Saturday, June 30, 2018

Trần Đình Thế - Bới đất tìm xương

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Trần Đình Thế

Từ một mẫu tin nhắn
Những ngày này Sàigon, một buổi trưa hè nóng bức, tôi lang thang vào internet một cách bất định thì vô tình đọc được một tin nhắn tìm người thân : “Gia đình muốn tìm tin tức về người anh của chúng tôi Lê Văn Tài – Số quân 74/70/428, thuộc Tiểu đội 1 –Tiểu Đoàn 38-Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân. Trong lúc rút quân từ Tây Ninh về thì mất tich……”

Tôi dừng lại suy nghĩ một hồi rồi quyết định sẽ liên lạc với người thân của gia đình Chú Tài – vì Bố tôi chính là Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự - Tiểu Đoàn Trưởng -  Tiểu Đoàn 38-Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân với mong ước nhỏ nhoi là cung cấp thông tin một cách khách quan nhất. Thông tin từ Mẹ tôi về thời điểm bà nhận xác Bố tôi vào ngày 3/5/1975 là tại trường tiểu học Trung Lập Hạ – xã Trung Lập Hạ - Huyện Củ Chi. Tôi liền liên lạc với Cô Hương là người nhà của Chú Tài….

Ngày thứ nhất :
Cái cảm xúc trở lại nơi chiến trường xưa làm lòng tôi xao động, lúc trên đường đầu óc cứ ngẩn ngơ hình dung ra khoảnh khắc đau buồn nhưng kiêu hùng, nơi đây vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, Bố tôi và các chiến hữu đã đánh một trận để đời và đã anh dũng nằm xuống cho quê hương, thỏa ước lòng kiêu hãnh, không bao giờ đầu hàng - họ những chiến sĩ  BĐQ oai hùng đã chiến đấu đến những viên đạn cuối cùng.

Quãng đường khoảng 50 km đưa tôi đến trường tiểu học Trung Lập Hạ – xã Trung Lập Hạ - Huyện Củ Chi. Tôi đứng trước cổng trường mà lòng đau thắt từng cơn, hình dung cảnh các chiến sĩ BĐQ  trói tại sân trường, bị nhục mạ, hành hạ….. trước khi đem ra cái mương gần đó để tàn sát bằng những họng súng của bọn du kích  tại địa phương, sao mà não lòng. Một cơn gió mạnh mẽ, cùng với cái nắng gay gắt mang cát bụi bất chợt đi ngang qua làm tôi chợt bừng tỉnh…. Ghé vào quán nước nhà tranh vách đất ven đường ngồi trấn tỉnh lại, tôi hỏi thăm chủ quán nước và họ cho biết tin; có một hố chôn tập thể cách chỗ tôi ngồi khoảng 1km, trên bờ ruộng của ông Mười Nghe, chính xác là 12 người lính của BĐQ bị tàn sát sau khi đã chiến đấu đến cùng và không chịu đầu hàng, họ bị bắt tại Hương lộ 2… tôi gần như mất hồn… thầm nghĩ như vậy là đúng rồi. Bỗng nhiên có một người được gọi là Cô Sáu ở đâu xuất hiện như một định mệnh, Cô tự nhiên kéo ghế lại sát bàn của tôi đang ngồi và nói như đang lên đồng: cái hố chôn tập thể là của lính Ông cọp trên vai trái, mà hình như người ta gọi là Biệt Động Quân, nghe đâu rút quân từ Tây Ninh về đến đây bị phục kích” tôi buộc miệng reo lên: như vậy là đúng rồi…..


Tiếp đó Cô Sáu nói, ngoài BĐQ rút từ Tây Ninh về đánh trận sau cùng, không có trận đụng độ nào hết…. chỉ có là sau ngày 30.4 bọn du kích đi lùng sục các dân địa phương mà đi lính VNCH, chúng cũng mang ra mà tử hình hết...... Cô còn nói với tôi là phải gặp chủ của cái ruộng đó là ông Mười sẽ biết được thêm tin tức, nói xong Cô đứng lên đi về như một làn gió mà tôi quá bối rối chưa kịp để cám ơn….

Sau đó tôi xin phép đứng lên và ra ngay bờ ruộng nơi tử hình 12 quân nhân BĐQ, nó trước đây là những cái hào được đào để chống chiến xa…. Người chủ quán nước hướng dẫn ra tận nơi đó là cái mô đất chôn 12 người, bọn du kích tập trung các quân nhân BĐQ đứng trên mép của cái mương rồi xả một loạt đạn AK, các thi thể ngã rộp như cây chuối bị đốn, sau đó chúng bỏ đi, người dân xung quanh thấy tội nên đã đắp vội nắm đất cho những anh hùng vô danh này….


(nơi thắp nhang là trung tâm của hố chôn tập thể)

Cảm giác lúc đó khó diễn tả, tôi cứ nhắm nghiền mắt và rơi lệ, giọt nước mắt của sự tiếc thương,đau đớn, giọt nước mắt của lòng căm phẫn….. để lắng nghe cũng như để hình dung ra thời khắc đó, chiều ngày 30 tháng 4 của 36 năm về trước…. tôi như dại người nhưng vẫn có giữ bình tĩnh nhằm để tìm hiểu thông tin một cách chính xác nhằm xác định bốc hài cốt cho Chú Tài – là người lính truyền tin ở lại sau cùng với Bố tôi.

Ngày thứ hai :

Những dòng chữ tìm người thân tưởng chừng như vô cảm trên internet, nhưng chan chứa khát vọng muốn tìm được tông tích của người thân, làm cho tôi có nhiều động lực đễ phải cố gắng tìm  được nơi diễn ra trận đánh và những cái chết đầy anh hùng của các quân nhân BĐQ đã oai dũng chiến đấu đến phúc cuối cùng cùng với Bố tôi.

Tiếp tục lên đường chạy qua nhà Chú Mười, ông là chủ ruộng nơi có cái hố chôn tập thể, như một sự sắp đặt ngẫu nhiên hay có sự trợ giúp của một sự huyền bí nào đó, ngày tôi nói chuyện cũng là ngày ông vừa từ Saigòn về sau thời gian nằm bệnh viện. Chú hỏi ngay vào vấn đề : tôi có giúp được gì cho mấy chú? Tôi bắt đầu câu chuyện : cháu là người thân của một trong mười hai người nằm ở cái hố chôn tập thể đó, giờ Chú có thể kể lại chi tiết chính xác về cái hố chôn này không?

Chú Mười vội pha ấm trà và châm điếu thuốc hút, ông kể: lúc thời điểm đó thì tôi không chứng kiến việc này, nhưng sau ngày 30/4 người dân ở đây ai cũng biết là cái hố chôn 12 người lính là nằm chính trên bờ ruộng của tôi, tôi trồng lúa nhưng không dám trồng trên phần mộ đó, đến dịp rằm hay Tết tôi đều mua đồ cúng cho mấy ổng và cầu mong là người thân sẽ tìm đến và mang họ về. Tiếp theo ông nói, chính xác theo lời kể thì là 12 quân nhân của BĐQ nghe nói rút quân từ Tây Ninh – khu vực ấp chợ Rầy – Khiêm Hanh – Bầu Đồn về đến đây thì bị phục kích cũng được chôn ở cái hố đó. Tôi tiếp lời, như vậy Chú có biết ai là du kích hay những người tham gia trận đánh đó không?

Ông rít một hơi thuốc thật sâu và nói : hiện nay chỉ còn một người có thể biết chính xác là ông Út – trước đây là du kích ở địa phương này, may ra ông có thể xác định cho các chú, tôi như vừa nhặt được vàng, vừa mừng, hồi hộp và lo lắng…. không biết là họ có thể tận tình giúp đỡ hay không, cho dù cuộc chiến đã xãy ra 36 năm… tôi chợt rùng mình…

Sau lời cám ơn và không quên tạm biệt Chú Mười, tôi nói : cháu xin đại diện gia đình kính mong Chú tạo điều kiện để bốc mộ của 12 người cho họ về Chùa để siêu thoát… Chú ấy trả lời ngay : Tôi sẽ tạo mọi điều kiện cần thiết đễ các chú bốc mộ, giống như tôi làm công đức, ông nở một nụ cười nhân hậu và hạnh phúc.

Đường từ Củ Chi về Saigòn trời bỗng mưa nặng hạt, những cơn gió xào xạc mang theo những giọt mưa rơi làm tôi cay mắt… nhưng không tôi đã bật khóc vì bao nhiêu kỷ niệm tràn về… khóc và buồn cho cái bản tính ích kỷ của mình vì trước đây tôi luôn luôn nghĩ rằng  chỉ có Bố tôi là anh hùng nhưng sau khi thực hiện cuộc đi tìm mộ này tôi mới nhận biết một điều thiêng liêng cao cả là, họ những người đã cùng chung lý tưởng với Bố tôi cũng quá xứng đáng là những anh hùng vị Quốc vong thân, và dù có muộn màng họ sẽ nằm trong nơi trân trọng và đáng quí nhất trong trái tim và tâm hồn của mọi người. Họ thật sự đúng là những “người chiến sĩ vô danh”. 

Ngày Thứ ba :

Trằn trọc thao thức cả đêm không tài nào chợp mắt được, đầu óc tôi có quá nhiều suy tư và trắc ẩn… cảm giác vừa mừng vừa lo, vừa hạnh phúc vừa đau khổ… cầu mong trời mau sáng để tôi lên đường đi Củ Chi để gặp lại nhân chứng sống và duy nhất còn lại đó là chú Út – người du kích năm xưa. Có thể hiểu được nỗi lo trăm mối của tôi vào thời điểm đó : có thật sự là cái hố chôn mà chính tay Mẹ tôi 36 năm về trước đi tìm xác Bố tôi đã đào lên và lắp lại, có thật, sự là cái hố của 36 năm về trước và có chú Tài không? Mà nếu có chú Tài thì lấy gì chứng minh nếu không có thẻ bài, thẻ căn cước, hoặc các loại giấy tờ khác…

Đường về Củ Chi dường như ngắn lại, tôi đến ngay ngã tư Tỉnh lộ 2 và Hương lộ 7 là nơi TĐ 38 rút quân từ Tây Ninh về cố gắng đến Đồng Dù – nhưng trên thực tế Đồng Dù đã thất thủ vào ngày 29-4-1975 mất rồi. Tôi đứng yên lặng một hồi lâu, đốt vội điếu thuốc, đứng tựa vào thành cầu Sạn nơi đã diễn ra trận đánh nhằm hồi tưởng lại thời khắc của 36 năm về trước.


 (Cây cầu Sạn nơi diễn ra trận đánh vào giờ 25 của cuộc chiến)

Tiếng xe chạy qua lại làm tôi không thể nào tập trung được, tôi quyết định tiếp tục rong rủi lên đường, chạy thêm một đoạn đường nữa là đến nhà chú Út, nhà ông nằm sâu trong một con hẻm nhỏ sình lầy lội, nhà ông bán quán nước và cơm trưa cho các công nhân của một xí nghiệp gần nhà.
Tôi dừng xe lại như một người khách bình thường, kêu một ly café đá tôi hỏi người phục vụ: có phải đây là nhà của chú Út không? Người con gái liền trả lời: Ba đang ngủ, anh tìm Ba có việc gì không? Tôi liền đáp: em vui lòng gọi Ba dậy, anh ở Saigon xuống có việc cần hỏi Ba….

Tôi nín lặng và hồi họp trong khi chờ ông thức dậy, 10 phút trôi qua mà tưởng chừng như dài vô tận. Và ông đã bước ra, dáng vóc còn mệt mỏi và ngái ngủ. Tôi mời ông ngồi và bắt đầu câu chuyện : cháu từ Sài Gòn xuống, vì  cháu có người quen nhờ đi tìm cái hố chôn tập thể ở ngoài tỉnh lộ 7, chú Út liền nói : đúng rồi, ở đó có cái hố chôn nhưng tôi không còn nhớ gì hết?..... Tôi giống như từ trên mây rơi xuống mặt đất, cố kiềm nén cảm xúc, tôi mời ông uống nước và tiếp tục câu chuyện. Tôi kể ông nghe toàn bộ câu chuyện đã nói với chú Mười và Cô Sáu…. Ông liền đột ngột thay đổi cách nói chuyện : ông kể là lúc đó khoảng 11h00 đến 12h00 trưa thì người dân về báo là có một nhóm lính được trang bị đầy đủ súng, máy truyền tin… đang tiến về hướng căn cứ Đồng Dù có bắt theo vài du kích để dẫn đường và dường như họ không đến địa điểm tập trung để đầu hàng.

