Tuesday, February 9, 2021

 LỮ ĐOÀN 147 TAN RẢ TẠI BÃI BIỂN THUẬN AN, BÀI 2.

Hôm nay là ngày phủ quốc kỳ cho Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế, Y Sĩ Trung Tá TĐT/TĐ Quân Y Thủy Quân Lục Chiến Nam VN trước năm 1975, Anh Thế mới qua đời ngày 2/21/11 vì biến chứng của một căn bệnh ngoài da rất thông thường mà anh bị lây từ bệnh nhân, tôi đến tiễn đưa và để chào vĩnh biệt vị chỉ huy khả kính rồi sửa soạn đi về...
Ra đến ngoài sân, tôi gặp toán Hầu Kỳ TQLC quân phục rằn ri với chiếc mũ xanh thân yêu, trong toán tôi gặp chị Thiếu Tá Huy Lễ, chị nói với tôi “chờ tí nữa Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC sắp đến.” Tôi vô cùng ngạc nhiên vì Thiếu Tướng TL ở tận tiểu bang Texas, mới hai tuần trước ông đã về đây thăm bệnh anh Thế, hôm nay ông lại về để tiễn biệt, chợt nhớ đã 36 năm nay tôi chưa gặp ông nên vội đứng lẫn trong đám đông mặc thường phục để nhìn Tướng Tư Lệnh. Tôi không phải chờ lâu, chừng 10 phút sau thì ông đến, vẫn dáng người thư sinh, bước đi tự tin và cặp kính cố hữu, ông không thay đổi nhiều chỉ trừ mái tóc màu đen bây giờ đã nhuốm bụi thời gian! Tôi bồi hồi nhìn ông mà cả một dĩ vãng bi hùng tráng của Tháng Ba Gẫy Súng tại Quân Khu I hiện về, cái kỷ niệm này nhiều lần tôi đã cố quên đi để được sống bình yên, nhưng không làm sao đẩy được nó ra khỏi tâm trí …
***
Quân Khu I - Tháng 3/1975.
QK I là một vùng nằm tại cực Bắc của miền Nam Tự Do, QK này bao gồm 5 tỉnh và Thị Xã Đà Nẵng, các tỉnh của QK I là: Phía Bắc đèo Hải Vân có tỉnh Quảng Trị và Huế, phía Nam đèo có Thị Xã Đà Nẵng, và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Nối liền Huế-Đà Nẵng là Quốc Lộ 1, song song với Biển Đông theo hướng Bắc-Nam, đi qua các đèo Phước Tượng, Phú Gia, Hải Vân. Bảo vệ QK I là Quân Đoàn I gồm 4 Sư đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3, SĐ/TQLC là SĐ Tổng Trừ Bị tăng phái cho QĐI, SĐI Không Quân, Hải Quân Vùng I Duyên Hải. ngoài ra còn có 4 Liên Đoàn Biệt Động Quân, các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát, các Liên Đoàn, Tiểu Đoàn, Đại Đội Chiến Xa, Pháo Binh, Biệt Cách Nhẩy Dù, Thám Báo…Quân số của toàn thể QĐI có thể trên 2 trăm ngàn chiến sĩ dưới sự chỉ huy tổng quát của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng- Tư Lệnh Quân Khu I.
Vì địa thế đặc biệt của 2 tỉnh Quảng Trị-Huế cách Đà Nẵng bởi đèo Phước Tượng, đèo Phú Gia, đèo Hải Vân với 1 con đường duy nhất để thông thương là QL1, nên QĐI được chia ra:
- Quân Đoàn I Tiền Phương, chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi, bảo vệ 2 tỉnh phía bắc Hải Vân là Quảng Trị-Huế, bộ chỉ huy tọa lạc tại Huế, lực lượng gồm có SĐ1BB với 4 Trung đoàn, LĐ147/TQLC với 4 Tiểu đoàn tác chiến, 1 Tiểu đoàn pháo binh, một Đại đội Viễn Thám, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, Liên Đoàn 14/BĐQ, các Tiểu đoàn pháo binh hạng nặng, Địa phương quân, Nghĩa quân…Đây là một lực lượng hùng mạnh và thiện chiến nhất của QĐI.
- Quân Đoàn I, chỉ huy bởi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐI, bộ chỉ huy tọa lạc tại Đà Nẵng, bảo vệ các tỉnh phía Nam đèo Hải Vân, lực lượng gồm các đơn vị còn lại.
- Quốc Lộ 1 là con đường huyết mạch và duy nhất, nối liền Huế-Đà Nẵng, theo hướng Bắc-Nam, phía Đông sát với Biển Đông, phía Tây là núi Trường Sơn, QL1 có một địa thế hiểm trở rất dễ phòng thủ và rất khó cho địch tấn công, và được bảo vệ bởi một lực lượng tinh nhuệ, phía Tây Bắc SĐ1BB, giữa LĐ15/BĐQ, LĐ/258 TQLC (trong đó có tôi), Nam LĐ468/TQLC.
Về tình hình chiến sự tại QKI trước ngày 25/3/1975 thì phải nói là yên tĩnh, đã không có một trận đánh nào lớn hơn cấp Trung đoàn, tuy nhiên địch đã bám sát quân ta để chờ thời cơ. Đại họa đã xẩy ra vào ngày 25/3/75, khi QĐI quyết định bỏ Huế-Quảng Trị để rút đạo quân tiền phương về bảo vệ Đà Nẵng, và Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định (được sự chấp thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng), rút quân bằng Hải Quân tại bãi biển Thuận An, thay vì lui binh theo trên QL1 theo đội hình vì ông nghĩ rằng có một Trung đoàn VC cắt đứt QL1 tại đồi 500, Phú Lộc.
Tôi viết đoạn này dựa theo hồi ký của những TQLC còn sống sót từ pháp trường cát Thuận An năm xưa, các MX Nguyễn Thành Trí, Phạm Cang, Phạm Văn Tiền, Cao Xuân Huy... trong ngày 25/3/75 trên bãi biển Thuận An, ngoài gần 4000 TQLC của LĐ147/TQLC còn có lính Bộ Binh của SĐI BB, Thiết Giáp, Địa Phương Quân, Biệt Động Quân… Vì tôi là TQLC nên chỉ viết ra những gì liên quan đến LĐ147 thôi.
Ngày 24/3/75 lúc 6 giờ chiều, các quân nhân TQLC của LĐ147 được lệnh bỏ lại vũ khí cộng đồng, đạn dược cùng lương thực, mỗi quân nhân trang bị nhẹ và gọn, đoạn chiến với quân CSBV, đi bộ hỏa tốc trên 30 km từ Quảng Trị đến điểm tập họp là bãi biển Thuận An, Huế, vì tàu hải quân không thể chở được các chiến cụ nặng, nên dọc đường họ thấy vô số đại bác và chiến xa của các đơn vị bộ binh bạn vứt đầy đường.
Ngày 25/3/75 lúc 8 giờ sáng, tất cả quân nhân thuộc LĐ147 đã tập họp tại bãi biển Thuận An, ngoài khơi là một lực lượng Hải quân hùng hậu với nhiều LST (tàu lớn chở đươc nhiều ngàn quân) và LCM (tàu đổ bộ có thể vào sát bờ đón quân ra tàu lớn), nhưng không có một chiếc tàu nào vào đón! LĐ147 được lệnh chờ và chờ…Đại họa biến thành đại thảm họa khi Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi bỏ về Đà Nẵng ngày 25/3/75 (CTTCB trang 204-Hồ VK Thoại), như vậy, đạo quân Tiền phương bị bỏ rơi trên bãi biển Thuận An đã mất đi cấp chỉ huy tối cao, cấp QĐ có thẩm quyền điều động Không và Hải Quân. Buổi chiều cùng ngày quân truy kích VC đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cao, bao vây LĐ147 trên bãi cát trống trải, tấn công TQLC bằng đủ loại súng cộng đồng tối tân. Sáng ngày 26/3/75 có 1 chiếc LCU duy nhất vào đón được bộ chỉ huy LĐ147, thương binh, và chừng 200 TQLC. Quân VC càng ngày càng đến đông hơn để tấn công TQLC trên bãi cát trống, TQLC thì hết đạn, hết nước uống, hết lương thực, ngoài khơi các tàu Hải quân vẫn vô cảm, không tiếp tế, không yểm trợ hỏa lực, im lặng vô tuyến. Sư Đoàn 1 Không Quân lúc đó còn nguyên vẹn nhưng không có 1 chiếc phi cơ nào đến tiếp tế hay yểm trợ hỏa lực! Tối ngày 26/3/75, TQLC đã chiến đấu đến viên đạn và giọt máu cuối cùng, không chấp nhận đầu hàng hay bị bắt nên đã có rất nhiều TQLC tự sát tập thể bằng lựu đạn M26 và chuyện phải đến đã đến: Rạng sáng ngày 27/3/75 thành phần còn lại của LĐ147/TQLC bị bắt…
Trên đây chỉ là số phận của LĐ147 TQLC, số phận của các đơn vị khác thuộc Lực Lượng Tiền Phương QĐI chắc cũng không khá hơn, chỉ biết rằng cho đến ngày 27/3/75 toàn thể lực lượng Tiền Phương này đã tan hàng, đây là nguyên nhân chính đưa đến sự tan rã QĐI hai ngày sau.
