Monday, May 20, 2019

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3286887507991719&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARASE7B2Bs8h7arArM-U7xP9Z4kMXT_Y5vR_BlJgBwnuFskuYqTyCkKRh-Cs4E4yvMQQWV5Bx3MT6L72
trâu bò làm việc giỏi hơn tỉnh ủy
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3286833354663801&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARC4-bz1COrdo8U_Byd8hjiNJNCkNwOLYFtVvxA1Wp0ogt2Zab5l7ldsEwHHQh3rdGjePa0mfpSeAsJ-
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1906919472655203&set=pcb.1906921885988295&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBA-2OqlwqdyJrelCwLszFzwLSPUMDfR9HY26v5uGP2ZYNVcILw87-SV0GLnsGBgS20gMsPKs9VJTMj
Nhật ký sau giải phóng (3)
Truyện dịch - Sách dịch Tháng Năm 8, 2015 - Phan Ba's Blog
Phan Ba trích dịch từ “Nach der Befreiung – Damit ihr wisst, dass das Leben weitergeht” (“Sau giải phóng – để các người biết rằng cuộc sống vẫn tiếp tục)
Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng trên Dinh Độc Lập
01/05/1975
Bắt đầu từ ngày hôm qua, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, một ngôi sao vàng trên nền đỏ xanh, đã bay trên dinh Độc Lập, nơi mà các tổng thống của chế độ cũ đã cư ngụ trong hai thập niên qua.
Cũng như không ai tin rằng nó sẽ diễn ra nhanh như vậy vào lúc cuộc tổng tấn công bắt đầu. Thế nhưng hệ thống cũ đã đổ sụp xuống như một ngôi nhà xếp bằng lá bài, sau khi các lãnh tụ chính trị và nhân viên thân cận của họ rời bỏ đất nước. Ngày cuối cùng, ngày 30 tháng Tư, là một ngày khắc nghiệt cho toàn Sài Gòn. Quy mô các trận đánh không lớn lắm, nhưng sự căng thẳng về tinh thần thì lên đến đỉnh điểm. Với quân đội cách mạng trước cửa ngõ thành phố, ông tổng thống mới nhậm chức thậm chí còn không có thời gian để bổ nhiệm nội các và thành lập chính phủ. Ông chỉ còn có thể tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Tin này được phát qua radio vào lúc trưa ngày 30 tháng Tư. Lúc đó nó còn chưa là “đầu hàng vô điều kiện”, mà là “ngưng bắn”. Thế nhưng người ta biết rõ rằng chẳng có gì để mà thương lượng cả.
Những giây phút cuối cùng của lá cờ vàng
Khi tin báo chấm dứt chiến tranh đến qua radio, phần lớn người dân đều mừng rỡ. Sự hồi hộp biến mất, và con người ôm chầm lấy nhau. Cả trong Trung Tâm, những gương mặt cũng rạng rỡ lên. Ngay cả những người lúc nào cũng biểu lộ sự sợ hãi trước một chế độ cộng sản rõ ràng bây giờ cũng chấp nhận rằng họ vẫn có thể sống được dưới chế độ này. Tôi cảnh báo những người trong Trung Tâm: Trận đánh vẫn còn chưa chấm dứt. Có ai đó đã nói rằng những người chết cuối cùng của một cuộc chiến mới là những sự điên rồ to lớn nhất. Nhưng rõ ràng là còn có nhiều lắm. Tôi không quên đợt tấn công bằng máy bay của Phó Đô đốc Kỳ lên phi trường. Thật sự thì vẫn nghe được liên tục tiếng nổ của hỏa tiển, đạn pháo binh và súng máy. Hệ thống cũ đang giãy chết, nhưng nó vẫn còn chưa chết. Qua khe cửa của Trung Tâm, người ta có thể quan sát thấy hàng đám người đang hôi của trong một hộp đêm Mỹ ở kế bên và trên thực tế là đã lấy đi tất cả những gì có thể lấy đi được – ngay cả những thanh ván của kết cấu mái nhà. Tôi nghĩ rằng những người bị tước đoạt bây giờ lấy lại những gì mà người bóc lột đã cướp đi từ họ. Thế nhưng phương pháp này chắc chắn là tư sản. Những người hôi của mạnh nhất cũng là những người thành công nhiều nhất. Cả Tổng thống Minh lẫn chính phủ cách mạng đều cấm ngặt việc cướp bóc hôi của. Thế nhưng cả hai quyền lực này cho tới nay vẫn chưa thể đứng vững được. Tôi nhìn thấy người ta vác giường bệnh đi dọc theo trên đường Cách Mạng. Sau đó tôi mới biết, Adventist Hospital, trước đây là bệnh viện của quân đội Mỹ ở Sài Gòn, đã bị hôi của và phá hủy toàn bộ trong những giờ phút này. Không còn có quyền lực nào nữa, sau khi các bác sĩ và nhân viên quản lý Mỹ được di tản bằng trực thăng vào phút cuối. Người ta không chuẩn bị đầy đủ cho lần bàn giao sang cho người Việt.
Bây giờ tiếng súng nổ càng lúc càng đến gần hơn. Tôi ở lại trong Trung Tâm, vì sau khi tuyên bố ngưng bắn đã xuất hiện một khoảng thời gian vô chính phủ mà chuyến đi trở về nhà trong thời gian đó có thể nguy hiểm tới tính mạng. Quân lính chế độ cũ của Thiệu đứng trước cánh cửa luôn luôn đóng kín của Trung Tâm và muốn vào hôi của. Chúng tôi có thể thuyết phục được họ, rằng có người sống ở đây và ngôi nhà này không bị bỏ trống. Vì vậy mà họ đã bỏ đi.
