Thursday, November 21, 2013

Bóng hồng trên đất Bắc . mythanh

Nguồn : http://motgoctroi.com/StVChuon/BonghongtrenDatBac.htm
 
Bài thứ hai của chủ đề Tôi Yêu Những Anh Hùng, tôi dự định sẽ viết về Trưng Nữ Vương, viết về niềm hào hãnh và sự đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử giữ nước chống ngoại xâm. Nhưng một tình cờ đúng ý đã xoay đổi dự định của tôi. Tôi đọc được một loạt bài viết với rất nhiều dữ kiện khả tín, quý báu về một nữ sĩ. Bà đã từng trong nhiều năm, vẫn thầm lặng mơ hồ sống cùng những nghi vấn cộng với niềm ngưỡng mộ ở một góc sâu kín trong tâm tưởng tôi. Tôi hoàn toàn không biết nhiều và cũng không biết tìm đâu ra những tin tức về bà, ngoài bút danh Thuỵ An, bị bắt trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm với một kỳ thuyết. Nó chính là nguyên nhân gây ấn tượng khiến tôi không thể quên được nhân vật “nữ sĩ Thuỵ An.” Bà đã tự chọc mù một mắt trong thời gian bị Cộng Sản cầm tù với lời tuyên bố, “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng một con mắt.” Ôi, đúng là câu nói để đời, uy vũ có một không hai.

Tôi chọn viết về bà thay vì Trưng Nữ Vương, ngoài lý do hai vị Trưng Vương là những anh thư đã làm nên lịch sử sáng chói, được toàn dân Việt kính ngưỡng, trong khi nữ sĩ Thuỵ An, vị anh thư bất hạnh, thân bại danh liệt, đã bị vùi giập, bị bôi bẩn thành một tội phạm suốt mấy mươi năm dưới chế độ cộng sản, ít người biết đến; còn một lý do chính là vì, đối với tôi chế độ cộng sản mà bà chống lại là một bọn giặc nội xâm, trên thực tế vẫn đang cỡi đầu cỡi cổ dân tộc Việt. Tôi hy vọng mọi người đều nhận ra sự thật này. Bài viết cũng xin là một nén hương, thắp tỏ lòng thương tiếc nữ sĩ Thụy An, người nữ tù kiên cường, bất khuất, người đã hy sinh hạnh phúc riêng mình trong mưu cầu đòi hỏi tự do cho dân tộc.
Cuộc Đời

Thụy An, còn bút hiệu khác nữa là Thụy An Hoàng Dân, tên khai sinh là Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội. Thuở nhỏ bà học trường Hàng Cót, Hà Nội, có thơ đăng trên tạp chí Nam Phong từ năm 13 tuổi. Năm 16 tuổi bà đoạt giải thưởng văn chương của triều đình Huế. Năm 1934, 18 tuổi, bà kết hôn với nhà báo Bùi Nhung – làm báo, viết văn bút hiệu Băng Dương –
(em ruột Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim), hai lần làm Giám đốc đài phát thanh Hà Nội, lần cuối ở Hải Phòng năm 1954.

Ngay khi lập gia đình, Thụy An cùng chồng lập tuần báo Đàn Bà Mới tại Sài gòn, và ba năm sau, 1937, sáng lập tuần báo Đàn Bà tai Hà Nội. Năm 1939, bà chủ nhiệm cho Phụ Nữ Tân Văn tại Sài gòn. Trong chiến tranh Việt - Pháp, bà trở thành phóng viên chiến trường, từng nhảy dù ra mặt trận để lấy tin tức cho báo chí. Năm 1954, trước khi chia đôi đất nước bà đã đứng chức vị Quyền Giám đốc Việt Tấn Xã.
 

Trang bià báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Muà Xuân
Nguồn Ảnh: DR

--------------------------------------------------------------------------------

Nhân Văn Giai Phẩm
(nguồn của bài viết này) chính là do hai người con này, và người bạn thân của bà là Trinh Tiên cung cấp.

Thụy An sống ly thân với chồng từ năm 1949, nhưng không ly dị vì hai người đều theo đạo Thiên chúa giáo. Bà có quan hệ mật thiết với Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng hai người chưa từng kết hôn. Họ đã chia tay từ năm 1952, nhưng khi ông Đỗ Đình Đạo bị đầu độc chết vào năm 1954, bà bị dư luận đồn thổi là giết chồng. Sau này Cộng sản đã dùng những lời đồn này để thổi phồng, vu cáo, bôi xấu bà.

Xin trích nguyên văn câu trả lời phỏng vấn của các con bà hầu sáng tỏ gia cảnh của nữ sĩ Thụy An thời đó.