Du kích xã tất cả ở đây rất đông vì thời điểm này xã Trung Lập Hạ đã là vùng giải phóng vào ngày 29-4, ngày mà căn cứ Đồng Dù thất thủ. Tôi nói tiếp : cháu là người được người nhà nhờ đi tìm cái hố chôn vì họ có thông tin là người nhà họ bị chết tại khu vực này sau khi rút quân từ Khiêm Hanh –Bầu Đồn – Tây Ninh về. Chú Út chợt reo lên đúng rồi, tôi nhớ ra rồi dẫn cánh quân đó về có ông Thiếu Tá rất đẹp trai, lúc đó du kích của tất cả khu vực đều tập trung để đánh chặn TĐ đó, tôi như đứng tim vì câu nói vô tình của chú Út về Bố tôi – nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh : cháu có liên hệ được với vợ của Ông Thiếu Tá đó vì Cô ấy là người chỉ cái hố chôn này. Chính Cô ấy là người lúc đi nhận xác đã tự tay bới cái hố đó lên khi đi nhận xác chồng, cái hố chôn rất cạn vào thời đểm đó, Cô ấy kể chỉ cần cào nhẹ lớp đất là phát hiện ra xác người liền….

Chú Út ngắt lời và nói tiếp về trận đánh, lúc du kích đã dàn quân ra phục kích xong thì TĐ đó về đến khoảng 40 người và lọt vào vòng vây của toàn bộ du kích ở đây. Phía du kích phóng loa kêu gọi đầu hàng, đáp lại là tiếng súng nổ từ TĐ 38, như vậy là họ quyết đánh rồi, cuộc giao tranh du kích và TĐ 38 đánh nhau khoảng được 30 phút. Rồi bỗng nhiên tiếng súng im bặt, không khí nặng nề mùi thuốc súng, cảnh tượng người chết của hai bên nằm la liệt….. tiếp đó phía du kích tiếp tục kêu gọi đầu hàng và thông báo căn cứ Đồng Dù đã thất thủ nếu không đầu hàng sẽ có xe tăng đếm yểm trợ và tiêu diệt… vẫn không có lời đáp trả từ TĐ38… nhưng sau đó vài phút thì họ phát hiện TĐ 38 gần như kiệt quệ và hoàn toàn hết đạn từ lâu… tất cả còn lại 12 người bao gồm TĐT, người mang máy truyền tin, một sĩ quan Thiếu úy đầu bạc, và 9 người lính còn lại…., họ đang ngồi bên nhau cùng hút những điếu thuốc quân vụ cuối cùng, tất cả đã hết đạn và bị dẫn về trường tiểu học và trói tất cả tại đó…

Tôi gần như chết lặng, sự thật đây rồi… vì từ đầu tiếp xúc với tất cả mọi người tôi đã che giấu thân phận của mình để nhằm tìm kiếm và có một thông tin khách quan nhất về cuộc tìm mộ đầy gian nan vất vả này nhưng đầy bất ngờ, nhiều cảm xúc, vì tôi đã được nghe kể về trận đánh oai hùng của Bố tôi và các chiến hữu, và cũng quan trọng không kém là sự thật về cái chết của Bố tôi. Tôi quyết định tạm dừng tại đây và xin phép ra về vì tôi bắt đầu muốn khóc nhưng cố kìm nén lại. Sau khi từ giã tôi nói, hôm nay cháu đến đây là để tìm hiểu có phải là cái hố đó chôn các lính rút từ Tây Ninh về, chú Út tuyên bố chắc nịch, chính xác rồi đó, chính chú là người canh chừng khi  họ bị trói trong trường học nên chú nhớ rõ từng khuôn mặt từng người. Để hôm khác lên nếu chú còn nhớ gì thì sẽ kể tiếp. 

Ngày thứ tư :

Về đến nhà thì trời đã tối hẳn, cơm nước xong là tôi lên net để thông tin cho người nhà của Chú Tài, là người lính truyền tin của Bố tôi. Sau một vài phút thấy nickname của cô Hương đang online thì tôi mừng khôn xiết và tôi đã truyền tải những thông tin mà tôi có được mong mỏi là gia đình có thêm tin tức về chú Tài… Cô Hương nói ngay như vậy là đúng rồi, chắc Cô sẽ về Việt Nam cùng tôi thực hiện việc tìm hố chôn và cải táng, tôi hơi bất ngờ về việc này vì tôi nghĩ rằng gia đình của chú Tài sẽ đi cùng tôi chứ không phải là cô Hương và cô ấy chỉ là người yểm trợ. Cô nói rất cương quyết rằng Cô sẽ về VN một chuyến… Tôi nói tiếp cháu cũng nhiều cảm xúc quá nên nghĩ ngơi vài ngày, sau đó cháu sẽ tiếp tục lên đó thêm lần nữa để nghe chú Út kể tiếp may ra có thêm tin tức gì mới… và Cô Hương đồng ý.

Tôi liền liên lạc với Mẹ để kể về cuộc tìm kiếm của tôi, biết là Bà sẽ rất buồn nhưng biết làm sao được vì Mẹ tôi có thể may ra nhớ thêm điều gì. Bà nói, con cố gắng làm hết sức mình để giúp họ vì lúc đó gia đình chỉ mong là tìm được xác của Bố chứ đâu có khả năng và thời gian làm cho những người còn lại, đó là trăn trở của Mẹ suốt bao nhiêu năm qua, tôi nói Mẹ yên tâm đây là trách nhiệm và bổn phận con phải làm, chứ con không hề nghĩ đây là một việc làm từ thiện hay công đức, tôi biết Mẹ tôi rất hài lòng về cách suy nghĩ của tôi.

Vài ngày trôi qua, đầu óc tôi cứ quay cuồng với bao suy nghĩ chẳng tập trung được vào việc gì nhưng tôi mừng thầm vì đã có thêm nhiều tình tiết là người ở lại cuối cùng sau trận giao tranh giờ thứ 25 có một người lính truyền tin của Bố tôi, sau cuộc đụng độ vẫn con mang máy truyền tin cho TĐT….

Rồi cô Hương cũng đã về đến Việt Nam, chúng tôi ngồi bàn bạc cách làm sao cho nhẹ nhàng và nhanh chóng vì có lẽ chẳng ai muốn về lại nơi đau thương đó. Tôi và Cô quyết định sẽ xuống nơi hố chôn tập thể với mong muốn là thông báo cho các Chú là khai quật và đem các Chú về nơi an lành nơi không có tiếng súng, sự tàn ác, dã man mà chỉ có tiếng kinh hàng ngày.

Vài ngày sau đó, tôi, Cô Hương, chú Nguyên (người em của chú Tài) lên đường về Củ Chi, trên đường đi chẳng ai nói với ai lời nào, ai cũng mong muốn là mau đến nơi nhưng dường như tôi thấy đoạn đường sao mà xa vời vợi, cái cảm giác cứ ảm ảnh tôi trong suốt quãng đường, khi ngôi trường hiện ra trước mặt cũng là lúc mọi người đã thấm mệt.Tôi đã hướng dẫn và đã kể cho mọi người nghe về câu chuyện mà tôi đã được chú Út kể cho tôi nghe, ai cũng không cầm được nước mắt. Khi đến nhà chú Út thì có một việc không ai ngờ đến là khi vừa thấy chú Nguyên thì chú Út buộc miệng kêu lên: giống lắm, chú này giống cái ông lính truyền tin mang máy cho ông Thiếu tá… mọi người ai cũng giật bắn người vì câu chuyện bất ngờ này… Sau vài câu nói chuyện chúng tôi cùng mang một số đồ cúng mang theo ra cái hố chôn….


(chú Út đang tiến hành việc cúng và đốt nhang)

Như vậy đấy mọi người ơi, dù 36 năm về trước họ có thể là kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây nhìn hình ảnh này tôi không thể cầm được nước mắt, khóc nhiều rồi tôi cũng chẳng biết khóc vì cái gì nữa… nhưng cái hình ảnh này đã làm tôi thật sự cảm động.

Sau các nghi thức cúng kiến xong, chúng tôi quay lại nhà chú Út để bàn về việc tiến hành khai quật, chú Út là người đã thật sự giúp đỡ rất nhiều, ông làm vì tình người, sự cảm thông, hay sự hối hận??? …. Nhưng tôi hy vọng đó là những việc làm xuất phát từ tình người, những cử chỉ và hành động của ông phần nào làm xoa dịu mọi người khi nghĩ về cái chết thương tâm và uất nghẹn của các quân nhân BĐQ. Ông là người đã giúp chúng tôi liên hệ với bên công nhân khai quật, chuẩn bị đồ cúng, liên hệ với ủy ban xã v.v…

Chúng tôi dùng cơm tại nhà ông và ngồi cùng nhau để bàn bạc việc bốc hài cốt đã được cô Hương ấn định là ngày 16/9/2011. Đường từ Củ Chi về trời mưa nặng hạt, như khóc thương thân phận đất nước Việt Nam điêu linh trong chiến tranh, bao cảnh lầm than, nhiều gia đình tan vỡ…

Ngày thứ năm :

Lại một đêm mất ngủ và thao thức, trằn trọc để mong trời sáng… và rồi buổi sáng đến thật mau, tôi chuẩn bị ra khỏi nhà không quên thắp vài nén nhang cho Bố tôi và cầu mong ông sẽ phù hộ cho chúng tôi khai quật một cách nhanh chóng và chính xác. Khi tôi đến nhà cô Hương thì mọi người đã tề tựu đông đủ, chúng tôi vội vàng lên đường vì ai cũng mong mỏi là sẽ mau chóng đến nơi, trên đoạn đường đi tôi thấy dường như ai cũng căng thẳng và lo âu, riêng tôi như đã đề cập ở phần đầu, cảm giác bấc an, lo lắng, những câu hỏi vẫn chưa có lời đáp, có lẽ không ngoa khi có thể nói rằng, chính tôi là người mong muốn đến thật nhanh tại hiện trường.

Các địa danh như căn cứ Đồng Dù, cầu Sạn (nơi diễn ra trận đánh), trường học (nơi giam giữ và trói các quân nhân BĐQ)… đều nằm lại sau lưng và chúng tôi cuối cùng cũng đến nơi cái hố chôn đó. Bên bộ phận bốc mộ họ đã đến thật sớm làm các thao tác cần thiết như chuẩn bị đồ nghề và đồ cúng, chú Út cũng đến đó từ bao giờ, tôi thấy Ông trầm ngâm và rất suy tư. Sau các nghi thức cúng kiến và thắp nhang cầu nguyện, Sư Cô quyết định là đã đến giờ bắt đầu khai quật, mọi người đã chờ đợi giây phút này rất lâu, đối với gia đình chú Tài thì chắc là đã 36 năm rồi họ chờ đợi giây phút này. Nhà ngoại cảm cầm tay người em của chú Tài và bắt đầu xác định vị trí khai quật…. ai cũng nín thở chờ đợi…


(Sư Cô và gia đình đang thực hiện các nghi thức)


(Từ trái qua em trai, em gái chú Tài, Cô Hương và Sư Cô)

Bên bộ phận khai quật bắt đầu cào lớp cỏ khô ra nhằm xác định vị trí cho chính xác,  mỗi nhát cuốc là mỗi lần tim tôi nhói lên vì hồi hộp, người tôi lạnh toát mặc dù đứng giữa cánh đồng trời đang chói chang nắng… sau chừng khoảng vài cuốc, nước từ dưới hố bắt đầu trồi lên làm việc khai quật bị chậm lại vì họ phải cuốc đất đấp thành những cái đê nhỏ nhằm chặn không cho nước tràn vào lại các chỗ đã được đào. Dũng là người chỉ huy các công nhân đào mộ nói với tôi rằng : đúng rồi em có cảm nhận sắp đến chỗ có xương rồi vì theo kinh nghiệm của em chổ nào có xương người thì đó đất sẽ rất mềm….