Có một điều làm tôi thắc mắc cho đến bây giờ là nếu các cấp lãnh đạo QĐI muốn rút đạo quân Tiền Phương này về để bảo vệ Đà Nẵng thì phải rút theo đội hình trên QL1 như vậy thì mới có thể mang về Đà Nẵng những Thiết đoàn chiến xa và những Tiểu đoàn pháo binh, những vũ khí cộng đồng v.v.. rất cần thiết cho sự phòng thủ, rút bằng Hải Quân nếu may mắn thì chỉ mang được quân thôi, còn chiến cụ nặng thì phải bỏ lại. Khi tôi bàn luận về cái lẽ hơn thua giữa ta và địch trên đoạn QL1 Huế-Đà Nẳng với Đại Tá Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng LĐ258/TQLC là LĐ có trọng trách bảo vệ đoạn QL1 này thì được ông cho biết rằng địa thế của đoạn đường này hiểm trở, dễ thủ mà khó công, phía Đông QL1 là biển nên địch chỉ có thể tấn công từ phía Tây QL, mà phía Tây QL thì đã có quân tinh nhuệ của ta đóng chốt sãn, hơn nữa đạo quân Tiền Phương QĐI rất thiện chiến và quen thuộc địa thế vùng này nên 1 Trung đoàn địch sẽ không thể cản được, nếu ta may mắn dụ được chúng dùng nhiều Sư đoàn để tấn công, thì đây sẽ là chiến trường quyết định tại QKI mà địa thế do ta lựa chọn, có lợi cho ta phòng thủ, bất lợi cho địch tấn công, hơn nữa địa điểm này xa với thành phố, ít dân, nên quân ta sẽ không bận tâm về dân nên có thể xử dụng hỏa lực tối đa mà không sợ sát hại thường dân. Còn địch thì sẽ không thể dùng dân vô tội để ẩn nấp, lấy lương thực và tin tức tình báo. Ta đang làm chủ trên trời và dưới biển, với sự tiếp tế dồi dào và hải pháo của Hải Quân, với hỏa lực khủng khiếp của Không Quân và những chốt của quân ta tại phía Tây QL, địch sẽ bị phản công mọi mặt, và phần thắng sẽ về quân ta. Ông cũng khẳng định đoạn QL1 Huế-Đà Nẵng cho đến ngày 25/3/75 trước khi TQLC và BĐQ được lệnh rút đi vẫn an toàn.
Tôi cũng đã điện đàm với Thiếu Tướng Bùi Thế Lân TL/TQLC và Đ/Úy Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Phòng Tướng TL, để hỏi về cái lệnh hành quân lui binh của LĐ 147/TQLC tại Thuận An ngày 25/3/75.
- Theo Thiếu Tướng TL, ông biết sẽ có cuộc lui binh của đạo quân Tiền Phương trong đó có LĐ147/TQLC, nhưng vì LĐ147 đã được tăng phái cho QĐI Tiền Phương nên ông không có quyền điều động và hoàn toàn không biết đến kế hoạch rút quân cho đến khi Đ/Úy Đan, buổi sáng ngày 25/3/75, trình lên ông bản sao của lệnh hành quân lui binh đã được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ký chấp thuận mà không tham khảo ý kiến nên ông hoàn toàn bị bất ngờ và khi đọc lệnh hành quân này, ông thấy có nhiều sơ hở nguy hiểm có thể đưa đến sự tan rã toàn diện của đạo quân tiền phương, ông đã gọi Trung Tướng Ngô Q. Trưởng để yêu cầu hoãn lại hoặc thay đổi kế hoạch, nhưng không kịp vì cuộc lui binh đang tiến hành.
- Theo hồi ký của Đại Tá Nguyễn Thành Trí, lúc đó là Tư Lệnh mặt trận Tây Bắc Huế thuộc đạo quân Tiền Phương QĐI, thì lệnh hành quân lui binh này được soạn thảo bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi tại Thuận An vào trưa ngày 24/3/75 và được Đại Tá Lê Ngọc Hy, Tham Mưu Trưởng QĐI TP mang về Đà Nẵng trình cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng TL QĐI, được Tướng Trưởng ký chấp thuận lúc 5 giờ 30 chiều 24/3/75.(TT2 TQLC trang 537-538)
- Theo Đ/Úy Nguyễn Quang Đan thì vào một buổi sáng tháng Ba, anh không nhớ ngày, (theo tôi thì có lẽ là sáng 25/3/75 vì Tướng Trưởng ký chấp thuận lúc 5.30pm, 24/3/75.) anh nhận được bản sao của lệnh hành quân triệt thoái QĐI Tiền Phương đã được Tướng Trưởng ký, anh vội vã đưa cho Tướng Lân, đọc xong ông than: “ĐM thế này thì chết lính tao rồi!”, sau đó ông ra lệnh cho anh bay ra Thuận An đưa cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ147 một lá thư kèm theo lời dặn “Tìm ra QL1 mà đi” rồi Tướng Lân đi thẳng lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn. Tiếc thay Đ/Tá Lương đã không nghe lời.
Tôi còn được biết trong khi LĐ147/TQLC vị vây hãm tại bãi biển Thuận An, vì chỉ là Tư Lệnh của một Sư đoàn tăng phái cho QĐI, Tướng Lân không có quyền điều động Hải-Lục-Không quân của QĐI để tiếp cứu LĐ147/TQLC, quyền này nằm trong tay của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TL QĐI và Trung Tướng Lâm Quang Thi, TLP QĐI, nhưng hai vị tướng này đã không làm gì để cứu đạo quân Tiền Phương bị bỏ rơi này.
Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng, Tháng 3-1975.
Ngày 18/3/75, Lữ Đoàn 258 TQLC của Đại Tá Nguyễn Năng Bảo di chuyển từ Quảng Trị tới đèo Phước Tượng, nằm giữa Huế-Đà Nẵng với nhiệm vụ rõ ràng:
- Bảo vệ lưu thông trên QL1.
- Chờ đợi và bảo vệ đạo quân Tiền Phương QĐI rút từ Huế-Quảng Trị về Đà Nẵng.
Tôi đã có mặt tại LĐ này với nhiệm vụ Y Sĩ điều trị của ĐĐ Quân Y 258. Từ ngày 18/3/75 đến ngày 23/3/75 dân tị nạn Huế, Quảng Trị đi đầy đường chạy về Đà Nẵng, CSBV muốn tái diễn một Đại Lộ Kinh Hoàng năm 1972, nhưng thất bại vì phía Tây QL có quân ta bố trí, chúng không thể xông tới gần QL để dùng súng bắn thẳng tàn sát dân, chúng chỉ dùng đại bác đặt trong núi Trường Sơn bắn vào dân tị nạn, nhưng đa số đạn đại bác đã nổ trên vách núi hai bên QL.Từ ngày 23, 24/3/75, có thể tình báo của chúng biết rằng Quân Đoàn I Tiền Phương sẽ rút về Đà Nẵng và có thể chúng không có đủ quân để ngăn chận, chúng chơi trò “rung cây nhát khỉ, khua trống gõ mõ” bằng cách mang những đơn vị nhỏ của chúng liều mạng đánh vào tuyến phòng thủ của các đơn vị ta, chúng bị đánh bại nhanh chóng, bỏ trốn vào trong núi phía Tây, tuy nhiên đài phát thanh của chúng lại rêu rao là đã “diệt gọn” LĐ258/TQLC và LĐ15/BĐQ, và đang kiểm soát đèo Phước Tượng. Đau đớn cho quân ta, đòn tâm lý tuyên truyền này đã thành công! Quân ta bỏ khế hoạch lui binh trên QL1 để rút lui bằng Hải Quân theo ngả Thuận An, và đại thảm họa đã xẩy ra như nói ở trên…
Ôi! Mấy ngàn năm trước, Tôn Tử đã nói: “Binh là cái đạo dối trá” mà đau đớn thay, địch thì quá gian dối còn ta lại quá thật thà!
Sáng ngày 25/3/75, LĐ 258 TQLC được lệnh của Trung Tướng Tư Lệnh QĐI Ngô Quang Trưởng bỏ đèo Phước Tượng rút về Đà Nẵng, LĐ15/BĐQ (đóng bên cạnh LĐ258/TQLC) chia làm hai, một phần đi hướng Bắc về Huế an toàn, còn một phần đi theo TQLC về phía Nam, đi qua Phú Lộc chúng tôi không thấy một tên VC nào mà chỉ thấy một cánh quân của LĐ 468 TQLC chỉ huy bởi Thiếu Tá Trần Quang Duật, bạn tôi! Sau khi qua Phú Lộc, chúng tôi được xe Quân Vận chở về Đà Nẵng an toàn cùng ngày… Điều tôi vừa kể chứng tỏ rằng QL1 Huế-Đà Nẵng vẫn an toàn trong ngày 25/3/75.
Đà Nẵng, Tháng 3-1975.
Chúng tôi về đến Đà Nẵng khoảng 8 giờ tối 25/3/75, Đà Nẵng là nơi phồn hoa đô hội mà trong những ngày tháng hành quân dài tại rừng núi của tỉnh Quảng Trị, tôi chỉ mơ ước có được một lần trở về, dù cho chỉ vài giờ để thưởng thức một ly café thơm ngọt và ngắm các cô hàng café xinh đẹp, thành phố trong mộng của tôi thì nay đang chết! Nhà cháy, xe cháy, khói lửa bao chùm thành phố. Dưới lòng đường, trên hè phố la liệt người tị nạn không một mảnh chiếu để nằm! Tôi đã về đây trong cảnh hoang tàn đổ nát của thành phố thương yêu, hương vị thơm ngọt của café thì chẳng được nếm mà chỉ có vị cay đắng của hai dòng nước mắt đau thương!