Bùi Thụy Băng cho biết về hoàn cảnh gia đình và tình trạng sức khỏe của người mẹ:
Là đứa con trai thứ nhì, tôi là người gần mẹ tôi nhất vì từ năm 1943 trở đi mẹ tôi bệnh tật luôn luôn. Mới 6 tuổi tôi đã trông nom mẹ tôi. Anh cả tôi là Bùi An Dương bị bệnh hen suyễn từ khi mới sinh ra nên rất yếu đuối và mẹ tôi đã cho anh An Dương khi chưa đầy một tuổi, làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim (cụ Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim là anh, chị ruột của ba chúng tôi)”.   (Điện thư ngày 15/12/2004)


Thụy An và Băng Dương ly thân từ năm 1949. Tại sao?
Vì cha tôi không trung thành, ông có nhiều bà khác. (Bùi Thư Linh, điện thoại, 17/10/2009)
 
Sau khi ly thân, ai nuôi các con?
Mẹ nuôi các con, nhờ bà ngoại giúp đỡ, bác (gái) Trần Trọng Kim cho vay tiền, nhưng mẹ vất vả lắm. (Bùi Thư Linh, nt)

Khi nào thì gia đình vào Nam?
Năm 1952, đi bằng tàu thủy. Mẹ thường đi về Sàigòn-Hà Nội bằng máy bay, nhưng vé máy bay cho cả nhà đắt lắm, Mẹ mua vé tàu thủy cho các con, nhờ người cậu dẫn vào Sài-gòn. (Bùi Thư Linh, nt)

Đến năm 1954, Bùi Thư Linh
(16 tuổi) đi Pháp, tại sao?
Tôi bị bệnh lao xương, Mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20/5/1954.
 
Nhưng gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?
Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghiã tử Quốc gia), chính phủ Pháp lo hết. (Bùi Thư Linh, nt)
 
Tại sao Thụy An đem gia đình vào Saigon năm 1952?
Bùi Thụy Băng: Vì ông Đỗ Đình Đạo. (Có thể hiểu là năm 1952 Thụy An đã chia tay với Đỗ Đình Đạo, và muốn tránh, bà đem các con vào sống tại Sài Gòn).
 
Ông Bùi Thụy Băng, con trai bà còn cho biết, Thụy An và cụ Phan Khôi là hai người bạn vong niên (Thụy An kém Phan Khôi 29 tuổi). Bút hiệu Thụy An Hoàng Dân, và bút hiệu Chương Dân của cụ Phan Khôi là do hai người cùng tưởng niệm một người anh hùng tên Chương Hoàng Dân (hay Hoàng Chương Dân.)

Thụy An bị kết án nặng nhất trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Cùng với Nguyễn Hữu Đang bà bị tuyên án 15 năm tù với tôi danh “
gián điệp quốc tế.” Cộng sản còn dành cho bà những lời thóa mạ cay độc nhất, “Con phù thủy xảo quyệt” hoặc: “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân” (Bàng Sĩ Nguyên, Bọn NVGP Trước Tòa Án Dư Luận, trang 120).

Tại sao Thụy An, một phụ nữ yếu đuối, không hề viết bài cho NVGP lại bị chúng thù ghét và xử nặng nhất như vậy? Xin nhân đây, lược qua bối cảnh và một số nhân vật liên quan chung quanh NVGP.

 
Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm

Tháng 1/1956, khởi đầu với Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm, Lê Đạt chủ trương gồm những bài chính của Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần. Bài Nhất Định Thắng nổi tiếng qua những câu
Tôi bước đi /Không thấy phố, thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” đã gây cho tác giả của nó bị bắt và suýt tự tử bằng dao cạo cứa vào cổ.

Tháng 2/1956, Giải Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Trần Dần, Tử Phác
(1) bị bắt, Lê Đạt bị kiểm thảo.

Ngay sát thời gian này, bên Nga, Krouchtchev tường trình tội ác của Staline, chủ trương “Sống chung hoà bình.” Tại Trung Quốc, Mao phát động phong trào Trăm Hoa Đua Nở. Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động theo gót đàn anh nới rộng tự do.

Tháng 8/1956, Nguyễn Hữu Đang trong một bài tham luận tại Hội Văn Nghệ gay gắt chỉ trích đường lối chỉ đạo tư tưởng văn nghệ sĩ của Đảng. Giai Phẩm Mùa Thu phát hành với bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi.

