Showing posts with label trận phước long. Show all posts
Showing posts with label trận phước long. Show all posts

Sunday, April 6, 2025

 

Trận đánh đồn Phước Quả


                                                            
          Chị Tố Lan thân mến,
Đây là anh bạn của tôi kể lại trận đánh đồn Phước Quả. Nếu có thể chị post cho các bạn đọc biết đâu có bạn biết.
Lý Mỹ Hạnh 
                         ************************************ 
Nguyễn Ngọc Thạch 
                        
 Ghi lại để tưởng nhớ đến các chiến hửu thuộc Tiểu đoàn 3/9 Sư đoàn 5 Bộ Binh



Vào năm 1967 Tiểu đoàn được lệnh hành quân lên vùng Phước Long, lúc đó tôi là sĩ quan Ban 3 Tiểu đoàn, chuyên lo về hành quân và huấn luyện. Sau khi đặt chân xuống sân bay Phước Bình, Tiểu đoàn được lệnh di chuyển vào vùng hành quân với nhiệm vụ được giao phó là thực hiện kế hoạch Bình định Xây dựng vùng phía đông quận lỵ Phước Bình qua các xã Phước Sơn, Phước Quả, Phước Lộc và Hiếu Phong. Tiểu đoàn được phối trí như sau: BCH/TĐ + ĐĐCHCV + ĐĐ11 đóng tại đồn Phước Quả, ĐĐ10 đóng tại đồn Phước Lộc cách Phước Quả ba cây số, và ĐĐ9 hoạt động lưu động trong vùng trách nhiệm.
Tỉnh Phước Long nằm về hướng Đông Bắc của Sài Gòn. Đường quốc lộ 13 chạy về phía Bắc sẽ qua Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Bến Cát rồi tới quận Chơn Thành. Ở đây là ngả ba nếu rẽ về phải thì sẽ đi Đồng Xoài, Phước Bình, Phước Long và từ Đồng Xoài có ngả rẽ để đi Bù Đăng và Ban Mê Thuột. Còn nếu từ ngả ba Chơn Thành chạy thẳng thì sẽ đến An Lộc, Bình Long, Lộc Ninh. Khi đến gần biên giới Việt Miên xã Lộc Tấn, nếu chạy thẳ̉ng thì sẽ qua biên giới và tới thị trấn Snuol của Campuchia, còn ở ngả ba Lộc Tấn rẽ phải thì sẽ đi qua Bù Đóp (Bố Đức), con đường này nằm xong xong và cách biên giới 3 cây số. Đi tiếp tới sẽ đến quận lỵ Phước Bình và quẹo trái sẽ lên tỉnh lỵ Phước Long. Đây là vùng biên giới Việt Miên nằm trong hai tỉnh Bình Long và Phước Long với những đồn điền cao su bạt ngàn, đồn điền Michelin Dầu Tiếng, đồn điền Terre Rouge Hớn Quản, Lộc Ninh, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch, Bồ Com, Văn Hiến v.v...
Phước Long là một tỉnh lỵ mới được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nằm cách quận lỵ Phước Bình 8 cây số và gần núi Bà Rá. Đây là môt vùng rừng xanh đất đỏ sương lam chướng khí rừng thiêng nước độc, sốt rét rừng, ngày xưa ai mà bị đổi lên Bà Rá tức là coi như bị đày. Theo kinh nghiệm của dân địa phương cho biết là không nên ăn măng le, uống nước suối và ngủ̉̃ trưa, nên ăn nhiều ớt để tránh bệnh sốt rét rừng.  
Tình hình chiến sự tỉnh Phước Long lúc đó rất là căng thẳng, bị áp lực rất nặng vì cách mật khu Bù Gia Mập của VC không xa về phía Đông Bắc núi Bà Rá. Mật khu của VC ở bên kia biên giới Việt Miên rất là an toàn vì quân lực VNCH cũng như Hoa Kỳ không được quyền xâm phạm vào lảnh thổ của Miên. Nhưng trái lại thì quân CSBV lợi dụng thế trung lập thân cộng của Miên và Lào để làm hành lang xâm nhập qua đường mòn Hồ Chí Minh và xây dựng các mật khu an toàn của chúng ở bên kia biên giới. Quân CSBV tập trung ở các mật khu an toàn ở bên kia biên giới, đợi thời cơ thuận tiện để xâm nhập đánh phá, với mục tiêu và thời điểm là hoàn toàn do chúng lựa chọn, quân ta không có quyền gì khác hơn là ra sức chống đở tự vệ mà thôi.
Trong thời gian này chúng tôi đã chứng kiến một sự tàn ác dã man của VC khi chúng tấn công vào làng Dakson của người Thượng, ở phía đông bắc thị xã Phước Long và cách mật khu Bù Gia Mập không xa lắm. Khi Tiểu đoàn chúng tôi đến nơi thì VC đã rút đi để lại một cảnh hết sức đau lòng, VC đã giết sạch, đốt sạch nguyên cả làng sau khi toán nghĩa quân giữ làng bỏ chạy. Nhìn những thân hình mà đa số là đàn bà con trẻ bị đâm bị giết một cách hết sức dã man bị đốt cháy đen nằm trong các đống than hồng còn đang bốc khói làm liên tưởng đến bọn giặc Tàu phương Bắc đã từng đối xử với dân tộc ta trong thời kỳ Bắc thuộc: “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Ngày 26 tháng 10, 1967 CSBV mở cuộc tấn công đại quy mô vào đồn Phước Quả. Vào khoảng 11 giờ đêm tôi nghe một loạt súng bắn báo động, lập tức tôi nhảy xuống hầm Trung tâm Hành quân để liên lạc với các toán tiền đồn phục kích bên ngoài. Phản ứng của tôi rất là nhanh, chổ tôi nằm trong căn nhà tranh sát cạnh hầm nên tôi phóng nhanh vô hầm. Vừa ngay lúc đó VC bắt đầu pháo kích dử dội, pháo như mưa đều khắp mọi nơi trong đồn. Ngay chổ tôi nằm, ở phía đầu nằm tôi có treo một tấm poncho để che mưa che nắng, sau này nhìn lại tấm poncho rách nát, không còn một chổ nào lớn hơn bàn tay. Trung úy Nhơn, Tiểu đoàn phó, có nuôi một con két nhỏ xíu cũng bị đứt đầu, nếu như tôi chỉ chậm chân chừng vài giây đồng hồ thì chắc đã nát thây. Những người chạy xuống hầm sau tôi đa số đều bị thương, trong số đó có Trung sĩ Võ Đà ban 5 Tiểu đoàn bị thương rất nặng, bị đứt mạch máu ở cổ quị ngay dưới chân tôi, máu phun ra có vòi, y tá đến băng nhưng không cứu kịp vì máu ra quá nhiều, ngồi chết dưới chân tôi. Số người bị thương nằm la liệt trong hầm, trong toán cố vấn Mỹ cũng có người bị thương nặng nằm ở một góc hầm.
Trong lúc đó thì các đại đội trưởng báo cáo tình hình ở các phòng tuyến đang bị tấn công với một hỏa lực rất là mạnh. Tôi gọi báo về Tiểu khu để xin pháo binh yểm trợ, nhưng tình hình ở BCH/Tiểu khu lúc đó cũng đang lúng túng vì đang bị pháo kích. Bởi vì khi địch mở một cuộc tấn công lớn, thường thì nó pháo kích khắp nơi để cho ta không biết đâu là điểm đâu là diện, chổ nào là mục tiêu chính, chổ nào là mục tiêu phụ. Và vì tôi nắm vững tình hình ở đây nên tôi quyết chắc là nó đánh điểm chính là ở đây, đồn Phước Quả. Tôi báo cho Tiểu khu biết rõ tình hình đang nghiêm trọng để tập trung yểm trợ về đây và đồng thời báo về BCH/Trung đoàn 9 ở Chơn Thành biết để theo dỏi.
Có một sự việc đáng nhớ là trước đó chừng một tháng có một Lao công Đào binh bỏ trốn. LCĐB là những quân nhân đào ngủ bị phạt đưa ra chiến trường để làm lao dịch, cho nên Thiếu tá Tôn Văn Lượng, Tiểu đoàn trưởng, liền cho thay đổi ngay kế hoạch phòng thủ. Lúc trước súng đại liên đặt ở các pháo đài góc, sau thay đổi lại đặt vào giửa các cạnh tuyến. Vì vậy khi VC mở các cuộc tấn công biển người vào giửa các cạnh tuyến, liền bị hỏa lực hùng hậu của các khẩu đại liên của ta chận đứng. Một điều đáng nói là vào năm 1967, quân đội ta vẫn còn dùng súng Garant, Carbine, Thompson, Trung liên đầu bạc, Đại liên 30 có từ thời Đệ nhị Thế chiến. Trong khi đó thì phía VC đã có súng AK47, B40, B41, Thượng liên nồi, súng phun lửa rất là tối tân.