Sáng ngày 26/3/75, tôi được lệnh chỉ huy một toán QY để yểm trợ cho một đơn vị TQLC đánh chiếm lại đèo Phước Tượng, đến trưa thì lệnh này bị hủy bỏ, tôi nhận được lệnh khác, mang y tá và xe cứu thương ra bến Thương Cảng Đà Nẵng để đón quân của LĐ147/TQLC. Cả một LĐ gần 4000 quân mà bây giờ chỉ về được trên một chiếc LCU duy nhất, gồm Bộ Chỉ Huy LĐ, khoảng 100 thương binh trong đó có Đại Tá Nguyễn Thế Lương, và khoảng 200 binh sĩ, nhìn thấy họ tôi mới thấm thía câu nói của người xưa “chán chường như lũ tàn binh lìa thành”. Trong cuốn hồi ký “25 Năm Thế Kỷ” Trung Tướng Lâm Quang Thi viết 90/100 TQLC của LĐ147 đã về được Đà Nẵng, điều này sai với sự thật.
Ngày 27/3/75, tôi lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn gặp Thiếu Tá Trần Vệ, Trung Tâm Trưởng Hành Quân Sư Đoàn thì được biết nhiều tin sấu: Toàn bộ LĐ 147/TQLC đã bị địch bắt và đạo quân Tiền Phương đã hoàn toàn tan rã. Quảng Ngãi đã thất thủ và cuộc lui binh của SĐ2BB xẩy ra trong hỗn loạn (mặc dù không có trận đánh lớn nào) chỉ có một nửa SĐ2BB về được Đà Nẵng. Bộ Tư Lệnh QĐI tại Đà Nẵng bị bỏ trống, Thiếu Tá Trần Vệ gọi QĐI không ai trả lời, anh phải đích thân lên QĐ thì không thấy một bóng người. Như vậy tính tới ngày 27/3/75, lãnh thổ QKI chỉ còn có Thị Xã Đà Nẵng. Ta đã mất gần hết QKI mà không có một trận đánh lớn cấp Trung đoàn nào! Tôi đau đớn, buồn rầu, lo lắng trở vê Tiểu đoàn Quân Y.
Sáng ngày 28/3/75, tôi được gọi trình diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, TĐ Trưởng TĐ Quân Y SĐ/TQLC, anh Thế mặt mũi bơ phờ lo lắng, trên bàn anh là tập hồ sơ quân bạ của tôi, anh than phiền là Bệnh Viện Quân Y Dã chiến của SĐ/TQLC tại phi trường Non Nước đã quá tải, số thương binh đã gần gấp đôi sức chứa của bệnh viện mà QĐI không cho phương tiện để tản thương về BV Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, nếu có đụng trận thì sẽ không có chỗ cho thương binh, anh hỏi vê chuyên khoa của tôi, khi biết rằng tôi đã theo thầy Nguyễn Phước Đại hai năm để học vể giải phẫu xương với tư cách nội trú ủy nhiệm tại Bệnh Viện Đô Thành thì anh rất vui vẻ rủ tôi đi khám bệnh cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương, LĐT/LĐ147TQLC, Đại Tá Lương bị thương tại Thuận An vì miểng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 tại đầu gối phải, vết thương sạch sẽ và đã được khâu cẩn thận, có điều miểng đạn thì chưa được lấy ra được vì nó nằm cạnh giây thần kinh và động mạch quan trọng, khi anh Thế hỏi ý kiến thì tôi đề nghị nên tăng lượng trụ sinh tối đa để ngừa nhiễm trùng xương và tôi có thể lấy miểng đạn ra nếu có đủ dụng cụ, anh Thế vui vẻ và ra lệnh:
- Từ nay ĐT Lương là bệnh nhân của toi (anh Thế tốt nghiệp trường trung học pháp Jean Jacques Rousseau nên có thói quen gọi chúng tôi là toi, xưng moi), còn số bệnh nhân hiện tại của toi, moi sẽ bàn giao cho bác sĩ khác.
Tôi nhận lệnh của anh Thế rồi quay qua Đại Tá Lương an ủi:
- ĐT yên tâm, tôi sẽ lấy miểng đạn ra an toàn, nếu cần gì xin ĐT cho tôi biết.
Tôi đề nghị với anh Thế:
- Xin Trung Tá liên lạc với Tổng Y Viện Duy Tân, mượn phòng mổ để tôi mổ càng sớm càng tốt, vì để lâu không ổn, có thể bị nhiễm trùng xương thì lại rắc rối.
Anh Thế lắc đầu buồn bã:
- Moi mới liên lạc khi sáng, họ cũng quá tải như mình, họ đề nghị Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh.
Chiều ngày 28/3/75, lúc khoảng 6 giờ 30 chiều, Đại Úy Nguyễn Quang Đan lái xe đến TĐ Quân Y đón tôi ra sân trực thăng của SĐ, tại đây tôi thấy anh Thế đang đứng với Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, ĐT Lương thì ngồi dưới đất, tôi chưa kịp chào thì anh Thế đã tiến tới ra lệnh:
- Toi mang ĐT Lương quá giang tàu Hải quân đến Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh để mổ, còn moi thì phải đi họp để xin Hải quân cung cấp một chuyến tàu di tản thương binh của mình về Saigon hay Vũng Tàu.
Tôi không biết nói gì, chỉ đi theo đoàn người lên trực thăng, tại hai bên cửa trực thăng tôi thấy mấy người nhái của TQLC cùng đi. Trực thăng bay chừng 15 phút thì đáp xuống Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, tại đây có sẵn 2 trực thăng đang đậu, khi máy trực thăng vừa tắt, tôi nghe được tiếng ôn ào của nhiều ngàn người dân tị nạn đang chờ tàu trên khoảng đất trống kế bên bãi đáp trực thăng, một sĩ quan Hải Quân dáng điệu nhu mì lễ phép tiến ra chào Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC, anh nói Trung Tướng Trưởng mới đến, tay chỉ chiếc trực thăng bên cạnh, còn Phó Đề Đốc Thoại thì đang bận họp, sau đó anh hướng dẫn chúng tôi vào một bunker bên cạnh sân cờ, cái bunker này được xây bằng nhiều lớp bao cát kiên cố, bên trong có một cái bàn dài và quanh bàn là một hàng ghế còn bỏ trống, tại góc phòng có mấy chiếc điện thoại, đây là TOC Hành Quân của Hải Quân, có lẽ chúng tôi đến sớm nên chưa có ai mà chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đang đứng chờ. Hai vị tướng trao đổi chuyện với nhau một lúc rồi cả hai đi về phía mấy cái điện thoại, trong lúc hai ông tướng loay hoay bên máy điện thoại, tôi thấy Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cùng mấy sĩ quan Hải Quân bước vào phòng, tướng Thoại bước đến bên Tướng Trưởng…
Tướng Trưởng bốc máy điện thoại thứ nhất gọi mấy lân mà không được, ông dùng máy thứ hai thì có người trả lời, ông nói chuyện với người trong máy một lúc lâu, nét mặt khẩn trương, tôi cũng đứng trong phòng nhưng vì phép lịch sự nên không nghe và cũng không muốn tìm hiểu người bên kia đầu giây là ai, cho đến khi Đại Tá Lương, ngồi dưới đất, gần chỗ Tướng Trưởng đang nói điện thoại, lên cơn đau và cầu cứu, khi tôi tới đưa thuốc thì cũng là lúc được nghe tướng Trưởng nói từng câu rõ ràng với người bên kia máy:
- Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình.
Nói xong, Tướng Trưởng cúp máy, ông đi qua lại trong phòng, đăm chiêu suy nghĩ một lúc rồi ghé tai Tướng Lân nói thầm mấy câu làm ông tướng này cũng đăm chiêu suy nghĩ buồn bã không kém*. Một lát sau Tướng Lân quay qua nhắc Tướng Trưởng là phải mời Tướng Hinh, Tư Lệnh SĐ3BB đến họp.
(*Trong bữa ăn tối ngày 25/2/2011 do Y Sĩ Thiếu Tá Tường, TĐP/TĐQY/TQLC khoản đãi tại Little Saigon, tôi gặp lại Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và may mắn đã được ông giải đáp những thắc mắc của tôi từ 36 năm nay trong câu trả lời của Tướng Trưởng với Tổng Thống. Thiếu Tướng Lân cho tôi biết người mà Tướng Trưởng nói chuyện điện thoại với tối hôm 28/3/75 là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Lân xác nhận câu nói “Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình” và Tướng Trưởng đã nói thầm vào tai ông: “Mình rút đêm nay”. Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC còn cho biết: “Ông ấy bối rối đến nỗi quên cả mời Tướng Hinh, SĐ3BB, tôi phải nhắc ông ta, khi Tướng Hinh đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng trong đêm thì ông xin Tướng Trưởng cho 4 ngày đễ sửa soạn nhưng bị từ chối”. Tướng Lân nói tiếp: “Sự thực thì đây không phải là một phiên họp, các tướng được gọi đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng chứ không có bàn cãi gì hết”. Tôi nghĩ Thiếu Tướng Lân rất có lý vì dọn nhà thì cũng phải cần mấy ngày, còn dọn cả một QĐI “ngay đêm nay” thì còn có gì để bàn cãi, chỉ có nước “bỏ của chạy lấy người” mà” tự thoát”, vậy thì “buổi họp” nầy không cần thiết, thay vào đó Tướng Trưởng chỉ cần dùng điện thoại ra lệnh, như vậy thì ông đã tránh cho những tướng dưới quyền những nguy hiểm mà tôi sẽ kể sau. Một điều tôi không thể hiểu được là tại sao Tướng Trưởng lại phải vội vã như vậy để gây ra thảm kịch ngày 29/3/75 tại Đà Nẵng? Đại quân của địch thì chưa thấy, trong thành phố Đà Nẵng chỉ có đặc công và tiền sát Pháo Binh địch trà trộn trong dân tị nạn, chúng chỉ có khả năng pháo kích quấy rối,).