Tháng 9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời với bài phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ. Sau đó, Nhân Văn tiếp tục ra được 5 số với những bài viết nảy lửa có, bóng gió có, chỉ trích các chính sách của Đảng của các cây viết nổi tiếng Phan Khôi, Lê Đạt, Văn Cao, Phùng Cung, Phùng Quán, Trần Duy, Hoàng Cầm, etc…

Tháng 12/1956, Giai Phẩm Mùa Đông xuất bản với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo,...

Ngày 09/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.

Ngày 15/12/56: Nhân văn số 6 đang in, bị đình chỉ.
 

Nhân Văn và Giai Phẩm liên quan với nhau như thế nào?

Nhân Văn và Giai Phẩm do hai nhóm bạn hợp tác điều hành:
Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo ba người bạn thân, trong kháng chiến, đã từng chủ trương việc xuất bản lại các tác phẩm có giá trị thời tiền chiến. Và Lê Đạt, Hoàng Cầm, là hai người bạn thân đã làm tờ Giai Phẩm mùa xuân. Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, trách nhiệm bài vở. Giai phẩm do Trương Tửu trông nom. Giai phẩm xuất hiện trước nhưng Nhân Văn vẫn được coi là “đầu não” của phong trào. Phần lớn những người viết cho Nhân Văn đều có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại. (RFI, Nhân Văn Giai Phẩm phần V: Nội bộ báo Nhân Văn)

Không phải tất cả các nhà văn viêt bài cho Nhân Văn Giai Phẩm đều chống đối chính sách của Đảng thời bấy giờ. Theo nhận định của tác giả Thụy Khê trong loạt bài Nhân Văn và Giai Phâm, có ba dòng tư tưởng trong các bài viết:
 
- Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm), thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm). Thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng). Thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt). Thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán). Văn tả cảnh đói khổ của người dân lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ “trong sáng vĩnh viễn” (Sổ tay, Sỹ Ngọc).- Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất định thắng). - Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơ và Mới).

Tóm lại, sau khi được sự cổ vũ của rất nhiều tầng lớp sinh viên, trí thức và cả các đảng viên quân đội, có nguy cơ đe dọa đến sự độc tôn độc quyền của nhà cầm quyền, những nhà văn có tư tưởng đòi tách rời văn nghệ ra khỏi sự chỉ đạo của Đảng, không cần phải là có bài viết chống đối
(như Hoàng Cầm) đều bị “đánh”.

Qua những lời tự khai của các thành viên NVGP thời bấy giờ và những lời thuật lại của một vài nhân vật sau này tại Pháp thì hầu hết các văn nghệ sĩ chỉ muốn đòi hỏi tự do sáng tác, nhưng Nguyễn Hữu Đang chính là người đầu não khai sinh tờ báo và là “phần tử nguy hiểm” chủ trương dùng tờ báo để tranh đấu cho quyền lợi chính trị, cho một xã hội dân chủ. Lê Đạt và Trần Đức Thảo cũng cùng lý tưởng và Phan Khôi là vị thủ lĩnh tinh thần phía sau. Do vậy Nguyễn Hữu Đang bị xử 15 năm không có gì đáng ngạc nhiên, nhưng còn Thụy An?

Với quá trình hoạt động, tư tưởng và tài năng của bà, nhà cầm quyền CS tin chắc bà là người phải chống lại chúng, và có đầy đủ gan dạ, khả năng, kinh nghiệm để làm chuyện đó. Và trong một chế độ “Thà bắt lầm 10 người còn hơn thả sót 1 người”, là nền luật pháp của chúng, thì không cần phải có chứng cớ phạm tội. Chỉ cần có khả năng phạm tội ắt chúng sẽ nặn ra chứng cớ buộc tội.
 

Thuỵ An
Nguồn Ảnh: DR
--------------------------------------------------------

Âm mưu của Đang sau này là biến thành nhà xuất bản Minh Đức thành nhà in đối lập với Hội Nhà văn và tập họp nhóm Nhân văn quanh nhà Minh Đức. Cũng giai đoạn này nổi bật vai trò Thụy An. Nhà Thụy An, Phan Tại như một câu lạc bộ.

Về Hà nội tôi rất ghê tởm Thụy An. Nhưng sau khi bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” Thụy An tìm gặp tôi rất niềm nở và mời đến nhà bảo có nhiều sách mới.

Một thời gian dài tôi không đến. Nhưng từ sau khi “Cửa hàng Lê Đạt”, tôi bị khai trừ khỏi Đảng, tôi bắt đầu lui tới đó. (...)

Thụy An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải, may áo cho con tôi và đi lấy cả một chiếc giường cũi cho con tôi. Thụy An nghiễm nhiên trở thành thân thuộc với cả gia đình tôi. Mỗi lần tôi gặp Thụy An sau khi nói chuyện về tư sản, tiểu thương bất mãn, chuẩn bị đi Nam, các tin BBC về hiệp thương, lại kể chuyện Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu thuyết tư sản, và sau hết đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng cho là hạn chế sự phát triển của tài năng. Mỗi lần ở nhà Thụy An ra là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán Đảng thêm và chán nản thêm.”
(Lời tự thú của Lê Đạt, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, Số đặc biệt thứ hai chống Nhân Văn Giai Phẩm)
 
Còn học Pháp và Anh văn thì tôi học với con mụ Thụy An, và do đó tôi bắt đầu thân với mụ từ đấy. Khi được tin tôi đã ra bộ đội thì hắn tỏ vẻ rất săn sóc đến việc học của tôi. Tháng đầu tôi còn bận viết thì mỗi lần gặp tôi hắn đều thúc dục sao không đi học đi, tôi sẽ dậy cho Quán một tuần bốn tiếng đồng hồ. Tháng thứ hai tôi đến học với hắn, cùng với một người bạn của tôi là sinh viên. Trước khi đến học, tôi có biết Thụy An trước đây đã giết chồng, làm phóng viên chiến tranh cho Pháp, đã đi máy bay lên Điện biên phủ. Nhưng đến lúc này thì bản chất cách mạng của tôi đã không còn gì nữa, nên tôi thấy những việc làm của mụ ta là việc thường. Đến học với hắn, tôi tỏ ý phục, và mỗi ngày một cảm tình hơn. Tôi gọi hắn là chị với tất cả nghĩa của nó.”
( Lời tự thú của Phùng Quán, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958)

Trong phiên tòa 19/1/1960 tại Hà Nội bà bị xử 15 năm tù và 5 năm quản chế với lời buộc tội chính thức, “Con gián điệp nguy hiểm”, “Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Thụy An trở thành bộ phận đầu não của bọn gián điệp phản cách mạng.”

Và nửa thế kỷ sau, ngừoi ta có thể nghe tiếng nói thật, tiếng nói trong một thế giới tự do của nhà văn Lê Đạt về bà trên RFI 2004:
 
Chị Thụy An chưa bao giờ ở trong Nhân Văn Giai Phẩm cả, đó là dứt khoát. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân Văn Giai Phẩm và đặc biệt là thân với tôi.”

“Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được.”

“Tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. (...) Riêng tôi không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả.”

 
Về việc bà chọc mù mắt, xin trích nguyên văn lời tường trình của nhà văn Thụy Khê trong loạt bài NVGP về Thụy An:

Chúng tôi hỏi nhà thơ Lê Đạt, người rất thân với bà trong suốt hành trình Nhân Văn Giai Phẩm: có phải trong Hỏa Lò chị Thụy An tự chọc mù mắt ? Lê Đạt lặng lẽ gật đầu, không thêm một lời nào cả.

Bùi Thụy Băng cho biết:
Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, ở Bên Úc, tựa đề “Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác” đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng thì bà cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi phải ra hỏi cung, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng: “Chọc mù mắt để không phải nhìn thấy cái chế độ này nữa.Sau này có một người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo.” (Điện thoại, 16/12/2004).

Câu hỏi tại sao Thụy An đã đưa cả gia đình vào Nam, gửi các con cho mẹ, bà lại ra Bắc và ở lại với chế độ CS làm gì đựoc Bùi Thụy Băng giải đáp:
Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích. Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hoà Xá. (Điện thoại, 16/12/2004).

Như thế, xét qua những lời của các nhân chứng, bạn hữu, thân nhân, và cả kẻ thù của bà, thì chúng đã giam cầm bà là có lý của chúng. Bà đã mưu đồ chúng lại chúng. Nhưng lời kết tội “làm gián điệp” là sai. Bà chống lại chúng không theo lệnh, không lãnh lương của một thế lực nào cả. Bà chống lại chúng xuất phát từ lý tưởng, từ lòng yêu nước và mong muốn một xã hội tốt đẹp.

Những bài thơ, những tác phẩm của bà còn để lại là chứng tích quét sạch những tội ác nhơ bẩn bọn CS đã gán ghép cho bà.
Tác phẩm

Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm
Một linh hồn (xuất bản 1943). Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm Một linh hồn, Vũ Ngọc Phan nhận định: “Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn” và ông kết luận “Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.”

