Friday, May 31, 2019

https://onggiaolang.com/chinh-sach-cua-bac-ngong/
LỜI NGUYỀN CỦA LĂNG MỘ HCM (The Ho Chi Minh Mausoleum Curse)
"Hồn ma TT Thiệu gặp hồn ma HCM và nói : thông thường người đời chỉ thích dành cái khôn , cái tốt , nhưng tôi thấy bọn đàn em của ông , từ Trọng Lú trở xuống , hiện nay chỉ thích dành cái ngu , cái xấu của thiên hạ về mình , xin ông giải thích .
HCM : có lẽ khi xây lăng cho tôi , dù điều đó trái với di chúc của tôi , đàn anh của chúng như Lê Duẩn , Lê Đức Thọ , v.v... đã làm động mồ , động mả ông bà , tổ tiên hay làm đứt long mạch của Hà Nội nên giờ này bọn chúng mới thích "ăn cám xú" cả lũ như vậy ; VÌ CỨ HỞ MIỆNG RA LÀ BỊ DÂN CẢ NƯỚC "NÉM ĐÁ" DỮ DỘI . Làm tôi rất buồn và đau khổ mà không làm gì được .

 TT Thiệu : Chính bọn "ăn cám xú" này , chứ không ai khác , đang đào mồ cuốc mả ông ! Vì chúng mà nhân dân cả nước đang NGUYỀN RỦA ông : do ông đã du nhập một chủ thuyết chính trị đã gieo biết bao TÀN PHÁ , CHẾT CHÓC và ĐAU KHỔ cho đất nước này từ năm 1945 tới giờ" . / .
BẢN ĐỒ QUÂN SỰ TRÊN BLACK APRIL CỦA GEORGE VEIGHT







Thursday, May 30, 2019

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3315213108492492&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARBWqdxI2XnEnR6QogIRJ6uK8mX0WENxZsBcN_P7HJ95Hv_5Vb8ffDTUhEkaKP9EaOLyA7JH_Evxe6pL


Wednesday, May 29, 2019

https://www.facebook.com/trananhtu19/videos/1921633601183790/
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3311511382195998&set=pcb.3311467458867057&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBu3j7vlwUCPaOMu2mUTVdFw0ylQe7amXhdc2oFMTkgfIeB4E4ejGq7OsmvdkCh3E5naD321de2e3Ju
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2499473326730567&set=a.583230431688209&type=3&eid=ARDF3c4aHGuAF3FOz4PAsj1WFShq2pp-n4ZL_pkkdRsieqeJWyTINeVmiJuw64NO9bk0DWMHMABGGQx2
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3311140365566433&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARApJNIq9YI4E35AL3t9oWGwlFkun0YgUgwQ8QOg4gkZc63rVRl8HYBeaCCNWglBWqeH-dTLqEYcMC_F
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3311632562183880&set=a.197514143595753&type=3&av=100000115071295&eav=Afa1HbdLRSRxjdVBCRLjynuD0rvJPdMcrkpwCsC10cEcH1uR_un3WFIdkgtSt89emiw&eid=ARBBgrLvmc-gKXj7FyY_RHmLYyiB17dAF8T72Y9zbJpro1Glp7VC2FDbQORzTeTr6jrk7h4JyE5ido9z
THÀNH TỰU KO THỂ CHỐI CẢI CỦA CSVN .
Như tôi đã viết vài lần, sau khi thiết lập chế độ CS tại miền Bắc năm 1954 và miền Nam 1975 , ĐCSVN đã có những "THÀNH TỰU" - mà ko ai có thể chối cãi được . Họ đã khiến phần lớn người Việt , trong lẫn ngoài nước :
1/ NGHI KỴ LẪN NHAU : tạo ra từ các chiến dịch CCRĐ năm 1956 , phong trào Nhân Văn Giai Phẩm , vụ án Xét Lại Chống Đảng , sau 1975 đưa hàng trăm ngàn quân - dân - cán - chính VNCH vào tù , đổi tiền , đánh tư sản . . . CA tổ chức vượt biên , thu tiền nhưng vẫn bắt người , v.v...
2/ Một khi đã nghi kỵ lẫn nhau , người ta dễ dàng CHIA RẼ hay THÙ HẬN . Vì không tin tưởng đám tàn quân Mỹ "ngụy" , CS đã bắt giam hàng trăm ngàn "ngụy quân ngụy quyền " , lấy nhà , tài sản , chia cho đảng viên hay gia đình có công với cách mạng . (Vợ chồng người chị họ - con cô ruột của tôi ở miền bắc , sau 75 được thu xếp chiếm tầng trệt của một căn nhà 2 từng đường Nguyễn Minh Chiếu Sài Gòn/nay là Nguyễn trọng Tuyển nhưng oái ăm thay từng trên lại là nơi ở của một ng bạn tôi , vì sau 75 chủ nhà đã vượt biên nên phường cho gđ của chị họ tôi) . Họ đã khiến hai thành phần này thù nghịch lẫn nhau mà dư âm còn tới bây giờ . Ngay trong nội bộ của TƯ hay BCT , họ cũng chia rẻ , đấu đá khiến Võ Nguyên Giáp bị thất sủng , đàn em bị giết hay đi tù hay vô hiệu hóa . . . Gần đây nhứt , xảy ra đấu đá ở ĐH 13 khiến Ba Dũng bị loại , v.v...
3/ Sau khi đã nghi kỵ , chia rẽ hay thù hận , người dân dễ dàng SỢ SỆT MỌI THỨ , khiến họ không dám làm điều gì . Trong trại tù , CA cài đặt "an-ten" để chỉ điểm , đi biểu tình thì có thể bị đánh đập , thảy lên xe , v.v... bởi an ninh mặc thường phục . . . VK SỐNG TẠI MỸ còn sợ CS như ko dám dùng FB để ủng hộ quyền làm người của dân vn vì "sợ CS ko cho vào VN" hay "CS sẽ thủ tiêu nếu về VN" . (Tôi đã kể trên Facebook này) .
4/ Sau khi đã nghi kỵ , chia rẽ hay thù hận , sợ sệt đủ thứ , dân VN dễ bị VÔ CẢM . Người dân ko phản ứng trước cảnh trái tai gai mắt , thấy người biểu tình bị đánh bởi CA mặc thường phục , họ cũng ko can thiệp , vì quan niệm "hồn ai nấy giữ" . VD : chúa nhựt 29/5/16 , chỉ có 5 ng biểu tình vì quyền làm người tại Hà nội - 1 TP có nhiều triệu dân , nghĩa là 1 triệu ng chỉ có 1 ng đi biểu tình (sic) .
Tóm lại : NGHI KỴ LẪN NHAU > CHIA RẼ hay THÙ HẬN > SỢ SỆT MỌI THỨ hay SỢ RẤT VÔ CỚ > VÔ CẢM . Điều này đã xảy ra ngay tại NHIỀU gia đình , nghĩa là đơn vị nhỏ nhứt của xã hội .

