ở lại chống trả ,để rồi tử trận trong biển lửa ngày 24 tháng tư , 1972.

Sự uất hận thua trận vì chiến thuật biển người  thí quân của Bắc quân  và  sự hy sinh anh hùng của một Đại niên trưởng , của các Huynh Đệ đã khơi dậy tinh thần yêu nuớc , yêu dân và lòng can đảm của những Sĩ quan tự hào  xuất thân từ một Quân trường Võ Bị nổi tiếng , Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Đại tá Thông cùng với vị Tân Tư lệnh cùng  3 vị Trung đoàn trưởng 40, 41 & 47 đã tái hồi sinh một Sư đoàn 22 mãnh liệt và dũng cảm hơn bao giờ hết. Sư đoàn 22 cùng với Sư đoàn 23 từ đó đã tái  chiếm, trấn giữ  vùng Cao nguyên từ Pleiku đến KonTum , từ Pleime đến Bình Định. Nhưng cho đến một ngày…..

REPORT THIS AD

….một ngày vào cuối tháng 3 năm 1975,  theo lời của Y sĩ Trung úy Phan ngọc Hà , Tiểu đoàn 22 Quân y,  thì ” ….tình thế biến chuyển thật lẹ làng. Quyết định sai lầm trong việc triệt thoái Quân đoàn 2 ra khỏi Cao nguyên chẳng những đã không duy trì được lực lượng tác chiến mà còn làm rối loạn hậu phương và cũng chẳng có một lợi ích chính trị nào hết nếu không muốn nói đến sự phá sản của mọi mặt khi quân bài Domino bắt đầu đổ vỡ.

Tháng 3-1975, khi Ban Mê Thuột thất thủ, SĐ 22 chỉ còn 3 Trung đoàn để  phòng thủ  Bình Định vì Trung đòan  40 đã phải tăng phái cho SĐ23 BB tại tuyến bắc Khánh Dương. Tại Bình Định, Trung đoàn 47 của Đại tá Lê Cầu (K18/VB) được giao khu vực bắc Bình Định, lo trấn giữ Bồng Sơn, cửa ngõ ra vào thung lũng An Lão .
Trung đoàn 41 của Đại tá Nguyễn Thiều giữ  Quốc lộ 19 từ Bình Khê  đến An Khê trong khi Trung đoàn 42 của Đại tá Nguyễn Hữu Thông giữ  Quốc lộ 19 phía nam Bình Khê và phần lãnh thổ còn lại của Bình Định. Trong lúc Trung đoàn 42 đang cầm cự một cách anh dũng với Sư đoàn 3 Sao vàng của Bắc Việt ở mặt trận Bình-khê thì được lệnh phải di tản về Nha trang để yểm trợ cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đang cầm chân Cộng quân ở Khánh-dương.

REPORT THIS AD

Nhưng lui binh bao giờ cũng là vấn đề khó khăn của các nhà quân sự từ Đông Tây kim cổ. Tài ba và mưu lược như Gia-cát Lượng mấy lần vào Kỳ sơn như chỗ không người; oai dũng kiêu hùng như Napoléon cùng đoàn quân viễn chinh dưới chân Kim Tự tháp tự hào rằng lịch sử đang chiêm ngưỡng tài danh vẫn không khỏi khốn đốn khi phải rút lui khi trận địa không còn ưu đãi.

Tuy nhiên,  với những kỳ tài điều quân , ông  đã để lại những trang sử hào hùng hiếm có trong Quân sử cận đại, điển hình là sự tái chiếm Đèo Nhông năm 1974. Theo lời của Phóng viên chiến trường Phạm Huấn ” Đây là cuộc chuyển quân thần tốc của một Trung đoàn – Trung đoàn 42 Bộ Binh – từ Tây Nguyên trở về Bình Định tái chiếm đèo Nhông – đây cũng là một chiến thắng kỳ diệu nhất của Trung đoàn 42 trong năm 1974. Trung đoàn 42 Bộ Binh đang hành quân tại vùng Pleime, Tây Nam Pleiku, trong một buổi chiều, được lệnh về giải tỏa áp lực của địch tại mặt trận Bình Định. Cuộc chuyển quân tưởng rằng phải được thực hiện trong vòng 2 hay 3 ngày. Nhưng, ngay đêm ấy, toàn bộ Trung đoàn đã về tới Bắc Phù Cát. Và từ đó, dùng bàn đạp, đánh thẳng vào hậu phương địch, khiến Bắc quân trở tay không kịp. Những trận đánh đẫm máu dòng dã suốt 3 ngày sau. Trung đoàn 42 đã tiêu diệt gần 1 Trung đoàn CSBV của Sư đoàn 3 Sao Vàng, dựng nên «Chiến Thắng Đèo Nhông».

REPORT THIS AD

Trước khi mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ, một lần nữa, Trung đoàn 42 Bộ Binh cũng đã tái chiếm và biến 2 ngọn đồi vô danh từ  Tây Tây Nam quận Hoài Nhơn, Bình Định thành những «di tích» của chiến sử, nói lên tinh thần chiến đấu chống Cộng phi thường của người quân nhân QLVNCH.

Hai ngọn đồi vô danh, đó là những ngọn đồi chiến lược, được mang số 82 và 174, nằm trên huyết lộ vận chuyển của Cộng quân, trên trục Quảng Ngãi – Bình Định – cũng tại hai cao điểm chiến lược này, bọn nhà báo bất lương ngoại quốc, sau gần 20 năm xuyên tạc về chiến tranh Việt Nam, đã ngả nón kính phục về tinh thần dũng cảm của QLVNCH. Một phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ cũng được gởi tới đó quan sát chiến trường, và khi trở về nước, đã lên tiếng binh vực, ủng hộ Việt Nam. Nhưng, mọi chuyện đã quá muộn!

Ngày 31 tháng 3 năm 1975, trước đó, và sau đó suốt 22 tiếng đồng hồ, các Trung đoàn 41, 42, 47, trên chặng đường rút quân này, đã phải đương đầu một trận tuyến dài hơn 30 cây số; từng đơn vị bị phục kích,  bị «chặt đứt» ra từng đọan nhỏ.

REPORT THIS AD

Họ phải trực diện một cuộc trả thù tàn ác, man rợ nhất trong trận chiến sau cùng của chiến tranh Việt Nam. Trên 30 cây số đường máu, chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương và một «Hậu phương» rã ngũ, bỏ súng.

Trước mặt, sau lưng, đều là địch.

«Đối thủ» lần này tuy vẫn là Sư đoàn 3 Sao Vàng, và những Tiểu đoàn đặc công CSBV. Nhưng Bắc quân ở thế thượng phong, có pháo, chiến xa yểm trợ, . Những người cộng sản đã không cần biết đến quy luật của chiến tranh. Chúng thẳng tay tàn sát «kẻ thù»  mà trước đây đã gây cho chúng những tổn thất lớn lao, những thất bại đau đớn.

Trên 30 cây số đường máu, các chiến sĩ Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã chiến đấu trong tình trạng tuyệt vọng, nhưng vẫn dũng cảm, anh hùng. Tưởng cũng cần nhắc lại, Sư đoàn 22BB gồm có 4 Trung đoàn BB, Trung đoàn 40,41,42 và 47.

Nhiều người đã bắn đến viên đạn cuối cùng , rồi  ngã gục , bằng những hành động thật hào hùng, thật phi thường trong đó có Đại tá Lê Cầu , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47…..”

REPORT THIS AD

Thật vậy, sau trận chiến Dakto-Tân cảnh, nếu Trung đoàn 42 nói riêng và Sư đoàn 22 nói chung đã từng chiến đấu kiên cường biết bao với Cộng quân, thì khi phải rút lui, họ lại bị tơi tả dường ấy. Mọi kế hoạch thật không diễn tiến đúng như như những bàn thảo ban đầu. Thành phố Qui-nhơn hỗn loạn sớm hơn dự tính vì đã có sự trà trộn của các đặc công và sự quấy phá của các Việt cộng nằm vùng “.