Quân ta chống trả quyết liệt, nhưng vì hỏa lực địch quá mạnh nên độ nửa giờ sau thì một pháo đài góc đã bị tràn ngập. Không chần chờ Thiếu tá Lượng liền quyết định tung ra Trung đội Quân báo để tái chiếm lại pháo đài góc đó. Trung đội Quân báo là một lực lượng để bảo vệ BCH và là lực lượng trừ bị duy nhất của Tiểu đoàn, chỉ được sử dụng trong tình huống thật lâm nguy. Sau khi Quân báo đi rồi thì thành phần còn lại trong hầm TTHQ lo bố trí phòng thủ lại cho kỹ, những thùng lựu đạn cho mở nắp sẵn sàng để sử dụng khi địch tới gần và tôi cũng đã gọi pháo binh để chuẩn bị sẵn các loại đạn đầu nổ cao. Nếu trong trường hợp bị địch tràn ngập thì sẽ xin pháo binh bắn đạn nổ cao ngay trên đầu, tiêu diệt địch ở bên ngoài, còn bên ta tất cả ở trong hầm sẽ vô hại. Tuy nhiên đây là một quyết định cuối cùng khi đã lâm vào tình thế tuyệt vọng.
Chừng 10 phút sau Trung đội Quân báo báo cáo là đã chiếm lại được pháo đài góc, chận đứng sự xâm nhập của địch, giữ vững được phòng tuyến. Chúng tôi rất mừng, nhưng với áp lực địch quá mạnh tôi sợ các đợt xung phong kế tiếp sẽ dữ dội hơn nên tôi nói với Cố vấn Mỹ xin phi cơ chiến đấu phản lực lên yểm trợ. Cố vấn Mỹ đi theo Tiểu đoàn thường là họ chỉ lo giúp đở xin phương tiện tản thương hay yểm trợ hỏa lực, họ gọi rất là nhanh qua hệ thống liên lạc tối tân và trực tiếp bên phía Mỹ.
Một lúc sau Đại úy Cố vấn cho biết là máy bay đã cất cánh và yêu cầu ngưng tác xạ các loại súng bắn vòng cầu để máy bay vào vùng. Tôi gọi ngưng các loại súng cối và pháo binh và cho đốt mũi tên lửa lên để cho máy bay thấy. Mũi tên lửa là một tấm ván lớn cắt theo hình mũi tên, trên đó có gắn các lon sửa bò trong nhét vải bố tẩm dầu cặn và quay trên một trục. Khi đốt lửa lên và quay mũi tên chỉ về hướng địch đang tấn công, thì máy bay sẽ thấy rõ vị trí của địch mà đánh. Tôi xin dội bom theo hướng mũi tên và cách xa 500 thước. Sau khi dội trái bom đầu tiên, Đại đội trưởng ở ngoài tuyến báo cáo cho biết là xa quá vì địch quân đang bám sát hàng rào rồi, phải đánh gần lại. Tôi liền yêu cầu gần lại 200 thước và các quả bom sau đã đánh trúng mục tiêu. Sáng ra thấy các bộ phận con người bay văng tung tóe lên nóc nhà trông rất là ghê rợn.            
VC tiếp tục mở thêm nhiều đợt tấn công nữa nhưng không thành công nên đành phải chịu rút lui trước khi trời rạng sáng. Chiếc máy bay trực thăng tản thương đã đáp xuống khi trời còn chưa sáng hẳn. Chúng tôi vô cùng biết ơn và cãm phục những người phi công chiến đấu cũng như phi cơ trực thăng tản thương đã can đãm băng mình trong lửa đạn, trong đêm tối cực kỳ nguy hiểm để cứu nguy cho quân bạn, một điều rất khó khăn và nguy hiểm cho không quân yểm trợ là vị trí đồn Phước Quả nằm gần chân núi Bà Rá.
Sáng ra thu dọn chiến trường địch quân chết quá nhiều trên 200 xác trong và ngoài hàng rào đầy mìn bẩy và tịch thu được một số rất lớn vũ khí tối tân đủ mọi loại như K54, AK47, CKC, B40, thượng liên nồi và đặc biệt là hai cây súng phun lửa với hai bình hơi trông rất là lạ. Có một lính Quân báo chui ra hàng rào để lấy chiến lợi phẩm bị mìn nỗ cụt chân. Và vì không thể nào lấy hết xác để chôn cất được, cho nên sau cùng phải dùng dầu tưới lên để thiêu đốt tất cả.
Sau chiến thắng to lớn này tưởng đâu là sẽ được yên ổn trong một thời gian dài nhưng không ngờ chỉ vài ngày sau là chúng liền mở ngay một trận kế tiếp để phục thù. Đại đội 9 đang hoạt động lưu động bên ngoài giữ nhiệm vụ an ninh lộ trình từ Phước Quả ra Phước Bình. Thì vào lúc 12 giờ trưa bị VC dùng vận động chiến mở cuộc tấn công chớp nhoáng tràn ngập Đại đội 9. Tôi nghe tiếng thều thào trong máy của Lê Sĩ Linh khóa 20 Đà Lạt ĐĐT/ĐĐ9 cho biết là VC đông lắm yêu cầu cho bắn ngay trên đầu, rồi im bặt. Chúng tôi tức tốc điều động lực lượng ra tiếp cứu nhưng vì địch quá mạnh nên báo cáo lên Tiểu khu xin tiếp viện.
Sau đó Khu 32 Chiến thuật liền cho tăng viện Tiểu đoàn 31 Biệt Động Quân do Đại úy Trắng chỉ huy, đổ quân từ nhà thờ Phước Sơn đi xuống. Khi đến cua Phước Quả thì chạm địch rất mạnh, chiếc commando car bị bắn cháy, TĐ31/BĐQ bị áp đão vì địch quân quá đông và vì chiến trận là do họ sắp đặt phục kích sẳn. Vì vậy sau cùng TĐ31/BĐQ phải dạt ra, rút về phía chân núi Bà Rá khi trời tối và tìm đường về đến đồn Phước Quả. Qua ngày hôm sau được tăng viện thêm TĐ36/BĐQ mới giải tỏa xong. Khi ra thu dọn chiến trường, Trung úy Linh đã hy sinh bên hố chiến đấu kiến bu đầy người và bên cạnh đó còn có mâm cơm với ba quả trứng luột còn nguyên chưa kịp ăn. Ngoài ra còn có hai sĩ quan Trung đội trưởng đã anh dũng hy sinh đó là Thiếu úy Sến, khóa 21 Đà Lạt và một Chuẩn úy mà tôi quên tên, là cháu ruột của Đại tá Woong A Sáng, Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ Binh lúc đó.
Một tuần sau VC lại mở một cuộc tấn công kế tiếp nhằm vào đồn Phước Lộc do ĐĐ10 trấn giử, Trung úy Trần Hửu Tâm khóa 21 Đà Lạt làm ĐĐT. Tâm mới vừa được thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận. Trước kia Tâm học khóa Biên tập viên Cảnh sát, nhưng sau đó đổi ý, không thích ngành Cảnh sát mà tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia. Đồn Phước Lộc nằm trên ngọn đồi  bên cạnh liên tỉnh lộ Phước Bình – Quảng Đức, cách đồn Phước Quả ba cây số.
Trong đêm đó VC kéo đại lực lượng tới tấn công, Tâm cho biết là địch rất đông, hỏa lực địch rất mạnh, cho nên tôi đã gọi Pháo binh yểm trợ ngay. Sau đó vì địch mở các đợt xung phong quá dử dội cho nên tôi phải nhờ Cố vấn Mỹ gọi chiến đấu cơ lên yểm trợ gấp. Nhờ vào sự yểm trợ vô cùng hửu hiệu của các phi tuần phản lực mà đã chận đứng được các đợt xung phong biển người của địch. Và vì theo lời Tâm yêu cầu cho yểm trợ sát cạnh cho nên có một quả bom rớt quá gần, gây cho bên ta một số bị thương, trong số đó tôi nhớ có Thượng sĩ Hồ Hến Lòng, là một Trung đội trưởng người Nùng rất dày dạn chiến trường, đã bị thương nặng và sau này phải bị giải ngủ.
ĐĐ10 đã chống trả vô cùng anh dũng, giử vững phòng tuyến cho đến sáng buộc địch quân phải rút lui để lại trên 100 xác chết và la liệt súng đạn đủ loại. Sau đó phải dùng xe ủi đất mới thu dọn sạch hết được. Một đặc điểm của đồn Phước Lộc là nằm trên đỉnh đồi cao, phía trước bằng phẳng gần liên tỉnh lộ, còn mặt sau là triền dốc cao rất khó tấn công. Vì vậy hệ thống mìn bẩy cũng như các hỏa tập tiên liệu của súng cối và pháo binh đều tập trung vào mặt trước của đồn. Khi VC tấn công vào phía trước chúng đã bị lọt vào vòng vây hỏa lực rất mạnh của đồn.
Đây là những chiến thắng lẩy lừng của Quân đoàn III, đã ghi lên những chiến tích vẽ vang trong quân sử của QL/VNCH. Và đã có bản nhạc để ca ngợi 72 tay súng oai hùng giử đồn Phước Lộc, cũng như bài ca Phước Quả và trước đó là bài ca Chiến thắng Lộc Ninh của Trung đoàn 9 Sư đoàn 5 Bộ Binh trong trận tái chiếm quận lỵ Lộc Ninh vào năm 1966. Chiến thắng Phước Quả cũng đã được nhắc lại trong quyển "Chiến thắng bị bỏ lở" của giáo sư Stephen Young và trong bộ sách "Một thời nhiễu nhương" của Bạch Hạc Trần Đức Minh ./.
Nguyễn Ngọc Thạch khóa 20 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam

Sunday, April 14, 2024

 ngay car oong troiwf cungx khocs cho phuocws long

Saturday, April 6, 2024

 VŨ XUÂN THÔNG - TRẬN PHƯỚC LONG .


. . . 

Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.

Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.

Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.

Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch. 

Vào lúc chạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 ly và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kip thời nên đã bị tiêu diệt ngay sau đó.

Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.

Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội.

Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.

Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh đệ chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh:

“Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm”

Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.

Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.

Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Nhưng Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng la thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi .

Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa.

Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.

Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng còn sướng hơn” như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.

Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.

Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?

Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.

Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do .

Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi …

 alt

“Old soldiers never die; they just fade away.” 

General Douglas MacArthur

Vũ Xuân Thông

Liên Đoàn 81 BCND


All reactions:2Tarrega Tang and Nguyen Vinh Ken

O

Wednesday, April 6, 2022

 VŨ XUÂN THÔNG - TRẬN PHƯỚC LONG .

. . .
Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.
Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.
Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.
Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch.
Vào lúc chạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 ly và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kip thời nên đã bị tiêu diệt ngay sau đó.
Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội.
Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.
Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh đệ chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh:
“Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm”
Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.
Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.
Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Nhưng Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng la thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi .
Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa.
Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.
Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng còn sướng hơn” như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.
Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?
Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do .
Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi …
alt
“Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur
Vũ Xuân Thông
Liên Đoàn 81 BCND

Friday, April 16, 2021

 NGAY CẢ TRỜI CŨNG KHÓC CHO PHƯỚC LONG (Even the gods were weeping for Phước Long)  

Dịch từ trang 136-37 của quyển Vietnam from Cease-Fire to Capitulation của đại tá William Le Gro.

Những người lính này đã chết cho chúng ta sống khi: 

- Chi khu Đôn Luân (Đồng Xoài) chỉ được bảo vệ bởi TĐ 341 ĐPQ, dù bị bao vây và tấn công bởi bộ binh, đặc công, đại liên 12,8 ly, cối 81 ly , đại bác 130 ly và T-54, nhưng đã cầm cự 13 ngày từ 13-26/12/1974, trước khi bị tràn ngập bởi SĐ 7 CSBV. 

- Với trên 5.400 sq và bs của TĐ 2/7 SĐ 5, hai biệt đội hay đại đội thuộc liên đoàn 81 biệt cách dù (BCD), và bốn TĐ ĐPQ lúc tham chiến, chỉ còn chưa tới 850 người SỐNG SÓT. ĐẶC BIỆT là 2 biệt đội BCD - chỉ còn 85 người sống sót - và TĐ 2/7 chỉ còn dưới 200 người. Khoảng 3.000 dân gồm Thượng và Kinh - của trên 30.000 dân hay nhiều hơn trước đây sống ở Phước Long - đã về được vùng do VNCH kiểm soát (nghĩa là chưa tới 1/10 - người dịch). Một số ít viên chức tỉnh, quận, xã, và ấp bị bắt và cuối cùng (summarily) bị xử tử.

                          


========

. . .

"Quân đoàn 301 của CSBV khi tiến hành chiến dịch này tại Phước Long (PL), đã dùng SĐ 3 CSBV tân lập, SĐ 7 CSBV - từng hoạt động ở phía đông tỉnh Bình Dương, một TĐ xe tăng T-54 từ trung ương cục miền nam (COSVN), một trung đoàn pháo và phòng không, và một số đv đặc công và bộ binh địa phương. Đây là một lực lượng đáng sợ (formidable) để tấn công bốn TĐ địa phương quân VNCH đóng rải rác (để bảo vệ các đoạn đường và vị trí quan trọng) và 45 trung đội NQ. (Chưa kể ba đại đội trinh sát (TS) thuộc SĐ 5, 18 và 25 VNCH được tăng phái từ đầu tháng 11/74 cho công tác mở đường trong tỉnh -- người dịch). Lần lượt các đồn lũy này bị tấn công và tràn ngập.

Quả đấm đầu tiên là vào chi khu ĐÔN LUÂN (tên cũ ĐỒNG XOÀI), xem bản đồ, vào ngày 13/12/74. Ngày 14/12 hai chi khu Đức Phong và Bố Đức Mới bị tấn công đồng loạt và tràn ngập (overrun) trong khi Đôn Luân vẫn GIỮ VỮNG. Kế đó là căn cứ Bù Na có 2 trung đội pháo 105 ly. Thiệt hại của địch rất NẶNG tại Bố Đức Mới, nhưng đây chỉ là lực lượng địa phương, ko phải chính qui. Tuy nhiên pháo CSBV đã phá hủy 2 khẩu 105 ly của Bố Đức Mới trước khi tiểu khu PL phản công tái chiếm Bố Đức Mới vào 16/12. Dù chi khu Phước Bình, gần BCH tiểu khu, bị PHÁO NẶNG, các vị trí của họ có vẻ (appeared) vẫn GIỮ VỮNG. Ba Đ.Đ. trinh sát rất tinh nhuệ thuộc các SĐ 5,18, và 25, được gửi tới đây để hỗ trợ việc mở đường (road-clearing operation) trong tháng 11/74, đã gia tăng sự phòng thủ cho TĐ 340 ĐPQ (nhiệm vụ bảo vệ chi khu), và không quân đã chở 6 đại bác 105 ly, đạn dược, và tiếp liệu khác tới sân bay Sông Bé, đồng thời chở đi người ko chiến đấu và bị thương. Nhưng CSBV ko cho điều này tiếp tục. Pháo 130 ly ngày 21-22/12 đã gây hư nặng một máy bay C-130 vừa đáp xuống và hủy diệt một chiếc C-130 khác. SĐ 3 CSBV, trong khi đó, đã tấn công mạnh lần chót và chiếm Bố Đức Mới.