Mặt trận chậm chạp kéo đi dọc theo đường Cách Mạng về hướng Trung Tâm. Hiện giờ thì chúng tôi đã phân biệt được tiếng súng sắc nhọn của MTGP với tiếng súng của chế độ cũ đang chấm dứt. Đạn rớt ầm ầm xuống mái nhà của Trung Tâm. Chúng tôi vào các gian phòng để ẩn nấp. Khi cả tiếng súng đại bác cũng to lên tới mức không thể chịu đựng được nữa, mệnh lệnh được đưa ra là ngay lập tức phải di tản tất cả trẻ em xuống hầm. Ở đó, chúng tôi có hai người khách đặc biệt. Một người là người thầy dạy cho các em trai quá cảnh loại võ Vovinam và bình thường thì là lính. Ông, không còn súng ống nữa, đã chạy trốn bằng Honda vào Trung Tâm an toàn của Terre Des Hommes, để tuân theo lời kêu gọi từ bỏ chiến đấu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Ông thay quần áo trong Trung Tâm và lẫn vào trong đám đông tẻ con, nhân viên và người nhà của họ. Người thứ nhì là Hue Phat, một giờ trước đó đã đến đây với chiếc xe buýt nhỏ mang hàng chữ “Chào Hòa Bình” và sau đó muốn tiếp tục đến thăm những người bạn khác. Ông đã công khai biểu lộ niềm vui mừng quá sớm. Quân lính của chế độ cũ – đang trên đường rút lui – đã bắn vào chiếc xe và Hue Nhat đã trúng đạn sượt qua ở bụng và tay. Ngay cả trong Trung Tâm, sau lần tuyên bố ngưng bắn, chúng tôi đã gởi hai xe với y tá, nhân viên làm việc xã hội và thuốc men đi, để gom những người bị thương lại và mang vào bệnh viện. Chiếc đầu tiên đã quay lại ngay sau đó. Thế nhưng chiếc thứ nhì vẫn còn chưa trở về trong lúc có bắn nhau dữ dội ở trong vùng của chúng tôi. Tôi rất lo lắng cho nhóm này.
Cuối cùng họ cũng trở về, khi người dân từ trong nhà và những nơi ẩn náu đổ trở ra các con đường chính. Tôi rất cẩn thận cho tới thời điểm này, vì không muốn lâm vào tình thế nguy hiểm là bị nhầm lẫn với một người lính Mỹ. Nhưng bây giờ thì tôi cũng bước ra khỏi Trung Tâm. Đã rõ: quận Phú Nhuận ở gần phi trường đã bị chiếm. Xe tăng và xe tải của Mặt trận Dân tộc Giải phóng với những lá cờ mà tôi đã nhìn thấy nhiều lần ở châu Âu như là biểu tượng cho cuộc đấu tranh của Thế giới thứ Ba chống lại Chủ nghĩa Tân Đế Quốc, đang chạy chậm chậm qua đường phố. Người dân vẫy tay và chào mừng. Ít lâu sau đó, ở tại một góc đường cách Trung Tâm tròn 200 mét, có hai người lính Bắc Việt đứng với bộ quân phục đồng nhất đặc trưng của họ và không có quân hàm. Và tất cả những người nhìn thấy họ đều cho họ là đáng mến, thật thà và hơi ngây thơ với sự thích thú của họ đối với một thành phố lớn như thành phố Sài Gòn mà họ chưa từng bao giờ nhìn thấy.
Sài Gòn, ngày 30 tháng Tư. Hình: Jacques Pavlovsky/Sygma/CORBIS
30 Apr 1975, Saigon, South Vietnam — North Vietnamese troops enter Saigon on tanks and trucks, ending the Vietnam War. — Image by © Jacques Pavlovsky/Sygma/CORBIS
Bác sĩ Ariel, người bác sĩ Pháp-Ấn của chúng tôi, không thể chia sẻ niềm vui và sự nhẹ nhỏm mà chúng tôi đã trải qua ở Phú Nhuận. Ông sống gần Dinh Tổng Thống và gần ngôi nhà riêng của Tổng thống Minh đã từ chức. Sau khi quận Phú Nhuận bị chiếm đóng, tôi gọi điện thoại cho ông, ông chỉ ở cách có ba ki-lô-mét, và nghe qua điện thoại của ông tiếng súng máy bắn dữ dội. Airel phải cúp máy. Nhà của ông bị quân lính chính phủ bắn, những người đang cố thủ trong một trường trung học nằm phía đối diện và vẫn còn không đầu hàng. Khi quân đội của Mặt trận Dân tộc Giải phóng phá được ổ kháng cự này thì suýt tí nữa Ariel đã bị quân đội cách mạng bắt giữ như là kẻ thù. Chỉ nhờ vào tài thuyết phục và sự giúp đỡ của láng giềng mà đã có thể tránh được một sự hiểu lầm.
Chúng tôi đi trở về nhà. Giới nghiêm vẫn còn có hiệu lực, nhưng chỉ vào đêm từ 18 giờ đến 6 giờ. Quy định mới của chính phủ, treo cờ trước nhà như là dấu hiệu của sự trung thành đối với chính quyền mới, khiến cho chúng tôi bận rộn vào chiều tối. Đêm của một giấc ngủ dài mà trong đó mọi tiếng súng đều im bặt, đã mang lại cho chúng tôi ngày 1 tháng Năm, ngày đầu tiên dưới chế độ của chính phủ cách mạng Nam Việt Nam.