Tuy nhiên khi Trung đoàn 42 từ An Túc rút về tử thủ ở chân đèo An Khê, tại đây, Trung đoàn 42 đã, một lần chót đã đánh bật sư đoàn F.10 Cộng quân không cho tràn xuống từ đèo An Khê, đã tiêu diệt trên 600 địch quân . Sư đòan Bắc quân F.10(SĐ.10) phải bọc qua dẫy Nam Triều cố tràn xuống chiếm Qui Nhơn, nhưng Đại tá Thông đã kết hợp với Trung đoàn 41 của Đại tá Thiều ( bạn cùng khóa 16/VB ) tức tốc kéo về  thành phố Qui nhơn trước, cố cầm chân Sư đoàn F.10 và các lực lượng địa phương Cộng sản để bảo vệ cho Quân dân di tản, và đã ở lại tử thủ Qui nhơn cho đến ngày 2 tháng tư .

Trong thời gian này ,Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, vào chức vụ Tư-Lệnh các Lực-Lượng Hải-Quân yểm trợ chiến trường Qui-Nhơn.

REPORT THIS AD

Lực lượng Hải quân gồm có các chiến hạm :

HQ3, Soái hạm có Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ; HQ 07 có HQ Trung tá Lê Thuần Phong, CHT Hải đội 2 Tuần dương, sau đó đã lên HQ 403 để điều động cuộc nhập hạm của 2 Trung đoàn 41 và 42 ; HQ 08 có HQ Trung tá Lê Thành Uyển, CHT Hải đội 3 Tuần dương, trách nhiệm phối hợp với các đơn vị BB trên bờ ; HQ 400 có nhiệm vụ đón các đơn vị sau cùng của Sư đoàn 22BB và 2 vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 41 & 42 .

Ngày  2 tháng tư năm 1975, Sư đoàn 22 (-) có lệnh từ Bô Tổng tham Mưu phải rút quân, Đại tá Nguyễn Hữu Thông và Đại Tá Nguyễn Thiều  , Trung đoàn trưởng Trung Đòan 41 đành phải điều động gần 5 Tiểu Đòan (-) thuôc quyền  lên các chiến hạm  Hải Quân đậu gần bờ dưới những lằn đạn pháo kich nghiệt ngã của Bắc quân .

Nhưng vẫn còn môt Tiểu Đoàn của Đại Tá Thông còn chưa đến. Hai ông quyết định một người phải ở lại chờ đợi, một người phải lên tàu để chỉ huy đoàn quân . Thông  và vài người đã chọn ở lại , quyết chờ đợi.

REPORT THIS AD

https://i1.wp.com/www.navsource.org/archives/09/43/09433205.jpg
HQ3 là Soái hạm trong chiến trận hành quân phối hợp sau cùng tại Qui Nhơn

Vì chiến hạm phải cứu nguy hàng ngàn người di tản khác khi địch quân  hàng hàng lớp lớp đang truy kích quân ta sát bờ , nên tàu phải nhổ neo.

Theo lời của nhà văn HQ Điệp Mỹ Linh, ” Từ trong bờ, Việt-Cộng bắn ra chiến hạm dữ dội khiến chiến hạm không thể nào ủi bãi được. Cuối cùng, một số các quân nhân của Sư-Đoàn 22 phải bơi ra tàu. Trong số những quân nhân đã lên tàu,  có Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.

Trong khi đó, từ thành phố Qui-Nhơn, Trung-Đoàn-Trưởng Trung-Đoàn 42 Bộ-Binh, Đại-Tá Nguyễn Hữu Thông tiếp tục trấn an  Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển , Chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương trên HQ08 .Ông cho biết rằng trong thành phố Qui-Nhơn không có một tên Việt-Cộng nào cả. Trung-Tá Uyển hỏi tại sao lại có nhiều tiếng súng thì Đại-Tá Thông trả lời, đó là của Nhân-Dân Tự-Vệ bắn vu vơ, để ông ấy cho dẹp ngay. Vì đã biết tình hình thật sự trên bờ, Trung-Tá Uyển yêu cầu Đại-Tá Thông nên ra tàu sớm . Đại-Tá Thông. bảo Trung-Tá Uyển cho tàu đón quân lính của Ông ra trước đi….

REPORT THIS AD

Sau cùng,  Trung-Tá Uyển lại liên lạc với Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Thông lần chót, hỏi tại sao chưa thấy ông lên tàu? Đại-Tá Thông đáp:“Tôi không thể ra với anh được. Lính của tôi có lẽ ra cũng gần hết rồi. Cảm ơn anh. Tôi đi về đây ! Nhưng không ai biết vị Anh hùng ấy đi về đâu ???!!! “.

Theo lời của Đại tá Nguyễn Thiều, Đại tá Thông cùng với vài binh sĩ đã đi ngược lại về phía Những Ngọn Ðồi Vô Danh tức cao điểm 82-174 phía Tây Tây Nam Quận Hoài Nhơn tỉnh Bình Ðịnh , có lẽ ông đã cùng chết với những binh sĩ sau cùng của ông vừa mới  tử trận trên những ngọn đồi lịch sử này.  Dư luận Tỉnh Bình Định thì cho là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đã theo gương Danh tướng Võ Tánh cùng mất với Qui Nhơn . Khi vị Đại tá nầy  nằm xuống ngày 2 tháng 4, ông chỉ mới 38 tuổi đời nhưng đã đi vào huyền thoại của của dân chúng Miền Trung kể từ đó.

Trong phần bình luận” Cuộc triệt thoái Cao nguyên 1975 “, phóng viên  Quân đội kỳ cựu Phạm Huấn , một lần nữa đã ngưỡng mộ sự hào hùng của Đại tá Nguyễn Hữu Thông như sau :

REPORT THIS AD

….” Sự hy sinh của một người anh hùng , một đại anh hùng sáng ngày 2/4/1975, đã bị rơi vào quên lãng, và cũng là một thiệt thòi lớn lao cho đất nước! Đó là trường hợp Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 Bộ Binh…

Ông viết tiếp ” Tôi có thể quả quyết rằng, trong 20 năm sau cùng của chiến tranh Việt Nam, không có một tướng lãnh nào khi chỉ huy một cấp trung đoàn hay lữ đoàn, đã tạo dựng được những chiến công to lớn như người anh hùng Nguyễn Hữu Thông. Những tướng Cộng sản Bắc Việt chỉ huy Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ, Sư đoàn 3 Sao Vàng  trong những năm 73, 74, 75, cho đến bây giờ và mãi mãi sẽ phải cúi mặt khi nhớ đến thảm bại nhục nhả, những thảm bại bởi Trung đoàn 42 Bộ Binh, do Đại tá Nguyễn Hữu Thông chỉ huy, tại Pleime, Đèo Nhông, và «Những Ngọn Đồi Vô Danh» (Cao điểm chiến lược 82 và 174) tại Tây, Tây Nam Hoài Nhơn, Bình Định.

«Nhân vật và Hình ảnh» Nguyễn Hữu Thông, sau khi đưa «những chiến hữu anh em còn lại» về vùng an toàn; đã lừng lững đi trở lại con đường cũ, về phía «Những Ngọn đồi vô danh»…để chết thật đẹp, thật phi thường, thật hào hùng.

REPORT THIS AD

Hai năm trước đây, tôi có dịp hầu chuyện với một vị tiền bối cùng thời với Hồ chí Minh. Tôi có thưa với Cụ về tài ba, anh hùng, của những Sĩ quan các khóa 16, 17, 18…Đà Lạt. Họ được huấn luyện 4 năm cả về Quân Sự lẫn Văn Hóa, như tại các trường Võ Bị của Mỹ, Anh, Pháp.

