Wednesday, August 26, 2020

MỘT KHOẢNG ĐƯỜNG TỈNH LỘ



-Thương nhớ gửi anh em 201, Kính nhớ anh linh Ðại Úy Klang bị sát hại tại Ðập Ðồng Cam
Tin Thiếu tá Hải tử thương đã làm cho anh em quân nhân và dân chúng trên con đường cặp theo đập Ðồng Cam bàng hoàng thương tiếc. Ông là người chỉ huy sở 2 mở đường máu trên con lộ 7B nầỵTôi nhận được tin nầy vào khoảng xế trưa, chiếc xe jeep của ông bị bắn hất tung lên. Anh em lôi hổ vùng hai vẫn kiên cường phá chốt tiến lên từng thước đất…Tiếng súng đã diu dần. xe nhút nhít tuy chậm mà có tiến về hướng quận Hiếu Xương…
Chiếc Dodge của tôi với nhiều vết đạn loang lở, kiếng chắn gió bể to hơn bàn tay, đó là kết quả của mấy lần Việt Cộng pháo kích vào quân đoàn, đơn vị tôi đóng cạnh Truyển tin đã bị ăn khá nhiều đạn, cũng may là không bị thiệt hại về quân số, bây giờ trên xe chỉ còn có 4 tay súng còn lại là đàn bà con nít trên chục người. Hạ sĩ Giác vẫn bình tỉnh lái xe, tôi ngồi ghế trưởng xa ,giữa tôi và tài xế là ba mẹ con, vợ của một sĩ quan thiết giáp lạc chồng xin quá giang.phía sau chen chút nhau ngồi, chiếc rờ mọot đầy ấp vật dụng, từ bếp dầu, gạo, thức ăn,ba lô quần áo, mùng mền, ghế xếp…
Trên mỗi gương mặt bơ phờ vì mất ngủ thiếu ăn, đoàn quân vẫn vững tay súng lầm lũi theo đoàn xe chậm bước… Như vậy là các chốt đã bị Lôi hổ bứng gốc…Vận tốc bắt đầu tăng dù vẫn còn di chuyển rất chậm… Hình như trong tâm mỗi người lính, mỗi người dân đều đang nguyện cầu xin ơn trên hộ trì cho buổi về được tới nơi tới chốn… Liên tiếp bao nhiêu ngày thần kinh quá căng thẳng với cái chết cạnh kề… Giờ phút nào cũng trông thấy cái chết, vì đoàn quân quá dài, di chuyện thật chậm, Cộng quân từ trên núi bên trái cứ nhắm đoàn quân mà bắn, viên đạn nào không phá xe thì cũng lấy đi một sinh mạng, may mắn không chết thì cũng gây một vết thương.Những công sự chiến đấu mà trước đây mấy năm quân đội đồng minh Ðại Hàn xây phòng thủ dọc theo núi bây giờ là là trú điểm của tử thần réo gọi hồn quân dân đang di chuyển trên lộ 7B nầy. Bên trái con đường, đập Ðồng Cam đầy xác chết, những xác chết từ mấy ngày qua nổi bập bềnh trên mặt nước, căng phù da đen sạm, nhiều sợi dây chuyển vàng hay dây thẻ bài căng khuyết vào cổ…Hình ảnh ghê rợn đó luôn luôn có trước mắt, Cứng lòng cở nào cũng phải xót xa.. Người chết tạm coi như yên thân, người sống rồi sẽ ra sao?. Nạn tai còn bao nhiều lần gian khổ nữa,…Buổi chiều khi chiếc xe tôi vừa qua khỏi cầu phao thì một chiếc GMC không biết vô tình hay cố ý trật bánh giữa lòng cầu ngay chỗ tiếp giáp với mặt nước… vậy là đoàn xe trên mấy trăm chiếc phải nằm tại chỗ mà Cộng quân thì đang truy kích gần kề… Số người bỏ xe băng sông ngày càng nhiều, tạo cảnh lê thê lếch thếch trên đường di tản…Tôi còn may mắn hơn rất nhiều người, còn di chuyển bằng xe, hầu hết các xe jeep đều bị bể kết nước, bị hất ngã bên vệ đường, số xe bất khả dụng càng lúc càng tăng dần, số người lếch thếch lội bộ ngày càng đông, không hiếm đàn bà con trẻ, một vài hình ảnh tôi vẫn còn nhớ rất rõ, một ông chú khoảng ngoài 40 tuổi tay dắt một con ngựa đi dưới ruộng cặp theo lộ, cứ mỗi lần chạm súng là chú cố gắng đè con ngựa nằm xuống, một người trung niên khác tay cầm khung sườn xe đạp cũng lầm lũi từng bước trên đường ruộng, tôi hiều, tài sản của người đã mất hết, chiếc xe đạp cũng không còn bánh.. có lẽ quá rối loạn nên người vẫn đi trong vô thức mà có lẽ người chẳng biết mình đi đâu, tay đang cầm cái gì…Sinh mạng con người trên đoạn đường nầy rẻ hơn bèo… Tôi gặp một chiếc xe jeep dân sự sơn màu trắng bạc mang số xe ẩn tế, có lẽ là của một ty sở nào đó xe nằm bên vệ đường, trên xe có 4 xác chết, với một thiếu phụ ngoài tuổi 40 còn sống ngồi bất động trên xe… Xa xót trong lòng nhưng chằng ai làm gì được trước số phần quá cay nghiệt đã dành cho quân dân quân đoàn 2…Người đàn bà nầy rồi sẽ ra sao!