Rõ ràng là các nhà cách mạng, nhiều người trong số họ là con nhà nông, đã không nghĩ đến vấn đề điều khiển giao thông. Ý định của chúng tôi, làm quen nhiều hơn với chính phủ mới qua một chuyến đi quanh thành phố, sau năm phút đã mang chúng tôi vào trong một trận kẹt xe khổng lồ. Người dân trên hàng ngàn chiếc Honda và ô tô đang đi trên đường phố, hoặc là từ cùng một ý định như chúng tôi, hoặc là cùng với toàn bộ đồ đạc trở về nhà của họ từ những nơi ẩn náu an toàn, hoặc là để trình diện ở nơi làm việc của họ theo lời yêu cầu của chính phủ. Cố gắng điều khiển giao thông là quân đội chính quy Bắc Việt, những người không quen biết Sài Gòn, cũng như thiếu niên địa phương có thiện cảm với họ, nhưng lại hoàn toàn không hiểu gì về điều khiển giao thông. Họ vung vẩy những khẩu súng có đeo băng đỏ của họ, và bắn lên trời khi hoàn toàn không có ai nghe theo họ.
Mặc cho sự hỗn loạn của giao thông, mà trong đó không có dấu hiệu giao thông nào còn hiệu lực và các con đường một chiều lúc trước luôn luôn được chạy theo chiều ngược lại, chúng tôi thấy tất cả mọi người đều rất lịch sự và tự kiềm chế, giống như người dân đã thay đổi một cái gì đó ở bản tính của họ chỉ qua một đêm. Chúng tôi tới được dinh Độc Lập, nơi mà một trại lính khổng lồ của Bắc Việt với xe tăng và pháo binh đã thành hình. Chúng tôi là những người xem hơi đặc biệt, vì con số người nước ngoài ở Sài Gòn hiện giờ đã giảm xuống chỉ còn một vài ngàn. Không còn ai nói “người Mỹ” nữa, mà phần lớn đều tin rằng chúng tôi là người Pháp, những người mà bây giờ được nhìn với ánh mắt tốt hơn. Chỉ có một lần là chúng tôi bị một người lính Bắc Việt xét hỏi. Đó là trước nhà của Ariel, người mà chúng tôi cần phải đón.
30 Apr 1975, Saigon, South Vietnam --- North Vietnamese Arrive in Saigon --- Image by © Francoise de Mulder/CORBIS
Người Bắc Việt vào Sài Gòn ngày 30 tháng Tư 1975. Hình: Francoise de Mulder/CORBIS
Rõ ràng là chúng tôi đã nhìn quanh quá chăm chú. Những lỗ thủng của đạn bắn nhà của ông ấy và cả một người chết từ hôm qua vẫn còn nằm trên lể đường và không có ai mang đi. Đó là một người hôi của, đã bị quân đội cách mạng bắn chết ngay tại chỗ. Khi tôi thông báo quốc tịch Đức của tôi thì người lính đó, thuộc vào một nhóm trông có vẻ thật sự dữ tợn, an tâm.
Chúng tôi không có thời gian để lắng nghe những câu khẩu hiệu của các đoàn sinh viên đi biểu tình, và chỉ có thể vẫy tay chào những người tham gia. Chúng tôi trở về quá muộn, vì tôi đã dự định tổ chức một cuộc họp với những người có trách nhiệm của Trung Tâm vào lúc mười giờ. Cuộc họp này cho thấy các thành viên của Trung Tâm, kể cả những người thủ cựu, đã nhanh chóng thích hợp với tình hình mới ra sao. Chúng tôi quyết định tạm thời cứ tiếp tục tiến hành tất cả các chương trình như cũ, nhưng đồng thời mở rộng sự phục vụ y tế của chúng tôi, để làm giảm bớt sự khó khăn nhất thời của những người bệnh và bị thương. Đúng trong khoảnh khắc đó, chiếc ô tô đầu tiên của Mặt Trận Giải Phóng đi vào Trung Tâm. Một chiếc xe Hồng Thập Tự của Ủy ban Cách mạng Phú Nhuận, xin chúng tôi bông băng và dược phẩm – những thứ mà tất nhiên là họ cũng nhận được.
Rồi vào xế chiều, Trung Tâm cũng bị quân đội chính quy Bắc Việt chiếm đóng. Đầu tiên, một ủy viên của phòng chính trị đến và tham quan Trung Tâm, sau đó có thêm một nhóm nữa tới và hỏi liệu một vài người lính có thể ở trong Trung Tâm được không. Chúng tôi chấp nhận. Và chẳng bao lâu sau đó đã có một cuộc trao đổi sống động với nhân viên và những đứa bé. Tất cả những điều đó đã diễn ra khi tôi vắng mặt. Khi rồi tôi đến chào nhóm người đó, tôi cũng gặp một người trưởng nhóm thân thiện cũng như hết sức ngoại giao, người đưa ra lời khen chúng tôi nhiều hơn là câu hỏi. Ông giải thích cho chúng tôi, rằng bây giờ họ muốn làm quen với vùng này và muốn tìm kiếm những người chống lại hệ thống mới.
Điều thứ nhì làm cho chúng tôi hơi lo ngại, cũng như thông tin, rằng vào buổi sáng, bốn nhân viên của Tổng thống Thiệu đã bị xử tử công khai trước dinh. Mặc dù vậy, tôi yêu cầu tất cả các nhân viên của chúng tôi hãy giúp đỡ quân đội cách mạng với mọi khả năng và đừng biểu lộ nỗi lo sợ của họ về những gì còn có thể đến. Vào buổi tối, khi tôi gọi điện thoại thêm một lần nữa vào Trung Tâm thì rõ ràng là một bầu không khí tốt đã thành hình, không ai còn lộ vẻ lo sợ nữa, mặc dù phần lớn những con đường nhỏ trong khu lân cận của Trung Tâm đều bị quân đội chính quy và quân đội của MTGP chiếm đóng. Đến tối thì biết được tại sao. Cái khách sạn và nhà chứa Milan ở đối diện đã trở thành bộ chỉ huy quân sự địa phương cho khu phố của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng với sự tiếp xúc gẩn gũi như vậy thì chúng tôi ít phải lo sợ hơn là nằm trong sự vô danh.