Tuesday, May 28, 2019

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3309288762418260&set=pcb.3309275512419585&type=3&av=100000115071295&eav=AfZ02wUu6Bm7Sb6dMpsG1tXPFn_gq2gR9DPF6sTAlcPWxB3pH4NfIvJUG53o_naP8bA&__tn__=HH-R-R&eid=ARDVHzMYVwwA5_hb7OwMvw1ClTMVFPDGb0Wa2tr9l5gha0SNoodF6cgBoYAfngVpLINYMUrjMT0XfBXI
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3309018269111976&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARCj0-NOnpgNqotT39TfQLtbU9uVdA3G0NoV21Wcvps5yEmOaeDkLgC1MPD0QaVzLUXhdbUqI8TKM0Ch

Monday, May 27, 2019

https://www.google.com/search?q=rebirth+from+ash+,+pic&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ved=0ahUKEwj9leye39bTAhVHzWMKHYg9DcMQsAQIIg&biw=960&bih=415#imgrc=_
[FACT CHECK] Người Pháp đã "bóc lột" công nhân cao su như thế nào?
Nguồn : https://www.facebook.com/DonaldTrumpVN/posts/508535649517547
Khi tìm hiểu về "tội ác của thực dân Pháp", chắc hẳn các bạn đều đã nghe qua câu:
"Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo"
* Cũng như hầu hết các bạn, tôi từng tin vào những thứ kiểu như: "Bọn Pháp tàn ác bóc lột phu cao su, khi họ bệnh thì không chịu chữa chạy mà để họ chết rồi dùng xác bón cho cây cao su."
Nếu điều đó là sự thật, thì tôi thắc mắc rằng người Pháp cất công xây dựng cả một bệnh viện trong đồn điền để làm gì nhỉ? Phải chăng là để phục vụ riêng cho người Pháp và cai đồn điền sao? Thôi thì hãy xem báo chí nhà nước viết gì nhé:
"Bệnh viện Lộc Tấn (tên gọi cũ của Bệnh viện Lộc Ninh) được người Pháp xây dựng năm 1936, là nơi khám chữa bệnh cho chủ đồn điền, phu cao su và một phần nhân dân do các đồn điền quản lý." (Nguồn: VNExpress)
Có thể sẽ có ý kiến cho rằng bệnh viện đó chỉ dành để phục vụ cho giới chủ đồn điền. Nhưng nếu chỉ phục vụ riêng cho giới chủ, thì họ đâu cần bỏ tiền của tốn kém để xây một bệnh viện lớn như vậy? Họ hoàn toàn có thể yêu cầu bác sĩ riêng phục vụ tại nhà cơ mà?
Và trong thời phong kiến, trước khi bị “đô hộ”, liệu người dân có được tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế phương Tây hiện đại như vậy không?
* Nhiều người cho rằng điều kiện làm việc trong đồn điền hết sức khắc nghiệt. Tôi khẳng định là đúng, đấy là nếu bạn so sánh với công việc văn phòng thời nay. Trên thực tế, những người công nhân cao su được cấp nhà ở, có thể đưa gia đình tới ở cùng; trong khuôn viên đồn điền có nhà thờ, chùa chiền phục vụ nhu cầu tâm linh, con cái của họ được đi học. Phải nói là quá tuyệt vời so với điều kiện sinh hoạt của những người nông dân thời phong kiến.
“Làng Công Tra tương tự như mô hình đô thị hiện đại khép kín bao gồm: Nhà ở của phu cao su; nhà kho; cửa hàng tạp hóa. Nhà phu là nơi phu cao su đến để nhận và trả công cụ lao động. Nhà này cũng là nơi trước khi đi làm, phu cao su phải tập trung để điểm danh. Riêng làng Công Tra Lộc Thiện, chủ đồn điền còn xây thêm nhà thờ, chùa, nhà giữ trẻ và ít phòng học cho học sinh tiểu học lớp 4, lớp 5 tương đương với lớp 1, lớp 2 thời nay." (Nguồn: Báo ĐSPL)
* Quay lại với hai câu thơ tôi trích ở đầu bài viết. Tôi sẽ phân tích:
- Có một số công nhân tử vong do tai nạn lao động trong đồn điền. Nhưng đây là điều tất yếu, dù bạn làm bất cứ ngành nghề lao động tay chân nào, vào bất cứ thời kỳ nào kể cả ngày nay, thì bạn cũng sẽ phải đối mặt nguy cơ đó.
Nhưng đó chỉ là phần rất nhỏ. Phần lớn những người công nhân cao su không trở về quê nhà vì:
+ Những người công nhân này chủ yếu xuất thân từ Bắc Kỳ, ở đó họ phải chịu mức sưu cao do triều đình áp đặt (chứ không phải chính quyền người Pháp), cũng như sống dưới bầu không khí ngột ngạt của lễ giáo phong kiến. Vậy nên khi hết hợp đồng lao động và dành dụm được một khoản tiền, họ sẽ ở lại Nam Kỳ lập nghiệp - nơi có cuộc sống dễ chịu hơn nhiều dưới sự quản lý của người Pháp.
+ Cũng có thể, họ tiếp tục gia hạn hợp đồng và làm việc do mức thu nhập và điều kiện làm việc tốt (đối với họ). Và trong lúc hợp đồng vẫn còn hạn thì “cách mạng” nổ ra.
Dù trường hợp nào đi chăng nữa thì sự “mất tích” của họ cũng hoàn toàn dễ hiểu khi mà hệ thống thông tin liên lạc đương thời còn nhiều hạn chế, rất khó để họ thường xuyên liên hệ với người thân.
- Nhiều người nói: “Thực dân Pháp cưỡng ép dân nghèo đi làm ở đồn điền”. Tôi thì không nghĩ họ có thể ép buộc được cùng một lúc số lượng lớn người như ở tấm hình số 5, và đó tất nhiên không phải là chuyến tàu duy nhất.
Như đã nói ở trên, những công nhân cao su này chủ động ký hợp đồng lao động với những điều khoản rõ ràng – điều chưa từng có tiền lệ trong thời phong kiến. Chính trong tác phẩm 'Lão Hạc' – một câu chuyện hư cấu có tính phóng đại giống như nhiều câu truyện khác của nhà văn “cách mạng” này, chúng ta thấy rằng người thanh niên đã chủ động tìm đến trạm mộ phu và ký 'công-tơ-ra' (contrat – hợp đồng). Không hề có sự ép buộc nào ở đây!
- Và khi chủ động đi bán sức lao động để lấy tiền, thì họ đã chấp nhận rằng mình sẽ không thể nào dẻo dai, khoẻ mạnh như ban đầu được nữa. Thời kỳ nào cũng vậy. Ngày nay, những người dân nghèo vẫn phải tha phương, thậm chí phải bỏ đất nước để bán giọt mồ hôi của mình nhằm mưu sinh đấy thôi?
Ít nhất thì phu đồn điền cao su không phải làm việc dưới môi trường độc hại như công nhân ngày nay trong xí nghiệp điện tử, nơi họ phải tiếp xúc với phóng xạ hàng ngày và đã có nhiều trường hợp mắc bệnh nan y như ung thư, vô sinh,...
* Về vấn đề “làm quá giờ”: Nhiều người nói phu cao su phải làm việc hàng chục tiếng đồng hồ (thay vì 8 tiếng như quy định ngày nay). Thế nhưng, họ nên biết rằng, thời đó, những người công nhân da trắng ở châu Âu hay ở Mỹ cũng phải làm việc trong khoảng thời gian dài tương tự. Mãi về sau, quy định làm việc 8 tiếng mới được áp dụng. Các phúc lợi hấp dẫn cho công nhân phương Tây cũng chỉ mới xuất hiện vài chục năm gần đây.