Trong những trận chiến sau cùng, các Sĩ quan này đã giữ những chức vụ Trung đoàn trưởng, Lữ đoàn trưởng , nhiều vị mất tích, tự tử chết hoặc ở lại chiến đấu với chiến hữu của mình cho đến phút cuối cùng. Như Đại tá Khóa 16 Đặng Phương Thành, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 12, Sư đoàn 7BB; như Lữ đoàn trưởng K16 Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu Tùng , Thủy Quân Lục Chiến ngoài vùng Hỏa tuyến; như  K16 Bùi Quyền , Nhảy dù ; như K 17 Võ Vàng ; như  K18 Lê Cầu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47 tại mặt trận Bình Định …”

Sau cùng, Phóng viên chiến trường Phạm Huấn kết luận : “Nếu Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ký kết trễ hơn khoảng 2 năm nữa, miền Nam không bao giờ mất vào tay cộng sản. Bởi vì, đất nước và quân đội sẽ được lãnh đạo và chỉ huy bởi những Tướng Lãnh anh hùng, có khả năng cả về quân sự lẫn văn hóa, với đầy đủ Trí, Đức, Dũng

REPORT THIS AD

Ngày 2/4/1975, nếu người anh hùng Nguyễn Hữu Thông là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Thông, thì chắc chắn cái chết của Ông sẽ tạo thành một trận cuồng phong. «Trận cuồng phong» từ vùng đất linh thiêng của Quang Trung Đại Đế, sẽ làm quân thù khiếp sợ. Và gây được sự tin tưởng, phấn khởi cho toàn Quân, toàn Dân trong những ngày cuối cùng !!! “.
KÍNH XIN QÚY VỊ BẤM VÀO DƯỚI ĐÂY ĐỂ CÙNG CHÚNG TÔI TƯỞNG NIỆM  http://www.k16tvbqgvn.org/tuongniemk16.htm
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC MỘT NGƯỜI BẠN, MỘT ANH HÙNG BỊ LÃNG QUÊN,
NGUYỆN CẦU CHO LINH HỒN TẤT CẢ CÁC HUYNH ĐỆ QLVNCH ĐÃ NẰM XUỐNG ĐƯỢC MIÊN VIỄN BÌNH AN, THÊNH THANG TRÊN  CỎI VĨNH HẰNG.

HQ Nguyễn Đức Thu  ( Hoa Thịnh Đốn )
CSVSQ K16, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam

http://saigonecho.com/index.php/lich-su-vn/chien-tranh-vn/cac-nhan-vat/35773-su-hao-hung-cua-dai-ta-nguyen-huu-thong

 


Đại tá Nguyễn Hữu Thông

~  Lê Bá Hùng sưu tầm  ~


(có nhấn mạnh vài chổ bằng dấu gạch ở dưới


hay đổi màu)


*****

image001


Đại Tá Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

“Trước mối hiểm nguy sẽ bị địch tràn ngập, Quân Khu II đã bắt buộc phải ra lệnh cho Sư đoàn 22 Bộ binh, đơn vị duy nhất vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu, phải tránh đối đầu địch hầu rút về Qui Nhơn. Trong ngày 30 tháng 3, Trung đoàn 41 và 42 chiếu theo lệnh, rút bỏ Bình Khê. Vị chỉ huy của Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông,  đã quá ư là phẫn uất; ông đã năn nỉ vị sư đoàn trưởng đừng rút . . . Nhưng lúc đó thì cũng đã quá trể rồi. Khi hai trung đoàn về tới Qui Nhơn vào lúc đêm đã xuống thì tức khắc đã bị các lực lượng địch, mà đã chuẩn bị kiên cố xong rồi ngay trong thành phố,  chận đánh. Lúc đó thì đa số dân cư cùng lực lượng phòng thủ thì cũng đã bỏ trốn chạy đi mất rồi. Bến tàu thì cũng đã bị chúng chiếm đóng; cũng như là đa số các tòa cao ốc. Qui Nhơn đang thật sự nằm dưới quyền kiểm soát của Sư đoàn 3 Bắc cộng. Sau hai ngày chiến đấu thì hai Trung đoàn 41 và 42, với hải pháo hổ trợ, đã giải tỏa được một bãi để di tản ở hướng  Nam của thành phố và cùng nhau tụ tập lại tại một bãi biển cách hải cảng bốn dặm Anh. Lúc 2 giờ khuya ngày 1 tháng 4 thì ba tàu hải quân đã đón được lên tàu các quân nhân còn lại của Sư đoàn 22. Vị Chỉ huy của Trung đoàn 42 đã khước từ di tản và quyết định tự tử”.


theo


Đại Tướng CAO VĂN VIÊN, trong Sụp Đổ Tan Hàng Vào Lúc Cuối (The Final Collapse), https://lehung14.wordpress.com/ts-lewis-sorley-gioi-thieu/dai-tuong-vien-viet-ve-lan-tan-hang-cuoi-cung-2/


 *****

image016

1/

http://www.k16vbqgvn.org/butky-NguyenHuuThong.htm


ĐẠI TÁ THÔNG K16

Lê Đình Thọ K28



REPORT THIS AD


Thưa Quý Niên trưởng và Quý Bạn,


image005


Nhân dịp ngày 2 tháng 4, một số cựu Quân nhân của một đơn vị QLVNCH, đã làm lễ giỗ một cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy ấy là Trung đoàn trưởng từng là SVSQ trường VBQGVN.


Thưa Quý vị,


Trong văn hoá Việt Nam chúng ta, hằng năm đến ngày cúng giỗ Ông Bà, Cha Mẹ là bổn phận con cháu phải làm theo truyền thống hiếu nghĩa của dân tộc.  Đó là chuyện tất nhiên ở bất cứ gia đình Việt Nam nào còn giữ được tinh thần lễ giáo. Trừ trường hợp đặc biệt là những vị Anh hùng dân tộc từ các đời vua nước Việt. Những vị đã có công bảo vệ biên cương mà được ghi vào những trang sử oai hùng và mặc nhiên đuợc toàn dân Việt ghi nhận không nói làm gì. Ở đây, những thuộc cấp, những người lính còn sống ở trong nước, họ tổ chức lập bàn thờ, thờ cúng vị Trung Đoàn Trưởng của họ như thờ cúng Cha Mẹ vậy. Đó là điều đáng nói.



REPORT THIS AD


image007


Hằng năm ở trong nước họ vẫn quy tụ lại làm lễ giỗ; còn ở tại San Jose thì một số cựu Quân nhân từng là thuộc cấp của vị trung Đoàn trưởng ấy ngồi lại với nhau cũng bày biện thức ăn, hoa quả, hương đèn để tưởng nhớ về một Trung Đoàn trưởng. Đó là Cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông K16 VBQG, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 BB, QLVNCH.


Theo lời kể của một ĐĐT trinh sát; những ngày cuối tháng 3 năm 1975, SĐ 22 BB rút về Qui nhơn. Trên đường lui binh Trung đoàn 42 vừa lui, vừa đánh giạt, hay tiêu diệt gọn nhiều đơn vị quân Bắc Việt suốt dọc đường QL19 khi ra khỏi Pleiku di chuyển về đồng bằng, qua khỏi sông Côn thuộc Quận Bình Khê, tỉnh Bình định.



REPORT THIS AD


Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 42 về gần đến Qui nhơn thi phân làm hai ngả để tiến vào thành phố.


Một ngả là cải lộ tuyến (gọi là xa lộ Quang Trung) cũng từ trục QL19 tách theo hướng tây nam giữa 2 triền núi, đi vào phía nghĩa trang khu 6 rồi chạy về trung tâm thành phố hay ra biển Qui nhơn.