LSV (s/t & g/th)
Viết để nhớ 30-4 và trận đánh tại cầu Bà Tồn - Bài của Hồ tỉnh Tâm , CCB trung đoàn 207 CSBV. 

Tài Trần : 
Trung đoàn này đã đụng nặng với TĐ tôi ngày 11/3/75 tại gần kinh Bằng Lăng tỉnh Định Tường ; qua bài viết của CCB này , ông cho biết danh sách các liệt sĩ rất nhiều thiếu sót , đặc biệt là các CCB gốc miền Nam .
=====
Sáng 30 tháng 4(2012), theo thói quen tôi lên mạng đọc báo. Điều quan tâm số 1 của tôi là sự căng thẳng Nam – Bắc Triều và xung đột Biển Đông giữa Trung Quốc – Philippines về biển đảo. Theo tài liệu mà tôi biết, quần đảo Trường Sa rộng 250.000Km2 , với khoảng 130 hòn đảo nhỏ, đảo san hô, các rặng san hô và các mỏm đá ngầm, nơi đang có sự tranh chấp quyết liệt giữa Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines, Brunei. Về quan hệ Việt - Trung thì thái độ của hai bên về chủ quyền biển đảo đã quá rõ qua các công bố ngoại giao mỗi nước, bởi chủ quyền pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa và Trường Sa là quá rõ; Trung Quốc dẫu thế nào cũng không thể bao biện được trước công ước quốc tế về biển đảo, bản đồ hình lưỡi bò của họ chỉ là sự ngang ngược của tư tư tưởng bá quyền Đại Hán.
Nhớ sáng 29 tháng 4 bà xã tôi hỏi, 30 tháng tư anh muốn ăn món gì thì nói. Như vậy là bà xã còn nhớ tới tôi với tư cách là cựu chiến binh, nên tôi trả lời, “ăn uống bình thường thôi, có gì vui đâu mà ăn mừng, biết bao nhiêu người chết trong cuộc chiến thì vui cái nỗi gì”. Thế nhưng bà xã vẫn ra chợ tìm mua cho được một con gà mái dầu còn tơ về nấu cháo. Tôi lôi chai rượu ngâm cao ngựa trắng ra, nhưng sau một lúc đắn đo, tôi quyết định đóng nắp chai lại. Nhà chỉ mình tôi là đàn ông thì uống với ai bây giờ. Trà tam rượu tứ, nhà tôi một bà vợ, một bà con, duy mình tôi thủ phận đàn ông, làm sao mở chiến trường. Mời bạn thì nhà nhỏ như bụm tay, lấy đâu ra chỗ mà mời.
Trưa 30 tháng 4, đúng 11g30, giờ mà cách đây 37 năm, tại xã Tân Hiệp huyện Châu Thành- Tiền Giang- tôi nghe tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên Đài phát thanh Sài Gòn, tôi mở danh sách liệt sĩ của trung đoàn ra xem(E207), với hy vọng mình sẽ nhớ ra một vài đồng đội cũ. Danh sách này do Phạm Văn Thông gởi cho tôi, có tất cả 451 liệt sĩ, tính từ năm 1969, thế nhưng trong danh sách, số liệt sĩ trước 1972 chỉ có 6 người (do thất lạc hết), như vậy là từ 1972 trung đoàn tôi có 445 người hy sinh, toàn là người Miền Bắc. Tôi rà đi rà lại mấy lần, chẳng thấy ai là người Miền Nam. Điều này khiến tôi nghi ngờ.
Thứ nhất, anh Hai Mai tiểu đoàn trưởng(D1- E207), hy sinh năm 1974 trong lần điều nghiên chốt Gãy Kinh Nhất là người Đồng Tháp, không có tên trong danh sách.
Thứ hai, anh Biên Chính trị viên phó tiểu đoàn, hy sinh năm 1974 trong tận đánh đồn Cái Xơ ở Tân Thành Hồng Ngự Đồng Tháp cũng không thấy tên.
Thứ ba, trận đồn Cái Xơ, nguyên tổ chống tăng của tiểu đoàn tôi(D1) hy sinh hết, chưa kể anh em ở các đại đội, mà danh sách chỉ có 22 liệt sĩ, lại chỉ ghi là E207, và hy sinh vì tao ngộ, có vẻ như là bị bỏ sót khá nhiều.
Thứ tư, trận chống càn tại bờ bao xã Mỹ Hòa, theo danh sách tiểu đoàn tôi hy sinh 13 người thì có vẻ quá xa với thực tế, bởi lúc đó tôi là trợ lý quân lực tiểu đoàn, hầu như đêm nào tôi cũng cùng trinh sát vượt vòng vây đem thương binh và tử sĩ về cứ trung đoàn tại Kinh Chuối, rồi ngay trong đêm lại chở đạn dược về cho tiểu đoàn, tôi nhớ như in là trước khi vào trận, tiểu đoàn tôi còn 203 người, và lúc được lệnh phá vây rút về Kinh Chuối, tiểu đoàn tôi chỉ còn 103 người, như vậy nếu trừ thương binh thì số hy sinh cũng phải vài chục người mới đúng, bởi ròng rả gần một tháng, tiểu đoàn tôi ngày nào cũng bị mưa pháo 105 và 155 ly vài trận, chưa kể bị máy bay ném bom, trực thăng sút rốc két, bị bộ binh trung đoàn 10 có xe tăng yểm trợ tấn công, bộ đội hy sinh nhiều lắm. Bản thân tôi cũng dính miễng pháo lăm nhăm phần mềm. Có lần bị đứt mạch máu chủ dưới gan bàn chân, máu ra nhiều tới hoa cả mắt. Tôi nhớ trong trận Mỹ Hòa này, chỉ thương binh quá nặng mới được đưa về tuyến sau, bởi việc thoát vòng vây ra ngoài là cực kì nguy hiểm.