Còn ngày nay, cả công nhân lẫn lao động trí thức ở Việt Nam đang thường xuyên phải làm việc quá giờ với mức lương rẻ mạt.
* Trước khi đi tới phần thú vị nhất, mời các bạn xem ảnh số 6 và số 7.
Có thể là những đứa trẻ này lớn lên sẽ trở thành phu cao su, và “bị bóc lột” (theo như tuyên truyền). Nhưng nếu họ không nuôi nấng chúng cho đến khi chúng đủ tuổi để “bóc lột” thì liệu chúng có sống nổi tới ngày đó không? Đúng là không có bữa ăn nào miễn phí, thế nhưng, khi mà một hàng dài thanh niên thời đó vẫn chờ đợi để đăng ký đi làm phu cao su, người Pháp cần gì phải bỏ một khoản tiền lớn ra để nuôi nấng tử tế những đứa trẻ mồ côi trong cả chục năm trời chỉ vì mục đích lấy nguồn lao động?
* Những kẻ lười lao động khốn nạn:
Nhiều tài liệu lịch sử có ghi nhận những cuộc nổi dậy của công nhân đồn điền cao su. Song, chúng chỉ ở quy mô nhỏ và được xử lý nhanh chóng. Tôi thắc mắc, rằng với điều kiện lao động gần đạt đến mặt bằng chung phương Tây thời bấy giờ, cũng như là vượt trội so với thời phong kiến, thì những người không có học thức như họ còn muốn gì nữa? Tại sao họ không chịu khó như những người công nhân khác, để dần dần tích cóp tiền và về sau này có thể lập nghiệp?
Hãy đi vào một trường hợp cụ thể:
“Làm cu ly được 2 tháng, tôi thấy mình phải cố gắng học lấy một nghề, bởi có nghề ổn định mới kiếm được tiền sinh sống và tiếp tục hoạt động cách mạng. Tìm hiểu xung quanh, tôi xác định được hai nghề là đánh máy chữ và chế biến thực phẩm. Vì tôi thấy ở gần đó, có hai vợ chồng người Tây tên Bêgăng, là lính đã giải ngũ, quản lý 10 ngôi biệt thự.
...Ngoài công việc quản lý, Bêgăng còn làm các món ba tê, xúc xích, dăm bông để bán. Lúc đầu tôi xin vào làm thêm ngoài giờ là đứng xay thịt, Bêgăng đồng ý và trả tôi thêm 3 đồng một tháng. Thấy tôi làm nhanh, ông bắt đầu hướng dẫn tôi làm ba tê, xúc xích. Vợ Bêgăng làm kế toán, kiêm luôn đánh máy chữ. Tôi cũng đi thuê một cái máy chữ về tập đánh. Khi đã thông thạo, tôi bảo vợ Bêgăng cho tôi đánh các văn bản và bà ta đồng ý.
...Một người Tây là chủ công ty cao su nhiệt đới ở khu biệt thự bên cạnh, rất thích ăn ba tê, xúc xích, dăm bông do tôi làm nên thường sai đầu bếp hoặc vợ sang mua.
Về sau người Tây này hỏi tôi:
- Mày làm như vậy lương được bao nhiêu?
- Cả lương cu ly quét dọn và làm thực phẩm được trả 18 đồng một tháng - Tôi trả lời.
Nghe vậy, người Tây này bảo: Đi làm cho tao, tao sẽ trả hơn. Tôi đồng ý ngay. Nhưng ông ta không thuê tôi làm trực tiếp mà lại giới thiệu tôi với một người Tây khác ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Người này có xe ô tô đưa tôi về Sài Gòn, sau đó đưa tôi về đồn điền cao su Lộc Ninh làm xúc xích và dăm bông, họ trả cho tôi mỗi tháng 30 đồng.
...Phu cao su ở đây được quy định lao động một ngày 8 giờ. Chủ Tây đi kiểm tra cả về số lượng và chất lượng rất chặt chẽ. Việc phòng bệnh, chữa bệnh cũng được thực hiện để công nhân có sức khỏe làm việc.
De Lalane trả lương cho tôi một tháng là 30 đồng. Thấy ba tê, xúc xích tôi làm ăn ngon nên ông ta yêu cầu làm thêm để bán cho các đồn điền kế cận và mang về Sài Gòn. De Lalane trả thêm cho tôi 15 đồng mỗi tháng để đi phân phát lương thực. Như vậy, mỗi tháng tôi có thu nhập đều đặn 45 đồng.
Có tiền dư dật, công việc lại không bị quản chặt như phu cạo mủ cao su nên tôi có điều kiện đến các làng tiếp xúc với phu cao su vận động, xây dựng phong trào của phu cao su và tôi cũng bắt đầu nghĩ đến việc tìm kiếm và bắt liên lạc với tổ chức cách mạng.” (Nguồn: http://vietnamnet.vn/…/ong-le-duc-anh-thoi-o-don-dien-cao-s…)
Đây là hồi ký của một nhân vật nổi tiếng trong “cách mạng” (Lê Đức Anh -- Tài) ,đã từng giữ đến chức Chủ tịch nước. Chắc chắn không phải tài liệu của 'bọn phản động' rồi! Nghĩa là ta có thể xác nhận được 3 điểm sau:
- Công nhân cao su làm việc đúng 8 giờ. Ủa, vậy những lời tuyên truyền về việc làm việc cả chục tiếng một ngày mà thậm chí tôi đã giải thích ở trên là sao nhỉ?
- Công nhân được phòng bệnh và khám chữa bệnh. Vậy xác người đâu để bón cho cao su nhỉ?
- Chủ người Pháp quan tâm đến từng công nhân, tạo điều kiện để họ phát huy sở trường của mình. Họ sẵn sàng bỏ ngang hợp đồng để người công nhân có thể đi làm công việc khác với mức lương cao hơn nhiều lần.
Được đối xử tốt như vậy, tại sao người công nhân này lại kích động những người công nhân khác để lật đổ người chủ của mình? Tại sao hắn – một kẻ không có học thức, lại không chịu khó lao động chân tay để về sau có đứng lên làm chủ một cách đàng hoàng thay vì phá hoại, kích động bạo lực? Chắc hẳn là vì hắn muốn được làm chủ ngay lập tức để được ngồi mát ăn bát vàng mà không cần phải động chân động tay làm việc. Đó chính là biểu hiện của những kẻ lười biếng, vô học!
Chính các “nhà cách mạng” này sau đó đã tuyên truyền những điều dối trá vào đầu óc người Việt, bôi nhọ những ông chủ đã cưu mang, dạy bảo họ. Phải nói thẳng, chúng là những kẻ “ăn cháo đá bát” trâng tráo, xấc xược.
Tóm lại, việc người Pháp xây dựng các đồn điền cao su, không những đã tạo việc làm cho nhiều người Việt trong hoàn cảnh khó khăn thời bấy giờ, mà còn đem đến cho họ những quyền lợi mà họ chẳng bao giờ có được trong thời phong kiến. Không thể phủ nhận rằng vẫn có nhiều điểm bất cập, thế nhưng, giống như ở chính các nước phương Tây, họ cần thêm thời gian để khắc phục. Tiếc rằng, những kẻ lười lao động đã cướp đi cơ hội của họ, đẩy những người lao động ngày nay vào cảnh khốn đốn gấp vạn lần.
(Bài viết từng đăng tải trên Viet Conservative, nay ad biên tập lại để các bạn chưa biết cùng đọc:
http://www.vietconservative.com/…/lat-lai-thoi-phap-thuoc-k…)