Vừa nói chuyện với tôi Dũng vừa lấy bàn tay thọc xâu vào lớp đất bì bõm nước, bỗng nhiên Dũng kêu to lên : có xương rồi, xương này to lắm, chắc là xương ống chân…. Tôi như trút được gánh nặng một phần vì đây đúng là hố chôn rồi, nhưng để xác định là có hài cốt chú Tài hay hài cốt của các quân nhân BĐQ là một quá trình rất dài và phải có kỷ vật gì để chứng minh. Dũng nhoẻn miệng cười và hỏi : anh có muốn xem không, không một giây để suy nghĩ tôi trả lời : tất nhiên và tôi là người đầu tiên nhìn thấy cái xương chân đó. Dũng làm một vài động tác và cầm lên một ống xương chân dài, còn nguyên chiếc vớ đã ngả màu bao bọc lại, bất ngờ tiếp theo là còn cả sợi dây trói bằng chỉ cước xanh to bằng ngón tay cái….nước mắt tôi đã rơi vì có lẽ đây là khoảnh khắc đã làm tôi xúc động và sẽ ám ảnh tôi mỗi khi nghĩ về nó, tôi bỗng nhiên hình dung ra thời khắc đó : khi bọn du kích dẫn các quân nhân BĐQ anh hùng ra tàn sát tập thể, họ vẫn bị trói chặt tay hoặc chân, tôi cố dằn cơn xúc động nhưng nước mắt cứ tuôn rơi, lòng tôi gầm thét như bị ai làm tổn thương….. tôi tự hỏi tại sao lại có dây nịt, có lẽ lúc khi bị tàn sát họ vẫn mặc đồ quân phục kiêu hãnh của Biệt Động Quân…..


(đợt đầu tiên khi phát hiện ra xương)


(xương ống chân và dây trói bằng chỉ cước xanh) Và có cả sợi dây nịt bằng vải dù mặc dù cái đầu dây nịt đã rỉ sét

Cảm giác đau xót như ai xát muối vào vết thương, nhưng đây là vết thương lòng làm sao mà lành lại được… bỗng nhiên chú Út đứng sau lưng tôi từ khi nào, ông vỗ vai tôi nhè nhẹ như an ủi, làm tôi thức tỉnh nếu tôi quá xúc động sẽ để lộ ra tung tích của mình, đốt vội điếu thuốc lá và cố giữ bình tỉnh, tôi quay sang hỏi chú Út : vậy khi du kích bắn những người này thì họ đang mặc quần áo gì hả chú, ông suy nghĩ vài phút rồi  nói : lúc đó đông ngươì lắm, nên chú chỉ nhớ là có người mặc chỉ cái quần cụt, người thì còn mặc quần dài của lính, người thì mặc áo, người thì cởi trần… lâu rồi chú chỉ nhớ có vậy. Tôi ra hiệu cho mọi người nghỉ ngơi một chút vì chính xác là đây rồi với lại tôi muốn có thêm thời gian để suy nghĩ. Tôi quay lưng lại thì hỡi ơi có cả hơn 40 người hiếu kỳ đang đứng xem từ khi nào mà tôi không biết họ đến từ đâu và từ khi nào, họ bắt đầu bàn tán : xót thương có, chửi rủa có, thông cảm có, mắng nhiếc có, cảm thông có và có người đã khóc… họ còn kể chính xác là thời điểm tàn sát vào xế chiều vào khoảng 4h00 hay 5h00 gì đó. Sau vài phút nghĩ ngơi và nói chuyện, bên công nhân khai quật tiếp tục công việc của mình, thời khắc quan trọng đã đến một cái thẻ bài đã được Dũng mang lên từ cái hố chừng nửa mét sâu : tôi như đứng tim và cầm ngay cái thẻ bài đến cái bờ ruộng có nước sạch rửa để xem và hy vọng đó là thẻ bài của chú Tài nhưng một thoáng thất vọng đã xuất hiện trên khuôn mặt của tôi, thẻ bài không phải của chú Tài mà là của :


Ly A Sam
Số quân : 70/131238
Loại máu : A +
Và một thẻ quân nhân cũng là của Chú Sam: tên đầy đủ là :
Lý A Sầm
Sinh ngày : 19/5/1950
Cha : Lý Man Soi
Mẹ: Hồ Thị Minh


(mặt trước và mặt sau của thẻ quân nhân)

Lúc này thời tiết càng nóng gay gắt cũng như lòng người cũng gay gắt nóng hy vọng tìm được thêm kỷ vật. Và tiếp theo là một thẻ căn cước với nội dung:
Trịnh Ngọc Thuần
Sinh ngày : 3/03/1957 tại Saigon
Cha: Trịnh Hữu Hiền
Mẹ : Hứa Thị Là
Địa chỉ : 15/1 ngô Quyền – Sai gòn


(mặt trước và mặt sau của thẻ căn cước)

Như vậy thời điểm chú Sầm bị tử hình ông vừa tròn 25 tuổi và chú Thuần thì chỉ vừa 18 tuổi và 01 tháng. Tôi tự hỏi tại sao chiến tranh kết thúc, các anh là người thắng cuộc tại sao lại phải đối xử và tàn sát những người  như vậy và giờ những người đã thi hành việc tử hình năm xưa đang ở đâu, họ có đứng trong vài chục người đang đứng kề cận bên tôi, và họ nếu có và chứng kiến thì họ đang nghĩ gì trong lúc này……càng quanh quẩn với các câu hỏi tôi càng cảm phục và hãnh diện về các quân nhân BĐQ dưới quyền của Bố tôi, những anh hùng vô danh, vì lý tưởng họ đã chiến đâu đến hơi thở và viên đạn cuối cùng, họ còn quá trẻ để phải chết, nhưng họ đã quyết định chọn cái chết một cách đau đớn nhất nhưng vô cùng kiêu hãnh và đáng để thế hệ sau lấy đó làm niềm tự hào, trong những nổi đau thương luôn có những niềm kiêu hãnh.

Lúc này tinh thần mọi người bắt đầu bớt căng thẳng vì đã có những kỷ vật và ai cũng hy vọng sẽ có bất cứ kỷ vật gì là của chú Tài, có lẽ chú Sầm là người cẩn thận nên hầu như các giấy tờ đều còn. Tôi miên man với bao suy nghĩ và cầu nguyện thì Dũng lại moi từ lòng đất một cái túi nylon  đã ngả màu theo thời gian, tôi lập tức cầm lấy và mở ra, thì trời ạ… một chai dầu gió hiệu “song thập”, một bàn chải đánh răng, một cây viết, một cái bóp cá nhân có hình một người mặc đồ lính chụp hình chung với một cô gái – nhưng rất mờ và rất khó để nhận diện khuôn mặt…..tiếp theo trái tim tôi có lẽ ngừng đập trong thời khắc này : đó là một cái đồng hồ đeo tay sợi dây đồng hồ bằng da màu đen, còn nguyên vẹn, tôi vội vàng lẻn ra khỏi nơi đang quá đông người và ồn ào : cái đồng hồ đã bị gỉ sét theo thời gian nhưng hai kim đồng hồ thì còn nguyên vẹn…..


(chiếc đồng hồ và sợi dây đeo còn nguyên vẹn)

Kim đồng hồ chỉ 4h14 phút ngày 31 – như vậy có 02 giả thuyết chúng ta có thể suy luận :

1.     Các quân nhân bị tàn sát vào lúc 4h14 phút, ngày 30-4-1975 vì đồng hồ đeo tay thời đó thường là đồng hồ lên giây nên chỉ chạy đúng 24 giời sau đó lên giây thì mới tiếp tục vận hành, khi chủ nhân của chiếc đồng hồ này bị tàn sát thì nó vẫn tiếp tục chạy đúng 24 giờ (tức là ngày 31-4-1975) nữa rồi mới ngừng hẳn 36 năm qua trong lòng đất.
2.     Là chủ nhân chiếc đồng hồ đó bị tàn sát, vào lúc thời điểm đồng hổ chỉ lúc : 4h14 phút, khi nằm xuống đã gặp nước và hư hỏng ngay.

Tôi như điên như dại, ôm cái đồng hồ vào lòng và bật khóc tôi muốn hét thật to vào không gian yên tĩnh nơi tôi đang đứng một mình. Có một sự huyền bí nào hay chỉ là sự trùng hợp khó tin là các chú đã để lại một dấu hiệu cho mọi người và gia đình biết chính xác ngày và thời gian họ đã nằm xuống cho quê hương, đất nước.

Cuộc đào hố chôn vẫn tiếp tục, thoáng thất vọng đã hiện rõ lên khuôn mặt của cô Hương và gia đình chú Tài là vẫn chưa tìm được bất cứ vật gì để chứng minh là có chú Tài. Nhưng tôi thì hơi khác vì tôi nghĩ rằng trước tiên phải có bất cứ kỷ vật gì để chứng minh đây là TĐ 38, và tôi tiếp tục cầu nguyện, gào thét tên Bố tôi trong tâm khảm là hãy phù hộ cho tôi và mọi người. Và đây rồi thêm một cái bóp cá nhân được Dũng đưa tận tay tôi, tôi lập tức mở ra :


(mặt trước và mặt sau của giấy quyết định điều động)

Tôi lập tức đọc kỹ danh sách các quân nhân có tên và trong đó đã có tên của chú Sầm, như vậy như tôi đã nói ở trên chú Sầm là người cẩn thận….được điều động về TĐ 38- Liên Đoàn 5 - Biệt Động Quân, phía sau có chữ ký Ông Trung Tá Nguyễn Văn Đương – Liên Đoàn trưởng LĐ 5 ký năm 1969, như vậy so với số quân của chú Sầm thì ông về TĐ 38 từ năm 1969 và đã vĩnh viễn không được thuyên chuyển sang các binh chủng khác.

Và một “Chiến Thưởng Bội Tinh”  phía sau có chữ ký Ông Trung Tá Nguyễn Văn Đương – Liên Đoàn trưởng LĐ 5 ký 8-5-1969

Và một giấy có ghi phía sau là : Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 38 – Biệt Động Quân - Ông Nguyễn Thanh Tiến hay Tiền… năm 1965.

Lúc này trời đã về chiều, ai cũng mệt mỏi và gần như không còn hy vọng gì là sẽ tìm kiếm được nữa vì cái hố đã được đào quá rộng rồi, với diện tích là 3m x 6m…..



(quần áo, dây trói và thắt lưng…)

Sau khi hội ý với nhà ngoại cảm thì ông quyết định là tất cả đã đầy đủ và không nên tiếp tục đào nữa… tôi không thể giải thích được hiện tượng này chỉ biết là ông cứ đi quanh trên cái hố đã được đào, nhắm nghiền mắt và nói chuyện một mình.



(toàn cảnh cái hố chôn tập thể - thật khủng khiếp)

Sau đó gia đình hội ý thật nhanh và làm các công tác nhận diện hài cốt của chú Tài bằng hình thức nhà ngoại cảm nói chuyện với các vong linh (lý do tôi không tường thuật việc này vì gia đình chú Tài đã bàn bạc với nhà ngoại cảm). Tiếp theo đó mọi người quyết định sẽ hỏa táng chú Tài và các quần áo, dây nịt, dây trói…… tại cánh đồng lúa nơi chú và các chiến hữu đã nằm lạnh lẽo suốt bao năm qua.



(toàn bộ hài cốt và quần áo, dây thắt lưng và dây trói)




(đang tiến hành hỏa táng chú Tài)




(đang tiến hành hỏa táng quần áo và các kỷ vật)

Số hài cốt còn lại tạm thời được để vào trong một cái “khạp” để hy vọng gia đình sẽ liên lạc và mang người nhà của mình về. 

Lúc này gia đình và mọi người ngồi cách rất xa, tôi và các bạn đi cùng tiến hành việc hỏa táng….cảm giác như kẻ không hồn…buồn vui trộn lẫn…nghĩ về cảm giác nơi này 36 năm về trước khi chiến tranh chấm dứt đã có một cuộc tàn sát diễn ra giữa những người Việt Nam với nhau cùng chung giòng máu Lạc Hồng, cùng huyết thống….cuộc tàn sát này đã có thể không xảy ra nếu lúc đó…

Phần hỏa táng:

Tôi và cô Hương rong ruổi mang cái “khạp” gửi vào nhà thờ mong ước để xin gửi trong vòng 02 tháng để đăng tin tìm người thân và cũng để vận động sự giúp đỡ vì tất cả các chi phí đều do tiền túi của cô Hương bỏ ra… giờ thì cô ấy đã thật sự hết khả năng mất rồi.

