Showing posts with label úc. Show all posts
Showing posts with label úc. Show all posts

Sunday, December 24, 2017

https://www.sbs.com.au/yourlanguage/vietnamese/vi/article/2017/11/24/song-o-uc-van-la-mot-su-may-man?language=vi

Friday, August 18, 2017

Đời sống chính trị tại các nước dân chủ .
(Đăng tin này nhân dịp mấy "ông vua" BCT ĐCVN lần lượ biệt vô âm tín hay đang "du lịch" ở Âm Phủ) .
1/ Lãnh đạo Đức (1 trong 2 cường quốc KT mạnh nhứt Âu châu) , bà Merkel nói , khi đi phố , thăm bạn bè, v.v... bà sợ nhứt là tìm chổ đậu xe . Như vậy chứng tỏ ko có tài xế . Các lãnh đạo của các nước Bắc Âu cũng như vậy . Có lần 1 TT , hình như của Thụy Điển , bị đâm khi đi phố nhưng ko chết . Chứng tỏ họ ko sợ cái gì . Riêng TT Pháp Hollande còn đi thăm bồ bằng moto , do tài xế lái . Cô bồ ở nhà do bạn mượn , chứ ko bằng tiền của ông như các quan tham VN .
Từ ngày có khủng bố của ISIS , các vị này ko dám đi một mình mà ko cần cận vệ .
2/ Sấm sét ở đất nước kanguru (Thunder at Down Under) .
Rất ít đảng trong thế giới dân chủ có cảnh đấu đá , triệt hạ lẫn nhau (internecine blood sport) như đảng Labour (Lao Động) của Úc , khi lãnh tụ đảng , bà TT Julia Gillard , lại bị thách thức bởi Kevin Rudd , ngoại trưởng của bà . Rudd , nỗi tiếng khi đã tự mô tả "tôi là 1 ng đàn ông chỉ được thích bởi ai chưa bao giờ gặp tôi" lại bị cách chức bởi bà Gillard năm 2010 . Trong kỳ bầu cử của đảng tuần qua , bà đánh bại ông hoàn toàn (clobber) với 71/31 . Fair dinkum (thật vậy đó), như dân Úc dùng .
Dịch từ Newsweek Mar 12 , 2012 .
Nhận xét : Ở nước theo chế độ đại nghị là vậy , đấu đá chính trị giửa các đảng hay trong nội bộ là chuyện thường . Không có chuyện "các đồng chí bắt bớ , dùng chất phóng xạ để giết nhau" như thành phần lãnh đạo của ĐCSVN bây giờ
.
Ảnh 1-4 : TT Merkel đi chợ và du lịch ở nước ngoài với chồng ; hình 5 , cựu thủ tướng Anh du lịch ở Ý ; con gái 3 Dũng đang selfie với TLS Mỹ tại Saigon nhân QK Mỹ .







Sunday, March 13, 2016

1/ Rất ít đảng phái , trong các nước Dân chủ , có sự đấu đá nội bộ 1 sống 1 còn (internecine blood sport) như đảng Lao Động tại Úc : khi thủ lãnh của đảng , bà TT Julia Gillard , phải đối đầu với với ngoại trưởng Kevin Rudd . Ông Rudd , nỗi tiếng khi được mô tả là 1 ng đàn ông " chỉ được thích bởi ng chưa bao giờ gặp ông , " lại bị đánh gục (defenestrated) bởi Gillard năm 2010 . Trong cuộc bỏ phiếu tuần qua trong đảng , bà lại thắng với tỉ lệ 71/31 . Fair dinkum (thật à) , dân Úc nói .
(Fair dunkum , tiếng lóng của Úc , tương đương "for real") .
2/ Bước vĩ đại của nước Turmenistan .
Truyền thông nhà nước đã tuyên bố 1 " kỷ nguyên hạnh phúc tối thượng của 1 đất nước ổn định" tại Turkmenistan . Tình trạng hơi đáng ghen tị (rather enviable) này là hậu quả trực tiếp của việc tái cử của TT Gurbanguly Berdimuhamedov với 97/100 số phiếu - tương phản với kết quả của năm 2008 khi ông chỉ thắng với 89/100 số phiếu .
Nguồn : Newsweek , March 12 , 2012 .
Nhận xét : Tin này nghe "hơi quen quen" . Hình như đã xảy ra "ở đâu đó" .