Trong khi chiến sự ác liệt (rage) chung quanh sân bay Sông Bé và chi khu Bố Đức Mới, TĐ 341 ĐPQ TIẾP TỤC ĐẨY LUI các đợt xung phong liên tục vào Đôn Luân. TĐ mất sân bay nhỏ của chi khu ngày 17 nhưng đã PHẢN CÔNG và CHIẾM LẠI. Tuy nhiên, ở phía bắc, quân VNCH chỉ còn giữ sân bay Sông Bé, chi khu Phước Bình và đỉnh núi (crest) Bà Rá. 

Khủng hoảng tại Phước Long, địch đang tiến gần tỉnh lỵ Tây Ninh, và các cuộc tấn công ở Bình Tuy đã khiến tướng Đống ko có chọn lựa tốt. Ông phải chận địch ở Tây Ninh và bảo vệ Bình Tuy. Mặt khác, ông cũng biết rõ thiệt hại về chính trị và tâm lý nếu để mất Phước Long. Để tăng viện cho tỉnh này, ông ra lịnh cho TĐ 2/7 của sđ 5 trực thăng vận từ Lai Khê đến tỉnh lỵ Sông Bé.

NGÀY 23/12, trong khi TĐ 2/7 đã trực thăng vận đến sân bay Sông Bé, tướng Đống nói với tướng Đặng văn Quang, rằng QĐ 3 cần ít nhứt một phần của sđ Dù từ QK-1 để cứu tỉnh này. TT Thiệu từ chối, nói rằng sđ Dù đang bảo vệ QK-1. Tướng Đống sẽ ưu tiên nhận yểm trợ của không quân và tiếp vận, về bộ binh thì lấy từ QĐ-3 của ông.

Thêm nhiều tin tức xấu đã đến BTTM và QĐ III vào ngày 26/12. Tiếp sau 1.000 đạn pháo dọn đường, SĐ 7 CSBV, tiếp sức bởi những tấn công nghi binh vào chi khu Phú Giáo (thuộc tỉnh Bình Dương, phía nam Đôn Luân), cuối cùng đã TRÀN NGẬP CK ĐÔN LUÂN. (Nghĩa là CK này đã CẦM CỰ trong 13 ngày dù chỉ có TĐ 341 ĐPQ. CK do thiếu tá Phạm Vũ Khoái chỉ huy trong đó có trung úy Đỗ Lệnh Dũng thuộc ban 3. Cả hai đều bị bắt và giải ra bắc, và câu chuyện của hai người đã được kể lại trong hồi ký "Đỗ Lệnh Dũng" -- người dịch).

Trong khi đó, dân tị nạn đổ vào tỉnh lỵ Sông Bé, và không quân đã cố gắng tiếp tế cho cứ điểm này. Máy bay đã THẢ DÙ MƯỜI LẦN từ đầu năm 1975 nhưng ko kiện hàng lọt vào quân trú phòng. Ít nhứt 16 xe tăng địch bị bắn cháy trong các đợt tấn công trước, nhưng ngày 6/1/1975, hơn 10 chiếc đang tiến gần tỉnh lỵ. NGÀY NÀY, tướng Đống TL QĐ III gửi hai biệt đội cảm tử (toàn lính tình nguyện và thiện chiến) của liên đoàn 81 BCD đến tỉnh lỵ. CŨNG NGÀY NÀY máy bay không thám RF-5 của VNCH đã chụp hình được 7 vị trí phòng không 37-ly chung quanh tỉnh lỵ. Chỉ mới tuần đầu của tháng mà số giờ bay giành cho máy bay này đã sắp hết.

Rất ít bộ binh địch tấn công tỉnh lỵ này. Thay vào đó, các tiểu đội đặc công (squads of sapper) đi theo xe tăng trong khi các chiếc này tác xạ vào vị trí VNCH, để thu dọn chiến trường và làm đầu cầu. Phần lớn tăng bị hư hại hay hủy diệt bởi súng M-72 hay không giật 90 ly của VNCH. Thường do tầm bắn quá ngắn nên hỏa tiển M-72 ko thể nổ (vì chưa đủ vòng xoay) và rơi xuống đất sau khi đụng pháo tháp (hull). Lữ đoàn M-26 thiết giáp CSBV đã hàn thêm (weld) những tấm thép bên hông pháo tháp, và cửa pháo tháp được đóng kín khiến lựu đạn ko thể ném vào.

Pháo CSBV tàn phá mạnh mẽ (devastating), đặc biệt sau NGÀY 3 THÁNG 1 khi nhịp bắn gia tăng từ 200 viên lên gần 3.000 viên/ngày. Các cấu trúc, công sự, và giao thông hào sụp đổ, và thương vong VNCH tăng cao. Pháo VNCH bị tê liệt bởi tăng, súng ko giật và pháo 130 ly. Cuối cùng NGÀY 6 THÁNG GIÊNG, vị tỉnh trưởng nhận định rằng ko còn pháo binh và truyền tin bị tan nát (shattered), dưới hỏa lực trực tiếp từ bốn tăng T-54, và bị thương nặng, ông và bộ tham mưu rút khỏi tỉnh lỵ. Thế là tỉnh lỵ ĐẦU TIÊN lọt vào tay CSBV từ ngày ngưng bắn.

Vẫn có một số người sống sót gồm dân và quân từ tỉnh PL. Những nhóm người Thượng đau khổ vượt rừng về tỉnh Quảng Đức, và trực thăng đã cứu khoảng 200 ng thuộc liên đoàn 81 BCD, TĐ 2/7 của SĐ 5 BB, và ĐPQ của PL những ngày sau khi mất tỉnh PL. Không ai thấy ông tỉnh trưởng. (Ông đã chết vì trúng pháo và được chôn cất vội vàng ở gốc cây phía sau dinh bởi trung úy ban 2 tiểu khu có biệt danh 5 Charlie và một Th.U. cận vệ -- người dịch). Một số lính 81 BCD cuối cùng đã tới tiền đồn Bù Binh trên QL14 thuộc tỉnh Quảng Đức.

THIỆT HẠI CỦA QLVNCH GÂY SỬNG SỐT (STAGGERING) 

 Với trên 5.400 sq, hsq và bs của TĐ 2/7 SĐ 5, hai biệt đội 81 BCD, và bốn TĐ ĐPQ tham chiến, chưa tới 850 người SỐNG SÓT. ĐẶC BIỆT là 2 biệt đội BCD - chỉ còn 85 sống sót - và TĐ 2/7 chỉ còn dưới 200. Khoảng 3.000 dân gồm Thượng và Kinh - của trên 30.000 dân hay nhiều hơn trước đây sống ở PL - đã về được vùng do VNCH kiểm soát (nghĩa là chưa tới 1/10 - người dịch). Một số ít viên chức tỉnh, quận, xã, và ấp bị bắt và cuối cùng (summarily) bị xử tử.

Dù cho bấy giờ là gió mùa đông bắc khô khan , những cơn mưa lớn trái mùa (unseasonably) ướt đẫm Sài Gòn. Người tài xế VN của tôi đã nhận xét một cách thương tiếc (dolefully), NGAY CẢ TRỜI CŨNG KHÓC CHO PHƯỚC LONG (even the gods were weeping for Phước Long). 

Ghi chú của ĐT Le Gro: các nguồn chánh của các thông tin này từ sq liên lạc của DAO tại Biên Hòa, đã tiếp xúc hàng ngày với BTL QĐ III, phần lớn với ĐT Lê Đạt Công phòng 2 QĐ III. Các báo cáo này rất đầy đủ, tin cậy và cảm nhận được (perceptible).