Ðoàn xe rồi cũng tiến dần qua khỏi vách núi.. Ðã thấy xa xa có nhà dân, tôi nghe tiếng súng lại nổ dòn dã từ toán đi đầu, và từ phía trong xóm nhà dân lá cờ vàng, lá cờ thân yêu với ba sọc đỏ được một người lính cầm cán phất vội vàng, tiếng súng im ngay, thì ra lính địa phương quân của quận Hiếu Xương đã bắt tay được toán mở đường… Mọi gương mặt rạng rỡ hẳn lên, sinh khí trở lại trên từng gương mặt quân dân, trời chiều bảng lảng, nắng nhạt dần mọi người cảm thấy dễ chịu rồi những nhà dân bắt đầu xuất hiện, dân chúng, đàn ông, đàn bà, trẻ em đứng dọc theo hai bên đường, người mang nước, người mang cơm, bánh… đoàn xe vẫn chầm chậm tiến, tôi ngồi trên đầu xe với trung sĩ Mỹ, tay với nhận chén cơm từ tay một cô gái bên đường, cơm trắng với tàu hủ kho… Tôi nhìn chén cơm, lòng không khỏi xúc động… Thì ra hôm nay là ngày rằm… Tình quân dân lần đầu tiên trong đời lính tôi thấy thật thấm thiết… Anh lính Cộng Hòa ơi! Mừng cho anh về từ cõi chết… Tôi nhìn cô gái với nụ cười thật duyên dáng…. Chén cơm trắng tôi ăn thật ngon miệng.. vào tới quốc lộ xe rẽ trái hướng về Tuy Hòa… xe qua cầu Ðà Rằng,nước sông ròng sát đáy, chiếc cầu nầy do Công binh Việt nam Cộng Hòa xây dựng, cầu dài và rất đẹp, trời đã sẫm tối, thành phố Tuy Hòa đầy vẽ nhộn nhịp vì lính quá nhiều, xe nhà binh xuôi ngược khắp các nẻo đường, lính tráng thì áo quần vương đầy cát bụi, mặt mũi bơ phờ , mắt quầng thâm mất ngủ. Tôi cho xe ngừng tại một ngã tư nơi có dãy phố có lẽ là trục lộ chính của tỉnh lộ , đậu xe sát lề đường chọn một khoảng hành lang của dãy phố lầu làm điểm nghỉ qua đêm…Không tìm được nước rửa mặt… lại gạo sấy thịt ba lát….cố ăn vội vàng để rồi còn phải ngủ lấy sức tiếp tục con đường còn xa dịu vợi mà hơn mười ngày nay có ngày nào ngủ được hơn 2 giờ đâụGia đình binh sĩ và mấy chú lính trải poncho quây quần nằm nghỉ, Ngoài đường đã hơn 10 giờ đêm mà vẫn còn ồn ào xe qua lại…khung cảnh ban đêm không có được vẽ mát dịu yên lành , đêm nặng nề, đêm chờ đợi…, tôi thức giấc mấy lần trong đêm, dù thân xác quá mệt mỏi mà vẫn không tìm được một giấc ngủ an lành…, châm thuốc hút đi vòng xem anh chị em ngủ, trên nhiều hành lang khác, nhiều toán người cũng đang ngủ như toán của tôi, cũng có nhiều anh em thức hút thuốc ngồi nhìn ra đường..,.Ngày mai chưa biết rồi sẽ ra sao??
Buổi mai trời lành lạnh dù là đang trong những ngày cuối tháng ba… Trời có nhiều sương mù, nước còn ván đọng trên thành xe… Mọi người nhậm lẹ ngồi dậy thu xếp lại hành trang, tìm chút nước rửa mắt qua quít, tôi đi dọc theo lộ tìm mua được mấy ổ bánh mì nguội, mềm xèo, chia cho anh em ăn sáng, vợ con người sĩ quan thiết giáp nhắn lại lời cám ơn và từ giã tôi, tôi hiều tại sao chị lại dắt con ra đi sớm, chị bỏ đi dù biết rất khó tìm phương tiện về Nam, phải chăng vì những ánh mắt không mấy thiện cảm của các chị ngồi phía sau thấy tôi ưu đãi cho mẹ con chị ngồi chung cabin với tôi… Thấy người họan nan thì thương, trong hoàn cảnh nầy giúp ai được việc gì thì tôi cố gắng làm khi thấy việc làm đó không có gì hại tới mình, tới anh em là được rồi…
Xe lên đường khi mặt trời chưa lên, theo hướng quốc lộ xuôi về Nam…Giác tài xế vẫn vững vàng tay lái trên quốc lộ… Rồi cũng tới thành phố Nha Trang an toàn, tất cả những quân nhân đều bị gom vào trại tiếp cư , riêng toán của tôi có mang phù hiệu hình tam giác với số 20 nằm trong tâm vòng lục đại chiến nên được thong thả vào thành phố, xe giảm dần tốc độ, trên đường phố tôi thấy xe quân đội xuôi ngược, dù chưa mất trật tự nhưng khung cảnh vẫn nhìn thấy được có lắm nỗi bất an. Xe ngang qua Pháp Ðình. Tòa án hình như mới xây trông uy nghi lắm… Chữ Pháp Ðình nét to chữ vàng ónh ánh… Tôi thấy có một xe quân đội cũng chạy chậm chậm ngang qua, quân nhân trên xe không biết nghĩ gì, đã bắn lên trời một băng M16, âm thanh dòn dã ngay trước…Pháp Ðình., đơn vị của tiều đoàn nằm trên đường ra Hải Học Viện, sau phi trường., đại đội 204CTCT, Anh