Sunday, August 16, 2015

Cuộc vượt biên kinh hoàng, bằng đường bộ , đi ngang KPC, của gia đình một cô bé, sau trở thành một LS thành công ở Úc.
Chuyển ngữ từ Anh ngữ từ : http://www.theaustralian.com.au/life/weekend-australian-magazine/what-cat-thao-nguyen-found-when-she-dug-into-her-family-history/story-e6frg8h6-1227222575564

- Mình tính không bằng trời tính khi họ đã tìm cái sống trong cái chết .

LỜI MỞ ĐẦU:

Một định mệnh lạ lùng : cô ra đời trong trại tị nạn khắc khổ ở Thái Lan năm 1980 , được định cư tại Úc , tốt nghiệp cử nhân về Luật và Thương Mại ở tuổi 30 , hiện làm giám đốc của cty Ersnt and Young tại Hà Nội , Việt Nam .
- Chúng tôi đã đạt một điều - mà trái tim và linh hồn của chúng tôi đã khiêm tốn hy vọng, đã âm thầm chịu đựng , và hầu như không có đủ can đảm để ước mơ điều đó trở thành sự thật -- Cảm tưởng của LS Nguyễn Cát Thảo nhân ngày nhận bằng tốt nghiệp LS tại Úc .
LS Nguyễn Cát Thảo đã chụp ảnh này tại phi trường Sydney , trên đường tới Lễ hội Các Nhà văn ở Adelaide , ngày 2/3/2015 . Cô viết , "Trên đường đến lễ hội này tôi đã thấy sách tôi kế cận sách của Obama tại phi trường Sydney ! Siêu thực và cảm động."
LS NGUYỄN CÁT THẢO VÀ BÌA SÁCH "WE ARE HERE" .
CHỤP TẠI SYDNEY LÚC CÔ ĐƯỢC 4 TUỔI, BÊN TRÁI LÀ ANH VĂN.
ĐÁM CƯỚI CỦA CHA MẸ CÔ NĂM 1977 .
Tôi ngồi với cha tôi tại bàn ăn - đc tặng cho chúng tôi bởi một chủ nhà cũ.
Khăn trải bàn bằng nhựa màu vàng với hoa tulip màu xanh phản chiếu ánh nắng mặt trời chiếu xuyên qua cửa sổ nhà bếp. Tôi hỏi ông về quyết định rời khỏi Việt Nam, về những gì ông nhớ của cuộc hành trình qua Campuchia. Vài phút sau khi chúng tôi bắt đầu, ông yêu cầu tôi dừng lại và ông rời khỏi phòng sau khi nói "Để khi khác" (Later) . Để khi khác đã không đến.
Sáng hôm sau, ba nói rằng ba đã cảm thấy rất khó ngủ và có những ác mộng . Hơi nước từ cà phê hòa tan trong cốc bay lên khi ba nói. Cha tôi có vẻ quá già . Tôi cảm thấy xấu hổ và hối hận. Tôi đã khiến cuộc phỏng vấn này "tấn công" ba tôi giống như một bảng câu hỏi băng giá của bệnh viện dài 10 trang bằng tiếng Anh.
Mẹ tôi nói với tôi rằng mẹ sẽ trả lời bất kỳ câu hỏi. "Bố rất yếu. Ông yếu hơn rất nhiều so với con nghĩ. "Vì vậy, qua những mảnh vỡ của những câu chuyện mà mẹ và người thân của tôi nói theo thời gian, tôi đã có thể tạo một bộ sưu tập ghép hình của lịch sử gia đình của tôi. Không đầy đũ lắm , nhưng tạm được .