Tôi chợt nhớ nhiệm vụ của tôi là tìm tàu hải quân mang ĐT Lương đến Cam Ranh để mổ vết thương cho ông, nên bỏ phòng họp để đi ra cầu tàu để tìm tàu, tại đây tôi chỉ thấy cảnh “bờ trơ cõi vắng nước còn tăm không” trong ánh trăng phản chiếu sóng biển rì rầm, tàu thì chẳng có mà người cũng không! Tôi đi ngược lại căn cứ hải quân vắng tanh chẳng thấy một quân nhân hải quân nào, căn cứ này có lẽ đã bị bỏ trống?
Trở lại bãi trực thăng, nhìn qua hàng rào, tôi thấy nhiều ngàn dân tị nạn chen chúc nhau trên bãi đất trống, chỉ cách hầm TOC Hải Quân, nơi các tướng sẽ họp khoảng 100m, tôi rùng mình tự hỏi trong số người này có bao nhiêu đặc công và tiền sát pháo binh địch trà trộn? Theo ánh đèn vàng, tôi tìm đến bệnh xá Hải quân thì gặp một ông Trung Sĩ y tá, thấy tôi là bác sĩ ông vội đứng nghiêm chào kính, tôi được biết người chỉ huy bệnh xá là bác sĩ Phước, bạn tôi, nhưng bác sĩ Phước mới ra ngoài nên tôi phải chờ, khi ông Trung Sĩ biết tôi đang tìm tàu để về Cam Ranh thì ông nhìn trước nhìn sau rồi ghé tai tôi nói:
- Lúc 5 giờ chiều cả căn cứ đã bỏ đi gần hết, chỉ còn một số người Phó Đề Đốc chỉ định ở lại, hiện giờ không có chiếc tàu nào, chiếc cuối cùng đã chở ông Lãnh Sự Mỹ đi rồi.
Tôi nhắc ông Trung sĩ phải sẵn sàng súng ống vì mấy ông tướng đến họp có thể lôi kéo bọn đặc công VC tấn công căn cứ. Ngồi chờ một lúc, vì nghe thấy nhiều tiếng trực thăng lên xuống nên vội đi trở lại hầm TOC, tại đây tôi thấy Đại Úy Đan, bình thường không bao giờ đeo súng, hôm nay anh đeo một khẩu tiểu liên Uzi bên hông, dáng điệu nghiêm trọng, chợt nghĩ đến bữa tiệc “Hồng Môn” thời Hán-Sở tranh hùng (Trên 4000 năm trước, thời Hán-Sở tranh hùng bên Tàu, Sở Bá Vương đã mở bữa tiệc tên là Hồng Môn mời Hán Đế Vương đến dự để giết đi, việc không thành vì Hán Đế Vương đã đề phòng trước.) tôi vội kiểm soát lại khẩu Colt 45 bên hông, nạp một viên đạn lên nòng rồi bước vào phòng họp, trong phòng lúc nay đã đầy người, Tướng Trưởng ngồi đầu bàn, bên phải là Tướng Thoại, phía bên trái là Tướng Lân, kế bên là Tướng Hinh, sau chót là Trung Tướng Lâm Quang Thi, bên hàng ghế đối diện, cạnh Tướng Thoại là mấy vị sĩ quan Hải quân và Bộ binh, vì họ ngồi xoay lưng về phía tôi nên không nhận diện được. Vô tình tôi lại đứng đối diện với Tướng Thi, ông to lớn, tôi nhận ra ông vì bảng tên trên ngực áo bên phải, bên trái phía trên trái tim là một huy hiệu nắm đấm với mấy chấm phía trên, đứng sau ông là một sĩ quan cận vệ cũng to con không kém và cũng đeo huy hiệu nắm đấm bên trái, như vậy thì Tướng Thi là một cao thủ võ lâm khiến tôi càng chăm chú nhìn trong đầu tự hỏi ông là Tư Lệnh Phó QĐI, tại sao không ngồi cạnh Tướng Trưởng để chủ tọa cuộc họp mà lại ngồi tận cuối bàn với dáng điệu bồn chồn bối rối? Còn Tướng Hinh thì đang “mặc cả” với Tướng Trưởng từng giờ để cố cứu SĐ3BB.
Thấy mọi việc tốt đẹp, tôi bước khỏi phòng họp lúc 8 giờ 40 tối thì được biết anh em người nhái TQLC đã mang ĐT Lương qua cái bunker bên cạnh, tôi qua thăm, cho ông biết không có tàu về Cam Ranh. Sau đó tôi ra bãi trực thăng ngồi chờ. Chưa hút hết nửa điếu thuốc, bỗng thấy một tia lửa bùng lên giữa đám dân tị nạn trên mảnh đất trống cạnh bãi trực thăng, trong ánh lửa màu cam có những thân người và mảnh cơ thể tung lên, tiếp theo là một tiếng nổ đinh tai. Theo phản ứng của một chiến binh, tôi nằm sát mặt đất, địch bắt đầu pháo kích lúc 9 giờ tối, nhịp độ 3-4 trái một phút, vì đã quen với chiến trận tôi nhận ra tiếng nổ quen thuộc của đạn đại bác 130 ly, nhưng không nghe thấy tiếng depart, đa số đạn nổ trên khoảng đất trống chỗ dân tị nạn. Giữa những tiếng nổ, tôi nghe tiến lẻng kẻng của mảnh đạn va chạm vào mái tole, và tiếng kêu khóc của dân tị nạn, hình như tiền sát viên VC ở đâu đây, đạn đại bác từ từ kéo vào bên trong căn cứ, và chính xác, một trái đạn nổ ngay bãi trực thăng, làm hai trực thăng của Tướng Lân và Tướng Trưởng xẹt lửa, khoảng 10 giờ 30 tối, cường độ pháo kích tự nhiên giảm xuống, đạn pháo rơi tản mác ngoài căn cứ, theo người nhái TQLC Nguyễn Bác Ái thì địch đặt pháo tại đèo Hải Vân vì anh thấy những tia lửa nháng ra từ phía đó và lý do địch giảm pháo kích vì ta bắn chết một và bắt sống hai tiền sát VC.
Khoảng 10 giờ 40 tối, Trung Tướng Lâm Quang Thi cùng một sĩ quan Hải Quân đi vội vã ra bãi trực thăng, lên một trực thăng cuối bãi, chiếc trực thăng bay lên rất nhanh ra khỏi căn cứ, sau này được biết ông bay ra Soái Hạm HQ5, như vậy ông là vị tướng thứ hai rời Đà Nẵng bằng máy bay, vị đầu tiên là Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc, TLP/QĐI xin đi về Saigon ngày 26/3/75 rồi không trở lại (CTTCB, trang 273-274, Hồ VK Thoại). Các tướng khác đều phải lội ra chiến hạm sáng ngày 29/3/75 ngoại trừ Tướng Điềm của SĐI/BB bị tử nạn.
Bãi đất trống bên cạnh bây giờ vắng tanh, không thấy một người tị nạn nào, nhìn vào căn cứ HQ có khoảng 20 người binh sĩ và sĩ quan HQ đang tụ tập bàn tán quanh Tướng Thoại, như vậy thì cả căn cứ chỉ còn ngần ấy người, bên TQLC có khoảng 10 người, tôi nhìn về phía cột cờ thì thấy Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, dáng đứng xiêu đổ, lặng lẽ hút thuốc lá, trông ông như người vừa thua một canh bạc cháy túi! Thấy ông không mũ sắt, không đeo súng như mọi lần trong khi pháo của địch đang rải rác rơi, tôi nói một người sĩ quan Bộ binh đứng bên cạnh trở lại phòng họp lấy mũ sắt cho ông.
Bấy giờ, tất cả chúng tôi đều biết địch chỉ tạm thời giảm pháo kích, chắc chắn chúng sẽ pháo kích trở lại và có thể tấn công căn cứ bằng đặc công, chúng đã biết trong căn cứ có nhiều tướng lãnh vì có nhiều trực thăng lên xuống và rất có thể tiền sát viên của chúng đã báo cáo (một tên tiền sát bị phát giác cùng với đầy đủ máy truyền tin trong căn cứ chỉ cách phòng họp chưa đến 50m). Nơi an toàn nhất bây giờ có lẽ là căn cứ Non Nước của TQLC và chúng tôi sửa soạn đi về, hai anh phi công leo lên trực thăng của Tướng Lân, loay hoay một lúc rồi chạy xuống báo cáo, Đ/Úy Đan leo lên trực thăng đề máy mấy lần không được, thì ra trực thăng đã bị hư vì miểng đạn pháo, trực thăng của Tướng Trưởng cũng cùng số phận.Chúng tôi còn nhận thêm hai tin xấu nữa, đó là chiếc xe duy nhất của Thiếu Tướng Lân đã bị trúng đạn pháo không chạy được và chiếc tàu dành cho Tướng Thoại chở tên Lãnh Sự Mỹ đi lúc chiều rồi không trở lại, ngoài cầu tàu thì không có một chiếc tàu nào, vậy là chúng tôi đã hết đường về BTL/SĐ tại căn cứ Non Nước.