Một ngả vào là trục lộ 19 có Cầu đôi đi vào thành phố theo hướng đông bắc. Ngay gần Cầu đôi, có một tháp Chàm quen gọi là Tháp đôi nhìn ra đầm Thị Nại, biển Qui nhơn, Cộng quân đã xâm nhập từ ven biển thuộc lãnh thổ quận Tuy phước và đã chiếm giữ điểm cao này nhằm khống chế Thành phố Qui nhơn, nhưng lập tức đám giặc Cộng này bị một đơn vị Trung đoàn 42 tiêu diệt.


image009


Trung đoàn 42 đi vào Qui nhơn và ra biển để chờ lên tàu Hải Quân VNCH đang neo tại đây để di chuyển vào Nam. Trong khi hầu hết ba Tiểu đoàn đã lên tàu thì còn một tiểu đoàn khác đang giao tranh đì đùng với Cộng quân ở khu vực nghiã trang hướng tây nam của Thành phố chạy dài xuống hướng trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật nằm trên đường Nguyễn Huệ, sát biển.

Tuy đã lên tàu HQ, Đại tá Thông vẫn cố gắng liên lạc những Tiểu đoàn thuộc quyền.

Một Tiểu đoàn bị mất liên lạc!

Trong khi đại liên vẫn nổ dòn giã cùng những tiếng M79 nghe rất gần, đã khiến ĐT Thông không thể nào yên tâm đứng trên tàu mà bỏ đi, trong khi chiến hữu của ông còn đang anh dũng chiến đấu với giặc Cộng. Vì quá nóng lòng, ông đã nhảy xuống tàu và bơi trở lại bờ cát, biển Qui Nhơn. Trên khoảng cách từ tàu Hải quân đến bãi biển cũng hơi xa,một phần vì mất ngủ thiếu sức, vì nhiều ngày đêm rút quân từ Tây nguyên về Qui nhơn vừa đánh vừa rút; nên bơi không được nhanh. Khi Đại tá Thông bơi đến gần đến bãi cát thì ông bị pháo giặc. Một số chiến hữu của ông còn trú ẩn trên bờ biển gần đó nhào ra cứu ông nhưng ông cũng đã tắt thở trong cảnh xô bồ của dân chúng đang hỗn loạn.

Những binh sĩ dưới quyền của Đại tá Thông khóc ông như khóc người anh ruột của mình!

Sinh thời còn là Trung Đoàn trưởng Trung đòan 42, Đại tá Thông luôn luôn sống gần gũi, sát với chiến hữu thuộc cấp. Đại tá Thông lo chu đáo cho đời sống của từng người lính và gia đình. Ông đi sát từng tiểu đội để lo về sức khoẻ cho họ. Hỏi về các tiêu chuẩn quân trang, quân dụng như giày trận, poncho. Ai đã lãnh ai, chưa đuợc lãnh? Ai đã đi phép, ai chưa có phép? Lương hướng của từng chiến binh lãnh ra chi tiêu bao nhiêu, còn gởi về cho vợ con được bao nhiêu? Ông buộc lính phải tiêu hạn chế, và gởi lương về cho vợ con từng tháng trông chờ.

Có lẽ đây là một cách an dân của cấp chỉ huy để người lính thuộc quyền yên tâm mà đánh giặc. Có lẽ vì cách sống có nghĩa có tình với thuộc cấp của ông đã khiến những người lính suốt đời thương mến ông.

Sau nhiều năm từ khi mất nước, 1975, lòng thương mến ấy đã khiến lính và thuộc cấp, dù ở trong nước hay lưu lạc tại San Jose này, hàng năm họ ngồi lại với nhau cúng giỗ và tưởng nhớ Đại tá Nguyễn Hữu Thông như một người anh, hay như cha mẹ.

Sự thương mến kính trọng thể hiện việc thờ phượng, cúng giỗ hàng năm như một bổn phận này của những người chiễn hữu thuộc quyền đối với cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông, cựu SVSQ K16 trường VBQG, quả là hiếm.


image011

Đây chỉ là tình cờ được ăn giỗ và nghe thuật lại về cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông. Chắc có thể không được khách quan. Nếu Quý Niên trưởng nào từng chiến đâu dưới quyền Cố Đại tá Thông thấy những chi tiết kể thiếu khách quan về trường họp cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông nên điều chỉnh. Riêng tôi nhìn thấy lòng mến mộ của lính đối với Đại tá Nguyễn Hữu Thông như thế này thì suy nghĩ rằng, Ông quả là người lãnh đạo chỉ huy giỏi và đạo đức nên mới được một kết quả tốt để an ủi Anh Linh của ông.

Lê Đình Thọ K28

*****

2/

https://www.facebook.com/CONGHOATHOIBAO/posts/1713813218857166


Cộng Hòa Thời Báo


April 3, 2016


Đại-tá Nguyễn Hữu Thông được an táng dưới cột cờ Trung Đoàn Trưởng 42 BB – SĐ 22 BB

Tự sát 31-3-1975 tại Quy Nhơn.Thêm một mộ tập thể 47 tử sĩ VNCH những ngày cuối cuộc chiến.

QUY NHƠN – Trong những ngày cuối của cuộc chiến, có một vị đại tá trung đoàn trưởng đã không chịu xuống tàu chạy loạn mà chịu ở lại với lính, và dùng súng tự sát. Xác ông được chôn trong một ngôi mộ tập thể khổng lồ, dưới chân cột cờ bên ngoài Quân Y Viện Quy Nhơn, trong đó có 47 thi hài tử sĩ. Câu chuyện này được một hạ sĩ quan pháo binh kể lại, đồng thời gợi lại ký ức đau buồn nơi một vị bác sĩ hiện đang hành nghề ở New York.


Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42/SÐ 22BB, tự sát vào cuối tháng 3, 1975 bị chôn trong nấm mộ tập thể tại Quy Nhơn.


Vào đầu năm 1975, anh Dương Công An nguyên là một hạ sĩ quan Pháo Binh thuộc tiểu đoàn 223 Pháo Binh, nay anh đang sống tại Ðức. Anh An cho biết, vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị của anh bị tan hàng trên bờ biển Quy Nhơn, anh và một số anh em binh sĩ khác đã lẩn trốn nhiều ngày trong Quân Y Viện Quy Nhơn.


Ở đấy, khi đó chỉ còn có một bác sĩ duy nhất, là Trung Úy Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ hiện là bác sĩ quang tuyến tại một trường đại học ở New York. Khi tin về nấm mộ tập thể tại Quân Y Viện Quy Nhơn được tôi đưa lên net, nhiều người đã điện thoại cho Bác Sĩ Trứ. Những cú điện thoại này nhắc nhở cho ông quá nhiều chuyện kinh hoàng trong quá khứ, khiến ông nhiều đêm mất ngủ.


Sau nhiều lần gọi và nhắn trong máy là chúng tôi sẽ gọi lại, Bác Sĩ Trứ mới bốc máy. Ông kể, vào những ngày sau cùng, một buổi sáng ông được tiếp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 đi trực thăng đến thăm Quân Y Viện.


Thấy tình cảnh y chỉ còn một bác sĩ và hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh chết chưa được chôn cất, Ðại Tá Thông đã khóc trước mặt Bác Sĩ Trứ.


Và chỉ một ngày sau đó, Quân Y Viện tiếp nhận một tử thi nữa, và đó chính là tử thi Ðại Tá Thông. Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát. Nhiều nguồn tin sau này cho biết, Ðại Tá Thông đã từ chối xuống tàu vì binh sĩ dưới quyền ông còn kẹt lại quá nhiều, không di tản được.


Khi đó, tại quân y viện này, có cả hàng trăm bệnh nhân cho một mình Bác Sĩ Trứ. Ðồng thời cũng có rất nhiều binh sĩ tử trận được mang về nằm từ trong nhà xác và rải rác ra khắp hành lang. Các thi hài tại nhà xác QYV đã bốc mùi, và chó đã vào nhà xác ăn, gặm các tử thi này, nên Bác Sĩ Trứ đã nhờ khoảng 20 anh em quân nhân còn sức khỏe phụ với Bác Sĩ Trứ đào một huyệt mộ rất lớn dưới cột cờ, gần khu quân xa của Quân Y Viện.