Về nước được 02 tuần tôi vui mừng được cô Hương thông báo là đã đủ số tiền để hỏa táng và gửi vào nhà thờ, tôi hạnh phúc đến dâng trào vì mọi việc gần như đã hoàn tất, mang cái ‘khạp” đi hỏa táng về xong thì tôi liền chạy ngay về nhà thờ đễ làm các thủ tục cần thiết nhằm để các chú an nghỉ…

Cảm giác phấn khởi tôi bước vào thì được bộ phận hài cốt cho biết hoàn toàn họ chưa nhận bất cứ tiền của ai để lo cho cái “khạp” này, tôi như chết đứng và vô cùng tức giận, tôi liên lạc với cô Hương thì được Cô cho biết là người đã trực tiếp gửi tiền về cho nhà thờ là ông Đ.T.H – một cựu quân nhân BĐQ, cô Hương cho tôi số phone của người đó để tôi liên lạc và tôi hy vọng chắc họ đã gửi tiền về…... Qua những khó khăn và sự hiểu lầm mà tôi cho rằng có thể tránh được nếu họ - những người đã vận động có một sự tin tưởng và thấu hiểu được các khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong suốt quá trình tìm hố chôn – và đây chính là hạn sạn nhỏ trong sự thành công  của việc khai quật và hỏa táng mang về nhà thờ đúng như ước nguyện của gia đình.

Đôi dòng tâm sự :

Về đến nhà tôi thẩn thờ và ngồi bệt trên ghế giống như vừa trở về từ cõi chết, cảm giác như các chú cứ quanh quẩn đâu đây… thầm nghĩ đã nhiều năm nằm hiu quạnh, lạnh lẽo nơi hiu hắt và cô đơn, giờ các chú đã được giải thoát… Hãy thực hiện các ước nguyện của nghiệp trai chưa tròn, về thăm gia đình và bạn bè những người thân đã lo lắng trong suốt thời gian qua các chú nhé!!!

Tôi liên tưởng lại các câu chuyện và lời kể của vài nhân chứng và chính thức tôi xác nhận rằng : Tiểu Đoàn 38 – LĐ 32 – Biệt Động Quân là đơn vị BĐQ cuối cùng đã chiến đấu vào giờ 25 của cuộc chiến, họ đã chiến đấu một trận cuối cùng của đời lính vinh quang nhưng đầy cay đắng, họ và chính họ đã chọn cái chết đau đớn nhưng oai hùng sẽ được mọi người nhắc đến…

Theo lời kể của chú Út thì sau khi TĐ 38 hết đạn, người du kích tên là Cò Ráng -  đã có những giây phút thóa mạ và mắng nhiếc TĐ 38 và Bố tôi đã to tiếng với người này, sau khi vào trong hội ý chúng đã dẫn Bố tôi ra cái đồng ớt gần đó và tử hình nhằm áp đảo tinh thần anh em còn lại, về nội dung cuộc tranh cãi của Bố tôi thì không ai còn nhớ đến nội dung – kể cả chú Út vì theo ông lúc đó rất đông người, kẻ thóa mạ, dùng những từ khó nghe…. nhưng ai cũng có thể thấy việc tàn sát là chủ đích cá nhân của một nhóm du kích có lẽ lúc đụng độ bên du kích cũng đã bị thiệt hại rất nhiều…

Dự đoán mãi mãi là dự đoán nhưng chúng ta cần tôn trọng sự thật, và vinh danh họ : Thiếu Tá Trần Đình Tự - và các quân nhân TĐ 38 chính là đơn vị BĐQ cuối cùng chiến đấu và cái chết của họ phải được trân trọng như những giá trị lịch sử của QLVNCH.

Bố tôi và họ cũng đã có thể có cách khác để an toàn về với gia đình nhưng tôi hiểu Bố tôi qua nhiều thông tin tôi có được, Ông không bao giờ thỏa hiệp chứ đừng nói đến đầu hàng. Họ đã chiến đấu vì lý tưởng, vì danh dự….Họ không cần vinh danh, không cần chức tước, họ chỉ cần trả lại sự thật cho sự hy sinh của họ, họ chỉ biết chiến đấu với lời nguyện ước với non sông :

Tổ Quốc - Danh Dự  - Trách Nhiệm

Và sau cùng họ chỉ mong những người còn lại, nhớ đến họ , thắp cho họ một nén hương lòng mỗi khi 30/4 lại về để họ yên lòng nơi cõi trời cao rộng.

Kính Bố : con đã thực hiện xong trăn trở của Mẹ, trách nhiệm và bổn phận của con một người lính VNCH, đâu đó trong cõi tạm trần gian này con mong Bố đã thấy và hài lòng về những gì con làm cho những người đồng đội đã cùng lý tưởng với Bố và đã vĩnh viễn nằm xuống cho quê hương. Hãy thanh thản nơi cõi trời cao rộng – Bố và các Chú sẽ không bao giờ cô đơn, sẽ không bao giờ bị quên lãng.

Trần Đình Thế
Tháng 9 năm 2011
CÁCH TẠO ACCOUNT Ở MINDS
Share từ nhà Facebooker Khanh Nguyen
Xin phép post ở đây
*****
* Tạo tài khoản: *
1/ Tải app xong vô thấy chọn [Create a Channel] để tạo account mới
2/ [UserName] là tên dính liền không dấu. VD: toideptrai, dacosa, nguyentatthanh, tronglu, lutrongthang, vv... user này không đổi được và đi với bạn đến suốt đời.
3/ [Password] phải có chữ VIẾT HOA và viết thường và 1 ký tự đặc biệt (ngoại trừ @) và số. VD: angiTaoCung#8, Cunggitaocungan$1
*****
* Cách active lần đầu để sử dụng Messenger Minds: *
Sau khi tạo tài khoản xong thì login vô, muốn sử dụng Messenger của Minds bạn phải đặt thêm một passcode gồm các chữ số khác nữa để bảo mật hơn (bắt buộc). Cách làm như sau:
1/ Vào [Settings] chọn [Regenerate Messenger Key]
2/ Nhập vào các số mà bạn chọn làm passcode. VD: 1990...
* Làm sao để liên kết với tài khoản Facebook *
* (ý là post 1 phát bên Minds hiện luôn trên Facebook?) *
*****
1/ Hiện giờ bạn phải vào bằng Web hoặc app IOS mới liên kết được nha!!!! Sau khi vào Web, hoặc App IOS bạn vào [Settings] -> [General], kéo xuống trong phần [Connect With Facebook] chọn vô nó rồi gõ user/password FB của bạn để Minds liên kết với nó (bước này làm 1 lần dùng mãi mãi).
2/ Sau khi đã liên kết xong Minds với FB, khi bạn post bài sẽ thấy biểu tượng có hình dáng giống <, chọn nó và chọn FB, sau đó bấm [Post] thì bài của bạn sẽ được post lập tức vừa trên Minds, vừa Facebook.
Chúc các bạn từ 7 tuổi đến 77 tuổi đều làm được 😀
PAUL VU NGUYEN
- "Thế giới đã phải chịu tổn thất rất lớn. Không phải sự tàn ác của những người xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt".-- Hoàng đế Napoleon Bonaparte .
- "Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt" .-- Mục sư Luther King .