Tôi thường xuyên đến Biên Hòa, các ghi chép của tôi được dùng trong chương này. Các báo cáo hàng ngày và tuần của DAO và BTTM là những tham chiếu quan trọng, cũng như các báo cáo khác của ĐSQ Mỹ". 

. . . 

SJ ngày 16/4/2019 lúc 3:45 PM.

Tài Trần

Sunday, March 7, 2021


 TRẬN PHƯỚC LONG

video về tỉnh Phước Long

MÀU ÁO TRẬN: Video Clips: Trận Phước Long 1974 & Theo dấu giày sô Playlist (mauaotran.blogspot.com)

 TRẬN PHƯỚC LONG , 12/12/1974 - 7/1/1975, viết theo quan điểm cuả người CS.

Nguồn : Trận Phước Long trên wiki.
. . .
"Trên các tuyến phòng thủ vòng ngoài
Ngày 12 tháng 12 năm 1974, tiểu đoàn 4 của trung đoàn 165 (sư đoàn 7 csbv) đánh chiếm một tiền đồn của QLVNCH tại cây số 19 - đường 14 do một đại đội bảo an đóng giữ. Đêm 12 tháng 12, chi khu quân sự Bù Đốp bị tiến công bởi 1 đại đội đặc công QGP thuộc tỉnh đội Phước Bình. Đến ngày 16 tháng 12, các lực lượng bảo an của QLVNCH chiếm lại chi khu này nhưng không giải toả được vị trí bị cắt đứt tại cây số 19. Ngày 13 tháng 12, đại tá Nguyễn Thống Thành[13], tiểu khu trưởng Phước Long đã đến kiểm tra Bù Đăng và ra lệnh nâng mức báo động từ "vàng" lên "da cam" đối với tất cả các đồn bốt của QlVNCH trong tỉnh.[11] Do mưa lớn ngập đường chuyển quân, giờ G và ngày N mà Bộ Tư lệnh quân đoàn 4 dự kiến vào ngày 13 phải lui lại một ngày. Yếu tố bí mật bất ngờ không còn.
Rạng ngày 14 tháng 12, trung đoàn 271 (thiếu) của sư đoàn 302 nổ súng tấn công tiểu đoàn bảo an 362 QLVNCH đóng tại Bù Đăng. Quân lực Việt Nam cộng hòa chống trả ác liệt nhất tại khu cửa mở. Phải sau hơn 2 tiếng đồng hồ và bị thương vong gần hết đại đội 12 (chỉ còn 11 người sau trận đánh), các đơn vị của trung đoàn 271 mới lọt được vào bên trong khu phòng thủ.[14]. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, các đơn vị của Trung đoàn 271 đã tràn ngập chi khu quân sự Bù Đăng. Cũng trong ngày 14 tháng 12, các trung đoàn 165 và 201 (sư đoàn 7) sau một ngày đêm bao vây, tạo thế đã đánh chiếm căn cứ Vĩnh Thiện và khu hành chính Bù Đăng sau gần 2 giờ công kích.[15]
Ngày 15 tháng 12, hai tiểu đoàn đặc công thuộc trung đoàn 429 (B2) tấn công yếu khu Bù Na do một đại đội của tiểu đoàn bảo an 363 QLVNCH và 1 trung đội pháo binh đóng chốt. Tiểu đoàn bảo an 363 với sự chi viện từ trên không của 32 phi vụ cường kích do sư đoàn 5 không quân ở Biên Hòa thực hiện đã chống trả quyết liệt từ sáng đến chiều 15 tháng 12 nhưng vẫn thất thủ vì không nhận được sự chi viện nào từ Phước Long và Đôn Luân do đường 14 bị cắt đứt và hai cứ điểm này cũng đang bị vây lỏng. Trong trận này, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được 2 khẩu trọng pháo.[16] Ngày 16 tháng 12, tướng Dư Quốc Đống bay lên thị sát Phước Long và tăng phái cho khu phòng thủ này tiểu đoàn bộ binh số 2 rút từ trung đoàn 7 (sư đoàn 5). Cùng ngày, đại tá Đỗ Công Thành (đúng ra là Nguyễn Thống Thành -- người viết) tổ chức phản kích khai thông đường 14 nối với Bố Đức nhưng đều bị các lực lượng mạnh hơn của QGP đẩy lùi.[17]
Ngày 22 tháng 12, chi khu quân sự và quận lỵ Bố Đức do tiểu đoàn bảo an 341 đóng giữ bị tấn công và đánh chiếm lần thứ hai trong chiến dịch bởi các đơn vị của trung đoàn 165, sư đoàn 7 (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Cùng ngày các đồn quan trọng trên đường 14 như Phước Tín, Phước Quả, Phước Lộc thất thủ. Đại tá Thành điều tiểu đoàn 1 (Chiến đoàn 7) mới được tăng cường và 2 đại đội thám báo phản kích nhưng bị tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) đẩy lùi, phải rút về núi Bà Rá cùng với số quân còn lại từ các đồn kể trên.[18] Ngày 24 tháng 12, Tướng Dư Quốc Đống dự định điều 1 chiến đoàn của sư đoàn 18 lên giữ Phước Long nhưng không được Nguyễn Văn Thiệu chuẩn y vì theo lệnh của ông ta, mọi sự điều động các đơn vị cấp trung đoàn phải do chính tổng thống quyết định.[19]. Tướng Đống đành phải ra lệnh cho chuẩn tướng Lê Nguyên Vĩ dùng trực thăng đưa 1 tiểu đoàn và 1 đại đội bộ binh rút từ sư đoàn 5 đổ quân xuống Đồng Xoài nhưng đã quá muộn, toàn bộ chi khu quân sự Đôn Luân đã nằm trong tầm bắn thẳng của các loại pháo, cối và súng máy của đối phương. Mặc dù được 48 phi vụ cường kích từ sư đoàn 5 không quân yểm trợ nhưng QLVNCH chỉ đổ được 1 đại đội xuống Đồng Xoài. Tướng Lê Nguyên Vĩ phải ra lệnh cho các trực thăng quay lại.[17]
5 giờ 37 phút sáng 26 tháng 12, chi khu quân sự Đôn Luân với 11 lớp rào thép gai, nhiều bãi mìn và hơn 50 chốt phòng thủ kiên cố đã bị các đơn vị của trung đoàn 141 (sư đoàn 7) tấn công từ bốn hướng, sau 15 phút bắn phá đường của 7 khẩu pháo các cỡ 85mm, 105mm, 122mm và 4 khẩu cối 120 mm. Pháo binh QLVNCH ở căn cứ Phước Vĩnh bị trung đoàn pháo binh 210 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chế áp, không chi viện được. Hoả lực phòng không mạnh của tiểu đoàn 20 súng máy cao xạ đã hạn chế tối đa khả năng chi viện từ trên không của các máy bay A-1 và A-37 của Không lực VNCH. Đến 10 giờ 30 phút, chi khu quân sự Đôn Luân thất thủ. Thiếu tá Đặng Vũ Khoái, chỉ huy căn cứ chi khu Đôn Luân và nhiều sĩ quan dưới quyền thuộc tiểu đoàn bảo an 352 bị bắt làm tù binh tại Suối Rạt. Chiều 26 tháng 12, các đơn vị thuộc trung đoàn 141 (sư đoàn 7 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) phối hợp với trung đoàn 201 tiếp tục đánh chiếm các đồn Tà Bế, Phước Thiện, Cầu số 2 và sân bay trực thăng.[20]
Chỉ trong hai tuần, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã mất 4 mục tiêu quan trọng trên tuyến phòng thủ từ xa tại địa bàn tại Quân khu III. Ở phía Nam, các trung đoàn 209 (sư đoàn 7), 201 (sư đoàn 302) và sư đoàn 9 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chốt chặn các con đường đến Phước Long: đường 14, đường 7 ngang, đường 311, các liên tỉnh lộ số 1 và số 2. Quận lỵ Phước Bình và thị xã Phước Long hoàn toàn bị cô lập trên bộ với các đơn vị khác của QLVNCH tại Quân khu III.[21]
Tại khu trung tâm phòng thủ
Để giải vây cho Phước Long, QLVNCH cần ít nhất 1 sư đoàn hỗn hợp bộ binh, kỵ binh thiết giáp và quân dù nhưng trong tình hình các đơn vị tổng trù bị đã bị giam chân tại Quân khu I và Bắc Tây Nguyên, không thể điều động được nếu không có quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhận thấy tình hình nguy ngập tại Phước Long, ngày 29 tháng 12, đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đề nghị tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phê duyệt gấp bản kế hoạch phòng thủ Phước Long đã được đệ trình từ tháng 10 năm 1974. Kết quả là đại tướng Cao Văn Viên nhận được mấy lời phê vắn tắt: "Báo trung tướng (chỉ tướng Dư Quốc Đống) điều nghiên, tùy nghi quyết định. Cần lưu ý động viên các chiến hữu tử thủ".[21][22]