Ở đây gần biển các nên việc đào đất tương đối dễ dàng. Ðầu tiên là những tử sĩ đã được khâm liệm trong quan tài có phủ quốc kỳ được sắp xuống trước, tiếp theo là những người chết nằm trên băng ca được đặt lên trên những quan tài, cứ thế mà sắp xếp. Tất cả là 47 thi hài tử sĩ, trong số này có Ðại Tá Thông, là cấp chỉ huy trực tiếp của anh An.


Lúc bấy giờ Saigòn chưa thất thủ, ngay cả sinh mạng của anh em binh sĩ bại trận cũng không biết sẽ ra sao nên sự việc chôn cất anh em tử sĩ lúc đó chỉ được thực hiện rất sơ sài hầu như là lén lút và vội vàng. Sau đó vài ngày tất cả bị bắt làm tù binh.


Anh An cho biết câu chuyện đã đeo đuổi theo anh suốt bao nhiêu năm nay, tâm nguyện của anh là ước sao, có ai đó, có khả năng để cải táng được ngôi mộ tập thể này, đó cũng là dịp mà mình an ủi được phần nào linh hồn của những tử sĩ này, nhưng những hy vọng càng ngày càng bị thu nhỏ lại, vì qua tin tức báo chí đất đai ở Việt Nam đã bị lạm dụng xây cất bừa bãi, hay khu đất này thuộc phạm vi của bộ đội Cộng Sản thì không thể làm gì được.


Khi VC vào Quy Nhơn, họ bắt Bác Sĩ Trứ. Nhưng ông không chỉ bị bắt làm tù binh, mà còn bị buộc tội làm việc cho CIA vì mọi người đi hết sao chỉ còn một mình Bác Sĩ Trứ ở lại.


Trong Quân Y Viện lúc ấy, có một lính Việt Cộng bị thương được một đơn vị đem gởi điều trị, nhưng lại bị khóa tay vào thành giường, Bác Sĩ Trứ không có chìa khóa mở còng nên nhóm VC càng căm thù Bác Sĩ Trứ.


Ông bị tù 4 năm 11 tháng, ra tù ông vượt biển đến Mỹ từ năm 1981, lúc còn độc thân, hiện nay đã có ba con theo học đại học….


Trong những ngày qua, có nhiều điện thoại hỏi đến ông về câu chuyện cũ gần 36 năm về trước khiến cho ông có nhiều đêm bị mất ngủ vì những cơn ác mộng.


Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ nói rằng ông đã làm theo lương tâm và với tình đồng đội, đã chôn 47 tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện. Ông đã nhiều lần về lại Quy Nhơn, qua lại trước khu Quân Y Viện cũ, ngày nay đã là doanh trại của bộ đội Cộng Sản, mà không thể làm gì hơn.


Tin về ngôi mộ tập thể cũng đến tai bà quả phụ cố Ðại Tá Thông, nhũ danh Phùng Ngọc Hiếu. Liên lạc được qua điện thoại hôm Thứ Năm, bà cho biết mấy ngày hôm nay, nhiều bạn bè đã chuyển cho bà về tin tức ngôi mộ tại Quân Y Viện Quy Nhơn, cũng là nơi yên nghỉ của Ðại Tá Thông.


Từ 35 năm nay, bà cũng nghe nhiều tin tức về chồng và bà cũng có nghe tin ông tự sát. Bà cũng đã về Quy Nhơn tìm kiếm nhưng không có tin tức, và không biết xác ông được chôn cất ở đâu. Bà kể, trước khi mất liên lạc, Ðại Tá Thông có liên lạc với vợ và than phiền rằng trung đoàn của ông đang chiến thắng, vì sao lại có lệnh rút bỏ Pleiku.


Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ông được vinh thăng đại tá năm 1972. Hiện nay bà quả phụ cố Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông cư ngụ tại Sacramento và ông bà có 5 người con đã thành đạt.


*****

3/

http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5904_15-2/


Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

Thần Việt Điện_Thập Bát Đại Thần Tướng Việt Nam


image014 


Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần,


Sinh ra là Tướng chết đi thành thần,


Thế, Đông, Ân, Thanh, Đạt, Vinh, Thà, Phúc, Tùng, Thông, Hiếu, Long, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn,


Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.


***


Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính

(trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)


10/ Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông (1937 – 1975)

 


Anh-hùng Nguyễn-Hữu-Thông nguyên Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Sư đoàn 22 Bộ binh QLVNCH.


Ông sinh năm 1937, xuất thân khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.


Trong cuộc rút quân của Trung đoàn 42, SĐ 22 BB, thành công đưa gần trọn vẹn Trung Đoàn 42 BB lên tàu của Hải quân VNCH ở Qui Nhơn. Chỉ huy trưởng cuộc rút quân ở Qui-Nhơn kiêm Tư lịnh Vùng 2 Duyên Hải, tư lịnh mặt trận Qui-Nhơn là Phó đề đốc Hoàng-cơ-Minh.


Tuẫn-quốc ngày 02-04-1975 trên bờ biển Qui-Nhơn thuộc Vùng 2 Duyên Hải.


Lúc còn sống, là một vị chỉ huy xuất sắc, tài đức vẹn toàn được toàn thể binh sĩ thuộc quyền kính trọng thương yêu.


Tài đức vẹn toàn, phong độ chỉ huy xuất sắc, ông được tôn xưng là vị tướng thần thứ mười trong mười tám vị tướng thần lớn của Việt-Nam thời cận đại.


Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc


*****

TIN VỀ HUYỆT MỘ 47 TỬ SĨ TRONG Quân Y Viện QUI NHƠN – Liên quan đến anh hùng Nguyễn Hữu Thông – ĐIỆN ĐÀM VỚI BÀ Đại Tá Nguyễn Hữu Thông.


Tôi (Lý trung Tín) vừa điệm đàm với Chị Phùng Thị Ngọc Hiếu, phu nhân của cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, chị cho biết: sau ngày 30.04.1975, rất nhiều nguồn tin về Đại Tá Thông, nhưng hoàn toàn không có tin về việc Đại Tá Thông được chôn cất trong QYV Qui Nhơn, Chị Thông đã ra tận Qui Nhơn hỏi thăm tin tức và không ai biết gì cả, sau đó Chị đã cho con vượt biển tìm tự do, đến năm 1990, Chị đoàn tụ với các con tại Hoa Kỳ. Chị có 5 mặt con với Đại Tá Thông, 4 trai, 1 gái, cả 5 cháu đều thành đạt trên đất Mỹ. Đại Tá Thông xuất thân khóa 16 VBQGVN, là một SQ tác chiến nổi tiếng tại Vùng 2. Cá nhân tôi cũng có những liên hệ với các đàn anh khoá 16 Đà Lạt, “ông thầy“ Nguyễn Duy Sự (Nam Cali) là Đại Đội Trưởng của tôi trong Trường SQTĐ, anh Nguyễn Minh Chánh (Nam Cali), đương kim Tổng Hội Trưởng BĐQ, và Anh Vi Kim Sinh (Floria) là anh rể tôi. Chị nói với tôi, Anh Chị lấy nhau tại Quảng Trị, họ hàng nhà chồng đông lắm, hơn nữa đời chiến binh, nay đây mai đó nên không còn nhớ BS Nguyễn Công Trứ nữa, và Chị cũng không biết bà con với anh Thông như thế nào? Tôi thuật lại lời BS Trứ: „Mẹ ĐT Thông là Chị của Ba BS Trứ (ANH EM Cô Cậu), Chị Thông sẽ liên lạc ngay với BS Trứ để có những dữ kiện chính xác về ĐT Thông cũng như HUYỆT MỘ trong QYV Qui Nhơn.


Ước nguyện cuối cùng của Chị Thông là, cải táng Anh và thiêu, rồi đem tro cốt về Mỹ vì con cháu anh Nguyễn Hữu Thông sống tại Hoa Kỳ.