Thursday, June 28, 2018


SỰ DẢY CHẾT CỦA MỘT THÀNH PHỐ


3197586733_d41aa8b119_o
Thứ Hai, ngày 28 tháng Tư, 1975
Sàigòn thật sự đã ở trong tình trạng hấp hối ngay trong buổi chiều ngày thứ hai 28 tháng 4 với cái trò bắn súng lăng nhăng tiếp theo sau bài diễn văn của vị Tân Nguyên Thủ Quốc Gia..
Khi những trái bom đầu tiên rơi xuống Tân Sơn Nhứt và khi mà các loại súng bắn lên khắp nơi trong môt thành phố đang sắp có một cơn giông bão đổ ập xuống, thì dân chúng vì chưa có được một lời giải thích nào nên hốt hoảng nằm sấp xuống các rãnh bên lề đường hoặc chạy vào nấp bên các cửa phố. Nhưng dân chúng cũng biết là chiến cuộc thường tránh xa thủ đô từ 30 năm giặc giã, thì nay “nó”đã đến đây rồi… và sớm muộn gì trong vài ngày nữa đây, hay trong vài giờ nữa thôi, bàn tay sắt máu của Cộng Sản sẽ ập xuống nghiền nát Sài Gòn để bắt thành phố nầy phải tùng phục họ.
Hai giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn cũng vẫn chưa đưa ra được một lời giải thích nào rõ ràng cho dân chúng đang hấp tấp trở về nhà mình sau khi có lệnh thiết quân luật 24/24.Do đó, trong cơn giông bão của một buổi hoàng hôn đầy sấm sét, người dân Sài Gòn bắt đài “MTGP”. Nhưng đài Cộng Sản không hề nói đến chuyện “hòa bình”! Toàn là những điều kiện đòi hỏi và những lời hăm dọa, nhắc đi nhai lại cứng rắn như một cối xay lúa những luận điệu cũ mèm mà họ đã dùng mãi để lên án cựu Tổng Thống Thiệu : ” chánh quyền Sài Gòn dù mang một nhãn hiệu nào cũng phải cáo lui…. Bộ máy chiến tranh Mỹ Ngụy phải được chấm dứt… Chiến cuộc chỉ chấm dứt khi nào tất cả quân đội Miền Nam bỏ súng xuống hết và tất cả các chiến hạm Hoa Kỳ đã rời hết khỏi lãnh hải Miền Nam Việt Nam. Các binh sĩ nào còn nghe lệnh chỉ huy của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm gương…”
Cũng vào giờ nầy, ngay tại Paris (tính theo giờ địa phương), sau những lời tuyên bố của tướng Dương Văn Minh, các “trung tâm quyền lực” Pháp vẫn còn nói rõ là “viên đạn hiện đang ở trong doanh trại của CPLTCHMN”, Vài giờ sau đó, hồi 4 giờ sáng (giờ địa phương) thì dân chúng Sài Gòn mới nghe được câu trả lời của cái gọi là CPLTCHMN, để đáp lại phần bình luận vô cùng lạc quan đến không thể tin được về tài ngoại giao của người Pháp: đó là một trận mưa rốc-kết xuống thủ đô của Miền Nam Việt Nam ! Và phi trường Tân sơn Nhất tiếp theo đó bị tấn công bằng đủ các loại pháo lớn.
Thứ Ba, ngày 29 tháng Tư, 1975 Đài phát thanh Mạc Tư Khoa đã mỉa mai ghi nhận là :”tướng Dương Văn Minh trên thực tế không còn gì nữa để mà trị vì”
Vài giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đã truyền đi những lời phát biểu của Tân Thủ tướng Vũ Văn Mẫu như sau : – “Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa hoan nghênh việc thi hành Hiệp Định Ba Lê, đặc biệt là các điều khoản 1, 4 và 9 đã qui định là Hoa Kỳ phải tôn trọng những quyền tự do căn bản của dân tộc Việt Nam về vấn đề “quyền tự quyết” của mình trong việc quyết định và chấm dứt mọi giao tranh quân sự, cũng như mọi sự can thiệp vào nội bộ của Miền Nam Việt Nam 
Lời tuyên bố công khai nầy dù sao cũng đã được nói lên tiếp theo sau một thông cáo đòi “Đại Sứ Hoa Kỳ, ông Martin, phải đóng cửa tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng đồng hồ và đồng thời phải làm mọi cách để tất cả những người Mỹ còn lại ở Miền Nam Việt Nam cũng phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam trong thời hạn đó”.
Và ngay sau đó ông M.Martin đã tức khắc cho biết là ông sẽ làm đúng theo lời đòi hỏi đó. Cuộc hành quân di tản những người Mỹ cuối cùng và những người Việt Nam “có liên hệ” với Hoa Kỳ, theo kế hoạch đã được Ngũ Giác Đài thiết lập, lẽ ra sẽ được tiến hành cho đến ngày thứ tư tuần tới, 7 tháng 5 / 1975. Nhưng tình hình diễn tiến quá nhanh. Từ thứ hai 29/4, Tổng Thống Ford đã có một buổi họp khẩn cấp với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Cầu Không Vận đã được thiết lập để di tản người Mỹ và người Việt Nam từ phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị ngưng trệ: nhiều loạt rốc-kết và đạn pháo nặng 130 ly, kể cả bom, đã được nã vào căn cứ Không Quân lớn nhất nầy. Ngoài 11 chiếc phi cơ của Miền Nam bị phá hủy do bị dội bom vừa qua, còn có 1 chiếc phi cơ vận tải C.130 của Hoa Kỳ bị cháy dưới đất. Một chiếc trực thăng của Miền Nam chở 40 binh sĩ Dù trên đường bay đi Tây Ninh đã bị trúng một hỏa tiển, bị nổ tung và cháy trên không thật khủng khiếp. Có nhiều đạn rốc-kết đã rơi vào Chợ Lớn, một thành phố mà cư dân hầu hết là người Hoa kiều, nằm sát Sài Gòn. Một phóng pháo oanh tạc cơ Skyraider có nhiệm vụ đánh bom vào các vị trí của các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt ở 7 cây số về hướng Tây Bắc Sài Gòn đã bị trúng một hỏa tiển tầm nhiệt S.A.7. của Cộng Sản.. Và có nhiều cuộc chạm súng thật dữ dội đang diễn ra trong vùng ngoại ô thành phố.
Hoa Thạnh Đốn không còn thời gian chờ đợi nữa. Và Tổng Thống Ford đã ra lệnh cho Hạm Đội VII tiến hành ngay cuộc hành quân di tản.
Vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ ba nầy, thủ đô Sài Gòn thật là hỗn độn không tả được. Người Pháp cư ngụ ở các khu nằm ở chung quanh thủ đô cũng đã bị “xơi” đạn pháo binh Cộng Sản nên họ phải đổ dồn về trung tâm Thủ đô tìm ở với bạn bè đồng hương, vì không thể vào tạm trú ở trường trung học Saint Exupéry theo đúng chỉ thị trước đây của tòa Đại sứ Pháp được. Vị hiệu trưởng trường nầy đúng ra phải chịu trách nhiệm đón tiếp những người Pháp nầy nhưng ông lại không nhận họ, viện cớ là “không có đủ dự trữ nước uống và lương thực để bảo đảm sự sống cho họ”. Tất cả những người Pháp cư ngụ ở thủ đô gồm các giáo chức, các nhà trồng tỉa đã rút về đây, các nhà buôn, chủ tiệm ăn hay giám đốc xí nghiệp, đều đã treo cờ Pháp trước nhà ở, văn phòng, tiệm tùng v.v.. Có nhiều người Việt Nam bắt chước họ. Tất cả đều tin rằng lá cờ tam tài của Pháp có thể cứu được sanh mạng và tài sản của họ nếu có xảy ra những cuộc đánh nhau trên các đường phố. Và bất thình lình cờ xanh trắng đỏ được treo rợp trời vào những giờ bi thảm của một sự sụp đổ nầy đã làm cho một vài khu vực của thành phố có một bộ mặt lạ lùng khác thường của một ngày lễ 14 tháng 7 của Pháp.
Nhưng hỡi ôi ! đây chỉ là một ảo ảnh! một ảo ảnh quá đau lòng che đậy những dấu hiệu lo âu sợ sệt đang tràn ngập cả thủ đô Miền Nam vốn đang rơi vào tình trạng vô trật tự và vô Chánh Phủ.
Trên xa lộ Biên Hòa trước khi đến cầu Sài Gòn mà gần đó là những căn cứ tối tân nhất của bến Tân Cảng, có 50 binh sĩ Dù dưới sự điều động và chỉ huy của một đại úy, đang đánh nhau từ chiều thứ hai với một toán đặc công để cố ngăn cản không cho họ đến được dạ cầu. Đặc công Cộng Sản đã 5 lần chiếm được cầu và cả 5 lần binh sĩ Dù đã chiếm lại cầu. Trên 50 xác Cộng Sản Bắc Việt nằm đầy trên đường, mình mẩy đầy vết đạn, gần như họ đã chết rồi mà vẫn còn bị tiếp tục ăn đạn của binh sĩ Miền Nam quá hăng say và quá cẩn thận !
Bất chấp chiến trận đang diễn ra, một đám đông dân chúng, đông như một đàn kiến đếm không xuể, đã tràn vào chiếm các kho hàng của Tân Cảng để cướp bóc hôi của. Đó là đám dân đen khốn khổ ở các đồng lầy, đói khát, và háu ăn. Họ chia ra làm 2 đoàn rõ rệt, những người mới tới, tay không, và những người trở về mang đầy chiến lợi phẩm. Năm trăm người ? một triệu người ? Không một ai có thể đếm được một cách chính xác, phần lớn là đàn bà và trẻ nít, có rất ít đàn ông… họ càn quét đủ mọi thứ các kho đầy ấp hàng viện trợ Mỹ. Đám đông xô đẩy nhau để chạy đến nơi cướp bóc, giẫm bừa lên các xác chết của bọn đặc công Cộng Sản làm bật lên tiếng kêu răn rắc của xương gãy như cành cây khô ! Để trở về, đám đông dân chúng nầy phải vượt qua sông, lội lõm bõm trong bùn. Một em bé khoảng 10 tuổi đầu toàn thân đầy bùn đen và thối, nhưng tay vẫn đưa cao một bó cao su xốp rửa chén ! Hai bé gái khá hơn quần áo cũng đầy bùn sình, mang một số nấm, pa-tê và trái cây đóng hộp. Một người đàn bà thu nhặt được hai bịch thuốc lá thơm và một máy xay sinh tố. Một anh bạn khác thì khệ nệ bê một cách khó khăn một thùng sốt cà chua. Một “chợ chồm hổm” được tổ chức ngay bên đường: người ta mua bán, trao đổi trong cơn sốt tiền bạc ngay trong một ngày có quá nhiều khủng khoảng quân sự lẫn chánh trị. Binh sĩ trên các quân xa phải bắn chỉ thiên mới vạch được lối đi cho đoàn xe. Tấn thảm kịch sắp buông màn, chấm dứt. Còn chưa phải là một sự hoảng loạn nhưng là một cuộc tháo chạy toàn bộ…
Từ sáng nay, không một nhà báo nào còn được một tin tức gì từ giới chức có “thẩm quyền quân sự” về tình hình, vì một lẽ rất đơn giản là các giới chức nầy không còn ở đó nữa hoặc họ đã bị “mất chức” không biết lúc nào.Tướng Minh đã cách chức tướng Bình, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát và An Ninh Quân Đội. Kết quả là sáu chục ngàn (60.000) cảnh sát và mười ngàn cảnh sát đặc biệt (10.000, hầu hết là các binh sĩ có tuổi từ các binh đoàn thiện chiến), đang kiểm soát thủ đô, đã không còn ai để chỉ huy và ra lệnh cho họ.
Vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miền Nam được thay đổi 3 lần trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngày hôm kia là tướng Cao Văn Viên, nhưng ông đã ra đi cùng vị Tham Mưu Phó lẽ ra phải thay thế ông mới đúng. Ngày hôm qua là tương Nguyễn Văn Minh, nhưng ông chỉ ngồi đó có mấy giờ trước khi xách va-li chuồn mất. Chiều hôm qua là tướng Thiết Giáp Vĩnh Lộc, một cây rượu mạnh, anh em họ hàng với cựu hoàng đế Bảo Đại. Ông ta đã cổ võ binh sĩ trên đài phát thanh và yêu cầu họ đừng “chạy như chuột giống như Tổng Thống Thiệu”.
Nằm gần sân bay Tân Sơn Nhứt, là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng giờ nầy rất là vắng vẻ, chỉ thấy còn lưa thưa ra vào một vài sĩ quan cấp tá. Các viên chức thì còn ở nhiệm sở nhưng không một ông tướng nào còn trả lời khi điện thoại reo cả ở trong văn phòng hoặc ở nhà. Trên trận địa, các đơn vị trưởng nào còn tiếp tục chiến đấu thì từ đây phải tự lo liệu lấy cho mình thôi.
Ở trung tâm Sài Gòn, đột nhiên sự căng thẳng lên cao độ, vì mọi người bây giờ đều biết là người Mỹ sẽ bỏ đi hết.
Cuộc hành quân di tản của Hoa Kỳ bắt đầu từ 11 giờ. Người Mỹ và những người “bạn” Việt Nam nào đã được giới chức ngoại giao Hoa Kỳ báo trước đều nhận được lệnh phải đến tập trung ở 13 điểm hẹn đã được dự trù từ trước: các sân thượng hoặc các vườn chơi công cộng. Và cuộc di tản bằng trực thăng bắt đầu. Các chiếc trực thăng vận tải loại lớn của Thủy Quân Lục Chiến từ Hạm Đội VII, các trực thăng riêng của Trung Ương tình báo, và trực thăng màu trắng bạc của hãng Hàng Không Hoa Kỳ (Air America) bay là là trên các nóc nhà trong thành phố, có trực thăng võ trang (trang bị rốc-kết và đại bác tự động) bay theo yễm trợ. Trên không phận lại có các chiến đấu phản lực cơ “Phantoms” lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp, nếu cần. Ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ người ta hấp tấp đốt các hồ sơ lưu trữ cuối cùng. Ngay trên nóc tòa Đại Sứ các trực thăng Huey đáp xuống bay lên trong khỏang thời gian cách nhau rất đều.3197488875_e87c8e8d14_o