Uông Ðại Lực, khóa Nguyễn Trãi 1 hiện là đại đội phó đơn vị nầy, anh là niên trưởng trước tôi 3 lớp tại trường Trung Học Gò Công.Ngay buổi trưa hôm đó, Nguyễn Thế Phương( Chinh Tri Kinh Doanh ÐL, Khóa 9/68), dẫn tôi tới một khách sạn mà anh quen. Tại đây tôi được tắm với vòi hoa sen, với xà bông Dove, thôi thì chà vuột xà bông đôi lần mới trôi hết bụi đường xa, Thay quần áo trận sạch sẽ , tôi cảm thấy người nhẹ nhàng, Phương đã ngồi sẵn trên bàn ăn, chỉ có hai anh em, Tô canh chua cá biền, dĩa thịt gà kho sả ớt mặn, dĩa rau sống, cơm trắng còn bốc khói… Tôi ăn với cảm giác ngon miệng vô cùng, bây giờ tôi đã quên tên khách sạn, nhưng vẫn còn giữ được liên lạc với Anh Phương.Về đây sắp xếp chỗ ăn nghỉ xong,Tiểu đòan bị thiệt hại nhân mạng không đáng kể, Anh Ðại úy Klang bị bắt và bị giết tại bờ sông ba gần đập Ðồng Cam, hai ngày sau đại đội nhận lệnh phân toán công tác tại các trại tiếp cư thuộc thành phố Nha Trang.Tiểu đoàn trưởng bỏ anh em chạy từ Pleku vẫn còn giữ chức cũ.Thân mình cũng chạy tóe khói mà bây giờ lại đi ủy lạo những bạn đồng hành… Toán tôi phối họp với các toán cứu trợ thuộc các tôn giáo, từ Sài Gòn ra cũng có, từ địa phương cũng có, ngoài những nhu yếu phẩm cần thiết như gạo, dầu ăn, chiếu mền… Còn có bông cải tươi, không biết từ đâu chỡ về.. Buổi cơm trưa, thằng Mỹ luộc bông cải chấm nước tương dầm ớt ăn cũng thật là ngon…, Công tác khoảng chưa tới tuần lễ, buổi trưa về ăn cơm, mấy chú lính bàn tán… Tiểu Ðoàn trưởng dông nữa rồi…Lòng tôi thấy buồn lắm. cấp chỉ huy mà tệ vậy sao? Bảng quân đoàn 2, buổi trưa tôi còn thấy treo vững vàng lắm mà!!… Tôi âm thầm ra lệnh cho anh em trong toán chuẩn bị hành trang du lu… Xếp dọt, mình dọt, ngu gì ở lại, sau kinh nghiện lần ra đi tại Pleiku… nắng còn le lói buổi chiếu, tự tay tôi cầm lái, vì hạ sĩ Giác không chịu đi mà muốn về lại KonTum…theo sự chỉ đường của Trung Sĩ Mỹ, thằng em lúc nào cũng cạnh kề bên tôi, tôi theo dòng xe cũng nối đuôi nhau, tuy chưa mất trật tự lắm… hướng Ba Ngòi chầm chậm tiến., xe bị ùn tắc trước cầu Ba Ngòi, xe tôi cách cầu khoảng trăm thước, Anh chị em xúm xít bên lề đường cho buổi ăn tối, trời tối hẵn, đèn nhá nhem với số lượng người cũng như xe cộ đông đảo, hơn 9 giờ đêm, trong lúc một người đang chuẩn bị ngủ thỉ một tiếng nổ vang trời từ cầu, xe rục rịch di chuyển ngược trở lại, tôi trở đầu xe, chạy chầm chậm theo đoàn xe, tôi thấy tay lái khó điều khiền, xe có khuynh hướng lấn lề, một chị ngồi phía sau nói lớn:
-Coi chừng Trung úy ngủ gục!
Tôi biết tôi rất tỉnh, nên ngừng xe lại, Thằng Mỹ cũng lẹ làng nhảy xuống xe theo tôi… Thì ra bánh xe sau bị xẹp.May là trong xe có bánh sơ cua, có dụng cụ tháo mở ốc xe.. vậy mà mấy thầy trò lui cui cả giờ mới thay được bánh, trong lúc đoàn xe đã khuất dạng phía xa, trời tối thui, yên lặng bao trùm thật đáng ngại, rồi tôi cũng lái bắt kịp đoàn xe,,,Ðêm đó có ngủ nghê gì đâu, thấy yên lặng nhiều xe chạy trở lại hướng cầu, năm xe rồi mười xe, rồi cả đoàn xe quay lại… Thì ra cầu bị sập, tôi cũng không biết chính xác lý do, có tin là A 37 thả bom phá sập cầu chặn đường về Nam,
Trời sáng dần, tôi mon men đi đến chân cầu …tiếng động cơ xe nổ máy vẫn ầm ỉ, tiếng người nói chuyện vẫn ồn ào dù trời chưa sáng hẳn, tôi không biết tên con sông là tên gì? Bề ngang cũng hẹp tựa như con kinh trước nhà tôi ở Gò Công, nước ròng cạn sát đáy, không phải nước ròng mà tại mùa nắng nên sông không có nước, Giữa dòng là một khe nước nhỏ, nước trong vắt chảy lững lờ, đáy sông là cát khô cứng với khá nhiều đá cụi, viên to bằng trái banh, nhỏ cũng bằng nắm tay… rất nhiều xe đã qua được sông cũng lắm xe chết máy nằm ụ rải rác…Tôi đứng hút thuốc quan sát, Thằng Mỹ chắc lưỡi:
-Khó ăn quá ông!Cái dốc thẳng đứng, tới mí nước lại phải ôm cua thẳng góc Phần có nước chảy cát lại mềm…
Tôi theo con dốc xuống lòng sông đứng quan sát thật gần chiếc GMC đang qua sông, tôi nhìn từng chiếc từng chiếc qua sông