Đang tuyệt vọng thì khoảng 11 giờ đêm một chiếc trực thăng không biết từ đâu xà xuống, chúng tôi đã tưởng có cứu tinh thì thấy Tướng Trưởng và người tùy viên leo lên, trực thăng vội vã cất cánh, thế là chưa kịp mừng thì …! Bây giờ nếu gọi TQLC từ căn cứ Non Nước đến đón là điều không tưởng, với tình trạng kẹt đường vì người tị nạn thì TQLC chỉ có cách chạy bộ tới đây như vậy phải mất mấy giờ thì đã quá trễ vì nơi đây đang là một trái bom nổ chậm…
Tướng Thoại đi qua lại kiểm soát các phòng trong căn cứ, sau đó ông vào phòng truyền tin, một lúc sau bước ra mặt buồn hiu, ông cùng với các sĩ quan Hải Quân đứng bàn bạc một lúc rồi họ quyết định bỏ căn cứ, TQLC chúng tôi không còn lựa chọn nào khác, phải đi theo họ mặc dù không biết đi về đâu! Chúng tôi đi qua bãi đất trống mà dân tị nạn tụ tập trước khi bị pháo, trên mặt đất đầy những vũng máu và các mảnh cơ thể nạn nhân! Để tránh lộ hình tích trên bãi đất trống trải, làm mồi ngon cho hỏa lực địch, chúng tôi vòng xuống men theo phía bờ biển, dưới ánh trăng sao, chúng tôi phải vượt qua những tảng đá trơn ướt lớn như những chiếc xe Jeep hoặc GMC, chỉ tội mấy anh người nhái TQLC phải thay phiên nhau cõng ĐT Lương.
Vừa ra khỏi căn cứ Hải Quân khoảng một km, thì địch bắt đầu pháo kích đợt hai, lần này cường độ gấp 10 trước, tiếng nổ liên tục không phân biệt được, căn cứ Hải Quân bị phủ lửa, có lẽ không một sinh vật nào có thể sống được trong đó! Không biết ông bạn “vàng” Phước của tôi có còn trong căn cứ này không? Vì Hải Quân không ai mang theo máy PRC25, nên Tướng Thoại phải mượn máy của TQLC liên tục gọi tàu vào đón, nhưng không có ai trả lời! Tới Spanish Beach, chúng tôi đi vòng lên núi Sơn Trà, nơi đây không có đường, phải vạch bụi cây mà đi, tới lưng chừng núi có một tảng đá lớn bằng một tòa nhà cản lối, chúng tôi ngồi chờ để anh em người nhái TQLC tìm chỗ thấp có thể qua được. Phó Đề Đốc Thoại ngồi xổm đưới đất liên tục gọi máy PRC25 cầu cứu mà không có hồi âm, tôi chợt nghĩ mình đang là nhân chứng của một sự kiện có một không hai trong quân sử:
“Một ông Phó Đề Đốc HQ có dưới tay nhiều trăm chiến thuyền lớn nhỏ quanh đây, vậy mà ông đã phải khản cổ cầu cứu suốt 3 tiếng không ai trả lời! Một ông Tướng TQLC có trong tay cả chục ngàn quân thiện chiến nay bị lâm vào bước đường cùng, ngay trong thành phố Đà Nẵng, với khoảng mười thuộc viên chỉ vì một buổi họp không cần thiết và sai chỗ”.
Theo tin tình báo thì VC sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân lúc 4 giờ sáng 29/3/75 như vậy thì địch đã có đầy đủ yếu tố để pháo kích căn cứ tối hôm 28/3/75 và cuộc họp cao cấp của các Tướng Lãnh QĐI đã diễn ra dưới họng đại bác 130 ly của địch, chúng pháo sớm hơn vì thấy các tướng lãnh đến họp. Khi mới đến căn cứ lúc 7 giờ tối 28/3/75, thấy nhiều ngàn dân tị nạn đang tụ tập trong căn cứ chỉ cách nơi họp khoảng 100m, với cái nhìn của một người lính, tôi đã nghĩ nơi đây không an toàn vì đặc công và tiền sát VC đã trà trộn, Trung Tướng Tư Lệnh QKI, các phụ tá hay sĩ quan Bộ tham mưu của ông chắc chắn phải biết điều sơ đẳng này, có lẽ vì sự vắng mặt của thuộc hạ, thiếu báo cáo tình hình trong căn cứ, khiến ông TL/QĐ vẫn tiếp tục buổi họp tại đây thay vì tại căn cứ Non Nước, nơi đang được TQLC bảo vệ cẩn mật.
Nhìn xuống căn cứ HQ, lửa cháy rực một góc trời, tiếng đại bác 130 ly liên tục nổ như tiếng sấm rền không dứt, bọn VC đang làm một việc vô ích vì căn cứ đã bị bỏ trống, nếu lúc 9 giờ tối 28/3/75 thay vì pháo kích, chúng chỉ cần dùng một toán đặc công tấn công vào căn cứ thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra cho các tướng lãnh của QĐI, và bây giờ nếu đặc công VC đi lên núi thì chúng tôi sẽ lâm nguy.
Đang mải mê suy nghĩ, bỗng nghe giọng nói oang oang quen thuộc của Bác Sĩ Phước, theo tiếng nói tôi tìm ra anh, trong quân phục hải quân màu xanh, đầu đội nón sắt, vai đeo M16 cùng với một giây đạn, tôi đến bên nói đùa:
- Phước, mày om sòm quá, hồi nẫy có mấy thằng đặc công VC hỏi tao mày đi đâu vắng nhà, tao không nói, nên chúng nó ôm AK47 chạy lên núi tìm mày đó.
Phước quay lại nhìn tôi:
- Trời đất, hóa ra là chú mày, hồi nẫy y tá nói có một sĩ quan TQLC súng đạn đầy người đến tìm làm tao đang lo…
- Thôi, mày chỉ đường cho chúng tao đi.
- Tao đâu có biết, tao mới từ Vùng 4 đổi qua được mấy tuần, hồi chiều họ bỏ đi nhưng tao ở lại vì ông tướng cần bác sĩ.
Mấy anh người nhái TQLC tìm được một đoạn núi đá thấp chừng 2m, chúng tôi khó khăn lần lượt vượt qua đến một đoạn đường đi dễ hơn, theo tiếng sóng, chúng tôi đến một bãi biển hoang vắng toàn đá phía trên Spanist Beach, ngoài khơi thấy tàu HQ đang chạy… Tướng Thoại đã quá mệt mỏi nên nhờ TQLC Nguyễn Thế Thụy, âm thoại viên của Tướng Lân, tiếp tục gọi dùm. Khi theo Tư Lệnh TQLC đến căn cứ HQ họp, Thụy, đã thuộc gần hết những tần số giải tỏa đặc lệnh truyền tin, trong đó có của HQ, nên khi Tướng Thoại nhờ liên lạc thì anh thành thuộc “bẻ cổ” máy qua tần số giải tỏa rồi cất tiếng gọi. Như một phép lạ, trong máy có tiếng trả lời, Thụy vội trao ống liên hợp cho Tướng Thoại để nói chuyện với Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy*…
(* gần đây tôi có nhận được điện thư của Thiếu Tá Hy, vị cứu tinh đã tìm ra chúng tôi, thì được biết anh thuộc một đơn vị Hải Quân di tản từ Thuận An về Đà Nẵng, khi địch pháo kích đợt hai, anh ra lệnh cho đơn vị rời vịnh Đà Nẵng, di chuyển đến Spanish Beach để tránh pháo, lúc đó Thiếu Tá Hy đang ở trên ghe Yabuta của Duyên Doàn 12, khoảng 3 giờ sáng ngày 29/3/75. Trong lúc địch pháo kích đợt 2, anh gọi máy đến Trung Tâm Hành Quân Vùng I Duyên Hải không có ai trả lời, vô tình anh quay qua tần số giải tỏa nên nghe đươc lời kêu cứu, anh ra lệnh cho ghe đi vào).
Chuyến đầu tiên chính anh Hy đứng ở mũi ghe kéo Tướng Thoại, Tướng Lân lên, cùng đi trong chuyến này có Đại Tá Lương, và một số sĩ quan, ghe Yabuta là một loại ghe nhỏ không thể đón hết mọi người nên tôi và Đ/Úy Đan ở lại vì chúng tôi muốn chờ anh em TQLC lên thuyền hết rồi mới đi. Tuy ân hận 5 phút vì không đi theo bệnh nhân của mình nhưng tôi cũng yên tâm vì đã đưa cho Đại Tá Lương những thuốc ông cần. Lúc đó tôi và Đ/Úy Đan đứng trên một mỏm đá riêng biệt với nhóm người còn lại khoảng 20 người gồm HQ và TQLC, Thiếu Tá Hy trở lại thêm 3 lần nữa đón hết đám người này, chuyến cuối cùng anh phải mượn một chiếc ghe đánh cá của dân vì ghe Yabuta của anh không đủ nhiên liệu. Theo Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy, việc anh làm đêm hôm đó là tự nguyện thúc đẩy bởi tình đồng đội. Quả thật đây là một gương can đảm và tình đồng đội cao đẹp mà tôi đã được cái vinh dự chứng kiến từ đầu đến cuối.
Khi trời đã sáng, trên bờ biển hoang vắng chỉ còn có tôi và Đ/Úy Đan nên nó càng hoang vắng hơn, chúng tôi đứng trên mỏm đá chênh vênh, nhìn về phía căn cứ HQ, địch đã ngưng pháo nhưng khói lửa vẫn bốc cao, sóng thủy triều đang lên che phủ mỏm đá làm chúng tôi bị ướt đến đầu gối, tôi thật sự “lạnh cẳng” theo cả hai nghĩa, nhìn qua Đan thấy anh đang nhìn tôi vô cảm, chúng tôi chỉ còn chờ có hai chuyện, VC đến trước thì chúng tôi chết, ghe Hải Quân tới thì chúng tôi sống, chợt nghĩ sống hay chết thì giây phút này cũng là giây phút cuối cùng tôi được nhìn thành phố Đà Nẵng thân yêu. Biển vẫn xanh, sóng vẫn rì rầm một điệu nhạc muôn thủa làm dịu lòng người, bình minh vừa ló dạng hắt những tia sáng phản chiếu sóng biển như những thỏi vàng long lanh, trên trời những cụm mây trắng lững thững trôi vô tình như không biết đến cuộc gió tanh mưa máu đang diễn ra phía dưới, từng đàn hải âu vừa rời tổ riú rít đi tìm mồi làm tôi chợt nghĩ đến cuộc rút quân hoảng loạn vô tổ chức này, hôm nay mấy chú hải âu sẽ được no bụng vì sẽ có vô số người chết, có thể trong đó có Đan và tôi.