Tò mò đứng từ các nhà chung quanh để quan sát, thì đây là một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Phía trước những chiếc xe du lịch đến đậu sát hàng rào sắt của tòa đại sứ, các chú tài xế mặc áo gi-lê chống đạn nhưng đầu vẫn không quên đội mũ cát kết trắng, vì các viên chức Việt Nam vẫn nhất định phải tôn trọng lễ nghi cho đến cùng. Không biết các anh tài xế nầy sẽ nghĩ gì sau khi các ông chủ của họ đã lên trực thăng và họ phải quay về các khu vực bình dân giữa những tiếng nổ của đạn rốc-kết?
Người Mỹ rời khỏi Sài Gòn bỏ lại xe của họ đầy đường. Tức khắc, có những toán tháo gở từ vùng ngoại ô đến “làm thịt” ngay tại chỗ. Thời gian cứ thế trôi qua và lần lần đám người tụ tập trước cửa rào của tòa đại sứ cáng ngày càng đông, họ bu quanh sát tường và có người còn có ý định trèo qua tường để vào bên trong tòa đại sứ. Trong số người cố bám vào tường như những chùm nho với niềm hy vọng cuối cùng có thể “chạy” khỏi đây để tìm tự do…, người ta thấy có đủ mọi hạng người, sinh viên, công chức, lính cứu hỏa với mủ đồng còn trên đầu, các cô gái ăn sương, các bà mẹ trẻ bồng con đưa lên thật cao, coi như họ trình lên một mẫu giấy thông hành sống là các chú bé con lai mà cha của chúng là một anh lính Mỹ da trắng hay da đen tóc nâu hay tóc đỏ nào đó… Các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến canh gác vẫn bình thản và lạnh lùng dùng báng súng đẩy đẩy họ ra.
Một cảnh tượng thiểu não khác đã xảy ra bên lề đường. Tướng Đặng Văn Quang, mà mọi người đều tố cáo là kẻ cầm đầu đường dây buôn lậu ở Miền Nam, lại không được có tên trong danh sách di tản do Hoa Kỳ thiết lập. Khi ông ta đến trình diện trước cổng tòa đại sứ, binh sĩ canh gác đuổi ông ra. Ông mới chạy lại gặp nghị sĩ Nguyễn Văn Ngãi để van nài giúp đỡ ông ta được trực thăng bốc đi. Có ai ngờ được, một ông cựu cố vấn quân sự của Tổng Thống, một người đầy ngạo mạn và kiêu căng chểm chệ tác oai tác phúc hằng mấy năm liền ở Dinh Độc Lập, giờ đây chỉ còn là một đống mỡ run rẩy vì sợ sệt. Ông ta hết lạy van, cầu khẩn rồi lại viện dẫn đến mạng sống của vợ con và của chính bản thân ông sẽ bị Cộng Sản giết v.v… xuống nước, kính cẩn, khúm núm van xin.. Động lòng thương hại, nghị sĩ Ngãi đưa ông ta cùng đi với mình, cẩn thận không nói rõ tên họ ông ta là ai, nghị sĩ Ngãi mới đưa ông ta lên được trực thăng.3197489311_e1dcd12dbe_o
Nhìn từ bên ngoài, với đám đông người khốn khổ đang khóc lóc, kêu la, cầu xin một lối đi để ra khỏi hỏa ngục nầy, cuộc hành quân di tản nầy coi như rất ồn ào náo nhiệt và vô trật tự. Nhưng đối với những người đã được vào khuôn viên tòa đại sứ rồi, thì sẽ thấy bô máy di tản hoạt động hết sức chính xác. Các hành khách được đưa lên lầu thượng, từng toán 3 người một, đưa lên trực thăng (chở được 12 người một chuyến). Từ đó bay thẳng qua phi trường Tân Sơn Nhứt. Ở đây họ được đưa vào các dãy nhà thuộc Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ, trên nóc vẫn phất phơ lá quốc kỳ Mỹ. Các dãy nhà nầy lẽ ra là mục tiêu rất tốt của Cộng Sản, nhưng vẫn còn nguyên xi, không hề hấn gì. Mặc dầu lửa đạn gần suốt đêm qua trong khu vực phi trường, nhưng hình như các dẫy nhà nầy được Cộng Sản cố ý chừa ra. Có nhiều trực thăng vận tải “Chinook” đến từng toán 4 chiếc một, mỗi toán đỗ xuống một đại đội Thủy Quân Lục Chiến trang bị đại bác không giật và hỏa tiễn chống chiến xa với đầu đạn “Tows” có hồng ngoại tuyến. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm giữ an ninh cho khắp cả vùng di tản. Mỗi chiếc “Chinook” sau khi đổ Thủy Quân Lục Chiến và quân dụng xuống rồi thì bốc luôn 45 hành khách Việt Nam, xong mới bay đi.. Thời gian bay khoảng 1 giờ đến các chiến hạm của Hạm Đội VII và trên 20 chiếc tàu vận tải đang đậu chờ rước họ ở 30 cây số ngoài khơi bờ biển Việt Nam ngoài tầm tác xạ của pháo binh Cộng Sản Bắc Việt Hành trình không gặp một trở ngại nào. Không có một viên đạn, một hỏa tiễn, một trái đạn pháo binh nào được bắn đi từ dưới đất lên các trực thăng to lớn đang nối đuôi nhau rất đều đặn bay ra biển để đáp xuống một trong hai hàng không mẫu hạm, chiếc Hancock hoặc chiếc Okinawa, từ đó họ đã cất cánh bay vào Sài Gòn.
Sau khi đặt chân xuống các chiến hạm rồi thì người Việt Nam ai cũng bị các binh sĩ Mỹ rất đứng đắn nhưng cũng rất lạnh lùng khám xét trong người thật kỹ, để được bảo đảm là họ không có mang theo vũ khí, ma túy hay các loại y dược nguy hiểm. Sau đó họ mới được chuyển xuống các thuyền cao su hay thuyền máy để đưa họ sang các tàu vận tải. Các thuyền máy nầy chạy qua chạy lại như con thoi giữa các các chiến hạm và các tàu vận tải. Và các tàu vận tải nầy sẽ đưa họ về các trại định cư ở đảo Guam. Có nhiều chiếc tàu vận tải nầy được Hạm Đội gọi trở lại cả ban đêm để “vớt” những người tỵ nạn Việt Nam khác đang lênh đênh ngoài biển cả cách bờ biển Việt Nam hàng trăm cây số, trên các tàu đánh cá, các thuyền buồm thô sơ, có đèn đốt sáng rực, người trên thuyền dùng đuốc và đèn bấm, đèn lồng.. vừa vẫy gọi, vừa chạy lại các tàu chiến của Mỹ. Tất cả các làng đánh cá dọc theo bờ biển từ Phan Thiết đến Bình Tuy đều ra khơi và kêu cứu. Có hơn 20.000 dân tỵ nạn được đưa lên tàu và được cứu khỏi nanh vuốt của Cộng Sản.3197519529_08d887a4d9_o
**** Tại Sài Gòn lưu lượng trực thăng của Mỹ vẫn tiếp tục đều đặn, không ngừng.. ồ ạt bay suốt buổi chiều. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ có` đến trên 20.000 người đang chen chúc nhau đứng chờ với va-ly cầm ở tay, và nước mắt ràn rụa. Có một số người vào được cổng sắt và được bốc đi. Có nhiều người dí hằng xấp đô la vào mũi các anh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhưng họ vẫn lạnh lùng không lay chuyển.
Có hằng trăm xe chở đầy người mở còi nhấn kèn inh ỏi chạy vào phi trường Tân Sơn Nhất, nhưng không có một chiếc phi cơ nào cất cánh. Và trước cổng phi trường quân cảnh đã có thiết lập một hàng rào cản có bố trí súng liên thanh. Lại có hằng ngàn người chạy xuống bến cảng để cố gắng nhảy theo các tàu chiến, tàu buôn hay xà lan hoặc bất cứ một chiếc thuyền nào đó để chạy khỏi thành phố nầy bằng đường sông.
Có khoản 200 người vừa sĩ quan vừa công chức hay con buôn xuống được một chiếc tàu hàng còn tốt đang nhổ neo lúc 3 giờ chiều để chạy ra biển. Họ không đi xa hơn được vì vừa mới qua khỏi Nhà Bè thì chiếc tàu bị trúng đạn pháo, nổ tung và chìm. Những người may mằn còn sống sót lội vào bờ lại bị cắt cổ hoặc bị súng liên thanh bắn chết hết. Dĩ nhiên đô la và vàng họ mang theo đều bị vét sạch.
Vào cuối buổi chiều thì tướng Trần Văn Đôn và con trai ông ta, một bác sĩ, được một chiếc trực thăng bốc đi. Trước đó vài giờ, rất lịch sự như ông đã nổi danh, ông đã đến từ giã vị Đại sứ Pháp… và luôn tiện cũng để nhận thông hành Pháp của ông. Ông M. M. Mérillon cũng đã có một vài lần nhờ vã đến tướng Đôn.. Từ nhiều tháng qua, và nhất là trong cơn khủng hoảng của Chánh Phủ vừa qua, tướng Đôn được coi như là một phụ tá rất đắc lực cho hoạt động trung gian chánh trị của người Pháp. Ông đã trực tiếp thúc đẩy tướng Dương Văn Minh đi tới, và trước Quốc Hội lưỡng Viện ông đã có một buỗi thuyết trình quá thảm hại về tình hình quân sự. Có một lúc nào đó, ông M. Mérillon đã mong muốn đẩy ông Đôn vào ghế Thủ Tướng của ông Minh. Hôm chiều thứ hai, chấn động vì sự chống đối nhau giữa các trung tâm chánh trị của Miền Nam, tướng Đôn đã có ý định tự tử. Nhưng sau đó được giới thân cận lên giây cót an ủi…nên cuối cùng đã quyết định nhờ Mỹ đưa đi. Trước khi lên trực thăng, tướng Đôn đã nói với toán binh sĩ cận vệ của ông, những người đã không rời khỏi ông nửa bước, rằng : “Tôi bắt buộc phải ra đi thôi, vì nếu bọn Cộng Sản mà tóm được tôi thì tôi sẽ bị bọn chúng hành quyết ngay. Còn các anh, các anh chỉ là cấp nhỏ, các anh chẳng có gì nguy hiểm hết… và các anh có thể lẫn lộn được trong dân chúng.” Mấy anh binh sĩ nầy với gương mặt rắn rõi, nắm chặt tay lại buồn bã nhìn chiếc trực thăng cất cánh mang theo ông cựu tổng trưởng Quốc Phòng của mình lòng nặng trĩu không biết vì tức giận hay vì khinh bỉ…
Không phải chỉ có một tướng Trần văn Đôn là sĩ quan cao cấp đã rời khỏi Miền Nam Việt Nam. Đã có gần 60 vị tướng lãnh khác ra đi như vậy. Như trung tướng Vĩnh Lộc, mới vừa sáng hôm qua đây đã từng kêu gọi binh sĩ “đừng có trốn chạy như chuột” ; như tướng Bùi Thế Lân, một vị chỉ huy của Thủy Quân Lục Chiến, một người hùng đã rút quân bằng đường bộ từ Đà Nẵng về Sài Gòn vừa lui binh vừa đánh du kích ; như trung tướng Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật; tướng Thắng, thuộc binh chủng Pháo Binh, một cử nhân toán học và vô địch cờ, như tướng Toàn, tư lệnh Vùng III Chiến Thuật, người đã giữ vững trong 4 tuần lễ mặt trận Miền Đông của Sài Gòn; như tất cả các giám đốc An ninh và Tình Báo Quân sự, như vị Tư lệnh Không quân; như tướng Lưỡng thuộc sư đoàn Nhảy Dù, người luôn luôn được binh sĩ của mình ái mộ…. và tướng “thần phong” râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ, người đã từng thề sống chết với khẩu súng trên tay, và người đã chê Tổng ThốngThiệu là quá nhát gan….
kytruong
Ngo Quang Truong & Nguyen Cao Ky  tren USS Midway
Tuy nhiên, cũng có một số người đã thẳng thừng từ chối không rời khỏi vị trí chỉ huy và binh sĩ của mình khi được các tùy viên quân sự của tòa đại sứ Mỹ trực tiếp liên lạc hay kêu gọi qua điện đài. Đó là Tướng Nguyễn Khoa Nam, người có trách nhiệm phòng giữ đồng bằng sông Cửu Long, Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, người đã giữ vững Xuân Lộc và là người đã trả lời :“Các binh sĩ của tôi đã hăng say chiến đấu, làm sao tôi nỡ bỏ họ được để đi trong lúc họ rất cần sự có mặt của tôi bên cạnh họ ?”, Tướng Lý Tòng Bá, người chống giữ mặt trận phía Bắc, một tướng Kỵ Binh Thiết Giáp, Tướng Lê nguyên Vỹ, người đã chiến đấu với phần còn lại của sư đoàn 5 bộ binh ở Trảng Bom, Tướng Phú đang bị phạt giam, người đã tuyên bố với vị Cố vấn Hoa Kỳ khi ông nầy đến tìm rước ông đi : – “Tổng ThốngThiệu đã chà đạp danh dự tôi khi ông công khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao Nguyên Trung Phần….. và ông ta đã ra đi như một người du lịch với những chiếc va ly mà ông đã soạn sẳn…. Nhưng phần tôi, tôi sẽ ở lại, tôi sẽ tự tử và máu của tôi sẽ rơi trở lại vào lưng ông ta. Tôi chỉ còn có một cách đó để đính chánh lời cáo buộc của ông ta mà thôi