-Cũng không khó lắm đâu,vô số mạnh chạy số hai, tới mí nước sang qua số một làm sao vô số một cho đúng lúc đừng để kẹt số thì xe không bị chết máy lún cát
Tôi trở về xe, bắt đầu cho xe lăn bánh theo dòng,tôi ra lệnh, tất cả đều xuống xe, phụ đẩy phía sau khi xe vừa cán mí nước,tôi đề pa bằng số 2, kéo cần số mạnh, xe vừa chí mí nước tôi trả cần số về số một cộng thêm mấy lực đẩy phía sau, tiếng xe rú lên với âm thanh ngọt ngào…Xe quẹo cua theo triền sông lên mé…thế là xe tôi qua được, bắt đầu chạy khi mọi người trong xe yên vị…Ðường quốc lộ khá tốt, xe lưu thông cũng thưa thớt vì trời chưa sáng hẳn.Tôi lái từ từ khoảng 30-40 mile/giờ, hai bên đường vắng vẻ, nhà cửa lưa thưa, đồng ruộng trống vắng…
Phan Rang trước mặt tôi, quê hương của Tổng Thống thì đời nào ổng bỏ cho Cộng Sản chiếm??!!Tôi chạy qua vài con đường trong thành phố Phan Rang rồi bắt đầu rời tình.Xe ngược chiều cũng nhiều, đường tráng nhựa nhưng cũng có nhiều ổ gà, dù đường lạ tôi vẫn giữ tốc độ tối đa của xe Dodge là 60 miles xuôi về Phan Thiết, Thằng Mỹ thỉnh thoảng mồi cho tôi điếu thuốc, trên xe yên lặng, gương mặt mọi người bớt đi niềm lo lắng… vì tai không còn nghe tiếng súng, mắt không còn thấy cảnh chết chóc.
Xe qua khỏi cây cầu vào Phan Thiết, tôi bớt ga và dừng bên lề trái, mặt tiền phố thị hai bên khang trang, căn phố trước mặt tôi là một tiệm vàng, xe cộ vẫn rộn ràng qua lại. Tôi cho mọi người thong thả đi kiếm mua thức ăn tươi. Tôi và thằng Mỹ đứng cạnh xe nhìn ông qua bà lại. Gió Phan Thiết thổi khác Nha Trang, hình như trong gió có bụi, Trời nắng gay gắt có lẽ đã đứng bóng.
-Mời Trung Úy vô nhà dùng cơm
Tôi hơi ngỡ ngàng trước lời mời của một bà chị khoảng ngoài 30 tuổi( tuổi tôi lúc bấy giờ đang ở hàng hai) thì đã nghe chị nói tiếp
-Ðông quá, tôi thấy ai hiền hiền tôi mới dám mời vô nhà dùng cơm…
Tôi cười xả giao nhìn chị có ý hỏi:
-Tôi có thằng em nầy nữa,Chị gật đầu đồng ý.Một anh Trung úy đứng gần tôi thấy vậy cũng xin chị ăn cơm vì mấy ngày nay chì có bánh mì khô, chị cũng đồng ý
Ngôi nhà nằm trong con hẻm, nhà một căn, phòng khách rộng rải lót gạch bông, ngồi ghế giây lát, chị bưng măm cơm với 2 phần cho tôi và Mỹ, sau đó một măm cho anh trung úy kia. Phần ăn là món canh và món mặn thit khọBụng đang đói, sức còn trai tráng, chị phải hai lần mang thêm cơm trắng…gặp dịp là phải ăn thật no… vì chiều nay hay ngày mai….biết sẽ ra sao? Ăn xong chị mang trà rót mời uống… Khi cám ơn từ giã chị còn cho mỗi người một gói thuốc President có đầu lọc, đây là lọai thuốc có giá đắc nhất lúc bầy giờ ( 400$)và cũng không quên gửi lời chúc thượng lộ bình an…
Thì ra, trong cảnh hỗn mang, hoa hồng vẫn nở…Hình ảnh dịu dàng của chị tôi nhớ mãi, giữ làm kỷ niệm đẹp trong cuộc đời . Tôi không biết tên chị… Với thời gian tôi không còn nhớ vị trí nhà chị, tôi cũng không có ý định trả ơn vì tôi biết tôi không có dịp nào trở lại đây lần nữa, tôi chỉ biết nhớ để lấy đó làm niềm vui mọi khi nhắc đến con đường di tản. Tấm lòng của người dân làm cho ngưới lính Cộng Hòa xúc động… Thì ra có gương mặt hiền hiền nhiếu lúc cũng đở khổ.
Trời gay gắt nắng, tôi lái xe hướng về Bình Tuy, tiếng súng không còn nghe thấy trên đoạn đường nầy, con đường tráng nhựa tuy nhiên cũng có rất nhiều ổ gà, tới ngã ba Bình Tuy trời đã xế chiều, Bên mặt lộ có một xóm nhà, tôi cho xe tấp vô lề dưới bóng mát của nhiều cây to, đã có nhiều xe cũng dừng lại đây, người nằm kẻ ngồi …trong cảnh màn trời chiếu đất, lân la tìm hiều thì ra muốn vào tỉnh phải bỏ tất cả vũ khí lại, đó là lệnh của Tướng Nhật, tư lệnh chiến trường Bình Tuy. Tướng Nhật rút kinh nghiệm của các tỉnh mà đoàn quân di tản đã đi ngang qua, người lính cùn đường, trong tay lại có vũ khí dễ trở nên nguy hiểm…
Lúc học ở quân trường, huấn luyện viên vũ khí cũng như sĩ quan cán bộ thường xuyên nói với khóa sinh:
-Súng là vợ, đạn là con, các anh phải bảo trì cẩn thận, không bao giờ để súng đạn thất lạc.