Khi những lời phê trên đây được chuyển đến tay tướng Dư Quốc Đống thì cũng là lúc Phước Long bị tấn công ngày 31 tháng 12 năm 1974. Khu phòng thủ thị xã Phước Long của QLVNCH dựa vào ba cụm điểm tựa chính là thị xã Phước Long, quận lỵ Phước Bình và căn cứ Bà Rá thành thế chân vạc yểm trợ cho nhau. Theo thuyết trình phòng thủ quân sự của đại tá Thành, tỉnh trưởng Phước Long, mặc dù chu vi phòng ngự đã bị thu hẹp nhưng để nối liên lạc giữa các cụm phòng thủ này, còn phải giữ được các tuyến ngăn chặn ở Thác Mơ, Phước Lộc, các đường 309, 310... Đây là những điểm yếu của khu phòng thủ Phước Long.[23]
Từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 12, các đơn vị của Quân đoàn 4 đã hành quân đến các tuyến xuất quanh Phước Long và Phước Bình. Đến chiều 30 tháng 12, trung đoàn 165 (sư đoàn 7) đã tập kết ở phía Đông và Đông Nam Phước Bình; trung đoàn 141 (sư đoàn 7) dùng ô tô cơ động theo đường 2 cũ đến phía Bắc và Tây Bắc Phước Bình; trung đoàn 271 (sư đoàn 3) chặn đường 309 ở Thác Mơ; trung đoàn 16 từ Tây Ninh về bắc Sông Bé chuẩn bị hợp vây; tiểu đoàn 78 đặc công đã tập trung dưới chân núi Bà Rá; trung đoàn 2 (sư đoàn 9) và trung đoàn 209 (sư đoàn 7) làm lực lượng dự bị. Trong đợt 2 của chiến dịch đường 14-Phước Long, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được Quân ủy Trung ương cho phép sử dụng một đại đội pháo 130 mm với 1/2 cơ số đạn và 2 đại đội xe tăng T-54 (14 chiếc). Các loại súng lớn khác yểm hộ mặt đất cho cuộc tấn công có 12 khẩu pháo 85 mm, 105 mm, 122 mm và 8 khẩu cối các cỡ 120, 160 mm. Nhiệm vụ yểm hộ phòng không được giao cho trung đoàn 210 gồm một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 mm, hai tiểu đoàn súng máy 14,5 mm và 12,7 mm.[24]
Rạng sáng ngày 31 tháng 12 năm 1974, các trung đoàn 165 (thiếu), 141 và tiểu đoàn 3, bộ đội địa phương Phước Long nổ súng tấn công Phước Bình. Tuy nhiên, tiểu đoàn 78 đặc công và trung đoàn 271 khai trận chậm hơn nên QLVNCH đã dùng pháo binh trong thị xã Phước Long được hiệu chỉnh bằng trinh sát pháo trên núi Bà Rá bắn cản đường. Chỉ huy trưởng tiểu khu Phước Long được chiến đoàn 7 (sư đoàn 5 QLVNCH) điều tiểu đoàn 1 từ chân núi Bà Rá đánh vào sườn tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) đang tấn công qua cửa mở. Trong khi trung đoàn 165 ở hướng Đông Nam Phước Bình phải dừng lại đối phó với cánh quân phản kích thì trung đoàn 141 từ hướng Tây Bắc tràn xuống đánh vào trung tâm quận lỵ. 13 giờ chiều ngày 31 tháng 12, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 điều 4 xe tăng T-54 yểm hộ cuộc tiến công. Một chiếc bị trúng mìn khi đi qua ngã tư chi khu, 3 chiếc còn lại đã hỗ trợ bằng hỏa lực bắn thẳng cho các tiểu đoàn 3 và 5 (trung đoàn 141) đánh chiếm chốt Vạn Kiếp và sân bay Phước Bình. 15 giờ chiều cùng ngày, Phước Bình thất thủ. Tiểu đoàn 2 (Chiến đoàn 7 QLVNCH) bị đẩy lùi về Suối Dung.[25]
Trong ngày 31, Không lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện hơn 50 phi vụ oanh tạc quanh chân núi Bà Rá, ngăn chặn được tiểu đoàn 78 đặc công Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tấn công căn cứ này. Phải đến nửa đêm, với sự chi viện của lựu pháo và pháo cao xạ 37 mm hạ nòng bắn thẳng, tiểu đoàn đặc công 78 mới chiếm được núi Bà Rá và tổ chức ngay một đài quan sát chỉ điểm cho pháo lớn bắn vào thị xã Phước Long sáng ngày 1 tháng 1 năm 1975. Quân lực Việt Nam cộng hòa bị mất 8 khẩu pháo 105 mm và 4 khẩu 155 mm tại trận địa pháo trung tâm thị xã do trúng đạn pháo của đối phương.[26] Đến sáng ngày 2 tháng 1 năm 1975, tiểu khu Phước Long đã nằm trong tầm hỏa lực bắn thẳng bằng súng bộ binh của các trung đoàn 16, 141, 165, 201 và 207.[27]
Trước nguy cơ bị tiêu diệt, đại tá Thành gấp rút tái phối trí lại lực lượng. Sở chỉ huy nhẹ của tiểu khu Phước Long được chuyển về trại Lê Lợi. Tiểu đoàn bảo an 340 và đại đội thám báo số 5 giữ cầu Suối Dung và chốt Vân Kiều. Tiểu đoàn 2 (chiến đoàn 7 - sư đoàn 5 tăng phái giữ các ngã ba Tư Hiền 1 và Tư Hiền 2. Đại tá Thành cũng yêu cầu chi viện nhưng chuẩn tướng Lê Nguyên Vĩ đã không thi hành lệnh của trung tướng tư lệnh Quân đoàn III Dư Quốc Đống với lý do sợ "mắc bẫy dương Đông kích Tây của Cộng quân"[28]. Trong ngày 1 tháng 1 năm 1975, Không lực Việt Nam cộng hòa đã tổ chức 53 phi vụ oanh tạc vào tuyến tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở khu vực nghĩa trang thị xã, tạm thời chặn được mũi tiến công của tiểu đoàn 4 (trung đoàn 165), phá hủy một khẩu đội cao xạ 37 mm.[29] QLVNCH báo cáo lên cấp trên là họ đã bắn cháy 15 xe tăng của đối phương[30]
Các trận đánh phòng ngự của QLVNCH tại vùng phụ cận thị xã chỉ làm chậm tốc độ tiến quân của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thêm 24 giờ. Sáng ngày 2 tháng 1, một trận pháo kích kéo dài gần 1 giờ từ sáu khẩu 130 mm, sáu khẩu 105 mm, bốn khẩu 85 mm đã mở đường cho đợt tấn công tiếp theo của các trung đoàn 165, 141 và 271. Ở phía Nam, trung đoàn 165 chiếm trại Đoàn Văn Kiều. Ở hướng Tây, trung đoàn 141 giằng co với tiểu đoàn 1 (chiến đoàn 9 sđ 5 bộ binh QLVNCH) ở bắc Hồ Long Thủy và khu gia binh. Hai bên đều tổn thất nặng. Ở hướng Đông Nam, trung đoàn 271 chiếm được ngã ba Tư Hiền và bãi xe. Sáng ngày 3 tháng 1, các đơn vị đi đầu của trung đoàn 141 (4 đại đội) đã lọt vào thị xã nhưng bị cô lập. Tư lệnh quân đoàn điều động trung đoàn 201 (thiếu 1 tiểu đoàn) từ tuyến 2 lên tăng cường cho trung đoàn 141.[31]. Trưa ngày 3 tháng 1, tướng Dư Quốc Đống điều động chiến đoàn 8 (sư đoàn 5 QLVNCH) sử dụng trực thăng định đổ bộ xuống thị xã nhưng vấp phải lưới lửa phòng không của trung đoàn 210 và pháo binh bắn chặn trên mặt đất, các trực thăng của QLVNCH không dám hạ cánh đổ quân. Không quân vận tải của QLVNCH thả dù tiếp tế 20 tấn đạn pháo xuống phía Bắc thị xã nhưng do bị pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn chặn, các đơn vị phòng thủ Phước Long không thu hồi được số hàng này sau đó để rơi vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.[32] Cũng trong ngày 3 tháng 1 (tức ngày 4 tháng 1 theo lịch VNCH), Sở chỉ huy tiểu khu Phước Long bị pháo kích gây tổn thất nặng, phó chỉ huy trưởng tiểu khu tử thương, chỉ huy trưởng chi khu Phước Bình bị thương nặng.[33]