**** Thủ đô Sài Gòn đã về đêm. Ở vài cây số về hạ lưu sông Sài Gòn, để tránh những kẻ tò mò, có mấy chiếc tàu xà-lan đang bốc hằng ngàn người toàn là đàn bà và trẻ con thuộc gia đình của anh em Hải Quân. Các xà-lan nầy được các tàu lớn kéo đi, có thuyền máy võ trang hay các tàu phóng ngư lôi hộ tống ra biển, ở đó có trên 30 chiếc tàu đang chờ họ. Tất cả các tàu chiến thuộc các đơn vị lớn của Hải Quân Miền Nam Việt Nam đều rút hết về đảo Guam.
Trong bầu trời tối đen như mực của thủ đô, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ với đầy đủ đèn hiệu sáng rực của mình đã dùng đèn pha chiếu thẳng thành những vệt dài sáng rực cắt đứt hẳn màn đêm. Ở dưới đất thì những cọc tiêu và những đèn rọi đánh dấu các nóc nhà mà trực thăng sẽ đáp xuống bốc người đi.
Trên các sân thượng khác lại có những kẻ đau khổ lo âu đang đốt những cuộn giấy hay giẽ có tẩm dầu. Họ hy vọng lửa sẽ dẫn dụ được những con chim sắt khổng lồ đến bốc họ ra khỏi nỗi lo sợ của họ và đưa họ ra khơi… cốt chạy khỏi bọn Cộng Sản…. nhưng vô hiệu.
Đại sứ Graham Martin, người đánh giá cuộc hành quân di tản như là một việc “không ra gì” thì muốn ở lại Sài Gòn và chết ở đó. Ông ta chỉ phải rời khỏi thành phố nầy lúc 4 giờ sáng theo lệnh bắt buộc của Kissinger. Với một tâm trạng đảo điên, quá mệt mỏi (ông thức suốt 72 giờ liền), ông đáp xuống hàng không mẫu hạm “Blue Ridge” đang nằm chờ ông xa tít ngoài biển cả… sau đó ông vào phòng đóng cửa lại ngay để không cho ai thấy được nỗi thất vọng của mình.
Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng ra đi vào lúc rạng đông sau khi đã phá hủy hết các dụng cụ điện tử ở tòa đại sứ và không quên mang theo lá quốc kỳ. Mười tám ngày sau khi di tản khỏi Phnom Penh, Hoa Kỳ lại rời khỏi Việt Nam bỏ lại một thành phố Sài Gòn mặc cho nỗi lo sợ và những tai họa sẽ dồn dập đến với nó.
Hoa Kỳ chỉ có để lại nhà trống, vài nhà báo (vì họ muốn ở lại) và khoảng 50 người có quốc tịch bị bỏ quên. Tức khắc các nhà đó đều bị cướp phá. Trong khi còn những ánh lửa đỏ rực bay trên nền trời thủ đô và các vùng chung quanh thành phố, đã có hàng trăm hàng ngàn người, vừa đàn ông đàn bà và trẻ nít đua nhau “làm thịt” tất cả các vật dụng chết của tất cả các nhà vô chủ thuộc người Mỹ trong dĩ vãng…. Từ những chiếc nệm giường, tủ lạnh, máy đánh chữ, máy giặt máy sấy, máy rửa chén, máy thâu thanh, truyền hình, máy ảnh, máy quay phim, quạt trần, quạt máy, điện thoại, cho đến từng cuộn giấy vệ sinh… thượng vàng hạ cám không bỏ sót một vật gì, vì món nào cũng là tốt… xài được hết. Từ trước đến giờ lúc nào Chánh Phủ cũng nghiêm cấm mọi hành động cướp bóc, và tuyên bố là sẽ xử bắn tại chỗ những kẻ hôi của cướp bóc. Nhưng bây giờ thì những người lẽ ra có bổn phận phải xử bắn kẻ cướp lại đi về hùa với kẻ cướp để kiếm chút chiến lợi phẩm cho mình.
Từ bên lề cuộc hành quân di tản ồ ạt của người Mỹ, từ những người quá thất vọng cứ điên cuồng chạy rong cùng khắp, từ những tiếng gầm thét của pháo nặng 130 ly Bắc Việt đang nã vào xóm làng công giáo ở Hố Nai và những vùng lân cận, trong những giờ phút cuối cùng của ngày thứ ba cuối tháng 4/75 nầy, Sài Gòn đã sống trong một hậu trường chánh trị quá sôi động, không đo lường nổi một lối thoát khó tránh được của biến cố, nhưng nhờ vậy người ta mới có thể thấy và hiểu thêm được không khí lố bịch trong địa hạt chánh quyền mấy giờ trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
Một nhóm người bất mãn qui tụ các vị lãnh đạo giáo phái, một số đại tá trẻ có liên lạc với các đơn vị còn đang chiến đấu và Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân… không tin tưởng khả năng và cơ may của tướng Dương Văn Minh có thể đi tới cuộc thương thuyết được với bọn Cộng Sản. Họ sẵn sàng đứng lên lật đổ tướng Minh để phòng thủ Sài Gòn và vùng đồng bằng sông Cửu Long và tổ chức kháng chiến với bất cứ giá nào. Họ cũng đã có dự trù sẵn một người để thay thế tướng Minh nếu cần.
Vào hồi 12 giờ 5 phút trưa ngày thứ ba 29 tháng 4 nầy, một đoàn xe 3 chiếc Jeep với 12 binh sĩ đã hộ tống Phó Đô đốc Chung Tấn Cang có ủy quyền của các đơn vị còn đang chiến đấu và một đại diện có thẩm quyền của Phật Giáo Hòa Hảo thay mặt cho các giáo phái ở Miền Nam, đã đến gặp tướng Minh tại nhà riêng của ông ta. Phó Đô đốc và vị lãnh đạo giáo phái hùng mạnh Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây đã vào tới phòng khách lớn của tướng Minh. Ông ta đang chờ hai vị nầy ở đó, có vẻ rất mệt mỏi, với cặp mắt đầy âu nhấp nháy của một người hoàn toàn vừa bối rối vừa mất ngủ từ hai ngày nay. Ông ta quá xúc động và bất ngờ về chuyện Cộng Sản ném bom vào phi trường chiều ngày hôm qua. Ông thú thật với hai người khách: ” Tôi rất nản lòng. Tôi đã nhận được những bảo đảm từ phía “bên kia”, đại sứ Pháp đã xác nhận với tôi là Chánh Phủ Pháp đã có một kế hoạch “hòa bình”, và tôi sẽ có một thời gian là 6 tháng để thương thuyết. Ông ta đã thúc đẩy tôi phải từ chối không nhận chức vụ Thủ Tướng và phải cố đòi cho được ghế nguyên thủ quốc gia. Tôi đã theo đúng những lời khuyên bảo của ông ta. Tôi lại còn thỏa thuận để soạn thảo với ông ta một bản tuyên bố nói rằng “nước Pháp phải giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình tái lập hòa bình” ở đây. Và sau đó thì có cuộc dội bom. Chỉ một vài phút sau khi tôi nhận nhiệm vụ. Thật là một điều lăng nhục không thể chịu được. ” Tướng Minh lắc đầu hai ba lần và chua chát ông nói tiếp: – ” Ông Mérillon không còn lý gì đến tôi nữa! Ông ta đã đến đây gặp tôi sáng nay. Và đây là tất cả những gì mà ông có thể nói được và nhắc lại với tôi:” rằng ông ta không còn một giải pháp chánh trị nào nữa hết…., không còn kế hoạch nào nữa hết.. và rằng các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt đã tiến đến rất gần thủ đô rồi và rằng chỉ còn cách tốt nhất là nên đơn phương ra lệnh cho bên mình ngưng bắn mà thôi.” Đó là tất cả những gì đại sứ Pháp đã nói với tôi sau khi đã bảo đảm với tôi trong bao nhiêu ngày liên tiếp rằng kế hoạch của nước Pháp đã được “phía bên kia” chấp thuận rồi ! ” – Và ông đã trả lời cho ông ta ra sao ? Phó Đô Đốc hỏi Tướng Minh nhỏm dậy một lúc, cặp mắt đờ đẫn; – ” Tôi đã nói là: tôi không thể ra lệnh cho binh sĩ đầu hàng vô điều kiện như vậy được. Trái hẳn với danh dự… Dù sao thì tôi cũng từng là sĩ quan của quân đội Pháp Vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo xẳng giọng chen vào: – “Người Pháp là người Pháp. Còn ông là người Việt Nam, là nguyên thủ quốc gia và có trách nhiệm với tương lai của đất nước. Ông đã nói với Tổng Thống Hương, và mới đây ông cũng đã nói với chúng tôi là ông đã có nhận được bảo đảm của “phía bên kia”. Vậy ông đã có liên lạc gì với Cộng Sản, và họ đã bảo đảm với ông những gì? Tướng Minh dụ dự một lúc hình như ông muốn nói ra, nhưng sau đó ông cứng rắn trả lời – “Tôi không thể cho ông biết những chi tiết ngay bây giờ được”. Vị đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo đưa một ngón tay chỉ ngay ông Minh và nói gần như tố cáo – “Không phải chỉ có một mình ông thất vọng và bọn Cộng Sản nuốt lời đâu. Còn có sự ngầm phá hoại đê tiện của người bạn của ông, là tướng Trần Văn Đôn, đối với tinh thần của quân đội và của Quốc Hội. Trước hết ông ta đã bịp Lưỡng Viện Quốc Hội để họ ra một quyết định trao quyền cho ông và cho ông có toàn quyền hành động. Ông ta đã vận động can thiệp trước khi Quốc Hội bỏ phiếu bằng cách trình bày cho Quốc Hội một bản thuyết trình gian dối về tình hình quân sự, thổi phồng lực lượng Cộng Sản Bắc Việt mà theo ông ta thì họ đã bao vây Sài Gòn rồi. Không duới 14 sư đoàn Bắc Việt – con số nầy ông đã lập đi lập lại nhiều lần sau đó qua điện thoại cho từng người trong lúc Quốc Hội đang thảo luận để quyết định cho lá phiếu của mình.. Nhưng các con số đó không đúng. Chỉ có vỏn vẹn 4 sư đoàn Cộng Sản đang trực tiếp đe dọa chúng ta từ mặt trận phía Đông. Các sư đoàn khác thì còn cách đây ba bốn ngày đường và trên đường tiến quân của họ, họ còn phải gặp 2 sư đoàn nguyên vẹn của ta còn đang chiếm giữ trận địa. Các vị trí ở hướng Bắc thủ đô được tăng cường rất mạnh. Đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa có hề hấn gì và chúng ta còn đến 6 sư đoàn không kể gần trăm ngàn thuộc lực lượng địa phương quân. Tướng Đôn còn từ khước không chịu cấp phát võ khí cho lực lượng Hòa Hảo, Cao Đài và Công Giáo khi họ muốn chiến đấu. Chúng tôi có thể cung cấp thêm hàng trăm ngàn người để chống giữ đất nước. Hãy mở cửa kho vũ khí cho chúng tôi. Hãy hiệu triệu quốc dân đồng bào. Cần phải xác nhận quyết tâm của chúng ta để phòng thủ Sài Gòn. Nếu ông muốn cuộc thương thuyết có được chút cơ may thắng lợi, thì chớ nên ra lệnh vứt súng xuống hay nói rằng chúng tôi đã ngừng bắn rồi ! Nếu ông không muốn kháng cự nữa thì hãy nhường chỗ lại cho một nội các cứu quốc, hoặc là quân nhân và các giáo phái chúng tôi sẽ tiến hành một cuộc đảo chánh.” Tướng Minh ra vẻ suy nghĩ. Hiển nhiên là ông đã đi sau tình hình rồi. Ông nhìn Phó Đô Đốc Cang như hỏi ý. Phó Đô Đốc Cang khẳng định: – “Quân đội không muốn đầu hàng! – Tôi cũng không muốn như vậy. Tôi là một quân nhân, và tôi không sợ chết. Và tôi rất chán cái màn hài bịch nầy lắm rồi. Bây giờ thì tôi thấy là tôi đã bị lừa, và người ta đã lợi dụng tôi! Tôi sẳn sàng rút lui, với điều kiện là phải tìm được một cái đầu thật sự biết làm chánh trị.
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo đưa ngay lá bài ra: “Đây, cái đầu đó có đây rồi: đó là ông thủ tướng Trần Văn Hữu. Các giáo phái sẽ ủng hộ ông ta vì ông ta luôn luôn có một đường lối chánh trị khoan dung đối với họ. Các sĩ quan sẽ theo ông vì chính ông đã thành lập quân đội quốc gia năm 1951, khi ông ta là Thủ tướng của nước Việt Nam. Bộ chánh trị của Hà Nội biết ông ta và đánh giá cao ông ta. Ông ta là một nhân vật của Quốc Gia có kinh nghiệm và là một người Miền Nam chính cống. Hãy kêu gọi ông ta!
Ông Minh có vẻ nghe theo đề nghị nầy. Và ông nói với một giọng thành thật: – “Tôi biết ông ta nhiều. Tôi đã từng là sĩ quan tùy viên của ông. Tôi kính trọng ông. Và tôi biết là các công chức vẫn giữ nhiều kỷ niệm tốt về ông: vào thời kỳ ông làm Thủ tướng, mọi người đều được trả lương hậu hỉ và đồng bạc Việt Nam rất có giá.
Phó Đô Đốc Cang tiếp lời: – “Vậy thì hãy gởi cho ông một công điện đi.
Tướng Minh gật đầu và nói; – “Rất đồng ý. Tôi sẽ tuyên bố trên đài phát thanh và đài truyền hình trong một giờ nữa. Chúng ta hãy cùng nhau thảo bản tuyên bố nầy đi.” Bản tuyên bố viết : “Tôi yêu cầu ông Thủ Tướng Trần văn Hữu, một người yêu nước chân thành và đáng kính, hãy chấp nhận lãnh đạo đất nước và đưa đất nước đến con đường hòa bình chân chính và trong danh dự.”