Như vậy, số danh sách liệt sĩ hy sinh của E207 trong một thời gian dài, mà chỉ có 551 người thì không thể là số chính xác được, mà rất có thể chỉ là số nhỏ liệt sĩ mà ta còn giữ được danh sách, bởi vì như vụ Hoành B hỏa lực của tiểu đoàn tôi hy sinh lúc làm nhiệm vụ bám lộ khi có sự biến ném lựu đạn vào nhà dân tại Vàm Cống- Lấp Vò- Đồng Tháp- sau 30.4.1975 , tôi cũng không thấy trong danh sách. Và sáng 30 tháng tư năm 1975, một chiến sĩ thuộc trung đội do tôi chỉ huy , được phân công ở lại giữ đồ trong trận đánh cường tập ban đêm tại ấp 4 xã Phú Nhuận Đông- Cai Lậy- Tiền Giang, bị dính mảnh pháo vào sọ não hy sinh, cũng không thấy trong danh sách, nhưng trung đội trưởng Nguyễn Văn Thơ(cùng C3 với tôi) hy sinh trong trận này lại có tên trong danh sách. Và năm 1977, anh Trường (C trưởng- người cùng học khóa huấn luyện hạ sĩ quan với tôi ở Mai Sưu) hy sinh ở biên giới Tây Nam- đâu đó bên bờ sông Trăng- Hồng Ngự- Đồng Tháp- tôi cũng không thấy tên trong danh sách.
Vẫn biết chiến tranh ác liệt, việc quản lý hồ sơ sổ sách rất khó, nên danh sách liệt sĩ mà Phạm Văn Thông gởi cho tôi, tôi cũng chỉ biết có được như vậy là may lắm; chỉ thương cho anh em mình đã nằm xuống mà thôi.
Thú thật là càng đọc danh sách liệt sĩ tôi càng buồn, vì trong mấy trăm liệt sĩ, tôi chỉ còn nhớ mặt được vài người, như Nguyễn Xuân Kiệm, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Mỹ; vì họ là những người rất gần với tôi trong những năm tháng chiến trận, cùng đồng cam cộng khổ với nhau. Sự ra đi vào cõi vĩnh hằng của họ, tôi đều đã viết, nhưng khi đọc danh sách liệt sĩ, thấy tên tuổi của họ đập vào mắt, tự nhiên tôi muốn nhắc lại vài chi tiết, để ai đọc mà biết về họ, có thể hiểu thêm được phần nào.
Nguyễn Văn Mỹ hy sinh ở bờ bao Mỹ Hòa, thuộc xã Mỹ An tỉnh Kiến Phong cũ, trong trận chống càn ròng rả một tháng trời, vào khoảng thời gian tháng 9 năm 1974. Lúc đó Mỹ là A trưởng thông tin vô tuyến điện của tiểu đoàn (trước đây tôi nguyên là A trưởng- B thông tin của D1- E207), hầm chữ A của Mỹ rất gần hầm chữ A của tôi, và miệng hầm hình chữ Z nơi Mỹ ngồi trực máy PRC25 mở về hướng miệng hầm của tôi. Buổi sáng cánh sườn hướng ra ngoài rừng tràm ngập nước, phía cánh đồng đưng rộng ngút ngát nối tới cứ trung đoàn ở kinh Chuối, nơi K bộ chúng tôi cố thủ(vốn là cánh yếu nhất, vì chỉ có các trợ lý tài vụ, trợ lý quân khí, trợ lý dân vận, trợ lý quân nhu, trợ lý quân y, trợ lý chính trị, trợ lý tác chiến, và vũ khí thì chỉ có tiểu liên AK với lựu đạn), bất ngờ bị một đơn vị lính biệt kích trung đoàn 10 đột kích. Tôi nhớ là mới mờ sáng, tôi cầm nắp bình toong inox ra bờ bao phía hướng về cánh rừng tràm ngập nước múc nước đánh răng, khi nhìn lên, tôi thấy có ba tên lính cầm tiểu liên cực nhanh xuất hiện trong rừng. Chúng bị nước ngập tới ngực, nên tên nào cũng phải cầm súng cao trên đầu, nòng súng hướng lên trời. Cả ba có vẻ đang lần tới hướng có hầm cố thủ của tiểu đoàn trưởng, nên chúng không phát hiện ra tôi. Nhờ vậy tôi vòng theo mấy bụi hoa mua, nhoài được về hầm của mình, lấy súng và bắn xối xả hàng loạt. Các hầm khác của các trợ lý cũng lập tức nổ súng về hướng súng của tôi. Toán lính đang tìm cách đột kích của sư 7 hoàn toàn rơi vào thế bị động bất lợi, vì chúng phải lội trong nước ngập, nên phải lùi lại chống trả. Chúng tôi tuy ít người, nhưng lại toàn là lính thiện chiến, nên hầu như anh em chỉ bắn nhịp hai, nên đối phương dễ nhận ra là đã đụng với những người đã từng trải chiến trận(vì lính mới thường bắn nhịp dài nhiều viên đạn, và nhịp bắn không đều do thiếu kinh nghiệm, có khi còn bắn tắc cú từng viên một). Hình như Mỹ biết lực lượng K bộ của tiểu đoàn quá mỏng, nên đã gọi C2 chi viện. Bởi vậy khi nghe trung liên RBD khạc đạn xối xả, cùng với tiếng nổ chát chúa của B40, toán lính đột kích đã phải rút lui, gọi pháo 105 và hỏa lực của M113, M48 bắn vào chúng tôi như dội bão. Đến khoảng 9h00 sáng thì trận địa hoàn toàn yên tỉnh. Mỹ ngồi cầm tổ hợp ở miệng hầm, nhìn tôi cười rất tươi, với nụ cười sáng lóa đầy rạng rỡ mà tôi sẽ không bao giờ quên được. Bất chợt tụi phản lực F4 ào ào kéo tới, chúi xuống bờ bao nơi K bộ của tiểu đoàn chốt giữ dội bom. Ngay loạt bom đầu, tôi thấy Mỹ đang ngồi chồm hổm bổng lật ngược, hai ống chân bị mảnh bom tiện đứt đưa lên trời, máu xối ra phùn phụt. Dứt loạt bom, tôi nhào sang với Mỹ thì anh đã tắt thở, có lẽ vì choáng mạch máu quá nhanh. Bàn tay trái của Mỹ lúc đó vẫn cầm chắc tổ hợp, máy PRC25 vẫn đang trong chế độ liên lạc với các đại đội. (Xin nói rõ là lúc này Nguyễn Văn Thơ, quê Yên Giã- Quế Võ- Hà Bắc, vẫn còn là trợ lý tài vụ của tiểu đoàn, hầm cố thủ cách tôi hai hầm, và sát với hầm của tiểu đoàn trưởng Hai Mai). Còn Mỹ, tức Nguyễn Văn Mỹ, sinh 1955 ở Đại Hóa, Tân Yên- Hà Bắc. Anh ra đi khi chỉ mới 19 tuổi.
Nguyễn Văn Thơ, sinh Năm 1950, quê Yên Giã- Quế Võ- Hà Bắc, hy sinh trong trận đánh ấp Trung (ấp 4), xã Phú Nhuận Đông- Cai Lậy- Tiền Giang, ngày 19 tháng 4 năm 1975, lúc đang giữ chức B trưởng B2 thuộc C3- D1 do anh Tùng làm chính trị viên đại đội. Lúc tôi còn làm trợ lý tác chiến kiêm trợ lý quân lực thì Thơ là trợ lý tài vụ của tiểu đoàn. Thời kỳ cắm trụ ở bờ bao Mỹ Hòa, có lần tôi đã cùng về bờ bao kinh Chuối nạp báo cáo cho E bộ chung với Thơ- và đây là lần đầu tiên tôi được biết thế nào là bia con cọp(tiger), do Thơ chiêu đãi. Khi vào chiến dịch Hồ Chí Minh, cả tôi và Thơ đều được điều về C3 làm trung đội trưởng- Thơ là B trưởng B2, tôi là B trưởng B1. Trong trận đánh ấp Trung, theo phương án tác chiến ban đầu, trung đội của tôi đánh vòng ngoài, trung đội của Thơ đánh thọc sâu; nhưng khi tiền nhập sát cánh quân trung đoàn 10 bộ binh sư 7 đóng giã ngoại ở ấp Trung, vào khoảng gần 11h00 đêm, dưới trời mưa lâm râm, anh Tùng đổi phương án, chuyển trung đội của tôi sang đánh thọc sâu, trung đội của Thơ đánh vòng ngoài, vì Thơ cận nặng tới 7 đi ốp, sợ không thấy đường dẫn trung đội đánh thọc sâu. Không may là đội hình C2 do du kích dẫn đường bị lạc, đã tiền nhập ngay sau lưng C3 của chúng tôi. Theo phương án tác chiến chung, khi các cánh quân đã tiếp cận đối phương ở ấp Trung, nếu phát hiện mục tiêu thì tấn công ngay, không chờ pháo lệnh, các cánh quân còn lại, nghe tiếng sung thì tấn công thẳng vào mục tiêu đối phương đang giã ngoại tại ấp Trung. Bởi vậy trong đêm mùa mưa tối hù tối hịt, khi C2 phát hiện sự di chuyển của trung đội Thơ đang triển khai bao vây vòng ngoài, họ lập tức nổ súng, vì lầm tưởng là đối phương vận động. Lúc tiếng súng vang lên, pháo lệnh của trung đoàn cũng điểm hỏa sáng rực trên trời. Tất cả các cánh quân hiệp đồng chiến đấu của sư đoàn đều đồng loạt nổ súng, nhắm thẳng trung tâm ấp Trung tấn công. Mũi đánh thọc sâu của trung đội tôi, nong theo con mương cạn tiến thẳng vào đội hình đóng giã ngoại của lính trung đoàn 10. Trên đầu các loại đạn nhọn réo rít veo véo như xé gió. Nghe cả tiếng B40 nổ chát chúa. Tôi biết ngay là quân ta đang nện vào lưng C3 chúng tôi, và trung đội Thơ đánh vòng ngoài sẽ lãnh đủ, nên tôi nói với Phương(Hà Tây) đi máy PRC25 cùng trung đội tôi, kêu C2 dừng nổ súng, nong theo con mương cùng trung đội tôi đang đánh thọc sâu mà tiến. Thế nhưng Phương loay hoay mãi vẫn không bắt được liên lạc. Vốn là A trưởng thông tin vô tuyến điện của Phương, biết chàng tân binh đang rối trí, tôi nói phương đọc mật mã số nhà để tôi bẻ cò lên máy, vì đêm tối mò mò, lại tiếng súng đạn gầm thét, chớp nhoáng loa lóa, Phương là lính mới nên rất thiếu kinh nghiệm. Bắt được sóng máy đi theo C2 tôi hét lên, “C2 đang vỗ lưng C3, chuyển sang thọc sâu đi!”. Tất cả chỉ hơn 10 phút, nhưng chừng đó cũng đã quá đủ. Đến khoảng 5h00 sáng, trung đội tôi giáp mặt một tốp bộ đội của trung đoàn 24, tại một ngôi nhà dân, trong nhà vứt lỏng chỏng mấy cái ba lô của lính. Một anh bộ đội E24 nói với tôi, dưới gầm giường có hầm, có thể lính E10 sư 7 trốn dưới đó, để anh ném lựu đạn xuống tiêu diệt. Nghi dưới hầm có dân, nên tôi nói bừa rằng, tôi là mũi trưởng mũi thọc sâu của D1, để tôi quyết định. Quả nhiên khi tôi gọi, thì dưới hầm lủ khủ ngoi lên hơn sáu, bảy người gì đó, có hai vợ chồng và mấy đứa con nhỏ, họ cho tôi biết lính trung đoàn 10 chạy hết rồi. Cùng lúc đó Phương cũng cho tôi biết, đã có lệnh rút khỏi ấp Trung để tránh phi pháo và bom ném hủy diệt.