Tôi cũng cho chị hay, anh Dương Công An, đang sống tại Đức, là một trong 20 Anh Em Quân Nhân phụ với BS Trứ đào huyệt chôn cất 47 tử sĩ, trong đó có thi hài Đại Tá Thông, Trung Đoàn Trưởng TĐ 42, SĐ 22BB, thà chết chứ không để rơi vào tay quân thù.


Tôi làm công việc này như là một nén nhang đốt lên để tưởng niệm đến 47 chiến hữu của tôi đã nằm xuống, may mắn được đồng đội chôn cất nhưng từ hơn 35 năm nay, không một nén nhang, không một lời cầu nguyện, ngày nay chúng tôi đã tìm được thân nhân của „Đại Bàng“ các Anh, hy vọng trong những ngày tới, các Anh sẽ được về với thân nhân, gia đình…


 


Germany, 30 tháng 12 năm 2010


Chủ Nhiệm Tạp Chí Dân Văn,


Lý Trung Tín


(Quân nhân QL/VNCH)


 image016


*****

 


 


 


 


 


 


Quảng cáo



==========================

Đại tá Nguyễn Hữu Thông

~  Lê Bá Hùng sưu tầm  ~

(có nhấn mạnh vài chổ bằng dấu gạch ở dưới

hay đổi màu)

*****

image001

Đại Tá Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

“Trước mối hiểm nguy sẽ bị địch tràn ngập, Quân Khu II đã bắt buộc phải ra lệnh cho Sư đoàn 22 Bộ binh, đơn vị duy nhất vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu, phải tránh đối đầu địch hầu rút về Qui Nhơn. Trong ngày 30 tháng 3, Trung đoàn 41 và 42 chiếu theo lệnh, rút bỏ Bình Khê. Vị chỉ huy của Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông,  đã quá ư là phẫn uất; ông đã năn nỉ vị sư đoàn trưởng đừng rút . . . Nhưng lúc đó thì cũng đã quá trể rồi. Khi hai trung đoàn về tới Qui Nhơn vào lúc đêm đã xuống thì tức khắc đã bị các lực lượng địch, mà đã chuẩn bị kiên cố xong rồi ngay trong thành phố,  chận đánh. Lúc đó thì đa số dân cư cùng lực lượng phòng thủ thì cũng đã bỏ trốn chạy đi mất rồi. Bến tàu thì cũng đã bị chúng chiếm đóng; cũng như là đa số các tòa cao ốc. Qui Nhơn đang thật sự nằm dưới quyền kiểm soát của Sư đoàn 3 Bắc cộng. Sau hai ngày chiến đấu thì hai Trung đoàn 41 và 42, với hải pháo hổ trợ, đã giải tỏa được một bãi để di tản ở hướng  Nam của thành phố và cùng nhau tụ tập lại tại một bãi biển cách hải cảng bốn dặm Anh. Lúc 2 giờ khuya ngày 1 tháng 4 thì ba tàu hải quân đã đón được lên tàu các quân nhân còn lại của Sư đoàn 22. Vị Chỉ huy của Trung đoàn 42 đã khước từ di tản và quyết định tự tử”.

REPORT THIS AD

theo

Đại Tướng CAO VĂN VIÊN, trong Sụp Đổ Tan Hàng Vào Lúc Cuối (The Final Collapse), https://lehung14.wordpress.com/ts-lewis-sorley-gioi-thieu/dai-tuong-vien-viet-ve-lan-tan-hang-cuoi-cung-2/

 *****

image016

1/

http://www.k16vbqgvn.org/butky-NguyenHuuThong.htm

ĐẠI TÁ THÔNG K16

Lê Đình Thọ K28

REPORT THIS AD

Thưa Quý Niên trưởng và Quý Bạn,

image005

Nhân dịp ngày 2 tháng 4, một số cựu Quân nhân của một đơn vị QLVNCH, đã làm lễ giỗ một cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy ấy là Trung đoàn trưởng từng là SVSQ trường VBQGVN.

Thưa Quý vị,

Trong văn hoá Việt Nam chúng ta, hằng năm đến ngày cúng giỗ Ông Bà, Cha Mẹ là bổn phận con cháu phải làm theo truyền thống hiếu nghĩa của dân tộc.  Đó là chuyện tất nhiên ở bất cứ gia đình Việt Nam nào còn giữ được tinh thần lễ giáo. Trừ trường hợp đặc biệt là những vị Anh hùng dân tộc từ các đời vua nước Việt. Những vị đã có công bảo vệ biên cương mà được ghi vào những trang sử oai hùng và mặc nhiên đuợc toàn dân Việt ghi nhận không nói làm gì. Ở đây, những thuộc cấp, những người lính còn sống ở trong nước, họ tổ chức lập bàn thờ, thờ cúng vị Trung Đoàn Trưởng của họ như thờ cúng Cha Mẹ vậy. Đó là điều đáng nói.

REPORT THIS AD

image007

Hằng năm ở trong nước họ vẫn quy tụ lại làm lễ giỗ; còn ở tại San Jose thì một số cựu Quân nhân từng là thuộc cấp của vị trung Đoàn trưởng ấy ngồi lại với nhau cũng bày biện thức ăn, hoa quả, hương đèn để tưởng nhớ về một Trung Đoàn trưởng. Đó là Cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông K16 VBQG, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 BB, QLVNCH.

Theo lời kể của một ĐĐT trinh sát; những ngày cuối tháng 3 năm 1975, SĐ 22 BB rút về Qui nhơn. Trên đường lui binh Trung đoàn 42 vừa lui, vừa đánh giạt, hay tiêu diệt gọn nhiều đơn vị quân Bắc Việt suốt dọc đường QL19 khi ra khỏi Pleiku di chuyển về đồng bằng, qua khỏi sông Côn thuộc Quận Bình Khê, tỉnh Bình định.

REPORT THIS AD

Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 42 về gần đến Qui nhơn thi phân làm hai ngả để tiến vào thành phố.

Một ngả là cải lộ tuyến (gọi là xa lộ Quang Trung) cũng từ trục QL19 tách theo hướng tây nam giữa 2 triền núi, đi vào phía nghĩa trang khu 6 rồi chạy về trung tâm thành phố hay ra biển Qui nhơn.

Một ngả vào là trục lộ 19 có Cầu đôi đi vào thành phố theo hướng đông bắc. Ngay gần Cầu đôi, có một tháp Chàm quen gọi là Tháp đôi nhìn ra đầm Thị Nại, biển Qui nhơn, Cộng quân đã xâm nhập từ ven biển thuộc lãnh thổ quận Tuy phước và đã chiếm giữ điểm cao này nhằm khống chế Thành phố Qui nhơn, nhưng lập tức đám giặc Cộng này bị một đơn vị Trung đoàn 42 tiêu diệt.

image009

REPORT THIS AD

Trung đoàn 42 đi vào Qui nhơn và ra biển để chờ lên tàu Hải Quân VNCH đang neo tại đây để di chuyển vào Nam. Trong khi hầu hết ba Tiểu đoàn đã lên tàu thì còn một tiểu đoàn khác đang giao tranh đì đùng với Cộng quân ở khu vực nghiã trang hướng tây nam của Thành phố chạy dài xuống hướng trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật nằm trên đường Nguyễn Huệ, sát biển.

Tuy đã lên tàu HQ, Đại tá Thông vẫn cố gắng liên lạc những Tiểu đoàn thuộc quyền.

Một Tiểu đoàn bị mất liên lạc!

Trong khi đại liên vẫn nổ dòn giã cùng những tiếng M79 nghe rất gần, đã khiến ĐT Thông không thể nào yên tâm đứng trên tàu mà bỏ đi, trong khi chiến hữu của ông còn đang anh dũng chiến đấu với giặc Cộng. Vì quá nóng lòng, ông đã nhảy xuống tàu và bơi trở lại bờ cát, biển Qui Nhơn. Trên khoảng cách từ tàu Hải quân đến bãi biển cũng hơi xa,một phần vì mất ngủ thiếu sức, vì nhiều ngày đêm rút quân từ Tây nguyên về Qui nhơn vừa đánh vừa rút; nên bơi không được nhanh. Khi Đại tá Thông bơi đến gần đến bãi cát thì ông bị pháo giặc. Một số chiến hữu của ông còn trú ẩn trên bờ biển gần đó nhào ra cứu ông nhưng ông cũng đã tắt thở trong cảnh xô bồ của dân chúng đang hỗn loạn.

REPORT THIS AD

Những binh sĩ dưới quyền của Đại tá Thông khóc ông như khóc người anh ruột của mình!

Sinh thời còn là Trung Đoàn trưởng Trung đòan 42, Đại tá Thông luôn luôn sống gần gũi, sát với chiến hữu thuộc cấp. Đại tá Thông lo chu đáo cho đời sống của từng người lính và gia đình. Ông đi sát từng tiểu đội để lo về sức khoẻ cho họ. Hỏi về các tiêu chuẩn quân trang, quân dụng như giày trận, poncho. Ai đã lãnh ai, chưa đuợc lãnh? Ai đã đi phép, ai chưa có phép? Lương hướng của từng chiến binh lãnh ra chi tiêu bao nhiêu, còn gởi về cho vợ con được bao nhiêu? Ông buộc lính phải tiêu hạn chế, và gởi lương về cho vợ con từng tháng trông chờ.

Có lẽ đây là một cách an dân của cấp chỉ huy để người lính thuộc quyền yên tâm mà đánh giặc. Có lẽ vì cách sống có nghĩa có tình với thuộc cấp của ông đã khiến những người lính suốt đời thương mến ông.

Sau nhiều năm từ khi mất nước, 1975, lòng thương mến ấy đã khiến lính và thuộc cấp, dù ở trong nước hay lưu lạc tại San Jose này, hàng năm họ ngồi lại với nhau cúng giỗ và tưởng nhớ Đại tá Nguyễn Hữu Thông như một người anh, hay như cha mẹ.

Sự thương mến kính trọng thể hiện việc thờ phượng, cúng giỗ hàng năm như một bổn phận này của những người chiễn hữu thuộc quyền đối với cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông, cựu SVSQ K16 trường VBQG, quả là hiếm.

REPORT THIS AD

image011

Đây chỉ là tình cờ được ăn giỗ và nghe thuật lại về cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông. Chắc có thể không được khách quan. Nếu Quý Niên trưởng nào từng chiến đâu dưới quyền Cố Đại tá Thông thấy những chi tiết kể thiếu khách quan về trường họp cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông nên điều chỉnh. Riêng tôi nhìn thấy lòng mến mộ của lính đối với Đại tá Nguyễn Hữu Thông như thế này thì suy nghĩ rằng, Ông quả là người lãnh đạo chỉ huy giỏi và đạo đức nên mới được một kết quả tốt để an ủi Anh Linh của ông.

Lê Đình Thọ K28

*****

2/

https://www.facebook.com/CONGHOATHOIBAO/posts/1713813218857166

REPORT THIS AD

Cộng Hòa Thời Báo

April 3, 2016

  • Đại-tá Nguyễn Hữu Thông được an táng dưới cột cờ Trung Đoàn Trưởng 42 BB – SĐ 22 BB
  • Tự sát 31-3-1975 tại Quy Nhơn.Thêm một mộ tập thể 47 tử sĩ VNCH những ngày cuối cuộc chiến.

QUY NHƠN – Trong những ngày cuối của cuộc chiến, có một vị đại tá trung đoàn trưởng đã không chịu xuống tàu chạy loạn mà chịu ở lại với lính, và dùng súng tự sát. Xác ông được chôn trong một ngôi mộ tập thể khổng lồ, dưới chân cột cờ bên ngoài Quân Y Viện Quy Nhơn, trong đó có 47 thi hài tử sĩ. Câu chuyện này được một hạ sĩ quan pháo binh kể lại, đồng thời gợi lại ký ức đau buồn nơi một vị bác sĩ hiện đang hành nghề ở New York.

Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42/SÐ 22BB, tự sát vào cuối tháng 3, 1975 bị chôn trong nấm mộ tập thể tại Quy Nhơn.

Vào đầu năm 1975, anh Dương Công An nguyên là một hạ sĩ quan Pháo Binh thuộc tiểu đoàn 223 Pháo Binh, nay anh đang sống tại Ðức. Anh An cho biết, vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị của anh bị tan hàng trên bờ biển Quy Nhơn, anh và một số anh em binh sĩ khác đã lẩn trốn nhiều ngày trong Quân Y Viện Quy Nhơn.

REPORT THIS AD

Ở đấy, khi đó chỉ còn có một bác sĩ duy nhất, là Trung Úy Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ hiện là bác sĩ quang tuyến tại một trường đại học ở New York. Khi tin về nấm mộ tập thể tại Quân Y Viện Quy Nhơn được tôi đưa lên net, nhiều người đã điện thoại cho Bác Sĩ Trứ. Những cú điện thoại này nhắc nhở cho ông quá nhiều chuyện kinh hoàng trong quá khứ, khiến ông nhiều đêm mất ngủ.

Sau nhiều lần gọi và nhắn trong máy là chúng tôi sẽ gọi lại, Bác Sĩ Trứ mới bốc máy. Ông kể, vào những ngày sau cùng, một buổi sáng ông được tiếp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 đi trực thăng đến thăm Quân Y Viện.

Thấy tình cảnh y chỉ còn một bác sĩ và hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh chết chưa được chôn cất, Ðại Tá Thông đã khóc trước mặt Bác Sĩ Trứ.

Và chỉ một ngày sau đó, Quân Y Viện tiếp nhận một tử thi nữa, và đó chính là tử thi Ðại Tá Thông. Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát. Nhiều nguồn tin sau này cho biết, Ðại Tá Thông đã từ chối xuống tàu vì binh sĩ dưới quyền ông còn kẹt lại quá nhiều, không di tản được.

Khi đó, tại quân y viện này, có cả hàng trăm bệnh nhân cho một mình Bác Sĩ Trứ. Ðồng thời cũng có rất nhiều binh sĩ tử trận được mang về nằm từ trong nhà xác và rải rác ra khắp hành lang. Các thi hài tại nhà xác QYV đã bốc mùi, và chó đã vào nhà xác ăn, gặm các tử thi này, nên Bác Sĩ Trứ đã nhờ khoảng 20 anh em quân nhân còn sức khỏe phụ với Bác Sĩ Trứ đào một huyệt mộ rất lớn dưới cột cờ, gần khu quân xa của Quân Y Viện.

REPORT THIS AD

Ở đây gần biển các nên việc đào đất tương đối dễ dàng. Ðầu tiên là những tử sĩ đã được khâm liệm trong quan tài có phủ quốc kỳ được sắp xuống trước, tiếp theo là những người chết nằm trên băng ca được đặt lên trên những quan tài, cứ thế mà sắp xếp. Tất cả là 47 thi hài tử sĩ, trong số này có Ðại Tá Thông, là cấp chỉ huy trực tiếp của anh An.

Lúc bấy giờ Saigòn chưa thất thủ, ngay cả sinh mạng của anh em binh sĩ bại trận cũng không biết sẽ ra sao nên sự việc chôn cất anh em tử sĩ lúc đó chỉ được thực hiện rất sơ sài hầu như là lén lút và vội vàng. Sau đó vài ngày tất cả bị bắt làm tù binh.

Anh An cho biết câu chuyện đã đeo đuổi theo anh suốt bao nhiêu năm nay, tâm nguyện của anh là ước sao, có ai đó, có khả năng để cải táng được ngôi mộ tập thể này, đó cũng là dịp mà mình an ủi được phần nào linh hồn của những tử sĩ này, nhưng những hy vọng càng ngày càng bị thu nhỏ lại, vì qua tin tức báo chí đất đai ở Việt Nam đã bị lạm dụng xây cất bừa bãi, hay khu đất này thuộc phạm vi của bộ đội Cộng Sản thì không thể làm gì được.