Bây giờ là thời chiến, lính lại không có vũ khí trong tay thì…khó coi quá. Bởi vậy từ ngả ba Bình Tuy tới nơi giải giới vũ khí, tôi nhìn thấy xe quân đội, san sát đậu nép bên lề, quân phục thì đủ mọi binh chủng,Cũng có rất nhiều quân nhân bỏ súng lại vào tỉnh, số súng càng ngày càng chất cao, Nhìn cảnh nầy lòng tôi rất hoang mang, tôi không thể nào hiểu được, có lẽ cấp tá, cấp tướng đứng trước cảnh nầy cũng khó hiểu như tôi…Chỗ dừng quân tương đối gần nhà dân nên việc nấu cơm cũng dễ dàng, thực ra chỉ có nồi cơm còn thức ăn vẫn là thịt ba lát với muối, đâu có hàng quán gì gần đây để mua thức ăn tươi, với lại tiền bạc của anh em trong toán cũng rất là eo hẹp…
Khá đông bạn đồng hang, hang ngày tôi được nghe nhiều chuyện bi hài trên đường di tản vừa qua, trong nhóm nầy có một chị biết bói bài và xem chỉ tay… Tôi thấy chị xem cho nhiều người…Trong lúc rỗi rảnh tôi cũng chìa tay nhờ chị xem giúp… Về gia cảnh vẫn cha mẹ anh chị đang trông chờ, người yêu cũng đang nóng lòng… Chị còn nói tiếp về tương lai mà sau nầy nhớ lại tôi thấy chị phán rất đúng
-Sau nầy trung úy đi đâu cũng có lính mở đường, ngủ trong thành tường cao, có lính canh gác cẩn thận….Lúc đó tôi nghĩ là quân nhân thì ngũ trong trại lính có lính gác… Chứ đâu có ngờ tôi vào tù, đi có lính canh, ngủ có lính gác…!!
Toán của tôi nằm ở đây gần 4 ngày, buổi trưa bên kia đường, một ngỏ khác vào tỉnh, Thiết giáp di tản đụng với lực lượng giữ an ninh tỉnh. Mấy trái đạn hỏa tiển Tow bắn thiết giáp lật ngang, vài binh sĩ tử thương, tôi có đến gần xem, một anh lính thiết giáp bị xe đè còn sống, miệng không ngớt kêu cứu… Lý Nguơn Bá cón sống chưa chắc nhấc được xe lên…thì thôi đành chịu, thương cho anh lính, chết dần trong đau đớn.
Tôi thấy một đoàn xe khá dài tương đối có nề nếp, chiếc xe jeep dẫn đầu có gắn sao… Tôi nhận ra ngay Tướng Lâm Quang Thơ dẫn trường võ bị về, đoàn xe nầy nhập tỉnh dễ dàng…
Cuối cùng tôi quyết định vào tỉnh, chiếc dodge có một hộc nhỏ hình vuông nằm gần bình xăng chứa dược 4 khẩu M16, tôi cho súng vào dùng khóa khóa lại…. Xe từ từ ngang qua toán quân cảnh kiểm soát… Tôi cho biết cả toán là quân nhân thuộc tiểu đoàn 20CTCT, nên xe thong thả qua trạm kiểm soát, không bị lục tìm kiếm vũ khí cất giấu
Tôi chạy chậm chậm trên lề đường, tìm một quán bên đường uống nước.Những ly cà phê đá chưa kịp uống xong thì có một chiếc xe jeep đậu sát đầu xe tôi, người tài xế chạy vội đến bên tôi. Thì ra hạ sĩ Tăng Ðình Hùng, chú tài xế của Ðại úy Thiện lúc tôi còn ở Tiểu Ðoàn 50CTCT,sau đó Hùng thuyên chuyển về nguyên quán, và hiện là tài xế cho tham mưu phó CTCT tỉnh. Hùng mừng lắm khi gặp lại tôi dù trong hoàn cảnh nầy…, lúc còn ở Sài Gòn, tôi cũng có đôi lần nhậu với Hùng, và chú em nầy cũng rất mến tôi. Thế là cả toán theo nhau về nhà Hùng tạm trú… Hay không bằng hên, giữa cảnh đường phố xuôi ngược đủ các sắc lính mà Hùng nhận ra tôi, Chiều hôm đó dù đang trong cảnh loạn lạc hai thầy trò cũng cưa gần hết hai chai chó chồmvới một dĩa mồi và mấy chén cơm đạm bạc….