Ngày 4 tháng 1, không lực VNCH tiếp tục oanh kích các tuyến tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, buộc các đơn vị này phải dừng lại đào công sự phòng tránh. 10 giờ ngày 4 tháng 1, trong nỗ lực cuối cùng để ứng cứu Phước Long, tướng Dư Quốc Đống điều động liên đoàn biệt kích dù số 81 bằng không vận lên Phước Long. Sau đợt đổ bộ đầu tiên xuống đồi Đắc Song, 2 đại đội biệt kích dù bị pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn chặn và bị tổn thất 2 tiểu đội. Ngay lập tức, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam điều trung đoàn 16 (đang làm dự bị tuyến 2) chiếm lĩnh bãi đổ quân tại đồi Đắc Song và bên cầu Đắc Lung; dùng một bộ phận lực lượng truy đuổi số quân dù đã đổ bộ, làm các đơn vị dù tổn thất thêm một phần ba quân số và buộc họ phải chia thành từng toán nhỏ để liên lạc và hội quân với các lực lượng đang phòng thủ trong thị xã.[34] Tuy nhiên, tình hình đã quá muộn để giải cứu cho Phước Long. Hai phần ba thị xã đã rơi vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Khu phòng thủ Phước Long bị thu hẹp tối đa ở Đông Bắc thị xã, chỉ còn lại dinh tỉnh trưởng, khu hành chính tỉnh và khu chợ.[35]
Ngày 5 tháng 1, các đơn vị của trung đoàn 201 (mới tăng cường) và trung đoàn 165 tiếp tục vây ép các lực lượng phòng thủ còn lại của QLVNCH trong khu hành chính tỉnh kết hợp với pháo binh bắn phá liên tục các mục tiêu. Sáng sớm ngày 6 tháng 1, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 điều thêm Trung đoàn 2 (sư đoàn 9) và 10 xe tăng đến tăng cường cho các đơn vị đang tham chiến và mở đợt tổng công kích đánh chiếm thị xã. Lần lượt các chốt cuối cùng của QLVNCH tại đường Cách mạng, đường Đinh Tiên Hoàng, khu Tâm lý chiến vị tràn ngập. 10 giờ 30 phút sáng ngày 6 tháng 1, dinh tỉnh trưởng Phước Long bị các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thuộc trung đoàn 141 (sư đoàn 7) và trung đoàn 2 (sư đoàn 9) đánh chiếm. 19 giờ ngày 6 tháng 1, điểm cố thủ cuối cùng của lính biệt kích dù QLVNCH dưới hầm ngầm dinh tỉnh trưởng bị chiếm.[36] Số quân còn lại của hai Biệt đội 1 và 4 biệt kích dù rút khỏi thị xã dưới quyền chỉ huy của trung tá Thông. Một số bị bắt, một số bị hoả lực bộ binh bắn gục tại Suối Dung. Không lực Việt Nam Cộng hòa ném bom hủy diệt xuống thị xã Phước Long.[37] Trong số 5400 sĩ quan và bình sĩ QLVNCH phòng thủ Phước Long, chỉ có 850 thoát được về trình diện tại Quân đoàn III[38]. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho biết họ bắt được 2444 tù binh, trong đó có 26 sĩ quan cấp tá và cấp uý, thu hơn 5000 vũ khí các loại và một kho đạn đại bác trên 10.000 viên[39]
Phản ứng của các bên và của quốc tế
Tại Quân đoàn III và Sài Gòn
Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hòa là đơn vị chỉ đạo lực lượng phòng thủ Phước Long và tất các đơn vị có khả năng tăng viện cho nó. Ngay từ khi các chi khu quân sự Đức Phong, Bố Đức, Đôn Luân (Đồng Xoài) bị đánh chiếm, tướng Dư Quốc Đống đã thỉnh cầu Bộ Tổng tham mưu cho rút sư đoàn dù (đang đóng tại Quân khu I) về giải vây cho Phước Long nhưng không được chấp nhận. Ngày 3 tháng 1, khi tình hình tại Phước Long đã trở nên nguy ngập, đề tài tăng viện cho Phước Long lại được bàn tại cuộc họp tại Dinh Độc Lập do giữa đích thân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ toạ. Tướng Dư Quốc Đống nhắc lại đề nghị của mình và đề nghị nếu không tăng phái quân dù thì tăng phái một sư đoàn bộ binh cũng được. Vì một lần nữa không được Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận, tướng Đống xin từ chức sau ba tháng chỉ huy Quân đoàn III nhưng cũng bị tổng thống bác bỏ. Kết quả là Quân đoàn III phải tự lực xoay xở việc giải tỏa Phước Long với Liên đoàn 81 Biệt kích dù, đơn vị dự bị cuối cùng của Quân đoàn. Do không có lực lượng trên bộ phối hợp nên cuộc giải vây Phước Long của biệt kích dù chỉ thực hiện được một phần và thất bại.[40]
Sau cuộc họp ngày 3 tháng 1, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn III gửi một bức điện đến tiểu khu Phước Long; có đoạn viết: "Tổng thống đã họp nội các phiên đặc biệt ngày 3 tháng 1 để cứu xét tình hình quý tiểu khu. Rất thông cảm. Tổng thống và quân lực Việt Nam Cộng hòa ưu ái gởi tặng các chiến hữu 3,2 triệu đồng tiền thưởng, khen ngợi và mong các chiến hữu cố gắng tử thủ".[39] Trong khi chưa thực hiện được phần thưởng nói trên thì Phước Long Thất thủ ngày 6 tháng 1. Ngay trong đêm 6 tháng 1, Hội đồng an ninh quốc gia VNCH đã họp khẩn cấp để cứu xét tình hình. Ngày 10 tháng 1 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trên đài phát thanh: "Toàn quốc dành ba ngày truy điệu, cầu nguyện cho Phước Long" và kêu gọi "kiên quyết lấy lại Phước Long".[39]. Ngày 11 tháng 2 năm 1975, trong thông điệp đầu năm đọc trên đài phát thanh, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu toàn quốc cần thực hiện ba nỗ lực chính trong năm 1975:
Hỗ trợ tối đa tiền tuyến,
Ổn định tối đa hậu phương
Tích cực tăng gia sản xuất [21]
Hoa Kỳ
Ngày 10 tháng 1 năm 1975, người phát ngôn Nhà Trắng tuyên bố: "Tổng thống Gerald Ford đã và đang theo dõi cuộc chiến ở Việt Nam Cộng hòa nhưng không có ý vi phạm sự cấm chỉ việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam". Người phát ngôn Lầu năm góc, ông William Betche cho rằng Hoa Kỳ vẫn tin chắc vào sự lượng định cách đây một tháng về tình hình ở Việt Nam, mặc dù có những biến động mới mà theo đó, Lầu Năm Góc đã không trù liệu một cuộc tổng tiến công của cộng sản trên toàn Việt Nam Cộng hoà. Bị ràng buộc bởi đạo luật "War power act" do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1973 cấm tổng thống Hoa Kỳ sử dụng quân đội nếu không được sự chấp thuận của Quốc hội trước 6 tháng. Hoa Kỳ chỉ có thể hành động hạn chế.[41] Bộ Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương điều động một lực lượng hải quân đặc nhiệm gồm tàu sân bay Enterprise, tuần dương hạm Long Beach, hai tàu khu trục và một số tàu hậu cần rời cảng Subic tiến vào Biển Đông. Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 của Hải quân Hoa Kỳ đóng tại Okinawa cũng được đưa vào tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu.[42]
Tuy nhiên, tất cả chỉ có vậy. Khi Hoa Kỳ chỉ chấp nhận chiến đấu ở miền Nam Việt Nam bằng lời nói chứ không phải bằng súng đạn thì niềm vui tràn ngập ở Hà Nội. Ký giả Hoa Kỳ Alan Dawson nhận xét: "Nó chính lại là một trong những chiếc đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài của quân đội Sài Gòn".[43]