Trên đường rút ra ngoài, ngang qua một cây dừa cụt ngọn, tôi nhìn thấy Thơ nằm úp sấp dưới gốc dừa, hai tay vả xuống mặt đất, khẩu AK nằm ngay bên cạnh. Cúi xuống, tôi thấy bụng Thơ rách toang, toàn bộ ruột gan tim phổi mất sạch. Xốc Thơ lên lưng, tôi cõng anh chạy ra ngoài. Chàng trai Hà Bắc béo tròn vốn nặng hơn 60 kg, bây giờ nhẹ hẩng, máu nhểu xuống người tôi từng giọt. Khi giao Thơ cho dân công, anh vẫn còn đeo cái kính cận dày cộp trên mắt. Lúc ấy Thơ đã 25 tuổi.
Nguyễn Xuân Kiệm, sinh 1953 tại Cao Xá- Tân Yên- Hà Bắc, hy sinh ngày 10 tháng 4 năm 1975, tại ấp 7 xã Mỹ Thành Nam- Cai Lậy- Tiền Giang, trong trận đánh cầu Bà Tồn. Kiệm trúng đạn 12ly7 của xe nồi đồng, và ra đi ngay trước mắt tôi, nên tôi rất nhớ. Trong trận đánh cầu để ngăn không cho sư 21 lên tăng viện cho Sài Gòn, trung đội của tôi được lệnh bám sát quốc lộ 4, yểm trợ cho đặc công phá cầu. Trong trận này, tiểu đoàn chúng tôi bị pháo các loại của đối phương dập rất dữ vào đội hình. Riêng trung đội tôi được lệnh bám mặt lộ, nên hầu như tất cả chúng tôi đều phơi lưng dưới mưa pháo. Nhưng khổ nhất là khi đụng hai chiếc xe nồi đồng tới chi viện, thi nhau xối trọng liên ằng ặc như điên như cuồng. Lúc này Kiệm đang giữ một khẩu DKZ57 chúng tôi thu được của đối phương, nên tôi lệnh cho Kiệm tiếp cận sát mặt lộ để diệt xe. Kiệm ôm súng bám sát mặt lộ dưới sự bắn yểm trợ của cả trung đội, nhưng có lẽ do vị trí nằm thấp, nên viên đạn đầu tiên bắn ra đã bay vọt trên đầu xe, thấy rõ lửa đạn vút sáng rực cao hơn xe cả gang tay. Khi chiếc xe thứ hai lao tới, rút kinh nghiệm lần trước, Kiệm ngồi hẳn dậy trong tư thế quỳ bắn. Lúc này đèn dù và pháo sáng của đối phương sáng rực cả một vùng hai bên quốc lộ, bởi vậy chiếc xe thứ nhất khi quay lại đã nhìn thấy Kiệm ngồi cao ngời ngợi, bắn xối vào anh cả tràng trọng liên 12ly7. Đạn của lính chốt đầu cầu cũng bắn xối về phía Kiệm như vãi trấu. Tôi thấy rất rõ Kiệm bị hất lên cao, ngã vật sang một bên. Khi chúng tôi đem được Kiệm ra khỏi mép quốc lộ, cũng là lúc chúng tôi nhận được lệnh rút lui, vì có lệnh cấp trên dừng lại không phá cầu, để xe tăng của ta có thể tiến về giải phóng Miền Tây. Tại điểm tập kết, chúng tôi mượn chiếu của một gia đình nông dân, đặt kiệm nằm giữa sân, lúc này hình như đã hơn 2h00 sáng gì đó, tôi nhìn rõ một viên 12ly7 bắn xuyên qua ngực phải của Kiệm, nổ trổ ra sau lưng vết toác to như miệng chén. Tôi và anh Thái chính trị viên tiểu đoàn ngồi quỳ xuống bên Kiệm, Kiệm từ từ mở mắt nhìn lên, và nói thều thào rất nhỏ, “liệu em có được kết nạp vào Đảng không anh Thái”. Anh Thái vừa khóc vừa nói, “đồng chí là đảng viên của Đảng”. Kiệm nghe xong, cả hai mắt đều ứa lệ, đầu ngật sang một bên, rồi ra đi vĩnh viễn. Lúc đó, Kiệm đã vào tuổi 22, tuổi rất đẹp của đời người.