Khi VC vào Quy Nhơn, họ bắt Bác Sĩ Trứ. Nhưng ông không chỉ bị bắt làm tù binh, mà còn bị buộc tội làm việc cho CIA vì mọi người đi hết sao chỉ còn một mình Bác Sĩ Trứ ở lại.

ADVERTISEMENT
REPORT THIS AD

Trong Quân Y Viện lúc ấy, có một lính Việt Cộng bị thương được một đơn vị đem gởi điều trị, nhưng lại bị khóa tay vào thành giường, Bác Sĩ Trứ không có chìa khóa mở còng nên nhóm VC càng căm thù Bác Sĩ Trứ.

Ông bị tù 4 năm 11 tháng, ra tù ông vượt biển đến Mỹ từ năm 1981, lúc còn độc thân, hiện nay đã có ba con theo học đại học….

Trong những ngày qua, có nhiều điện thoại hỏi đến ông về câu chuyện cũ gần 36 năm về trước khiến cho ông có nhiều đêm bị mất ngủ vì những cơn ác mộng.

Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ nói rằng ông đã làm theo lương tâm và với tình đồng đội, đã chôn 47 tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện. Ông đã nhiều lần về lại Quy Nhơn, qua lại trước khu Quân Y Viện cũ, ngày nay đã là doanh trại của bộ đội Cộng Sản, mà không thể làm gì hơn.

Tin về ngôi mộ tập thể cũng đến tai bà quả phụ cố Ðại Tá Thông, nhũ danh Phùng Ngọc Hiếu. Liên lạc được qua điện thoại hôm Thứ Năm, bà cho biết mấy ngày hôm nay, nhiều bạn bè đã chuyển cho bà về tin tức ngôi mộ tại Quân Y Viện Quy Nhơn, cũng là nơi yên nghỉ của Ðại Tá Thông.

Từ 35 năm nay, bà cũng nghe nhiều tin tức về chồng và bà cũng có nghe tin ông tự sát. Bà cũng đã về Quy Nhơn tìm kiếm nhưng không có tin tức, và không biết xác ông được chôn cất ở đâu. Bà kể, trước khi mất liên lạc, Ðại Tá Thông có liên lạc với vợ và than phiền rằng trung đoàn của ông đang chiến thắng, vì sao lại có lệnh rút bỏ Pleiku.

Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ông được vinh thăng đại tá năm 1972. Hiện nay bà quả phụ cố Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông cư ngụ tại Sacramento và ông bà có 5 người con đã thành đạt.

*****

3/

http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5904_15-2/

Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

Thần Việt Điện_Thập Bát Đại Thần Tướng Việt Nam

image014 

Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần,

Sinh ra là Tướng chết đi thành thần,

Thế, Đông, Ân, Thanh, Đạt, Vinh, Thà, Phúc, Tùng, Thông, Hiếu, Long, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn,

Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.

***

Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính
(trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)

10/ Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông (1937 – 1975)

 

Anh-hùng Nguyễn-Hữu-Thông nguyên Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Sư đoàn 22 Bộ binh QLVNCH.

Ông sinh năm 1937, xuất thân khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Trong cuộc rút quân của Trung đoàn 42, SĐ 22 BB, thành công đưa gần trọn vẹn Trung Đoàn 42 BB lên tàu của Hải quân VNCH ở Qui Nhơn. Chỉ huy trưởng cuộc rút quân ở Qui-Nhơn kiêm Tư lịnh Vùng 2 Duyên Hải, tư lịnh mặt trận Qui-Nhơn là Phó đề đốc Hoàng-cơ-Minh.

Tuẫn-quốc ngày 02-04-1975 trên bờ biển Qui-Nhơn thuộc Vùng 2 Duyên Hải.

Lúc còn sống, là một vị chỉ huy xuất sắc, tài đức vẹn toàn được toàn thể binh sĩ thuộc quyền kính trọng thương yêu.

Tài đức vẹn toàn, phong độ chỉ huy xuất sắc, ông được tôn xưng là vị tướng thần thứ mười trong mười tám vị tướng thần lớn của Việt-Nam thời cận đại.

Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc

*****

TIN VỀ HUYỆT MỘ 47 TỬ SĨ TRONG Quân Y Viện QUI NHƠN – Liên quan đến anh hùng Nguyễn Hữu Thông – ĐIỆN ĐÀM VỚI BÀ Đại Tá Nguyễn Hữu Thông.

Tôi (Lý trung Tín) vừa điệm đàm với Chị Phùng Thị Ngọc Hiếu, phu nhân của cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, chị cho biết: sau ngày 30.04.1975, rất nhiều nguồn tin về Đại Tá Thông, nhưng hoàn toàn không có tin về việc Đại Tá Thông được chôn cất trong QYV Qui Nhơn, Chị Thông đã ra tận Qui Nhơn hỏi thăm tin tức và không ai biết gì cả, sau đó Chị đã cho con vượt biển tìm tự do, đến năm 1990, Chị đoàn tụ với các con tại Hoa Kỳ. Chị có 5 mặt con với Đại Tá Thông, 4 trai, 1 gái, cả 5 cháu đều thành đạt trên đất Mỹ. Đại Tá Thông xuất thân khóa 16 VBQGVN, là một SQ tác chiến nổi tiếng tại Vùng 2. Cá nhân tôi cũng có những liên hệ với các đàn anh khoá 16 Đà Lạt, “ông thầy“ Nguyễn Duy Sự (Nam Cali) là Đại Đội Trưởng của tôi trong Trường SQTĐ, anh Nguyễn Minh Chánh (Nam Cali), đương kim Tổng Hội Trưởng BĐQ, và Anh Vi Kim Sinh (Floria) là anh rể tôi. Chị nói với tôi, Anh Chị lấy nhau tại Quảng Trị, họ hàng nhà chồng đông lắm, hơn nữa đời chiến binh, nay đây mai đó nên không còn nhớ BS Nguyễn Công Trứ nữa, và Chị cũng không biết bà con với anh Thông như thế nào? Tôi thuật lại lời BS Trứ: „Mẹ ĐT Thông là Chị của Ba BS Trứ (ANH EM Cô Cậu), Chị Thông sẽ liên lạc ngay với BS Trứ để có những dữ kiện chính xác về ĐT Thông cũng như HUYỆT MỘ trong QYV Qui Nhơn.

REPORT THIS AD

Ước nguyện cuối cùng của Chị Thông là, cải táng Anh và thiêu, rồi đem tro cốt về Mỹ vì con cháu anh Nguyễn Hữu Thông sống tại Hoa Kỳ.

Tôi cũng cho chị hay, anh Dương Công An, đang sống tại Đức, là một trong 20 Anh Em Quân Nhân phụ với BS Trứ đào huyệt chôn cất 47 tử sĩ, trong đó có thi hài Đại Tá Thông, Trung Đoàn Trưởng TĐ 42, SĐ 22BB, thà chết chứ không để rơi vào tay quân thù.

Tôi làm công việc này như là một nén nhang đốt lên để tưởng niệm đến 47 chiến hữu của tôi đã nằm xuống, may mắn được đồng đội chôn cất nhưng từ hơn 35 năm nay, không một nén nhang, không một lời cầu nguyện, ngày nay chúng tôi đã tìm được thân nhân của „Đại Bàng“ các Anh, hy vọng trong những ngày tới, các Anh sẽ được về với thân nhân, gia đình…

 

Germany, 30 tháng 12 năm 2010

Chủ Nhiệm Tạp Chí Dân Văn,

Lý Trung Tín

(Quân nhân QL/VNCH)

 image016

*****

 

 

 

REPORT THIS AD

 

 

 

Quảng cáo
REPORT THIS AD