TRỞ THÀNH CƯỜNG QUỐC VÌ COI TRỌNG DANH DỰ .
- Ninh thọ tử , bất ninh thọ nhục (thà chịu chết chứ ko chịu nhục) .
- Tiểu phú do cần , đại phú do thiên (giàu nhỏ do cần kiệm , giàu lớn do trời) .
Mạnh Tử đã nói : " Việc lớn nhứt , quan trọng nhất của một người không gì hơn chữ NHỤC " . Vì sao ? Vì hiểu được chữ nhục này , ta có thể sửa đổi được tất cả các lỗi lầm . Nếu không hiểu được chữ nhục , ta sẽ phóng túng làm càn , đánh mất nhân cách , không khác gì cầm thú . Những lời trên chính là bí quyết chân chánh để sửa lỗi . (Trích từ sách Làm Chủ Vận Mệnh của Viên Liễu Phàm đời nhà Minh bên Trung Quốc ) .
Hôm nay , tôi xin kể về sự tiết kiệm ngân sách trong cơ quan nhà nước cũng như các cá nhân trên thế giới .Cái gì của kẻ khác nếu hay thì ta nên nghiên cứu học tập chứ đừng vì kỳ thị, thành kiến , lợi ích cục bộ hay mặc cảm mà không dám áp dụng . Vì không có nỗi nhục nào lớn hơn khi cứ phải tiếp tục là một nước nghèo nàn , lạc hậu , dân trí thấp kém , trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt từng giờ từng phút trên thế giới ngày nay .
Ở nước Đức , bà thủ tướng Angela Merkel , sau khi rời công sở thì tự lái xe riêng của mình đi mua sắm hay việc riêng v.v... Bà nói bà rất khó khăn khi tìm chỗ đậu xe . Mà chúng ta đều biết Đức là một trong hai nền kinh tế hùng mạnh nhất Âu châu , trong nhóm G-8 .
Riêng Nam Hàn ( South Korea ) trong giai đoạn xây dựng đất nước (thập niên 70 , 80 , 90) họ đã bắt buộc các cơ quan nhà nước phải dùng xe hơi sản xuất trong nước . Thời gian đó cả nước được cổ võ phải sử dụng hàng nội địa dù cho phẩm chất không bằng hàng ngoại . Báo đăng tin một nam hướng dẫn viên du lịch , chỉ vì một gói thuốc lá ngoại để trong túi áo sau một chuyến hướng dẫn khách nước ngoài mà bị đuổi việc . Vì vậy cũng không lạ gì khi khởi đi từ một nền kinh tế không hơn gì Việt nam trước năm 1975 , nay họ trở thành một trong những cường quốc về kinh tế ở Á châu mặc dù tài nguyên của họ không bằng VN như nhập cảng toàn bộ xăng dầu tiêu thụ trong nước , v.v...
Trong hệ thống chuyên chở của quân đội Mỹ ở Việt Nam trước 1975 , chỉ có các tướng lãnh mới có xe riêng (có tài xế) để đi lại . Mọi sĩ quan từ thiếu tá đến đại tá đều dùng xe taxi của quân đội ; mỗi ngày xe taxi đến nhà đón họ đến nơi làm việc và đến chiều lại đón họ về nhà . Còn sĩ quan cấp nhỏ và binh sĩ thì dùng xe buýt của quân đội . Họ đã lập một trung tâm điều động xe cộ (motor pool) tại mỗi TP để quản lý hoạt động của các loại xe . Ngoài giờ làm việc thì các quân nhân phải bỏ tiền túi để kêu taxi hay xe xích lô để đi . Vì tổ chức khoa học như vậy họ tiết kiệm ngân sách rất nhiều về việc trả tiền thuê tài xế , mua xe và xăng nhớt ; ngoài ra còn giảm bớt lưu lượng xe cộ lưu thông trong thành phố .
Còn rất nhiều chuyện về tiết kiệm của những người giàu có trên thế giới . Tôi thường được ba tôi kể về một người bạn ( ông Trần Quới Thiên) là một nhà thầu rất giàu có trước 1975 ở Sài Gòn . Ông này mỗi lần xé một tờ lịch thì giữ lại để dùng lại mặt sau của tờ lịch . Ông này đã vừa tiết kiệm và đi trước mọi người về bảo vệ môi trường mặc dù trước 1975 , vấn đề này chưa bức xúc như bây giờ - nó hiện nay là câu nói đầu môi chót lưỡi của các lãnh tụ thế giới .
Tôi được biết mỗi tuần dù quốc sự đa đoan , quốc vương của xứ Á -Rập Sê -Út giàu có đều để riêng một ngày để trực tiếp tiếp dân .
Nếu không cố gắng thực hiện được những điều này thì sẽ hoang tưởng khi nghĩ rằng VN có thể sẽ là một trong những cường quốc về kinh tế của thế giới . Vì một số nước và vùng lãnh thổ hùng mạnh về kinh tế lại không phải nhờ thiên nhiên ưu đãi ( Nhật , Đức , Nam Hàn , Singapore , Đài loan , Hongkong , v.v... ) nhưng do nhờ quản lý kinh tế tốt và có nền khoa học và giáo dục tiên tiến , đẳng cấp quốc tế .