danh sách liệt sĩ E207 trong trận đánh cầu Bà Tồn lộ 4
1- Nguyễn Văn Quyết E 207 - sinh 1952 – xã Ngọc Vân - Tân Yên Hà Bắc, hy sinh 10/04/1975 tại ấp 7, Mỹ Thành Nam Cai Lậy Bắc Mỹ Tho
2- Nguyễn Xuân Kiệm D1,- E 207- sinh 1953 - xã Cao Xá -Tân Yên - Hà Bắc hy sinh 10/04/1975 tại ấp 7, Mỹ Thành Nam Cai Lậy Bắc Mỹ Tho
3- Đỗ Lê Văn D1,- E 207- sinh 1955 - Thường Tín - Hà Tây- sau trận chiến tại lộ 4 bà Tồn không về, mất tích
4- Ngô Văn Long D1,- E 207- sinh 1955 - xã Tô Hiệu - Thường Tín - Hà Tây sau trận chiến tại lộ 4 bà Tồn không về, mất tích

Nói thêm về trận đánh cầu Bà Tồn .
Nhiệm vụ đại đội trưởng phân công cho trung đội 1 của tôi là bám sát mặt quốc lộ 4, tìm cách đánh chặn xung lực tăng viện từ Cai Lậy hoặc từ Đồng Tâm xuống, bảo vệ cho đặc công bám phía dưới hai trụ cầu giữa sông đặt bộc phá.
Theo phương án tác chiến ban đầu, đối phương chỉ có một đơn vị bảo an đóng ở hai đầu cầu, nhưng khi chúng tôi tiếp cận mục tiêu, lại chạm trán với trung đoàn 10 sư 7 vừa thua trận ở đâu đó, kéo về hai đầu cầu đóng giã ngoại trong nhà dân. Bởi vậy, để bám được mặt quốc lộ, chúng tôi đã phải nổ súng đánh địch ngay từ khi tiếp cận với khu vực có nhà dân ở cả hai đầu cầu. Do vậy khi chúng tôi ra được quốc lộ, thì dân ở cả hai bên đầu cầu đều đã chạỵ hết. Lính trung đoàn 10 cũng rút hết sang bên kia lộ, bắn trả lại chúng tôi rất quyết liệt. Hai chiếc xe nồi đồng mà trung đội tôi được lệnh bắn diệt, rất có thể là xe tại chỗ của trung đoàn 10. Vì mặt lộ cao hơn mặt đất nhà dân rất nhiều, nên đạn nhọn của cả hai bên đều rất khó bắn được vào nhau. Chủ yếu chúng tôi phải chịu đựng hỏa lực của pháo 105 ly và 155 ly, cùng đạn trọng liên bắn ra từ hai chiếc xe nồi đồng, cùng hỏa lực từ lô cốt đầu cầu của lính bảo an.
Ở cấp độ trung đội, tôi không biết được cục diện toàn bộ của trận đánh, chỉ biết khi tôi cho người lên kéo được Kiệm đang bị thương nặng từ sát mép lộ xuống nơi chúng tôi chốt giữ trước nhà dân, thì có lệnh ngừng bắn, tìm cách đưa bộ đội rút nhanh về điểm tập kết. Cả tiểu đoàn phải rút ra ngoài trong mưa pháo bắn xối xả. Tuy nhiên số thương vong thì tôi không nắm được cụ thể. Tôi chỉ biết, xác của Kiệm sau đó được giao cho dân công, và dân công dùng xuồng chở đi đâu đó, còn chúng tôi lại lui về đóng quân sát chốt Gãy Kinh Nhất, trên bờ hữu ngạn kinh Cổ Cò.
Admin: Kính Thưa anh Hồ Tĩnh Tâm, thưa bạn đọc,
Danh sách Liệt sỹ chúng tôi hiện có là tài liệu báo cáo thương vong theo từng tháng của trung đoàn báo cáo về quân khu (viết tay), hiện còn lưu lại tại Phòng chính sách quân khu 9. các bạn cũng biết, trong chiến tranh, sau mỗi trận đánh, các đại đội làm danh sách gửi về tiều đoàn, rồi tiểu đoàn gửi về trung đoàn, trung đoàn tập hợp rồi gửi về cấp trên. đơn vị tôi hoạt động trên địa bàn rrộng lớn gồm các tỉnh Đồng tháp, Long an, Tiền giang, do vậy việc báo cáo quân số thương vong, không đầy đủ hoặc thất lạc, do vậy đến nay , tài liệu lưu tại Phòng Chính sách quân khu 9 chỉ có vậy thôi, chúng tôi cũng đang tiếp tục sưu tầm qua các đồng đội còn sống sót đến ngay nay.
Một điều nữa là các đồng chí quê ở phía nam trong trung đoàn rất ít, chủ yếu lá các đồng chí chỉ huy từ cấp tiểu đoàn trỡ lên được đào tạo từ ngoài Bắc đưa về, còn chiến sỹ thì rất ít. Mặt khác, các đồng chí quê ở phía Nam, thường thì chỉ có tên và chức vụ, quy định là không ghi quê gốc, đề phòng danh sách lọt vào tay địch, chúng sẽ trả thù gia đình và người thân đồng chí đó. vì thế trong danh sách, các bạn chỉ thấy tên tuổi, ngày hy sinh mà không có quê quán.
Trân trọng
Pham văn thông