Mẹ tôi ngồi im lặng, chìm đắm trong nỗi buồn, trong ngôi nhà của họ ở nông thôn Gò Dầu, (thuộc tỉnh Tây Ninh của VNCH - Tài) miền nam Việt Nam. Đó là vào giữa của một đêm tháng mười hai năm 1979. Mẹ, cha, chị và anh trai út khóc trong im lặng vì sợ hàng xóm sẽ nghe và báo cáo với viên chức Cộng sản : cha mẹ tôi đang chuẩn bị để tham gia các cuộc di cư hàng loạt của người tị nạn Việt Nam . Gia đình của cha mẹ tôi đã dính líu với chế độ cũ. Cha tôi đã sống sót từ một trại cải tạo và đã có tin nhà chức trách đang tìm kiếm ông một lần nữa.
Cách nhanh nhất hiện nay là qua biên giới Campuchia, cách đó 10 km. Họ đã phải trả tiền cho một người bạn tin cậy của gia đình để thuê những kẻ buôn lậu khác nhau đưa họ qua Campuchia, bây giờ dưới sự kiểm soát của Khmer Đỏ, và vào Thái Lan. Nhóm ra đi có mẹ tôi Mai, 26 tuổi, cha tôi Thịnh, 32 tuổi, Văn - anh trai 12 tháng tuổi , Hải - anh họ 15 tuổi, và cậu Hồng Khanh cũng 15.
Sẽ làm dấy lên nghi ngờ khi đi thành một nhóm lớn, vì vậy cha tôi đi với Hải và cậu Hồng Khanh. Trong vai các con buôn , họ dùng xe đạp đi đến thị trấn Bavet ở biên giới KPC-VN và ở lại qua đêm với một kẻ buôn lậu, chờ đợi. Cuối đêm đó, mẹ tôi, bồng anh Văn, di chuyển qua những cánh đồng lúa nằm dọc theo đường đến biên giới, dẩn đường bởi một kẻ buôn lậu. Gần biên giới, được canh gác cẩn mật với những người lính của cả hai bên, mẹ tôi rơi vào một cái hố. Ngay lập tức mẹ tôi bịt miệng anh Văn . Một người nào đó hét lên trong bóng tối: "Ai đấy ?"
Bang, bang, bang. Tiếng súng nổ như sấm làm thủng không khí. Tê liệt vì nỗi sợ hãi, hai người nằm co lại (huddle) trong im lặng. Khi đêm đã im lặng, họ tiếp tục đến Bavet, nơi họ gặp lại cha tôi. Ngày hôm sau, họ đã lấy phà qua sông Mekong và tìm chỗ trốn, chờ đợi thêm 10 ngày để những người buôn lậu đưa họ về đến Phnom Penh, thủ đô Campuchia. Với đói, trốn tránh mệt mỏi và trẻ sơ sinh yếu kém , họ đã trốn qua đêm trong mái nhà của một ngôi nhà nhỏ và sau đó bắt đầu đi tới tỉnh lỵ của tỉnh Battambang, 300km về phía tây-bắc, bằng cách đi bộ dọc theo quốc lộ và ban đêm thì ngủ trong các chỗ nông (shallow) bên đường. Hết ngày lại đêm , với lo lắng và lo sợ liên tục cho đến khi tới Battambang, và sau đó đi dọc theo đường sắt đến Sisophon, khoảng 50km cách biên giới Thái Lan.
Cậu Hồng Khanh đã bị côn trùng độc cắn và có vết thương hở trên chân của mình; trong đau đớn, cậu không thể đi dễ dàng. Có rất ít nước sạch. Anh Văn đang bị kiết lỵ nặng. Sáng hôm sau, bốn người đàn ông đi xe đạp đến để đưa chúng tôi đến một con đường rừng biên giới - chúng tôi đi từng 2 người, và cách nhau vài cây số để tránh sự nghi ngờ. Cha tôi đã đi đầu tiên, sau đó cậu Hồng Khanh, sau đó mẹ tôi với anh Văn, và cuối cùng Hải.