Khoảng 9 giờ sáng 29/3/75, một chiếc tiểu đỉnh loại LCVP không biết từ đâu tới và ngừng lại cạnh chúng tôi, trên thuyền không có ai ngoại trừ anh Trung Sĩ lái thuyền, tôi và Đ/Úy Đan nhẩy lên, anh Trung Sĩ chẳng nói gì, cho thuyền chạy thẳng ra khơi, chúng tôi cũng không cần biết là sẽ đi về đâu, bây giờ tôi mới thấy Đ/Úy Đan mở máy PRC25 gọi đi mấy nơi. Khoảng 10 giờ sáng thuyền dừng lại bên chiếc HQ 802, chúng tôi dùng thang giây leo lên chiến hạm, có lẽ là những người cuối cùng vì sau đó thang được kéo lên, vị hạm trưởng chiếc HQ 802 là Hải Quân Trung Tá Vũ Quốc Công, ông lịch thiệp vui vẻ chỉ cho chúng tôi tìm đến căn phòng có Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và các sĩ quan TQLC, tôi coi lại vết thương cho Đại Tá Lương sau đó đi lên sân tàu phía trước để tìm chỗ nghỉ ngơi. Trên tàu có khoảng 5,6 ngàn người gồm thường dân và binh sĩ đủ các quân binh chủng của QKI, nhìn thấy họ, tôi thầm cảm ơn Trung Tá Công và thủy thủ đoàn chiếc HQ 802 đã cực nhọc vất vả cứu được nhiều người.
Lên tới sân tàu phía mũi, tôi tìm một chỗ khuất để nằm nghỉ và để gậm nhấm nỗi đau thương nhục nhã của một “tàn tốt”, nhưng tôi không được yên vì gặp lại vài người bạn cũ, trong đó có một niên đệ Y Sĩ Trung Úy Phạm Anh Dũng, anh mặc một bộ đồ bộ binh nhầu nát, chỉ trừ cặp lon trung úy sáng chói, anh cười toe toét tươi như hoa đến bên tôi hỏi vài điều, giữa cảnh nước mất nhà tan này mà anh lại vui vẻ như vậy làm cho tôi ngẹn họng không biết nói gì.
Cam Ranh, 30/3/1975.
Chiến hạm HQ802 nhổ neo xuôi Nam khoảng 11 giờ sáng 29/3/75 mang theo nỗi đau buồn nhục nhã chán chường của quân dân QKI, tàu cặp bến Cam Ranh khoảng 3 giờ sáng 30/3/75, thường dân và binh sĩ bộ binh lên bờ trước, sau cùng mới tới lượt TQLC, một điều trái ngược là thương binh lại lên bờ sau cùng. Tôi và Đại Tá Lương xuống tàu khoảng trưa ngày 30/3/75 lúc thủy thủ đoàn HQ802 đang lau rửa tàu. Loay hoay môt lúc mới tìm được xe tản thương đến Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh lúc 1giờ chiều, tại đây tôi gặp một vị niên trưởng tử tế tận tình giúp đỡ nên việc giải phẫu cho Đại Tá Lương trở nên dễ dàng, cuộc giải phẫu kết thúc thành công lúc 4giờ chiều cùng ngày, trong lúc Đại Tá Lương đang ngủ trong phòng hồi sức, chợt nhớ là tôi chưa ăn gì từ hai ngày nay nên vội vào câu lạc bộ hải quân đối diện với bệnh viện để gọi món ăn, nhìn cảnh thanh bình của quân cảng Cam Ranh mà tôi bỗng chạnh lòng thương sót cho mình, vì đã lỡ yêu thích “gió sương” nên mới ra nhập binh chủng TQLC để rồi được quá nhiều “sương gió”!
Đang suy nghĩ vớ vẩn thì chợt nhận ra một điều khác lạ, lúc mang Đại Tá Lương đến bệnh viện tôi thấy Quân Cảng Cam Ranh đầy TQLC, bây giờ chẳng có ai, hỏi một sĩ quan HQ ngồi bàn bên cạnh thì được biết TQLC đã bắt đầu lên tàu về Vũng Tàu lúc 3giờ chiều, tôi vội trả tiền mặc dù chưa được ăn gì, rồi chạy về bệnh viện. Đại Tá Lương đang ngủ ngon lành, nhưng tôi không có lựa chọn nào khác là phải đánh thức ông dậy, chúng tôi mượn một chiếc xe hồng thập tự lái thẳng đến TTHQ/HQ Vùng II Duyên Hải, khi bước vào Trung Tâm HQ tôi thấy Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang ngồi uống café với mấy sĩ quan Hải Quân khác, chưa kịp chào kính thì ông đã đứng dậy đưa tay bắt, miệng hỏi:
- Sao bây giờ bác sĩ còn ở đây, TQLC đang lên tàu HQ 802 về Vũng Tàu?
- Tôi mổ cho ông Đại Tá bị thương mới xong…
Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh suy nghĩ một giây rồi nói:
- Thôi được, để tôi giúp bác sĩ.
Nói xong, ông bốc máy nói chuyên một lúc rồi ra lệnh cho hai người cận vệ đưa chúng tôi ra cầu tàu BTL Vùng II Duyên Hải. Có một điều đặc biệt ở ông tướng này làm tôi nhớ mãi là khi tôi chào kính cám ơn ông thì ông chỉ mỉm cười thân mật bắt tay tôi và lịch sự chúc chúng tôi thượng lộ bình an.
Khi chúng tôi đến cầu tàu thì HQ802 đã rút thang và sửa soạn hải hành, có lẽ được báo trước nên trên tàu thả thang lưới xuống để chúng tôi leo lên, hai anh cận vệ của Tướng Minh cõng Đ/Tá Lương lên tàu rồi trở xuống…Chúng tôi là những người cuối cùng lên tàu.
Vũng Tàu 31/3/1975.
Chiếc HQ802 nhổ neo lúc 6giờ chiều 30/3/75, nhưng vì sóng và gió ngược nên mãi đến 8giờ tối mới rời Quân Cảng Cam Ranh để xuôi Nam về Vũng Tàu, trên tàu chở khoảng 4000 tàn binh của SĐ TQLC (TT2TQLC,trang 551), như vậy chỉ có 1/3 quân số của SĐ thoát được về Cam Ranh, gần 8000 TQLC còn lại thì hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà Nẵng. Đa số các TQLC tinh thần đổ nát và được mặc quần áo mới rộng thùng thình, không có vũ khí, vì khi bơi ra chiến hạm từ căn cứ Non Nước Đà Nẵng sáng ngày 29/3/75, các anh đã phải bỏ lại vũ khí và quân phục trên bờ. Được biết chỉ có LĐ468 của Đại Tá Ngô Văn Định lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu Hải Quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ, cuộc lui binh của LĐ258 và 369 TQLC tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi mới lên được tàu, những người còn lại thì...(TT2TQLC, trang 578-579). Ngoài ra tôi còn được biết SĐTQLC đã có cái vinh dự bảo vệ cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tá túc trong đêm ngày 28/3/75 tại căn cứ Non Nước để rồi sáng ngày 29/3/75 hộ tống ông lội lên chiến hạm sớm nhất, trước khi đi, lại còn được nghe ông đã nói một câu đáng được ghi vào quân sử: “Coi như đây là một cuộc tự thoát” (Đ/tá Trí, TT2TQLC,trang 548).
Sư Đoàn TQLC với quân số gần 12.000, là một Sư đoàn Tổng trừ bị của quân lực VNCH, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, đây là một trong những Sư đoàn thiện chiến nhất mà sở trường là di động, đánh những trận địa chiến lớn, tấn công những đại đơn vị địch. Sau chiến thắng Quảng Trị năm 1972, Sư đoàn này bị QĐI xin giữ lại để làm lính Địa Phương Quân giữ đất cho QKI. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhiều lần đòi SĐ/TQLC về, để làm những nhiệm vụ khác quan trọng hơn mà lần cuối cùng là ngày 22/3/75, (Tại sao tôi bỏ QK1, NQT) nhưng QĐI đã không trả, để rồi ngày 29/3/75 SĐ/TQLC không được đánh với địch một trận nào mà bị tan hàng chỉ vì một cái lệnh lui binh hoảng loạn và không chuẩn bị tính toán.
HQ 802 về đến Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31/3/75, nhưng mãi đến 9giờ tối tôi mới đặt chân lên cầu tàu với tâm trạng nhục nhã chán chường của một bại binh, nhìn trong đám đông tôi thấy anh ruột tôi, Bác Sĩ Pham Lê Thăng lúc đó đang làm Trưởng Ty Y Tế tỉnh Phước Tuy, đang tất tả ngược xuôi tìm tôi trên cầu tàu, gặp tôi anh mững rỡ hơn bắt được vàng, anh nhìn tôi từ đầu đến chân để biết tôi không bị thương rồi hỏi.
- Cậu đã ăn gì chưa, anh có mua khúc bánh mì cho cậu, cả nhà đều lo cho cậu.