Tin tức đến dồn dập, tỉnh nầy rồi tỉnh kia thất thủ, binh sĩ đến Bình Tuy có thể sẽ tái trang bị trở ra tái chiếm Ðà Nẳng,Ðường về Sài Gòn bị tắc nghẻn tại Rừng lá, Cộng quân làm chủ tình thế tại khu vực nầy, có mấy chiếc xe liều mạng chạy qua đều bị bắn cháy, chính vì vậy mà tôi nấn ná tại Bình Tuy chờ mở đường, với nhiều tin tức không mấy sáng sủa tôi quyết định rời Bình Tuy, tất cả đồ tế nhuyển trên xe giao lại cho Hùng, tôi, Mỹ và vài người lính nhờ Hùng chỡ ra bến tàụ, mấy chị em gia đình bình sĩ đều quê ở vùng hai nên nấn ná ở lại chờ về lại nhà, xế chiều mấy thầy trò xuống đò máy xuôi về Long HảịNước ròng nên phải hơn 6 giờ chiều tàu mới bắt đầu khởi hành, chạy cặp theo bờ biển, mút tầm mắt là rặng cây xanh lờ mờ…
1 giờ khuya ( Khoảng ngày 7 hay 8 tháng tư-75 )tới biển Long Hải, nước ròng phải đậu cách bờ khoảng hơn 200mét, ai muốn vào bờ sớm thì lội nước, bằng không chờ sáng nước lớn lên đò sẽ cặp bến.
Trời tối đen, tôi thử bước xuống nước, may quá nước chỉ tới rún, tôi và Mỹ với mấy chú lính vai mang ba lô lội nước vào bờ…. Trên bải biển tràn ngập người, poncho và chiếu trải sát vào nhau chúng tôi phải dò từng bước mới đi vào được khu phố, đi vào thật sâu mới tìm đườc một hành lang còn trống để mấy thầy trò ngả lưng tạm chờ sáng….
Buổi sáng, lại gặp may mắn,người chủ chiếc xe hàng đồng ý cho 4 anh em tôi lên xe miễn phí với điều kiện thu tiền 20 người khách trong trật tự cho lên xe. Chuyện nầy không khó với chúng tôi và xe tới Sài Gòn an toàn
Tôi đón xe ôm về ngả Tư Bình Hòa, nhà chị tôi ở đó, Hỏi thăm tình hình qua người Anh rể và người em rể, tin tức không được sáng sủa lắm, nhiều cấp chức cao đã bỏ ra đi… dù sao tôi cũng phải về Gò Công thăm ba mẹ, anh chi… gia đình đang trông tôi từng ngày từng phút.
Sau một ngày về thăm nhà,tôi trở lại Sài Gòn bằng Honda, đường quốc lộ Gò Công Sài Gòn, 58 cây số vẫn xe xuôi ngược trong khung cảnh bình thường .Tôi trình diện tại Cục Tâm Lý Chiến, Doanh trại Tiểu Ðoàn 50CTCT( Trại Nguyễn Bỉnh Khiêm) bây giờ tạm thời cho các đơn vị CTCT di tản tạm trú.Chức vụ Tiều đoàn trưởng được bàn giao tại ban quân xa, với thành tích bỏ đơn vị 2 lần Tiểu đoàn trưởng đương nhiệm( Khoa14) bàn giao cho Thiếu tá Minh , Tham mưu phó CTCT Lâm Ðồng người dẫn thuộc cấp về Sai Gòn an toàn được tổng cục bổ nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng,tôi tạm thời bỏ tiền ra mua quân trang, giày, mũ, tại tiệm quân trang đường Ðinh Tiên HoàngTại trại Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi thấy Tiểu Ðoàn 10CTCT với quân số chưa tới 30 người kể cả tiểu đòan trường là Thiếu tá Chấn.Mỗi tiểu khu lèo tèo vài người trong khối CTCT, đa số về tới Sài Gòn nhiều người không còn tha thiết ra trình diện vì mặc cảm bị bỏ rơi… Sau ngày Ông Thiệu từ chức, đại Ðội 201CTCT tái phối trí tương đối đầy đủ như bảng cấp số, Tổng cục tăng cường cho mấy chiếc quân xa, dưới sự hướng dẫn của thiếu tá Xuân, ra trình diện hậu cứ Sư Ðoàn 22 đang tạm đóng tại trại Lam Sơn thuộc tỉnh Phước Tuy… Ðây là gia đình binh sĩ thuộc Sư Ðoàn 22, tiền phương thì đang hành quân tại Long An, dưới sự chỉ huy của Trung Tá Lê Tuấn Trí , Trung đoàn trưởng, Anh Trí là niên trưởng chung trường trung học Gò Công với tôi, anh học trước tôi hai lớp Cho tới ngày 27 tháng 4, mặc dù đang sống trên “ hành lang nhân đạo”( người Sài Gòn lúc bất giờ gọi đường ra Vũng tàu là HLNÐ)Khi Phước Tuy tràn ngập Cộng quân, dân quân lại lếch thếch chạy ra Vũng tàu, tôi dẫn toán CTCT ra Bến Ðình (với vài người lính), đón tàu hàng về Vàm Láng Gò Công, trước là gần nhà sau là tôi tin tưởng vùng 4 có tướng Nam, một tướng lảnh tài ba lúc bấy giờ.Cuối năm 74 tôi là cán bộ huấn luyện trong chiến dịch Kiện Toàn An Ninh Lãnh Thổ quân Ðoàn 4,được Tổng Cục CTCT tăng phái cho quân đoàn 4 tôi có dịp nghe nhiều về Tướng Nam, câu chuyện thực mà nghe như huyền thoại tại trận tiền ông chỉ biết tiến mà không bao giờ biết lui…
Tôi đặt chân lên Vàm Láng khoảng gần 4 giờ chiều ngày 28-4-1975.sáng hôm sau, trên chiếc Honda của Trung Sĩ Khâm , hai thầy trò với một khầu 45, trức chỉ hướng sài Gòn, con đường lien tình lúc bấy giờ đầu đủ các hiệu xe thuộc vùng 4 vì Long An đang giao tranh dữ dội, xe miến Tây đều phải chạy ngả Mỹ Tho về Gò Công rồi lên Sài Gòn.Hai thầy trò mặc đồ trận, qua bắc cầu nổi, tôi gặp 1 chiếc GMC chở quan tài phủ quốc kỳ, theo sau là một chiếc xe jeep , trường xa là thiếu tá trưởng ban tài ngân sưu đoàn 22. Chạy tới cầu Ông Thìn thì xe tắc nghẻ, thiết giáp đang đụng với chính quy bắc Việt ở đây. Ðồng thời lệnh giới nghiêm 24/24 được ban ra trên trục lộ. Tôi quyết định trở về Gò Công dù trong giờ giới nghiêm, hai bên đường rất nhiều chiếc lều căn tạm, bạn hàng bày hang hóa ra bán, người đi kẻ lại tấp nập dù là có lệnh giới nghiêm. Tới bắc Cầu Nổi đò máy ngưng chạy, cổng xuống bắc đóng lại. Tôi nhìn thấy một chiếc xe nhàCó hai người trung niên ngồi băng trước..Người tài xế vào mượn điện thọai sau đó cổng mở, chiếc xa nhà nầy xuống đò, tôi vội cho Khâm chạy theo, nhờ mặc đồ trận nên xe tôi cũng được xuống củng với một chiếc xe chỡ hang nhỏ mà người ngồi băng trước là nghệ sĩ Tùng Lâm. Sau nầy vào trại Hà Tây tôi mới biết chiếc xe nhà nầy của Anh Tống chỡ anh Xuân cả hai là Thiếu tá trường và phó Ty cảnh sát Long An.