Lúc nầy đã 13 giờ hơn. Hai người khách của ông Minh đứng dậy. Ông Minh tiễn họ ra ngoài cổng, thân mật bắt tay và còn nói : – “Tôi sẽ tuyên bố công khai, Tôi hứa với các ông như thế” Phó Đô Đốc Cang trả lời: – “Phần tôi, tôi sẽ lo các chuyên viên truyền hình và truyền thanh để phối hợp loan báo lời tuyên bố của ông”.
Phó Đô Đốc Cang và vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo sau đó đi ngay đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Phó Đô Đốc gọi ngay được các chuyên viên cần thiết cho công tác truyền thanh và truyền hình. Vào lúc 14 giờ trưa thì tất cả sự bố trí về mặt kỹ thuật và chuyên viên đều đã sẵn sàng.
Nhưng, tướng Minh không đến. Thật ra, sau khi ông bắt tay từ giả 2 người khách, thì ông bước ngay sang phòng bên cạnh với những người cộng sự chánh yếu của ông là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng trưởng Thông Tin Lý Qúy Chung, những người nầy đã ngăn không cho ông trao quyền lại cho ai hết.
Nhất là ông Vũ Văn Mẫu, đặc biệt đã tỏ ra rất là cay đắng khi ông xác nhận: – “Tất cả các điều kiện của họ chúng ta đã thực hiện, để có thể mở ra một cuộc nói chuyện với “phía bên kia”. Người Mỹ đã đi khỏi nước Việt Nam hết rồi. Tôi đã loan báo là tất cả bộ máy hành chánh từ trung ương đến địa phương sẽ nhanh chóng được cải tổ để cho hợp với một chế độ tự do thật sự. Ông Trần văn Hữu ở tận Ba Lê, mà không có một phi cơ nào có thể hạ cánh lúc nầy được. Chúng ta có chánh quyền và chúng ta phải giữ nó. Phía những người cách mạng sẽ chấp thuận thương lượng cho một thỏa ước. Tôi tin chắc như vậy.” Trong cuộc thương thuyết mà ông dự trù với “phía bên kia”, ông Vũ Văn Mẫu định xử dụng lá bài chủ: “sự ra đi của tất cả người Mỹ”, điều mà ông ta đã bắt buộc họ phải rời khỏi nước Việt Nam.
Nhưng khổ cho ông, là ông không hề biết là con bài đó đã không còn nằm trong tay ông nữa. Vì “người Mỹ phải rút hết khỏi nước Việt Nam” đã là đề tài của một thỏa hiệp bí mật giữa Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội từ lâu rồi!
Tại Bộ Tư Lênh Hải Quân, Phó Đô Đốc Cang vẫn tiếp tục chờ đợi… Đã hai lần ông cố gắng gọi tướng Minh, nhưng cả hai lần, ở Dinh Độc Lập và cả ở tư dinh người sĩ quan tùy viên đều nhanh nhẫu trả lời lạnh lùng: “Ông Trung tướng Tổng Thống không có ở đây”!
Đến 16 giờ, Phó Đô Đốc Cang mới quyết định báo động cho đại sứ Pháp để nhờ ông chuyển về Ba Lê qua hệ thống vô tuyến điện, lời mời của trung tướng Dương Văn Minh đến ông Trần văn Hữu. Nhưng tổng đài điện thoại của Tòa Đại sứ trả lời là “ông Đại Sứ đang bận họp”. Phó Đô Đốc Cang gọi lại 3 lần nhưng cả ba lần đều nhận được câu trả lời thoái thác tương tự, có nghĩa là họ không muốn tiếp. Bực tức và phẫn nộ, Phó Đô Đốc Cang gác điện thoại xuống một cách giận dữ và tức tối càu nhàu: – “Cái anh mất dạy Mérillon nầy (nguyên tác “Ce salot….de Mérillon”) không muốn dính vào nữa rồi đây. Khi mà mọi việc êm xuôi thì ông ta đi đến đây ngay để gặp mình, hay cho xe riêng đến đón mình. Bây giờ thì anh lại nhờ một anh “lon ton” đưổi khéo mình !”
Còn vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo thì rời khỏi Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi thẳng tới gặp các thành viên của mình đang họp tại một biệt thự gần nhà ga Sài Gòn. Vào buổi chiều ông điện thoại cho Phó Đô Đốc Cang, nhưng ông nầy đã rời khỏi Bộ Tư Lệnh để đi tổ chức cho các tàu chiến của mình rút ra biển.
Liên lạc giữa 2 người mất từ lúc đó.
Đến 9 giờ tối, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo nầy lại đến nhà tướng Minh ở đường Chasseloup Laubat một lần nữa. Nhưng ông thấy vị nguyên thủ quốc gia Miền Nam lúc bấy giờ lại tỏ ra đần độn hơn buỗi trưa nay nữa: – “Tôi chẳng biết làm gì bây giờ. Nhưng tôi không thể nào ra đi lúc nầy. Tôi phải ngồi lại cho đến cùng…. để bảo vệ dân chúng và thủ đô khỏi bị tàn phá.” Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo buông ra một câu hơi chối tai : – “Ông là người không biết giữ lời hứa. Ông không có đến đọc lời tuyên bố của ông trên đài phát thanh. Nhưng ông còn có thể làm việc đó. Ông hãy bốc điện thoại lên và gọi ngay ông Hữu ở Ba Lê. Ông dừng có do dự nữa…
Tướng Minh nhún hai vai: -”Đã quá muộn rồi ! người Mỹ đã cho nổ trung tâm điện đài hồi trưa nay rồi….
– Ông hãy nghe đây, vị đại diện giáo phái đáp lại ngay, hồi sáng nay ông đã từ chối không chịu nói cho chúng tôi biết ông đã bắt liên lạc với những ai ở “phía bên kia”. Bây giờ Phó Đô Đốc Cang không có ở đây, ông không phải bối rối về chuyện “mất thể diện” nữa. Ông phải giải thích rõ cho chúng tôi. Ông hãy nói cho tôi biết ai trong số những người của ông ở đây đã có đủ tư cách đi bắt liên lạc với “bên kia” và họ đã nói chuyện với ai ?
Tướng Minh do dự một lúc lâu và sau đó tuôn ra hết : – “Đó là con tôi, thằng Đức, nó đang là sinh viên khoa chánh trị, nó đã gặp Võ Văn Sung, đại sứ Bắc Việt ở Ba Lê. Ông Sung đã nói với con tôi là Hà Nội và CPLTCHMN không có gì chống đối tôi hết và họ chấp nhận sẽ thương thuyết với điều kiện là trên căn bản của sự thi hành Hiệp Định Ba Lê ”
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo bực tức thốt lên : – Nhưng đó là trò trẻ con ! Con của ông không có một tư cách chánh thức nào cả. không có một sự ủy nhiệm nào hết để mà bàn cãi với Cộng Sản. Và ông đã căn cứ vào một phúc trình đơn giản của một cuộc nói chuyện riêng tư để làm việc ! Ông đã thực hiện cả một chuỗi dài hành động chánh trị, ông đã làm áp lực với Tổng Thống Hương và lưỡng viện Quốc Hội để đưa họ vào con đường vi phạm Hiến Pháp, ông đã lừa bịp dân chúng Việt Nam và trước dư luận quốc tế bằng cách bắn tiếng là ông đã nhận được những bảo đảm của “phía bên kia” trong lúc ông không có được trong tay một mảnh giấy lộn nào từ “phía bên kia”! Bản thân ông cũng chưa bao giờ gặp được một nhân vật chính thức nào của phía “bên kia”.
Ông Minh còn cố chống chế: – ” Không phải chỉ có một mình con tôi. Tôi đã nhận được những khuyến khích từ ông đại sứ Pháp Mérillon, nhân danh Chánh Phủ của ông và những chuyên viên ở Phủ Thủ tướng Pháp.
– “Và bây giờ thì ông ta bỏ rơi ông như một cái bị rách?”
Tướng Minh chấp nhận và đưa nắm tay lên tức tối : – ” Đúng vậy, tất cả đều rất đúng…. Ông ta chả cần biết việc gì sẽ xảy ra nữa ! Nhưng mà bây giờ tôi không có thề lùi được nữa rồi. Tôi đã cam kết là sẽ tiến tới cuộc thương thảo. Và tôi sẽ gánh hết trách nhiệm của tôi.. Những người có trách nhiệm ở phía bên kia bắt buộc phải nghĩ đến một Chánh Phủ hòa hợp quốc gia.” – ”
Nhưng cuối cùng, xin ông cho biết xem ông trông chờ những gì ở người Cộng Sản ? Ông cũng biết rõ là từ chiều hôm qua, đài phát thanh Hà Nội nhắc đi nhắc lại không ngừng là CPLTCHMN và Bắc Việt không muốn bàn thảo gì với bất cứ người nào đã từng ở trong “tập đoàn Diệm – Thiệu”. Và như ông đã biết đó; vị Phó Tổng Thống của ông lại là Chủ Tịch Thượng Viện của Tổng ThốngThiệu. Vị Thủ Tướng của ông đã từng là Tổng trưởng ngoại giao của Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm liền. Và bản thân ông cũng đã là cố vấn quân sự của ông Diệm !”
Tướng Minh có vẻ sững sốt: – Ở đâu lại có câu chuyện phát thanh đó vậy ?
– Ông đừng đùa nữa. Làm như ông không có bắt đài phát thanh Hà Nội nghe vậy ? chuyện sơ đẳng quá mà ! Chỉ cần có nghe là sẽ thấy những gì tôi nói là đúng hết. Cứ mỗi 15 phút là xướng ngôn viên nhắc lại cái tối hậu thơ đó. Đây nầy…
Vừa nói xong vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo liền đứng phắt dậy, đi lại máy thâu thanh để trên bàn và vặn kim điều chỉnh đài. Một bài hát cách mạng nổi lên, tiếp theo đó là thông báo các chiến thắng, kế tiếp là tiếng nói đanh thép của xướng ngôn viên Bắc Việt đọc một bản thông cáo: -” CPLTCHMN không sẵn sàng để thương thuyết. Nguyễn văn Thiệu đã bỏ chạy. nhưng những người thay thế hắn, được biết là tập đoàn Minh – Huyền – Mẫu vẫn còn ngoan cố vừa lớn tiếng kêu gọi quân đội tiếp tục chiến đấu, nhằm giữ vững lãnh thổ còn lại, vừa đòi hỏi phải có thương thảo. Thật quá rõ ràng là tập đoàn nầy đang ngoan cố tiếp tục muốn kéo dài chiến tranh với hy vọng là giữ lại bọn thực dân mới Hoa Kỳ. Nhưng họ đừng có hòng đu đưa trong ảo vọng ! Họ không có đại diện cho ai được hết và không lừa bịp được ai đâu. ”
Xem chừng như tướng Minh rụng rời cả chân tay… ông thều thào: – Tôi không biết được chuyện nầy, Không có ai báo cáo cho tôi biết chuyện phát thanh nầy hết.”
– Bây giờ thì ông đã biết rồi đó, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo vừa nói vừa đứng lên. Chỉ có một chuyện duy nhất mà Cộng Sản đang chờ ở ông, đó là “đầu hàng không điều kiện.” Không cần phải mất sức để nói chuyện với ai nữa hết mới đi đến chuyện đầu hàng ! Phần chúng tôi, trong bất cứ trường hợp nào, chúng tôi cũng không thể nào buông súng xuống được “.
Trong lúc vị đại diện các giáo phái đi ra cửa, mất hút trong bóng tối của một hành động bí mật mới nào đó thì ông Minh ngã người trong ghế dựa xét đi xét lại với một tinh thần bấn loạn. Có một chuyện mà ông đã không có nói được cho người vừa đối thoại với ông. Đó là: Vào lúc trước 7 giờ tối, ông đã gởi một phái đoàn đến “trại Davis”, một doanh trại ở giữa lòng sân bay Tân Sơn Nhứt, là nơi trú đóng từ tháng 2 năm 1973 của hai phái đoàn quân sự của Bắc Việt và của CPLTCHMN thuộc Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên (và sau nầy là Hai Bên), với nhiệm vụ kiểm soát sự ngưng bắn theo Hiệp Định Ba Lê. Nhưng các sĩ quan Cộng Sản đã từ khước không chịu tiếp phái đoàn đại diện của tướng Minh, làm cho họ phải qua đêm đến sáng sớm hôm sau trong một hầm trú ẩn. Ông Minh cũng không dám cho vị đại diện các giáo phái biết là trong suốt hai cuộc hội kiến với ông ta trong ngày, vị đại sứ Pháp lúc nào cũng có mặt ở ngay phòng bên cạnh. Ông Jean Marie Mérillon đã ở nhà tướng Minh gần suốt ngày thứ ba nầy. Ông ta chỉ vắng mặt có một lúc khi ông phải đi vào Tân Sơn Nhứt với một vị tổng trưởng của ông Minh. Các đại diện Cộng Sản ở đó đã xác nhận với hai người là “trong trường hợp tướng Minh ra lệnh cho quân đội Miền Nam ngừng bắn thì chừng đó Cộng Sản mới sẽ không bắn vào thủ đô Sài Gòn nữa.” Đại sứ Pháp đã chuyển câu trả lời đó cho tướng Minh và hối thúc ông Minh sớm có quyết định.
3195581723_d441fb8097_o
Tối hôm đó, Tổng Thống Minh ngã người xuống ghế trường kỷ, nằm thao thức suốt đêm trước bể nuôi cá của mình, nhìn cặp mắt tròn xoe của con cá để tự xét lại hành động của mình trong thời gian qua…
CHƯƠNG 23 SỰ DẢY CHẾT CỦA MỘT THÀNH PHỐ
MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ?
(VIETNAM, QU’AS TU FAIT DE TES FILS?)
Tác giả: Pierre Darcourt
Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa