Thursday, July 27, 2023

TÌNH HÌNH KHU VỰC PHÍA NAM CỦA QUÂN KHU 2 VNCH TỪ THÁNG 10/1967 ĐẾN THÁNG 09/1968.

====

- Đầu tháng 12 1967, cuộc hành quân (HQ) có tên Klamath Falls kéo dài 6 tuần dọc ranh giới giữa Bình Thuận và Lâm Đồng, nhằm tìm kiếm BCH quân khu 6 của CS, với sự tham dự của năm TĐ Mỹ, ba TĐ của trung đoàn 44 sđ 23 và một TĐ BĐQ của VNCH. Tin tình báo thu thập trong HQ này cho thấy các đv chánh quy của VC đã rút về những địa điểm an toàn hơn ngay trước khi HQ khởi diển, khiến người ta phải nghĩ rằng không biết bằng cách nào, CS đã biết trước cuộc HQ này? Ví dụ 95 người thuộc BCH của Quân Khu 6, đã chia thành nhiều nhóm và đi về các hướng khác nhau. Quân đồng minh chỉ phá hủy nhiều kho chứa và hệ thống hầm trú ẩn, vì địch quân đã né tránh đụng độ. Trong khi trước đó chỉ hơn nửa tháng (ngày 12/11/1967), TĐ 186 của quân khu 6 này, đã tấn công một đoàn xe kéo pháo di chuyển giữa Di Linh và Đà Lạt, do ĐPQ và 3 xe M-113 bảo vệ, làm chết ít nhứt 65 lính và hư hại 2 đại bác. 

Sau đây là chuyển ngữ từ trang 208 đến 213 của quyển Staying the Course của Erik Villard.

. . .                         

"BẢO VỆ PHÍA NAM QUÂN KHU 2.

"Vùng bờ biển phía nam của miền Trung (south-central coast) này không sôi động như các phần còn lại của quân khu (QK) 2. Các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, và Lâm Đồng của QK 2 và Bình Tuy của QK 3 có dân số 680.000 người, bằng khoảng 2/3 dân số của chỉ riêng tỉnh Bình Định. Hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận tương đối khô do gió mùa ko thể ngưng đọng thành mưa khi bay ngang những đồi thấp ven biển; vùng cao nguyên tiếp giáp ven biển này phần lớn là rừng. Do đó, sản lượng lúa gạo của vùng này khoảng 88.100 tấn, chỉ hơn 1/4 sản lượng hàng năm của tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, vùng này đóng vai trò quan trọng với các chiến trường ở bắc và nam của nó. Phe nào kiểm soát vùng này sẽ tác động dễ dàng đến các chiến trường kể trên.


Theo tổ chức của CS, bốn tỉnh kể trên của QK 2 và tỉnh Bình Tuy thuộc về Quân Khu 6 của CS-chỉ huy bởi tướng Nguyễn minh Châu. Được mô tả bởi một sĩ quan Mỹ như là một "tư lịnh đây mưu trí (crafty) và một chuyên gia về các cuộc quân kiểu quấy rối của du kích," Châu chỉ huy bốn tiểu đoàn VC và năm đại đội cấp huyện. Dù với quân số khiêm nhường, y vẫn có thể khiến QL-1 ko thể xử dụng trong vài năm qua và cũng luôn né tránh các cuộc hành quân lớn của đối phương bằng cách cho quân của y thường xuyên di chuyển qua lại ranh giới giữa các tỉnh hay các quận. (Nói thêm: Theo thói quen cố hữu, các tỉnh hay quận ít khi hành quân ở vùng liên ranh. VC đã lợi dụng sơ hở này để né tránh các cuộc hành quân -- người dịch).

Trung tướng William Rosson, tư lịnh của BCH lực lượng 1 dã chiến của Mỹ đặt tại Nha Trang, chỉ huy khoảng 55 ngàn lính Mỹ và 38 ngàn quân Hàn Quốc tại QK-2 từ tháng 7/1967, đã triển khai 10 TĐ quân Mỹ và 18 TĐ quân Hàn quốc, phối hợp với 16 TĐ Nam quân hành quân ở vùng ven biển đông dân này của QK-2; chỉ để 9 TĐ quân Mỹ phối hợp với 12 TĐ Nam quân hành quân ở vùng Cao nguyên Trung phần thưa dân. Tướng quân cũng duy trì một lực lượng đặc nhiệm nhỏ, hành quân trực thăng vận do TĐ 2/7 sư đoàn 1 không kỵ đảm trách, đóng tại căn cứ hỏa lực Betty, phía nam của Phan Thiết-tỉnh lỵ của Bình Thuận, nhằm yểm trợ Nam quân tại bờ biển phía nam của QK2. TĐ này đã đến tỉnh này tháng 8/1966 với nhiệm vụ tìm và diệt địch, trong cuộc hành quân (HQ) mang tên BYRD, dự định kéo dài 2 tháng. Lực lượng đặc nhiệm trực thăng vận này đã chứng tỏ hữu hiệu đến độ tướng Westmoreland đã quyết định kéo dài nhiệm vụ của họ. Được trang bị với 38 trực thăng với hai pháo đội gồm một pháo đội 105-ly và một pháo đội 155-ly, lực lượng đặc nhiệm này đã có một hỏa lực và tính cơ động mà Nam quân ko thể có. (Nói thêm: Theo tổ chức của QLVNCH, mỗi sđ bộ binh có 3 trung đoàn bộ binh, yễm trợ bởi 3 TĐ pháo 105-ly và một TĐ pháo 155-ly. Khi cần hành quân trực thăng vận, phải nhờ trực thăng của không quân Mỹ hay VNCH. Trong khi đó, dưới quyền TĐ này có 38 trực thăng và hai pháo đội 105 và 155-ly, mỗi pháo đội có 6 khẩu -- người dịch). 

Lực lượng đặc nhiệm BYRD này đã hợp tác chặc chẻ và tốt đẹp với các giới chức VN. TL của lực lượng này kiêm luôn cố vấn trưởng của tỉnh Bình Thuận, mà tỉnh trưởng là trung tá Nguyễn Khắc Tuân, cũng là chỉ huy của trung đoàn trưởng 44 sđ 23 bộ binh VNCH. Sự phối hợp này tốt đến nỗi, tính tới mùa thu 1967, lực lượng đặc nhiệm này đã có thời gian hoạt động lâu nhứt. (Nói thêm: Như đã nói ở trên, lực lượng đặc nhiệm này ban đầu được thiết kế để hoạt động trong 2 tháng, sau đó các đv của lực lượng sẽ được trả về đv gốc -- người dịch). 

Thật ko ngạc nhiên khi lực lượng này đã tiến hành nhiều cuộc hành quân phối hợp. Công thức điển hình là một đại đội Mỹ phối hợp với một đại đội VNCH. Cũng có khi một đại đội Mỹ phối hợp với một trung đội VNCH hay một đại đội VNCH phối hợp với một trung đội Mỹ. Quân VNCH thì rành địa thế và dân tình, quân Mỹ có thế mạnh về hỏa lực, tiếp vận và tải thương. 

Họ cũng có các hoạt động dân vận (outreach). Phần lớn tập trung ở Phan Thiết và những cánh đồng phì nhiêu ở phía bắc của tỉnh lỵ này, nơi mà 3/4 của 250.000 dân của tỉnh Bình Thuận sống và phần lớn lúa trồng ở đây. Lính Mỹ và VNCH đã bảo vệ nông dân thu hoạch mùa màng, phân phối đồ cứu trợ, thực hiện các dự án nhỏ về xây dựng, và chăm sóc y tế miễn phí cho dân. Toán công binh của lực lượng đặc nhiệm tu sửa đường xá để việc đi lại mua bán của dân thuận lợi hơn. Do còn thiếu sót trong khi thực hiện nên hạ tầng cơ sở tại vùng này chưa đạt kết quả đáng kể, tuy nhiên một đại diện của cơ quan CORDS, khi thăm viếng vùng này tháng 12 1967 đã ghi nhận những thay đổi đáng chú ý (startling changes). Chẳng hạn như tháng 6, hoạt động kinh tế ở vùng này rất ít; người dân có vẻ nhút nhát và đã chạy vào nhà khi viên chức chánh phủ tới gần. Nhưng vào tháng 12, vị đại diện này đã báo cáo rằng "phụ nữ đã mang rau quả ra chợ, đường xá tấp nập xe bò, xe đạp và một ít xe gắn máy. Dân đã gặt lúa, chuẩn bị đồng áng để gieo trồng vụ mùa mới. Trong khi việc thực hiện các chương Phát Triển Cách Mạng chậm so với thời biểu, tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong lãnh vực tâm lý, tuy khó đong đếm (less tangible), nhưng lại quan trọng hơn." Ông đã kết luận, rõ ràng là lực lượng đặc nhiệm BYRD đã "đóng góp thành công trong việc cải thiện an ninh trong tỉnh Bình Thuận, và tiến bộ về bình định sẽ giảm sút một khi lực lượng này rút đi." (Nói thêm: cơ quan CORDS, viết tắt của Civil Operations and Revolutionary Development Support, một chương trình bình định lãnh thổ, được Mỹ hỗ trợ, dưới sự điều hành của Bộ Xây Dựng Nông Thôn VNCH -- người dịch). 