Sunday, May 26, 2019

Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
FB Ky Ngo
Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN) có chú là Nguyễn Khoa Điềm cộng sản gộc,Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) móc nối cho SBTN vào Việt Nam cộng tác với cộng sản.
Các bạn thân mến,
Sau khi Việt gian Trúc Hồ bị cộng đồng khinh rẻ, lên án, tẩy chay, thì tập đoàn SBTN bèn tìm ra một kế hoạch "giải vây" bằng cách "bơm" vợ của Trúc Hồ là nữ xướng ngôn viên Nguyễn Khoa Diệu Quyên thật "kêu" nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của tập đoàn SBTN. Bám víu vào "hào quang" Nguyễn Khoa Diệu Quyên là "cháu" của Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nên tập đoàn SBTN ngay cả Nguyễn Khoa Diệu Quyên luôn nắm mọi cơ hội khoe khoang về cái sự liên hệ "gia phả" đó nhằm chứng minh lập trường Quốc Gia. Bằng chứng là trong các dịp lễ giỗ Tướng Nguyễn Khoa Nam hay ra mắt sách về cuộc đời Tướng Nguyễn Khoa Nam thì Nguyễn Khoa Diệu Quyên và thân phụ là Nguyễn Khoa Khương luôn đứng ra cộng tác tổ chức cũng như đóng vai MC và đại diện gia tộc "Nguyễn Khoa" để đọc diễn văn, diễn từ, cảm tạ v.v...
Tôi không muốn đi sâu vào cái việc nội bộ của gia tộc "Nguyễn Khoa," và tôi cũng muốn minh xác cho rõ ràng tôi chẳng có ý xúc phạm hay "kéo" Tướng Nguyễn Khoa Nam vào bài viết của tôi, vì với tư cách là người con dân nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), tôi luôn kính trọng và biết ơn tất cả sự hy sinh của các chiến sĩ Quân Lực VNCH, và tôi kính phục những chiến sĩ VNCH đã vị quốc vong thân trong đó có 5 vị tướng lãnh VNCH đã tuẫn tiết trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà Tướng Nguyễn Khoa Nam cũng là người đã anh hùng tuẫn tiết vì không chấp nhận đầu hàng giặc cộng. Lý do mà tôi nêu ra vấn đề trên là vì tôi rất bất mãn và phẫn-nộ khi nhìn thấy vợ chồng Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn SBTN luôn lợi dụng danh nghĩa và uy tín của Tướng Nguyễn Khoa Nam để làm "bùa hộ mạng" và làm "lá chắn" nhằm bảo vệ, che chở cho hành vi thân cộng của vợ chồng Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn SBTN. 
Không cần trình bày dông dài, chắc hẳn quý vị từng đọc nhiều bài viết của các "Fans" Trúc Hồ, SBTN cho rằng tôi cho Việt gian Trúc Hồ thân cộng là sai vì Trúc Hồ là "cháu rễ" của Tướng Nguyễn Khoa Nam, là chồng của MC Nguyễn Khoa Diệu Quyên thì không thể nào theo Việt cộng được.
Tôi cho đó là một sự lý luận và ngụy biện vô ý thức và thiếu chính xác, vì Tướng Nguyễn Khoa Nam có riêng lập trường Quốc gia và vị thế chống cộng triệt để của ông ta, không ai có thể "nhập nhằng" sự liên hệ gia tộc để kéo Tướng Nguyễn Khoa Nam vào sự tranh chấp chính trị trong cộng đồng tỵ nạn hiện tại. 
Sự thân cộng và nối giáo cho giặc của vợ chồng Việt gian Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn SBTN thì chính bọn chúng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc, cộng đồng chứ không dính dáng gì đến Tướng Nguyễn Khoa Nam cả. Tướng Nguyễn Khoa Nam hoàn toàn "vô tội."
Điều chính yếu mà tôi muốn nêu ra đây là lâu nay vợ chồng Việt gian Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn SBTN chỉ đề cập và lợi dụng tên tuổi của Tướng Nguyễn Khoa Nam là người trong gia tộc "Nguyễn Khoa," nhưng bọn chúng không hề nhắc tới chuyện Nguyễn Khoa Diệu Quyên cũng lại có một người chú trong gia tộc "Nguyễn Khoa" là Nguyễn Khoa Điềm, một tên cộng sản cao cấp, từng giữ các chức vụ cao cấp cộng sản Việt Nam có tiểu sử vắn tắt như sau:
Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương; sinh 15 tháng 4 năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Ông là cựu sinh viên của trường Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
Nguyễn Khoa Điềm sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Thân sinh của ông là nhà báo Hải Triều, thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dương (tỉnh Hải Dương cũ nay là Hải Phòng). Quê quán: làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Lúc nhỏ Nguyễn Khoa Điềm học ở quê. Năm 1955 ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.
Sau đó, ông vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ... cho đến năm 1975. Nguyễn Khoa Điềm từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, ông được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Vào thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ.
Nguyễn Khoa Điềm trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975. Sau 1975, ông tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế. Ông có mặt trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. Năm 1994 Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin. Năm 1995, ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.
Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001-2006).
Hiện nay, ông hưu trí và sống tại Thành phố Huế. 
Theo tôi cái việc Việt gian Trúc Hồ chỉ là một nhạc sĩ trình độ bình thường, vô danh tiểu tốt mà được cất nhắc lên chức tổng giám đốc cao cấp của tập đoàn SBTN không phải là một sự ngẫu nhiên, mà trái lại là do sự dàn xếp và chỉ đạo của Việt cộng, vì một lý do đơn giản là vì cả hai vợ chồng Việt gian Trúc Hồ-Diệu Quyên có dây mơ rễ má với cán bộ cao cấp Việt cộng, được hai cái "dù" cộng sản to tổ bố che chở, bảo kê. Phía Trúc Hồ tức Trương Anh Hùng thì có Ca Lê Thuần, còn bên Nguyễn Khoa Diệu Quyên thì có Nguyễn Khoa Điềm, chính nhờ vậy mà Trúc Hồ mới được nắm vị thế cao cấp như vậy. Mời quý vị coi cái gia phả của vợ chồng Trúc Hồ-Diệu Quyên đính kèm trong trang hình dưới. Trong những bài viết kế tiếp tôi sẽ trình bày chi tiết rõ ràng về việc bọn chúng thông đồng và cấu kết ra sao trong việc dùng hệ thống truyền thông SBTN để làm cái loa tuyên truyền cho cộng sản tại hải ngoại.
Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Khương, cha của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Khương, cha của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Diệu Thảo và Nguyễn Khoa Diệu Quyên, cháu của Nguyễn Khoa Điềm, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Diệu Thảo và Nguyễn Khoa Diệu Quyên, cháu của Nguyễn Khoa Điềm.
Nguyễn Khoa Khương, cha của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Khương, cha của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Làng Ưu Điền, Tiểu sử Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Tiểu sử Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Đại hội đại biểu toàn quốc văn nghệ dân gian Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Nguyễn Khoa Điềm, chú của Nguyễn Khoa Diệu Quyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Tướng Nguyễn Khoa Nam đã phóng thích ông Nguyễn Khoa Điềm ra khỏi tù, lexuanquang blog, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Việt Báo.vn, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Vietland : Nguyễn Khoa Điềm tên đao phủ giấu mặt trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968, Gia phả Nguyễn Khoa Diệu Khuyên (vợ lớn của Trúc Hồ SBTN)
Vietland : Nguyễn Khoa Điềm tên đao phủ giấu mặt trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968


Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

Nhìn lại một số biến cố quân sự-chính trị dẫn tới 30 tháng Tư, 1975

image008
Lý Kiến Trúc
 *
"Không ai có thể lãng quên dù quá khứ trôi đi phũ phàng; dù 40 năm qua, người dân Việt Nam trong ngoài nước đều muốn quên đi tháng Tư 1975. Nhưng Last Days in Vietnam, thêm một lần nữa, làm mũi dao trí mạng đâm vào tim. Vẫn biết rằng, Việt Mỹ đã lật sang trang sử mới ..."
 **
Nếu lấy ngày 14 tháng 3,1975 là ngày định mệnh của VNCH vì đó là ngày khởi động các cuộc di tản thê thảm, thì có thể tạm kết luận: di tản Cao nguyên dẫn tới ngày sụp đổ một chính thể tâm huyết nhân bản xây dựng trong 20 năm miền Nam Việt Nam (1955-1975).
Thật ra như vậy cũng chưa đủ. Cuộc chiến VN là một cuộc chiến phức tạp, phức hợp, đa dạng, biến thái vô lường theo thời cuộc. Mảnh đất VN đã được bày biện từ hội nghị Geneve 1954. Trận đối đầu của bàn cờ quốc tế phủ dưới bóng thế giới tự do - thế giới cộng sản chia hai thế giới. Cái đuôi của chiến tranh lạnh - Thế chiến II được diễn ra ở Việt Nam.
Chỉ trong vòng vài tháng đầu năm 1975, sức nặng chiến trường miền nam VN nghiêng hẳn về phía bắc quân. TT Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân bỏ cao nguyên, bỏ vùng Một. Cuộc di tản chiến thuật thê thảm ở Pleiku và Đà Nẵng đã làm bàn cho các chiến dịch tổng tấn công tới tấp của CS. Quyết định của chiến trường mang lại quyết định chính trị. Không nhân vật nào trong Bộ chính trị CS "cãi" lại quyết định của TBT Lê Duẩn gấp rút tổng tấn công miền nam VN rút ngắn thời gian dự định.
Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh Đông Dương là Vietnam War; người Việt gọi là cuộc chiến Quốc-Cộng, hay là cuộc nội chiến tương tàn. Người miền Nam được trang bị chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản; người miền Bắc lên đường vác súng vào Nam giải phóng xiềng xích đế quốc xâm lược! Người Mỹ mang quân đi chiến đấu tất phải muốn thắng, nhưng thắng không nổi ở chiến trường VN.
Dù là thế nào đi nữa, cuộc chiến đã chấm dứt trong "thê thảm" và ít đổ máu nhất. Âu cũng là nghịch lý của chiến tranh, mà lại là cái phúc của dân tộc. Trước đó, mười năm thôi (1965-1975), xương người Việt chất cao như núi, máu người Việt đỏ lòm dòng sông.
Đứng về mặt quân sự, các diễn biến của chiến trường được ghi nhận tuần tự theo thời gian sau:
Trận đánh mở màn ngay đầu năm 1975 là trận đánh tỉnh Phước Long cách Sài gòn 75 dặm. Trận đánh này mang ý nghĩa trinh sát, lượng định khả năng phản ứng của Quân lực VNCH, đồng thời thăm dò sự trở lại của quân đội Mỹ và thái độ của Bạch Cung. Tại sao Bộ chính trị, Quân ủy đảng CSVN lại chọn Phước Long làm mặt trận thí điểm mà không chọn nơi nào khác.
Phía nam Phước Long là Bình Long. Nơi đây nam bắc quân đã thử sức nhiều trận vang dội. Phía bắc Phước Long là Quảng Đức. Nơi đây bắc quân cũng đã thử lửa với quân chủ lực của Mỹ ở Bu Prang, ở các căn cứ hỏa lực Kate, Annie, Susan. Đặc biệt, chiến trường tỉnh Quảng Đức-Gia Nghĩa làm như bị cố tình "bỏ quên", sau trận Bu Prang 1969, hầu như Bu prang cũng bị 'bỏ quên"; nhưng không phải như vậy, chuyện này nói thêm ở phần sau. Vị trí tỉnh Quảng Đức phía tây sát nách biên giới Cam Bốt, phía bắc sát nách Ban Mê Thuột, phía đông là Đà Lạt, đông nam là Lâm Đồng. Quảng Đức ví như trái độn. Tỉnh này do cố TT Ngô Đình Diệm sáng lập vào năm 1958-1959.
Tỉnh Phước Long có quận lỵ Phước Bình là địa điểm quân sự cuối của đường mòn Hồ Chí Minh-Trường Sơn 559, là trạm tiếp tế xăng dầu cho tăng T54 đủ lướt tới Sài gòn. Quân đội VNCH trú phòng ở tỉnh lỵ này tương đối yếu. Cộng sản đưa Sư đoàn 302, Sư đoàn 7, sư đoàn 9, Trung đoàn 429 đặc công, pháo lớn, tăng ... dưới sự chỉ huy của tướng Hoàng Cầm tung vào trận đánh.
Nếu đối với bắc quân coi trận này (từ đêm 13/12/1974 đến 6/1/1975) là trận thăm dò, thì đối với TT Thiệu ông lại mang Phước Long ra chơi ván bài "tháu cáy" đối với phản ứng của Mỹ. Quân Mỹ án binh bất động. Ông Thiệu bỏ rơi Phước Long không thương tiếc, không "tái chiếm". CS thắng tương đối dễ, uy hiếp Sàigon trong bàn tay.
Bào chữa cho việc khả năng chiến đấu của quân lực VNCH giảm sút, khi biết Quốc hội Mỹ rút tài khoản chiến phí từ hơn hai tỷ xuống còn 700 triệu (1974). Ông Thiệu than vãn: "cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài gòn đi Tokyo", ý nói là không có tiếp tế súng đạn thì lấy đâu mà đánh!
Hoặc là Tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu không thấy ý đồ chiến lược của Bộ chính trị đảng CSVN đối với mặt trận Tây nguyên, hoặc là ông Thiệu cố tình quên câu nói nổi tiếng trong binh pháp của một danh tướng Pháp: "Ai chiếm được Tây nguyên người đó sẽ làm chủ Đông Dương", ông Thiệu lại chơi trò "tháu cáy" lần thứ hai đối với chiến trường Ban Mê Thuột.
Thật ra, từ Quân đoàn II đến Bộ tổng tham mưu Sàigon đều bị lừa. Từ năm 1974, CS đã rải truyền đơn tràn ngập trong thị xã rêu rao "giải phóng Pleiku Kontum". Sài gòn và Quân đoàn II cho rằng CS sẽ tổng tấn công bộ tư lệnh Q Đ II ở Pleiku của tướng Phạm Văn Phú. Các sư đoàn chính quy cộng sản sẽ khởi đánh từ mạn Bắc, chiếm Pleiku Kontum làm bàn đạp xuống nam.