Tuy không có một hột cơm nào trong bụng từ ngày 28/3/75 nhưng tôi vẫn nói để anh tôi yên lòng.
- Em còn no, anh cứ đưa ổ bánh cho em để ngày mai ăn sáng.
Hai anh em hàn huyên một lúc rồi anh tôi phải về để báo tin mừng cho gia đình, trong ánh đèn vàng hiu hắt trên cầu tàu, tôi đứng đó, nhìn theo bóng anh tôi khuất trong màn đêm mà lòng đau đớn, tôi đã chẳng làm nên cơm cháo gì để bảo vệ đất nước, bây giơ lại làm cho cả gia đình lo lắng…
Orange County-California, 2010.
Một buổi sáng mùa Thu có nắng vàng rực rỡ, ba anh TQLC già ngồi nhâm nhi nước trà tại Factory Cafe là tôi, Trần Như Hùng và Cao Xuân Huy, trên bàn có một tờ báo cũ đăng bài "Tại Sao Tôi Bỏ QKI" mà tác giả là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chúng tôi chia nhau đọc, Tướng Trưởng phủ nhận tất cả tội lỗi của các tướng lãnh QĐI bị kỷ luật và đổ tội làm mất QKI cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đọc xong tôi thắc mắc hỏi hai đồng đội:
- Quân Đoàn I có quân số tương đương với địch, không đánh một trận nào cấp trung đoàn mà lại tan hàng chỉ trong có năm ngày, vậy mà không ai có lỗi ?
Cao Xuân Huy cười rồi nói:
- Chỉ có mấy thằng lính là có tội thôi!
Đây cũng là câu cuối cùng Cao Xuân Huy nói với tôi vì chỉ mấy tuần sau anh đã lên tàu suốt để trở về bãi biển Thuận An tìm lại khẩu súng bị gẫy tháng Ba năm 1975.
California, 23/3/11
Bằng Phong Phạm Vũ Bằng.
Viết cho mùa đại tang của binh chủng TQLC.
Nguồn Thủy Quân Lục Chiến
Tài liệu tham khảo:
- Tuyển Tập 2 Thủy Quân Lục Chiến(TT2TQLC)
- Can Trường Trong Chiến Bại (CTTCB) PĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại.
Đinh Bá Truyền and 1 other
Share

 Bản đồ tỉnh Quảng Đức (tỉnh lỵ là Gia Nghĩa).

Tỉnh này phía đông giáp với Cambodia, phía đông nam giáp với tỉnh Phước Long, phía nam giáp với tỉnh Lâm Đồng, phía đông bắc giáp tỉnh Darlac, và phía đông giáp tỉnh Tuyên Đức.
Quốc lộ 14 bắt đầu từ ngã tư Chơn Thành, xem bản đồ 2, qua Đôn Luân (tên cũ Đồng Xoài), Kiến Đức (sát biên giới), Dak Song, Đức Lập , Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, và điểm cuối là quận Dak Peh (có trại LLĐB cùng tên). Trước 1954 (thời Tây), đường này đi tới quận Thượng Đức của tỉnh Quang Nam. (Sau khi ông Diệm chết, đoạn đường mất an ninh nên bỏ hoang). Từ Thượng Đức đi về phía đông gặp Đại Lộc trên QL 1, quẹo trái đi về Đà Nẳng.
Đường mòn HCM, tuy chạy trên đất Lào, nhưng có đoạn đi sát quận Đức Lập, do vậy ngày 9/3/1975, quân CSBV đã tấn công quận này để đoàn xe tiếp tế có thể dùng QL 14 để dễ dàng tiến về Sài Gòn




TRUNG CỘNG ĐÃ DỒN HẾT TIỀN CƯỢC VÀO HÀ NỘI

- "Không thể lấy bàn tay che mặt trời” và “không có lửa, sao có khói”.
- “Nếu buộc phải ngửi cứt thì nên ngửi cứt Tây, không nên ngửi cứt Tàu” -- Ông HCM đã trả lời trong một phỏng vấn của một nhà báo phương Tây. Đúng là ghét của nào trời cho của nấy.
Tôi đăng lại bài này để các bạn hiểu thêm về SỰ GIÚP ĐỠ TOÀN DIỆN của TC nhằm giúp CSVN nhuộm đỏ Đông Dương (từ 1949-1975) mà hậu quả là VN ngày càng lệ thuộc vào TC.
===========
Lời mở đầu: Trước đây, trên đài BBC đã có bài nói về sự tham dự của quân TC trong trận Điện biên phủ 1954 -- do các viên chức TC phổ biến.
Bài dưới đây dịch từ quyển Looking Back on the Vietnam War của William Head, ấn bản 1993 (từ trang 106-114). Tác giả W. Head đã dựa vào các tài liệu mà một phần lấy từ báo chí chính thức của TC. Theo tôi nghĩ bài viết này đã nêu được nguyên nhân chánh dẫn đến thái độ trịch thượng và đàn anh của TC trong thời gian qua.
Ba dấu chấm trong ngoặc (…) tượng trưng cho những đoạn nói về chính trị giữa hai phe trong cuộc chiến VN, tôi xin lược bỏ vì nghĩ rằng điều này không làm thay đổi ý tưởng của tác giả W. Head. Sau đây là phần chuyển ngữ.
======
I/ TRUNG CỘNG ĐÃ DỒN HẾT TIỀN CƯỢC VÀO HÀ NỘI
“Trong những năm đầu của thập niên 1960, Bắc VN đã là một trong những đồng minh về chính trị và quân sự thân thiết nhứt của Bắc kinh (BK). Khi cuộc khẩu chiến giữa TC và Liên Xô (LX) leo thang, và khi LX dưới thời Krushchev nhích từng bước tiến tới sự không can dự vào cuộc xung đột đang leo thang ở Đông dương thì Hà Nội (HN) ngày càng ngã theo BK. Vào khoảng đầu năm 1964, HN đã thực sự đứng hẳn về TC khi phong trào CS quốc tế đã tách làm hai nhánh. Khi Krushchev mất chức và Mạc tư Khoa theo đuổi một chánh sách can thiệp mạnh hơn dưới thời Kosygin và Brezhnev, thì dù cho HN đã cố gắng giữ khoảng cách bằng nhau đối với hai đàn anh nhưng quan hệ HN-BK vẫn luôn luôn thắm thiết. Theo lời ông Hoàng văn Hoan (từng là phó chủ tịch quốc hội VN), cho tới năm 1968, HN luôn thỉnh thị ý kiến BK trước khi quyết định một việc gì quan trọng (4). Tóm lại Mỹ đã lâm chiến với một trong những đồng minh thân thiết nhứt của TC. Ảnh minh họa:
. .
Trọng lượng của quyền lợi của TC tại bắc VN đã được phản ảnh qua quy mô của hỗ trợ của TC đối với HN trong cuộc chiến. Theo BK, giữa 1950 và 1978, TC đã cung cấp chiến cụ tương đương với hơn 20 TỈ ĐÔ LA cho bắc VN. Số lượng này gồm vũ khí, đạn dược, và quân trang quân dụng đủ trang bị cho 2 triệu binh sĩ. Chỉ trong năm 1962 thôi, nhằm nâng cấp khả năng chiến đấu cho lực lượng CS tại nam VN để đối phó với những cố gắng chống du kích của Mỹ và VNCH, TC đã cung cấp 90.000 súng máy và súng trường. Theo những tiết lộ sau cuộc chiến, TC đã cung cấp sự hỗ trợ SỐNG CÒN cho bộ máy hậu cần (tiếp vận) của bắc VN gồm việc cung cấp hơn 30.000 xe tải, 2 triệu tấn xăng dầu, và sửa chữa 900 km đường xe lửa. TC cũng cung cấp cho HN một số lượng lớn đường ray, đầu máy và toa xe lửa; đã trang bị toàn bộ cho vài trăm nhà máy cho bắc VN; và đã cung cấp hơn 300 triệu mét vuông vãi và 5 triệu tấn gạo; cộng với một số lượng lớn lao những mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của dân chúng bắc VN. (Thời gian đi tù ở miền Bắc từ 1977-81, tôi nhận thấy các nông cụ trong các trại tù đều sản xuất tại TQ; lương khô 701, quần áo, mền, kể cả quần đùi cho tù; áo khoác dài mùa đông 2 lớp cho CA cũng của TC.- Tài). TC cũng cho HN ngoại tệ mạnh tương đương vài trăm triệu đô (6).
. . .
Có thêm những sự kiện quan trọng nói lên sự hỗ trợ mạnh mẽ của TC cho HN trong giai đoạn giữa thập niên 1960 (12).
Thứ nhứt, vào MÙA XUÂN 1966, gần 50.000 lính TC đã có mặt tại bắc VN để điều khiển súng phòng không, điều hành công tác hậu cần và sửa chữa các tổn thất do bom gây ra. Theo thống kế chính thức của TC, giữa tháng mười 1965 và tháng ba 1968 (khi quân TC đã rút đi) có tổng cộng hơn 320.000 quân TC đã phục vụ tại bắc VN với năm cao nhứt lên tới 170.000 người (13). Không quân của bắc VN đã xử dụng các sân bay ở nam TC. Một hệ thống ra-đa bao gồm các trạm ở nam TC đã được lập để bảo vệ không phận bắc VN cũng như theo dõi và cung cấp các hoạt động của không quân Mỹ cho KQ của bắc VN.