Tôi bắt đầu chạy từ KonTum về luôn tận quê nhà, tôi chạy khá nhanh thế mà vẫn còn thua Cộng Sản, Tôi lại khăn gói vào tù từ trại Tù Huyện Tây Gò Công, chuyển lên Mỹ Phước Tây, ra Hà Tây, và được giặc thả tại trại Nam Hà ngày 29-6-1983.
Giày dép còn có số huống chi con người, những ngày cuối cuộc chiến tôi ở ngay Vũng Tàu có biết bao nhiêu tàu ra khơi…Tôi quyết định về Gò Công, tôi biết Tướng Nam không bao giờ đầu hàng, nhưng tôi quên làm tướng là phải chết theo thành. Bởi vậy khi vào tù gặp các anh bạn về từ tàu Việt Nam Thương Tín, tôi không bao giờ dám chê trách các anh về việc trở về. Chê làm sao được khi mà con sông Bến Hải nhỏ xíu mà sau năm 1954 Bắc Nam mịt mờ tin tức, thì xuyên qua một cái biển Thái Bình Dương mênh mộng,,,, biết đến bao giờ mới biết tin tức của người thân, dầu sao chết trên quê hương, vong hồn chắc cũng sẽ đở tủi hơn.Trong lúc chinh chông trên đảo Guam, có biết bao nhiêu người chưa kịp từ giã gia đình, tình thương vợ thương con, thương cha thương mẹ..ray rứt xa xót trong lòng, xứ người lạ nước lạ cái biết làm sao mưu sinh..Thôi thì trở về có làm nô lệ cho Cộng sản cũng cam tâm… Nhưng hòa bình rồi, cùng là người Việt chắc Cộng sản cũng không nỡ nàọ.Mọi người đều lầm,
May mắn sau cuộc đổi đời, mình còn sống sót, biết bao anh linh tử sĩ xác vùi tạm bợ bên đường, phơi nắng gió làm mồi cho kên kên, quà quạ… Tạm dung xứ người, mình vô tổ quốc, phải chăng oan trái của người Việt Nam, thế hệ mình phải trả… bởi cha ông mình từng xóa tên cả một quốc gia trên bản đồ thế giới..
Viết tại kỳ đà đông. Tháng 6 năm 07
Thủy Lan Vy

TRẬN PHAN RANG

Phi Trường Phan rang

Hồi ức của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang
Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đê bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ngòi chờ viện binh. Mãi đến ngăy 16.4.1975, khi tung ra toàn lực âp đảo, chúng mới vào được Phan Rang.
Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, thì căn cứ Phan Rang đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt.
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc sang
Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhứt từ ngày1 đến 3.4.1975, là giai đoạn hình thành tuyến phòng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân còn lại.
Sư đoàn 6 Không quân gồm:
– 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548
– 1 Phi đội A-1
– 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C
– 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235
Lữ đoàn 3 Dù gồm:
– Bộ chỉ huy
– Tiểu đoàn 5
Giai đoạn thứ hai từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến phòng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.
Lử đoàn 2 Dù gồm:
– 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11
– 1 Tiểu đoàn Pháo binh
– Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận
Giai đoạn thứ ba từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:
Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm:
– 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.
Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:
– Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật
Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:
– 2 Trung đoàn 4 và 5
– 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly
– 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
Lực lượng Hải quân gồm:
– Duyên đoàn 27
– 2 Khu trục hạm
– 1 Giang pháo hạm
– 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ
Trong 2 ngăy 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và phòng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đã có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.
Lực lượng địch:
Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ngòi chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)
I. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ
Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quđn canh gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô đơn.
Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc phòng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác vòng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra tình trạng bung chạy, vì quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu tình hình mới, chấp nhận thực trạng và hết mình nổ lực chiến đấu vì nhu cầu phòng thủ.
Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình hình. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.
Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.
Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”
Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.
Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn còn rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt bình thường.
Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đã sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.
Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đã bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.
Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.
Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như bình thường, bởi cảng Cam Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi.
Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.
Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lý Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.
II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG
Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba Ngòi chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường mòn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)
Thị xã và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xã, mặt đất bằng phẳng.