Dù quân đồng minh đã đạt những tiến bộ (stride) về bình định khu vực này trong năm 1967, vài đv Việt Cộng, đáng kể nhứt (most notetably) là TĐ 840 chính quy và TĐ 482 địa phương, vẫn ẩn núp (lurk) gần tỉnh lỵ. Những đv này và 6 đại đội quân địa phương đã tạo một đe dọa liên tục, ko chỉ riêng tỉnh lỵ Phan Thiết, mà còn đối với nhiều tiền đồn nhỏ của Nam VN, rải rác khắp vùng quê. 

Bước vào 2 tháng cuối của năm 1967, một trong những mục tiêu chánh của tướng Westmoreland ở bờ biển đông nam này là mở và cải thiện QL-1 từ Xuân Lộc đến Phan Rang, do đó sẽ phục hồi việc giao thông giữa QK-3 và QK-2. Gánh nặng này phần lớn giao cho lực lượng đặc nhiệm BYRD. Bảo vệ bởi TĐ 2/7 Thiết kỵ Mỹ, công binh Mỹ đã xây lại và sửa chữa những đoạn hư hỏng trên QL-1 đoạn chạy qua tỉnh Bình Thuận. Công binh Mỹ cũng giúp công binh VNCH lập các tiền đồn cấp trung đội dọc theo QL, canh giữ bởi ĐPQ. Một số căn cứ hỏa lực cấp đại đội cũng được lập dọc QL-1 cho trung đoàn 44 VNCH, thay vì để họ đóng gần tỉnh lỵ. Hệ thống các tiền đồn này nhằm bảo vệ khu vực dân cư của tỉnh, khiến quân cs đóng trên rừng núi phía tây ko thể vượt QL-1 mà ko bị phát hiện. 


  Một lính Mỹ chuẩn bị máy chiếu phim và hệ thống
   âm thanh để trình chiếu những phim ủng hộ chánh 
       quyền cho thường dân ở Phan Thiết.

Địch quân đã chống lại hệ thống phòng thủ này khi ngày 8/11/1967 TĐ 840 và đại đội 450 quân địa phương tấn công đồn MARA, một đồn nhỏ trên QL-1 khoảng 15km đông bắc Phan Thiết. Đồn này chứa BCH và một đại đội tác chiến của TĐ 3/44 sđ 23 bộ binh, và một số lính công binh đang hoàn thiện công tác xây đồn. Viên cố vấn ở đồn MARA gọi không trợ. Chỉ huy của lực lượng đặc nhiệm, trung tá Joseph Griffin Junior, nhanh chóng đã gửi 3 trực thăng UH-1 trong đó có một chiếc bay ở cao độ thấp từ 50 tới 400 feet, chỡ theo 2 hay 4 người lính trang bị súng M-16, có gắn kính nhìn đêm, xem hình.
                                            