Sàigon rơi vào kế nghi binh của tướng Văn Tiến Dũng. Sàigon lo canh chừng Lộc Ninh, Phước Long manh động về Sàigon, trong lúc từ Bu Prang, tướng Dũng nhìn ngược về Ban Mê Thuột. Kế nghi binh "tuyệt chiêu" của Dũng bảo vệ Sở chỉ huy của ông trú ẩn bí mật an toàn bên kia quốc lộ 14 C kép, gần địa phận chi khu Kiến Đức - Quảng Đức. Nếu Mỹ trở lại, B-52 sẽ san bằng sở chỉ huy.
Hầu như tình báo Việt Mỹ mù tịt về Sở chỉ huy của Dũng ở Lộc Ninh, và cũng không thể ngờ tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân lại xuất cung tọa thủ chiến trường. Dũng đã chọn vị trí đắc địa nhìn về phía nam, nhìn lên phía bắc đều thuận lợi một khi tình thế cho phép.
Nếu lấy ngã ba Bù Đăng-Lộc Ninh đi theo quốc lộ 14 hướng lên phía bắc, song song với lộ 14 sát biên giới Việt Miên là lộ 14 C "kép". Lộ này nằm kín đáo dưới rừng già bạt ngàn. Các sư đoàn chính quy và tăng T54 có thể xuất phát từ đây tiến lên Ban Mê Thuột. Từ Bù Đăng đi lên quận lỵ Kiến Đức (chỉ có mấy chục cây số), lên căn cứ Bu Prang (mấy chục cây số), lên chi khu Đức Lập (mấy chục cây số), đến ranh giới phía nam của tỉnh Ban Mê Thuột (Darlak) chân cầu 14 Serepok cũng chỉ còn mấy chục cây số. (Xưa, khi tôi đóng ở tiền đồn Doris, mùa hè, ban đêm nhìn thấy ánh đèn Ban Mê Thuột lấp lánh).
image009
Từ ngã ba Bù Đăng Chơn Thành đi theo quốc lộ 14 vài chục cây số gặp quận lỵ Kiến Đức thuộc tỉnh Quảng Đức.
 image011
Thị trấn quận Kiến Đức (ngày nay).
image013 Từ Kiến Đức rẽ về hướng Đông gặp thị xã Gia Nghĩa đi lên Dak Song.
 image015
Từ Dak Song đi lên gặp căn cứ Núi Lửa và chi khu Đức Lập.
  image017
(Photo courtesy of Bob Mitchell. All rights reserved.) A Detachment at Bu Prang. This is the camp that was in place in the fall of 1969. I was one of the pilots that flew resupply to their firebases during the siege. (Chụp từ trực thăng)
 image019
Căn cứ hỏa lực Kate - Bu Prang nhìn từ trực thăng xuống.
 image021
image023
Một 
chiếc L-19 thám thính bị bắn ở căn cứ Bu Prang tháng 10/1969.
 image024
Lính lực lượng đặc biệt Mỹ (mũ nồi xanh) đang quan sát phía biên giới Bu Prang - Cao Miên
image026
Nòng súng đại bác 105 ly sẵn sàng về phía biên giới Cam Bốt cách có vài cây số.
 image028
Từ bên trong căn cứ Bu Prang nhìn ra ngoài là những quả đồi thảo nguyên xanh rì.
 image030
Từ tháng 9/1969 cho đến cuối tháng 12/1969, ba căn cứ hỏa lực chung quanh trại Bu Prang là Kate, Annie và Susan đã bị quân CS bao vây và pháo liên tục. B-52 trải thảm ngay trên đầu căn cứ hỏa lực.
 image032
Trong ba căn cứ hỏa lực Kate, Annie, Susan: Kate là căn cứ sát nách biên giới Cam Bốt.
 image034
Bản đồ quân sự vùng Bu Prang và các căn cứ hỏa lực gần đó.
image036
Từ thị xã Gia Nghĩa đi theo lộ 14 B, gặp căn cứ Daksong.
 image038
Từ Daksong, chục cây số nữa gặp căn cứ Núi Lửa Đức lập.
 image040
Núi lửa Đức Lập, tác giả đã từng đóng quân trên ngọn núi này. Từ chi khu Đức Lập đi lên hướng bắc gặp căn cứ Doris, gặp cầu 14 Serepok. Năm 1969, Đức Lập diễn ra trận đánh ác liệt, Tướng tư lệnh sư đoàn 23 Trương Quang Ân và vợ tử nạn máy bay ở đây.
 image042
Tướng một sao Trương Quang Ân tư lệnh Sư đoàn 23.
 image044
Cầu 14 Serepok nổi tiếng có nhiều cá sấu.
image046
Bản đồ 4 vùng chiến thuật miền nam VN, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Quảng Đức, Daklak, Pleiku, Kontum. Các tỉnh này sát biên giới phía tây với Cam Bốt. Ảnh tư liệu của Văn Hóa.
Chiến dịch Hoa Sen nở của Đại tướng Văn Tiến Dũng sau trận Phước Long tiếp tục nở ra với trận đánh Ban Mê Thuột. Ban Mê Thuột mới là mục tiêu số một, là tử huyệt của Tây nguyên. Đánh Ban Mê Thuột từ mạn Nam kết hợp với sức ép từ mạn Bắc, bắc quân dứt điểm chỉ một đêm, một trong các chiến lợi phẩm quan trọng là bắt sống Phó tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh: đại tá Vũ Thế Quang. Tướng Văn Tiến Dũng đích thân lấy khẩu cung ông Quang. Trận Ban Mê Thuột làm hoang mang mất tinh thần Bộ tư lệnh Vùng II tướng Phạm Văn Phú.
Trước đây, tướng lãnh Vùng II và Sàigon đều nghĩ Pleiku Kontum là mục tiêu của quân CS, nhưng thật sự chỉ là nghi binh của tướng Dũng. (Xin nhắc thêm, cứ điểm Bu Prang, yết hầu của lộ 14 C sát biên giới Cam Bốt đi lên Ban Mê Thuột đã bị san bằng từ năm 1969 thời lực lượng đặc biệt Mỹ trấn giữ, tiếp tục bị san bằng thông thoáng vào năm 1973 thời Trung tá Trường Sơn Tiểu khu phó tiểu khu Quảng Đức. Toàn bộ lực lượng ở đây đã bị tiêu diệt, nhưng rất lạ là Bu Prang hầu như một địa cứ im hơi lặng tiếng đối với Bộ tư lênh Vùng II). Riêng Đại tá Trưởng phòng 2 Bộ tư lệnh Vùng II và Đại tá Phạm Văn Nghìn Tỉnh trưởng Quảng Đức nhìn ra cứ điểm tối quan trọng này. Đại tá Nghìn có lần yêu cầu Sư đoàn 23 tăng phái về Bu Prang mà không được. Các sư đoàn chính quy 302, 7, 9, trung đoàn đặc công, pháo lớn và tăng T54 âm thầm ém quân ở khu vực Bu Prang chuẩn bị cho mặt trận Ban Mê Thuột.
Đúng vào đêm 10/3/75, CS tung toàn bộ hỏa lực tấn công thị xã Ban Mê Thuột, bộ tư lệnh sư đoàn 23, tòa tỉnh trưởng, sân bay L19 tràn ngập. Sáng hôm sau, CS đã làm chủ thị xã, các cánh quân phòng thủ lui về Khánh Dương - Nha Trang. Sau trận này, TT Thiệu không có quyết định "tái chiếm" Ban Mê Thuột. Ông lại "tháu cáy" Bạch Cung lần thứ hai. Trên bàn giấy của ông, hồ sơ "di tản chiến thuật" Cao nguyên đã có sẵn tự bao giờ.