Tiếp theo là những tác phẩm như:
Bốn mớ tóc, Vợ chồng … Những truyện ngắn như Chiếc cầu chân chó (nguyên tác tiếng Pháp do Hội Văn Bút Quốc Tế xuất bản 1954/hoặc 55), Giết chó (kể lại hiện tượng CS bắt dân chúng giết hết chó để vào làng không bị phát giác, đồng thời kết án tội ác thủ tiêu đàn chó vô tội)

Một số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đã công bố trên talawas, gồm những bài: “
Nhân xem phim ‘Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực’, tiểu luận phê bình điện ảnh” (Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956) Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê, truyện ngắn (Trăm Hoa, 25/11/56), Chiếc lược, thơ (Trăm Hoa, 2/12/56). Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm, Bích-xu-ra...

Đặc biệt, cuối năm 1988, 6 tháng trước khi chết, Thụy An đã viết một bài “
Thụy An, mẹ chúng tôi” mượn giọng của các con tự thuật về mình trong thời gian ở tù, phản ánh được nỗi thương nhớ các con và lòng yêu nước rất cao sâu như sau:
 
“…Khởi sự bị giam cầm, Mẹ chúng tôi trong một thời gian ngắn có bị khủng hoảng tinh thần trước tai biến bất ngờ quá ư to lớn đối với một người đàn bà. Song Mẹ chúng tôi đã kịp thời trấn tĩnh lại, nhận tai biến như một cái Nghiệp (...) Mẹ chúng tôi coi tai biến như một cái giá phải trả cho cho sự may mắn được làm người, mà lại làm người Việt Nam có một thứ ngôn ngữ “đẹp nhất trần đời", dễ học nhất thế giới, có sức diễn đạt truyền cảm, thẩm thấu suốt tâm hồn dân tộc đến nỗi một người mẹ không biết một chữ A cũng biết hát những lời thơ hay nhất…”

Các văn phẩm của Thụy An còn rất nhiều, phần thất lạc, phần chưa in, vì giới hạn bài viết không đề cập hết
(các bạn quan tâm có thể tìm hiểu rõ hơn từ nguồn RFI và talawas)

Nhưng chính những lời thơ của bà bộc bạch rõ nét nhất tính cách một người quyết liệt, thiết tha yêu người, và hòa mình với vận mệnh đất nước. Cũng lý do giới hạn của bài viết nên chỉ xin trích một số đoạn nhỏ trong số rất nhiều bài thơ “
loáng lửa” của bà.

Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh...
(Trích: Sao lại mùa thu).
Năm đi cho tháng theo lần,
Mà trong êm đã ngấm ngầm phong ba.
Gió cuốn lật úp sơn hà,
Màn che trướng rủ bỗng ra dãi dàu,
- Tình nhà, tình nước bời bời
Mẹ năn nỉ giữa, nước đòi thiết tha.
Đã đành nghiã nặng mẹ cha
Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa nghiêng?
Chịu sinh làm gái vô quyên,
Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay?”
(Trích trường thi “Tôi về quên mất cả xuân sang”, 1951)

Và những câu thơ về nàng Tô Thị, đồng tâm sự của bà “
Tôi cũng vậy, tôi còn cha mẹ già, đàn con nhỏ trên vai, tôi không được chết, phải cố mà sống, đợi cái ngày Tô Thị:”
 
Mặc gió rụng tóc xanh từng sợi
Tung ra xa bay với mây trời
Mặc cho nắng dãi mưa phơi
Mặc cho muối đã mặn mòi lòng sương
Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi
Vẫn đăm đăm một đợi, một chờ
Mẹ con hoá đá trơ trơ
Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.

Đó là tâm trạng Tô Thị hoá đá, mà cũng là tâm trạng của tôi suốt 15 năm cho đến mãi mãi…
(Thụy An, thơ gởi Trần Sĩ Lương)
 
Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.
Nguồn Ảnh: DR
------------------------------------------------------------------

Thụy An được phóng thích tháng 10/1974 cùng với Nguyễn Hữu Đang. Bà bị trả về quản thúc Tại Hòa Xá, bị ném đá trên đường giải về làng khi bị bị đẩy xuống xe tù. Năm 1976, nhờ em trai Lưu Duy Trác xin cho được vào Nam đoàn tụ với mẹ già. Lúc đó các con bà tất cả đã ra khỏi nước. Bùi Thụy Băng đã làm thủ tục bảo lãnh mẹ, nhưng bà chết trước khi được gặp lại con vào tháng 10/1989 tại nhà riêng, Saigon.

Thụy An cùng với các thành viên thuộc Nhân Văn Giai Phẩm là biểu hiện cao đẹp của giới trí thức Việt Nam, biểu hiện cho sức sống mãnh liệt của dân tộc, đã bị một chế độ phi nhân phản dân tộc nghiền nát một cách không thương tiếc.

Chế độ đó vẫn tiếp tục tồn tại. Các tội ác vẫn đang tiếp diễn.