Khi người lính thấy địch nhờ kính này, họ bắn đạn chỉ đường (tracer fire) để đánh dấu mục tiêu. Trong khi chiếc thứ hai bay cao hơn để thả hỏa châu. Chiếc thứ ba trang bị rốc-két. Một máy bay Hỏa Long AC-47 tham gia trận đánh. Điều này đã giúp quân phòng thủ giữ đồn tới rạng đông tới khi một đại đội của TĐ 2/7 thiết kỵ Mỹ tiếp viện. Quân phòng thủ chết 28 và 35 bị thương, nói lên sự ác liệt của trận đánh. Cộng quân có 42 chết. Chỉ hai ngày sau trận đánh, công binh VNCH đã hoàn tất việc xây dựng đồn MARA, giúp cho quân đồng minh có một căn cứ mạnh mẻ để bảo vệ đoạn đường này của QL-1.
Hai tuần sau, tướng Châu của CS đã cho thấy quyết tâm (willingness) đánh Mỹ của y. Trận đánh đã bắt đầu khi nhiều đạn cối rớt vào quận lỵ Thiện Giáo, khoảng 20km tây nam của đồn MARA. Trung tá Griffin liền gửi một trung đội bộ binh để tìm địch quân. Khi các trực thăng đổ lính xuống một rừng thưa gần đồn này, địch quân từ khu vực chung quanh đã bắn họ bằng súng súng nhỏ và đại liên. Họ đã lọt vào một bẫy giăng ra bởi TĐ 482 VC. Các trực thăng phải rút lui sau khi vài chiếc bị thiệt hại trong khi trung đội này phải chiến đấu đơn độc (fight for its life).
Trung tá Griffin đã nhanh chóng gửi phần còn lại của TĐ để cứu trung đội này. Bắc quân đã đón chào các trực thăng cứu viện với đạn đại liên và B-40. Trực thăng đã cố gắng đổ quân dù nhiều chiếc bị thiệt hại và hai chiếc phải đáp khẩn cấp (crash-land). Sau vài giờ chiến đấu, TĐ 2/7 thiết kỵ đã đẩy lui TĐ 482 và cứu trung đội này. Quân Mỹ bị thiệt hại với 11 chết và 36 bị thương, trong khi đối phương có khoảng 21 chết. 
Ngày 1 tháng 12 1967, TĐ 2/7 thiết kỵ này chấm dứt hành quân BYRD để tham chiến với lữ đoàn 1 sđ 101 Nhảy Dù, trong một cuộc hành quân (HQ) có tên Klamath Falls dọc theo ranh giới giữa tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng. Ba TĐ của trung đoàn 44 sđ 23 VNCH và TĐ BĐQ cũng tham gia cố gắng này nhằm tìm và diệt BCH của Quân Khu 6 VC và bất cứ đv chánh quy nào hoạt động trong khu vực này. Mối quan tâm đặc biệt của họ là TĐ 186 địa phương đã từng gây thiệt hại nặng (maul) cho vài đại đội ĐPQ và các thành phần của trung đoàn 44 nói trên vào ngày 12/11/1967, giết ít nhứt 65 lính chánh phủ và gây hư hại hay phá hủy hai khẩu 105-ly. Mục tiêu thứ 2 của cuộc hành quân (HQ) này là cải thiện an ninh trên QL-1 để xe cộ di chuyển an toàn giữa Phan Thiết và Nha Trang.
Trong 6 tuần sau đó, quân đồng minh đã tìm và phá hủy nhiều kho chứa và các hệ thống hầm trú ẩn dọc theo ranh giới Lâm Đồng và Bình Thuận, một số kho lớn đủ phục một TĐ, nhưng VC đã né tránh đụng độ. Tin tình báo thu thập trong HQ này cho thấy các đv chánh quy của VC đã rút về những địa điểm an toàn hơn ngay trước khi HQ khởi diển, khiến người ta phải nghĩ rằng ko biết bằng cách nào, VC đã biết trước cuộc HQ này? Ví dụ 95 người thuộc BCH của Quân Khu 6, đã chia thành nhiều nhóm và đi về các hướng khác nhau. Tổng kết, phe đồng minh cho biết đã hạ 156 địch trong 6 tuần hoạt động. Gần phân nửa số này là công của một trong năm TĐ Mỹ tham chiến, đó là TĐ 2/7 thiết kỵ, vì họ quen thuộc khu vực này. 
Về mục tiêu thứ hai của cuộc HQ, việc mở lại QL-1, một đoàn công-voa Nam VN đã di chuyển an toàn từ Nha Trang đến Phan Thiết và ngược lại giữa 18 - 21/12/1967. Dù một vài đoạn của QL-1 vẫn còn mất an toàn vào ban đêm, việc đi lại của dân đã bắt đầu gia tăng mạnh mẻ giữa Phan Thiết và Nha Trang vào ban ngày, khiến việc buôn bán làm ăn trở nên thuận lợi do người dân ở vùng bờ biển đông nam này và cung cấp cơ hội cho thịnh vượng lâu dài"./.
Nói thêm: Trong cuộc HQ Klamath Falls kể trên, có sự tham dự của TĐ 11 BĐQ, mà anh hùng Vương Mộng Long từng là đại đội trưởng. TĐ này trước đó do thiếu tá Nguyễn văn Huân chỉ huy, sau đó là đại úy Hồ Đắc Đàm. Thiếu úy pháo binh Nguyễn Trãi, trong bài "Một người anh BĐQ" đã viết rằng TĐ 11 BĐQ, dưới thời thiếu tá Huân, mà ông là tiền sát viên đã từng truy đuổi một tiểu đoàn chánh quy sau khi đv này phục kích và gây thiệt hại nặng (98/100) cho một đại đội ĐPQ và ba xe M-113 đi cùng để bảo vệ một trung đội pháo binh gồm hai xe kéo pháo trên QL-20, trên đoạn Phú Hiệp từ Di Linh đi Đà Lạt. Chi tiết này gần trùng hợp với bài viết trên đây của Mỹ. Thời đó đại tá Trương Quang Ân làm TL của sđ 23 bộ binh -- người dịch.
. . .
San Jose ngày 28/7/2023
Tài Trần