Phi trường Phan Rang rất rộng, hình vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc phòng thủ bao gồm 60 chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch.
Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ.
Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
Vì địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm:
” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn còn lại.”
Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được. Đó là:
Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.
Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.
Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc trình diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng còn nấp chờ chi viện.
Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Tòa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về tòa đại sứ.
Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.
Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đã có sự bình thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về.
Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đã xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.
Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.
Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân.
Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.
Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xã đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.
Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, vì ngở Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm thấy bộ đồ bay của Trung úy Lý Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, còn để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lý Tống là người đã thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)
Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.
Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đã được cấp tốc thi hành, và Trung đã không bay qua đây.
Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đã thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.
Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Võ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm kiếm và chở về các toán còn kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.
Trong thị xã, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại bình thường, tạo nhiều phấn khởi.
Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc phòng thủ Phan Rang.
Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.
Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, thì được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.
Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy còn hoang mang, dao động. Vì chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
Bộ Tổng tham mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.
Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân vă còn đang chờ đợi bổ sung quân số.
Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được những đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang.
III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến phòng thủ Phan Rang.
Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Phòng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt.
Tướng Times của Tòa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Tòa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.
Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.
Tiếc thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.
Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, thì Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân thì chạm súng với các toán thăm dò của địch.
Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.
Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.
Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ và đã bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.
Thị xả được phòng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân còn lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự.
Cũng để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.
Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đã xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng võ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.
Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc phòng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây.
Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm dò của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. .
Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.
Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.
Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua phòng tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đã ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530.
Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.
Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là vì đã 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)
Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi phòng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.
Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đã vào thị xã khiến cho Trung tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh Văn phòng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét tình hình. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị mình.
Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xả, thì bên trong căn cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đã rời căn cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản thương ở lại đến phút chót.
Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét tình hình. Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.
Khoảng 10,30 giờ sáng, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương thì Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Tòa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.
Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.
Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống bãi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng vì Trung tướng Nghi không thuận cho đáp vì lý do an toàn bãi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)
Tiểu đoàn 11 Dù còn lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn.
Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đã đóng làm nút chận tại đây rồi,
Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, thì Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.
Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể vì mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.
Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị chìm và mộït chiến hạm bị pháo.
Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung tướng Nghi quyết định vì sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.
Từ trái : Cháu Thảo ( con Đại Tá Khương KQ ), Thiếu Tướng Phạm Ngọc Sang ( KQ )- Cháu Trang ( con Đ/Tá Khương ) - Trung Tá Hiếu - Thiếu Tướng Lê Minh Đảo - Đại Tá Bùi Quan Khương ( SĐ4 KQ ) - Đại Tá Nguyễn Xuân Lộc ( CHT Cảnh Sát Vùng 1 CT )
Thăm Nuôi Trại Cải Tạo
Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.
IV. KẾT LUẬN
Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đã khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.
Địa phương quđn và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo sứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.
Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy còn hoang mang, dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự.
Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.
Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quâ lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.

Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang

QĐ3 Phòng Tuyến Phan Rang

* Tổng lược tình hình 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2 trước khi Quân đoàn 3 thành lập phòng tuyến Phan Rang
Như đã trình bày, kể từ ngày 10/3/1975 ,ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong vòng 23 ngày, CQ đã chiếm vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH triệt thoái, theo trình tự sau đây.
- Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đã chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đã mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này.
- Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đã triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975.(Theo nhật ký hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang thì diễn tiến tình hình chiến sự tại Lâm Đồng như sau: "Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đã tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xã Bảo Lộc, tỉnh lỵ của Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập." Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đã rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, thì " không hề có vấn đề thị xã Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ý rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.)
- Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành phố cuối cùng của Cao nguyên bị CQ chiếm là tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS sát nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh này).
*Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ phòng tuyến Phan Rang
Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, thành lũy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đã quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến phòng thủ bảo vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân Khu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tư lệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đã từng giữ chức Tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đã giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972).
Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và Bình Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, thì Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.
Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng phòng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệ phòng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài Gòn ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.
Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đã khởi sự phối trí lực lượng để bảo vệ phòng tuyến Phan Rang như sau.
Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 , và 11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xã Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù còn được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đã tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội hình của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.
* Tình hình Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975:

Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđã được vãn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lập việc phòng thủ quanh thị xã và điều hành công việc hành chính trong tỉnh. Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ còn một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan đã bỏ đơn vị vào Nam tìm gia đình.
Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí phòng thủ gần thị xã, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ gìn an ninh tại thị xã và các vùng phụ cận. Lực lượng nòng cốt để bảo vệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.
Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữu hiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và tình hình tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.
* Phần bổ sung về cuộc hành trình của Trung tướng Ngô Quang Trưởng trên đường vào Nam.
Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa thì một số tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng vào Nam. Như đã trình bày, chỉ có một ít đơn vịcủa Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một số sĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải quân HQ 404 vớt sau khi ông phải bơi từ bờ.
Trong cuộc hải trình vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đã nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ 5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn vì HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, thì lúc đó tàu này dơ bẩn và hôi hám vì có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ý, ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài Gòn là ông xin ở lại trên tàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận.
Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một mình Trung tướng Trưởng vào Sài Gòn. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi bãi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổ quân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến trình bày: "Lệnh Sài Gòn yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài Gòn. Xin Trung tướng ở lại tàu cho". Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rõ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài Gòn cho Thủy quân Lục chiến về Sài Gòn để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh thì tôi cũng xuống đây luôn.
Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài Gòn và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: "Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận". Quân nhân Thủy quân Lục chiến đã xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đã có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào phòng của ông.