Ngày 12/3/1975, lúc này tôi đang đóng quân ở thị xã Gia nghĩa Quảng Đức, sau khi Ban Mê thất thủ, các đơn vị pháo binh, thiết giáp, bộ binh, địa phương quân, biệt động quân, cảnh sát, dân cán chính, cùng với hàng vạn dân chúng lũ lượt kéo nhau "di tản thê thảm", băng rừng "chạy bộ". Lớp về Đà Lạt, lớp về Lâm Đồng. đại bác, thiết giáp, cam nhông, ngổn ngang bỏ lại trên những con đường mòn sình lầy, hầm hố. Tôi ở trong số chạy bộ, may mắn khi đến huyện Gia Lai Lâm Đồng, trực thăng của Đại tá Phạm Văn Nghìn bốc về Cam Ly.
Chẳng thấy ai chỉ huy, tập hợp, tôi bèn xuôi xe đò về Phan Rang, Phan Thiết, lên ghe trôi về Vũng Tàu.Về tới Sàigon đầu tháng Tư, 1975, tôi có dịp nhìn Sàigon hỗn loạn, hoang mang, sợ hãi trong những câu chuyện truyền khẩu: Sàigon sẽ tắm máu! Sàigon sẽ là biển máu trả thù! Lột móng tay son của các cô các bà!... Tôi thấy những khuôn mặt bộ đội trẻ con trắng trẻo ngơ ngác trên những đoàn xe Molotova lốp chưa bám bụi đường.
Trưa ngày 30 tháng Tư, tôi đứng bên kia đường trước cổng tòa đại sứ Mỹ, lòng bình thản nhìn hàng trăm người tranh nhau, chen nhau ơi ới, cố leo qua hàng rào kẽm gai bức tường để lọt vào sân trong tòa đại sứ mà lòng ngao ngán ngậm ngùi.
Diễn biến từng ngày ở các nơi trước khi nghe tướng Minh lớn đọc lệnh buông súng:
Ngày 17/3/1975, CS "giải phóng" Kontum.
Ngày 18/3/1975, "giải phóng" thị xã Gia Nghĩa tỉnh Quảng Đức.
Ngày 19/3/1975 Phú Bổn, Quảng Trị tiếp tục rơi vào tay CS.
Ngày 23/3/1975, Huế rơi nốt vào tay CS.
Ngày 1/4/1975 Bình Định - Phú Yên.
Ngày 4/4/1975 Tuyên Đức. Thế là Q Đ I và II tiêu tan.
Ngày 21/4/1975 thị xã Xuân Lộc, tuyến phòng thủ cuối cùng phía Đông Bắc Sài Gòn thất thủ, cũng chính là ngày Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bỏ của "16 tấn vàng" chạy lấy người sau khi bàn giao cho Phó TT Trần Văn Hương. Lúc giao quyền, ông Thiệu còn nhắn: "Chớ có giao quyền cho Dương Văn Minh"!
Ngày 26/4/1975, Quốc hội VNCH biểu quyết buộc kẻ sĩ Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng thống cho tướng Dương Văn Minh.
Ngày 26, 27/4/1975,ông Hương chấp nhận đơn từ chức, giải ngũ tướng Tổng tham mưu trưởng QLVNCH Cao văn Viên “để ra nước ngoài trị bệnh”.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, Tổng thống cuối cùng Dương Văn Minh gởi điện thư cho Đại sứ Martin nguyên văn: “TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA, Kính gởi ông Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. “Trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của Cơ quan Tùy viên Quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29/4/1975 để vấn đề Hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ . Saigon, ngày 28 tháng 4 năm 1975, Tướng Dương Văn Minh”.
Ngày 29 tháng 4, 1975, Sàigon hoảng loạn, Sàigon truyền khẩu sẽ bị tắm máu, sẽ là biển máu ... Pháo 122 ly của quân CS rót vào phi trường Tân Sơn Nhất 'cảnh cáo" Graham Martin rút cho mau.
10giờ30 sáng 30 tháng Tư, 1975, hai xe tăng T-54 843, 399 húc đổ hàng rào cánh cửa sắt Dinh Độc Lập, cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phất phới trên nóc dinh. Hết chuyện.
**
Last Days in Vietnam, một lần nữa, rầm rộ ra mắt trong bối cảnh bang giao Mỹ - Việt ngày càng "đồng minh thắm thiết". Cả hai nước đều nhận rằng trong tình hình mới, quan hệ mới, ảnh hưởng mới, quyền lợi mới, đối tác chiến lược song phương Mỹ-Việt đều có lợi chung mang lại an ninh hòa bình và sự phát triển cho khu vực.
Trước sự chuyển mình vũ bão của các cường quốc, dưới áp lực bá quyền độc chiếm biển Đông của Trung Quốc, thay vì Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Cộng sản dù chưa có liên minh quân sự với Mỹ, liên minh chính trị sẽ đóng vai trò tối quan trọng trong xu thế chuyển trục về Châu Á Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Last Days in Vietnam ra mắt trong bối cảnh này.
Last Days in Vietnam, một lần nữa, kết liễu Vietnam War, kết liễu những cái lòng thòng của 40 năm Sàigon buông súng đầu hàng.
Last Days in Vietnam, một lần nữa, không phải để hoài niệm một cuộc chiến đắng cay, hay dựa vào kinh nghiệm cuộc chiến này mà gióng lên bài học ở Afghanistan hay Iraq hay IS. Bài học chính của Hoa Kỳ là bài học ở một đất nước xa xôi đã nuốt hơn 58,000 chiến binh ưu tú. Việc không thành cuốn cờ bỏ chạy.
Theo tôi, đạo diễn Rory Kenedy tự hỏi lại mình khi bà nói về Last Days in Vietnam: Ai sẽ di tản được? (những người đã, có cộng tác với Mỹ hay chưa bao giờ làm việc với Mỹ); Ai sẽ phải ở lại? (Những người đã, có cộng tác với Mỹ hay gần 20 triệu dân chúng miền Nam VN chưa bao giờ làm việc với Mỹ ở lại đất nước của mình). Suy nghĩ của bà Rory vẫn loáng thoáng chủ nghĩa "quan thầy" giàu lòng hào hiệp!
Nhưng bà Rory quên rằng Afghanistan - Iraq là Afghanistan - Iraq, Việt Nam là Việt Nam, hai chiến trường, hai địa chính trị, hai quyền lợi, hai bối cảnh thời không gian xung đột, khác nhau. Có lẽ bà Rory Kennedy chưa bao giờ trực diện với Việt Nam War. Bà chỉ nghe kể và đọc tài liệu.
***
Tạm kết:
Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry nói: "Mỹ ủng hộ một đất nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng, độc lập tôn trọng nhân quyền". Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel nâng lên hàng triết lý: "Tôi học được bài học đó khi có 12 tháng đi qua cuộc chiến năm 1968... Ta không thể áp đặt ý chí, giá trị, tiêu chuẩn, các định chế của mình vào những xã hội khác, những quốc gia khác. Điều đó đã không làm được và sẽ không bao giờ làm nổi".(1)
(1) theo Nguyễn Giang BBC 24/1/15