Ảnh minh họa:
Thứ hai, các đơn vị giải phóng quân của TC được đưa vào bắc VN vẫn mặc quân phục chính quy, giữ nguyên phù hiệu của đơn vị và đã xử dụng cách liên lạc thông tin không có độ an ninh cao. Họ cố tình cho người Mỹ biết ý định và quyết tâm của họ trong cuộc chiến VN.
Thứ ba, trong một số trường hợp, máy bay TC đã giao chiến với máy bay Mỹ khi họ lỡ xâm nhập vào không phận TC để truy kích đối phương: BK cho biết đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ và gây hư hại cho 2 chiếc khác. Dù cho thông tin này cũng như thông tin về số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên bắc VN bởi máy bay bắc VN – nhưng do phi công TC lái – không được một nguồn tin độc lập kiểm chứng, nhưng điều này có thể đã xảy ra.
Theo những báo cáo sau này của TC, thương vong của quân TC, phục vụ tại bắc VN, do bom Mỹ gây ra khoảng 20.000 người gồm chết và bị thương.
Thứ tư, quân TC đã xây một khu phức hợp lớn lao, với hầm hào kiên cố tại Yên Bái (khoảng 140 km tây bắc HN), nằm trên đường xe lửa từ Côn Minh đến HN dọc theo sông Hồng. Khu phức hợp này với những súng cao xạ đặt trong hang cũng như trên đường ray cộng với một phi đạo lớn, hình như được thiết kế để làm một thủ đô dự phòng trong trường hợp HN bị thất thủ bởi một cuộc tấn công của quân Mỹ và VNCH, hoặc để làm một căn cứ cho quân TC trong trường hợp quân TC can thiệp ồ ạt và công khai vào cuộc chiến VN.
. . .
Vào cuối năm 1967, vùng đệm/cấm bay, đối với phi công Mỹ, dọc theo biên giới Trung-Việt đã thu hẹp còn 5 km. Để đáp lại sự bành trướng này của KQ Mỹ, số sư đoàn phòng không của TC ở bắc VN đã tăng từ hai lên ba (24). “
CHÚ THÍCH :
4 . Hoàng văn Hoan, “Sự phản bội tình hữu nghị Việt-Trung của Lê Duẫn“, sách bằng tiếng Hoa, (BK : nhà xuất bản Nhân dân , 1982).
6 . Hoàng văn Hoan, “Không được phép bóp méo sự thật về tình hữu nghị Việt-Trung trong thời chiến”, (BK : Nhân dân nhật báo, ngày 27/11/1979): trang 1, 5.
12 . Allen Whiting, The Chinese Calculus of Deterrence, 1975: trang 170-95.
13. Nhân dân Nhật báo, BK, ngày 21/11/1979: trang 4.
24 . Theo thư của Allen Whiting gửi cho tác giả, ngày 9/4/1991.




II/ THÔNG TIN THÊM VỀ QUAN HỆ VIỆT TRUNG

A/ Quân viện của TC cho CSVN, chỉ so sánh giữa năm 1964 với 65.
- Súng nhỏ (gun): tăng 2.8 lần, từ 80,500 lên 220,767 khẩu.
- Súng đại bác (piece of artillery/có lẽ kể cả cối 61 ly, 82 ly, 120 ly và súng không giật 57 và 75 ly -- người dịch): tăng khoảng 3 lần, từ 1.205 lên 4.439 khẩu.
- Đạn súng nhỏ (gun bullet): tăng gần 5 lần, từ 25.2 triệu lên 114 triệu viên.
- Đạn đại bác (artillery shell): tăng gần 6 lần, từ 335.000 đến 1.8 triệu viên.
Giữa năm 1966-67, nguồn quân viện này giảm nhẹ so với năm 1965 trước khi đạt cao điểm vào 1968. Từ 1969-70, giảm mạnh khi Bắc Kinh rút lực lượng hỗ trợ khỏi miền Bắc VN. Nhưng tới năm 1972 lại có sự tăng gia quân viện cho bắc VN, hậu quả của quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
B/ Một chi tiết khác.
Năm 1967, để giúp đỡ cho 1.890 quân chính quy CSBV tại Thượng Lào, ngoài súng đạn và quân dụng, TC đã giúp: 5.670 bộ quân phục (ba bộ mỗi năm cho một người), 5.670 đôi giày (3 đôi mỗi năm cho mỗi người), 567 tấn gạo (0.8 kí mỗi ngày cho mỗi người), 20.7 tấn muối , 55.2 tấn thịt (meat), 20.7 tấn cá, 20.7 tấn mè và đậu phộng, 20.7 tấn đậu, 20.7 tấn mỡ, 6.9 tấn xì-dầu, 20.7 tấn đường trắng, 8.000 bàn chải răng, 11.100 ống kem chải răng, 24.700 cục xà bông thường, 10.600 cục xà bông thơm, và 109.000 gói thuốc lá. Tổng cộng có 687 món khác nhau bao gồm banh bóng bàn, bóng chuyền (volley ball), kèn harmonia, bộ bài tây, kim gút, mực viết máy (fountain pen ink), kim máy may (sewing needle), và hạt giống rau cải (vegetable seed); xem chú thích 28.
C/ Dựa theo báo cáo về "cuộc sống khó khăn của lính CSVN" của các ký giả TC khi họ thăm các đv CS tại vùng núi của Nam VN vào năm 1965, tháng 11/65 Mao ra lịnh "phải gửi mùng, quần áo, thịt hộp (canned food), thịt xấy (dried meat), thuốc, quần áo kỵ nước (có lẽ bằng ni-lông -- người dịch), võng, và các thứ khác với số lượng lớn" cho những đv này. Chu ân Lai nói rõ, các thứ này phải "dễ dùng, dễ mang và dễ giấu". Ông yêu cầu các thùng quân trang quân dụng này ko nặng quá 30 kí vì các phụ nữ VN ko thể mang trọng lượng như vậy trên đầu hay vai", xem chú thích số 30.
Dịch từ: China & the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, nxb The University of North Carolina Press.

III/ CẬP NHẬT THỨ NHỨT.

Để giám sát việc chuyển vận quân viện cho VNDCCH, Bắc Kinh trong năm 1965 lập một nhóm lãnh đạo đặc biệt với đại tướng La Thụy Khanh (Luo Ruiqing), tổng tham mưu trưởng Giải Phóng Quân TQ từ 1959-65, làm giám đốc:
Quân viện cung cấp bởi TC, LX, và các nước XHCN khác được chở bằng xe lửa đến các TP gần biên giới VN, như Bằng Tường (Ping Xiang) tỉnh Quảng Tây, nơi mà chúng được chở sang VNDCCH bằng xe lửa hay xe tải. Chẳng bao lâu những quân viện này đã quá khả năng vận chuyển của VN, và các ga xe lửa và nhà kho TQ đầy ấp quân viện này. Bắt đầu năm 1967, TQ đã dùng hơn 500 xe tải để giúp chở những hàng này vào VNDCCH.
Để đẩy mạnh việc vận chuyển quân viện đến Nam VN, TQ đã lập một đoàn tàu biển bí mật để chở hàng hóa tới vài đảo ngoài khơi miền trung VN để chuyển tiếp tới miền nam. Một cảng bí mật được lập tại đảo Hải Nam để phục vụ đoàn tàu biển này. Bắc Kinh cũng mở một đường biển rất tốn kém tới KPC để chuyển vũ khí, đạn, thực phẩm, và thuốc men cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc tại Nam VN. Giữa 1965 và 1967, vũ khí TQ trang bị cho 50.000 quân đã tới cảng Sihanoukville. Một số vũ khí này trang bị cho quân đội KPC.
Biểu đồ (chart) dưới đây cho thấy tầm mức của quân viện từ 1964-1975 của Bắc Kinh cho VNDCCH: Quân viện của TQ cho Bắc VN tăng nhanh trong năm 1965.


NHẬN XÉT: Trước đây, các tỉnh ven biển miền Trung VN thỉnh thoảng thấy những bao gạo 50 kí, bọc ni lông kín nước, của TC tấp vào bờ . Thời gian đi tù ở miền bắc từ 1977-81, tôi thấy trong các HTX nông nghiệp, các nông cụ đều làm tại TC. Quần áo của tù cũng như của CA cai tù gồm cả quần đùi, áo khoát đi mưa và áo khoát mùa đông, v.v... của CA đều làm tại TC.
Riêng quân trang của bộ đội chính qui Bắc Việt từ đầu tới chân đều do TC sản xuất.
Lúc được chuyển trại bằng tàu từ nam ra bắc, chúng tôi được phát lương khô 701 của quân đội TC, xem hình, làm từ các loại bột như đậu xanh, v.v... nghiền nát và trộn với đường và đóng thành bánh, rất bổ dưỡng. Có thể ăn liền hay nấu thành chè rất dễ dàng.
Dịch từ : China and Vietnam war , 1950-1975.
(còn tiếp)

IV/ CẬP NHỰT THỨ HAI

"NHƯ CÁ TRONG NƯỚC: theo công thức của Mao, quân đội cách mạng của CSVN với đồng phục xanh lá cây và nón cối đang 'bơi lội trong dân'. Ở đây, tại sân vận động Đà Nẳng, 100.000 khán giả đã được tập họp cho buổi diễn hành lớn cho chiến thắng."
Dịch từ tuần báo Paris-Match số đặc biệt về 30.4.75.
Nhận xét: ngoài các biểu ngữ bằng tiếng Việt, đã xuất hiện biểu ngữ bằng tiếng Hoa; có lẽ nhằm báo cáo thành tích với đàn anh TC. Không rõ ngày chụp nhưng phải sau ngày 30.3.75, ngày Đà Nẳng lọt vào tay quân CSBV.


Ngày 11 tháng 4 2024.