Chú thích

  1. ^ http://baobinhduong.vn/quan-doan-4-qua-dam-thep-phia-nam-phuoc-long-don-trinh-sat-chien-luoc-a103502.html
  2. a b Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2004. trang 79
  3. a b Vương Hồng Anh. Trận Phước Long. Dẫn theo Lê Đại Anh Kiệt. Tướng lĩnh Sài Gòn tự thuật. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2003. trang 133
  4. ^ Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2004. trang 77
  5. a b George C. Herring. Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. 1998. trang 340
  6. ^ Phạm Ngọc Thạch - Hồ Khang và tập thể tác giả. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập VIII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2008. trang 200.
  7. ^ Dương Hảo. Một chương bi thảm. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1980. trang 137
  8. a b Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2004
  9. a b Hoàng Cầm. Chặng đường mười nghìn ngày. (Hồi ức do Nhật Tiến ghi). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2001
  10. ^ Hoàng Văn Thái. Những năm tháng quyết định. (Hồi ký). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1985
  11. a b Vương Hồng Anh. Trận Phước Long. Vantuyen.net
  12. ^ Cao Van Vien, The Final Collapse. Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1983
  13. ^ trong Tài liệu "Trận Phước Long" của Vương Hồng Anh (vantuyen.net) ghi là đại tá Đỗ Văn Thành
  14. a b Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long (1974-2004). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2004
  15. a b c Hoàng Cầm. Chặng đường mười nghìn ngày. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2001
  16. a b c d Vương Hồng Anh. Trận chiến Phước Long. Vantuyen.net
  17. a b Cao Văn Viên. The Final Collapse. Washington DC: U.S. Army Center of Military History. 1983.
  18. a b c Lịch sử sư đoàn bộ binh 7 (1966-2006). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2006
  19. ^ Cao Văn Viên. The Final Collapse. Washington DC: U.S. Army Center of Military History. 1983
  20. a b c Cao Văn Viên. The final collapse.
  21. a b Dương Hảo. Một chương bi thảm. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội.1980
  22. ^ Bản thuyết trình quân sự của đại tá tỉnh trưởng Phước Long. Dẫn theo Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long (1974-2004). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội.2004
  23. ^ Hoàng Cầm. Chặng đường mười nghìn ngày. Nhà xuất bản Quân dội nhân dân. Hà Nội. 2001
  24. ^ Vương Hồng Anh. Trận chiến Phước Long. Vantuyen,net
  25. a b Vương Hồng Anh. Trận chiến Phước Long. Vantuyen. net
  26. a b Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long (1974-2004). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội.2004
  27. ^ Lời kể của Đàm Hữu Phước, sĩ quan quân y Liên đoàn 81 biệt kích dù. Dẫn theo Tướng lĩnh Sài Gòn tự thuật. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2003
  28. ^ Trần Đông Phong. Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà. (Trích dẫn: Trần Văn Hương. Kẻ sĩ cuối cùng). Vantuyen.net
  29. a b c d Dương Hảo. Một chương bi thảm. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1980.
  30. ^ Trần Đông Phong. Nhũng ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà. Vantuyn.net
  31. ^ Tin tức UPI ngày 7 tháng 1 năm 1975. Dẫn theo: Dương Hảo. Một chương bi thảm. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1980.
  32. ^ Alan Dawson. 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ. Dịch giả: Cao Minh. Nhà xuất bản Sự thật. Hà Nội 1990.
  33. ^ http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZTZjuJIEEW_hQ9ApLGx8WN6S--F0ws2L8jG-w648fL1Tc3UjDQ16uKluzKeUrqhk_dGKjanjb85teGjyMKh6Nqwfr-f6LMETbznCAgAsHdAIaHm6uzzApmnIHgKeARlitEB2OvoKYCyi1mLJAEkX_UfN34ZgEnojFGEOLXIZtYTWdQfhkEby2DhUcr3WUvma52vUb3t62JAAVCmNGZRg5YrlcZ60ITVnbhOy4wvUuJU5ePa9kTQFPop1dgTuS9VLukfIGl4camsO3fHeDlE5q2t85Aj9Nkdl1IQ5DURkhmbDvclUrLVhzfwiwPBf70h6ElAUW0AeWa35RH10f-F4GU2py8RFPMh-Cr-vwRfeAieAubXj9xtnPcJ0c8JKSNS7HQK0MR2qe0aUcgpmpp3OQ5s5HmVUYiIlCYtIY28avvbED0ew5iHj4SQPFclZyaYf6TWvjvwR-cGb4US8px9zM9Sf6fSpJnlft_WHk6H48xyOFeKQCx3uSaMXWnREzXmuKgHz8xGZCUUCxHDMeKZijUhqmGClPqiDGZ4CLYMPfjBmcDAYKN1xFrdlaG72faWQFgikmsPA3-kAhqXOsNQUIzHdqFWL4LY0-9BAOpsl3OvLNWCy8Ua7-KkGqVIEmA7GyJjm5EInFg1jarXQEWo9iKCQbfAIGBtiIVD7GGXgxxzG4XgFZD648A3-R3oqDv7zdoCavvdDne_HahuTlndRc_F5fnBoAudCkXoH8ar5i-OpWpyZsdCDARw41MZ0tnt4h9x7d_ma38i-yUNi4afBOvHlanNQ2F3YxqeuXF25R5BrN284axCXzToTgu3I4qanFHSnXm_eGejYnpBytqZL9fKhYjYeOvgczKjvqGpt1AOrvcDTQrSVsnMY2TfyzcvnWYUrqW9KysjXYVwtdqYctckn2P7tBis_8cGJtMo3clxAgIAQjV1xzUdRDpmSDhirYLyCO5irhogN013erPZ6J_Y_Krz6xdAmvpmoMX8aeDnrw--O1L6twP7xn1oOo3lxf-3EvRo_q5s9ROQGKzW/dl4/d5/L2dBISEvZ0FBIS9nQSEh/
  34. ^ Gabriel Kolko. Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Dịch giả: Nguyễn Tấn Cưu. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2003.
  35. ^ Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai. Tác giả Merle L. Pribbenow, đăng trên tạp chí Parameters, số mùa đông 1999 - 2000
  36. ^ Văn Tiến Dũng. Đại thắng mùa Xuân. Nhà xuất bản Sự thật. Hà Nội. 1976
  37. ^ “Sự thất hứa của Mỹ sau Hiệp định Paris 1973”. Kienthuc.net.vn. Truy cập 27 tháng 9 năm 2015.