Trước khi họ đến nơi, ba người đi với cha tôi, Hải và cậu Hồng Khanh đã bỏ rơi họ , mỗi người một mình gần thị trấn biên giới Poipet, nơi những khu rừng xung quanh đầy mìn. Cha tôi chọn một con đường mòn , dùng bởi các con buôn dọc theo biên giới , nhưng đã bị bắt bởi quân du kích (guerrilla) và họ đưa ông đến một khu có rào kẽm gai. Ðêm ấy, ông nằm thao thức trong lo sợ. Không có người nào có thể giúp ông , ông nghĩ như vậy . Sáng hôm sau họ giao ông cho Hội Chữ thập đỏ ở biên giới Thái Lan để đổi lấy một ít gạo. Cuộc hành trình khủng khiếp mà ông phải chịu đựng, và ý nghĩ rằng con trai và vợ của mình mất tích , đã khiến ông không còn hy vọng. Cha tôi tự hứa với mình rằng nếu ông không nhìn thấy mẹ tôi trong vòng vài ngày, ông sẽ tự tử (would take his own life) .
Một mình trong rừng, cậu Hồng Khanh 15 tuổi đã kiệt sức (give up) , vết loét gây nhiễm trùng khiến cậu hầu như bất động. Hải, đi đằng sau vài km, đã tiếp tục đi với hy vọng bắt kịp cậu Hồng Khanh và vừa trông thấy cậu thì một đội tuần tra của lính Khmer Đỏ xuất hiện từ trong rừng rậm. Từ bóng tối, Hải kinh hoàng khi thấy cậu Hồng Khanh bị bịt mắt , báo hiệu một cuộc hành hình sắp xảy ra. Sau đó, một mảnh lớn gỗ được đánh vào đầu của Hồng Khanh và cậu té xuống đất .
Hải chạy. Từ đàng xa , Hải đã nhìn thấy mẹ tôi sau lưng một chiếc xe đạp. Hải bắt đầu vẫy tay, gọi bằng tiếng Việt: "Dì, dừng lại! Dừng lại!" Người đàn ông đạp xe nhanh hơn, hét lớn bằng tiếng Việt với mẹ tôi :" "Nếu chúng ta dừng lại , tất cả chúng ta sẽ chết! "Mẹ tôi chết lặng phía sau xe đạp đang chạy nhanh . Những hình ảnh của một cậu bé 15 t hét lên một mình trong rừng, trở nên nhỏ hơn và nhỏ hơn khi họ đi xa , sẽ ám ảnh mẹ mãi mãi.
Họ đã đến phòng khám Chữ thập đỏ và các nhân viên y tế điều trị người anh bé nhỏ của tôi. Mẹ tôi đã được đoàn tụ với cha tôi, người đã không nói nên lời, và họ đã sớm đoàn tụ với Hải - người sau đó đã mô tả những gì đã xảy ra với Hồng Khanh. Mẹ tôi đã nghĩ tới em trai kiên cường của bà bị bịt mắt và được bao quanh bởi những người đàn ông có vũ trang trong những khoảnh khắc cuối cùng của cậu. 'Tôi không nên cho cậu ấy đi theo', mẹ đau đớn nói . 'Đó là lỗi của tôi khiến cậu phải chịu đựng một cái chết tàn bạo như vậy'.
Gia đình tôi đã ở trong một trại tị nạn khét tiếng ở khu vực miền núi của Thái Lan. Vào ban đêm, các lính canh và người Thái địa phương khác sẽ hãm hiếp phụ nữ. Những người tị nạn đã luôn luôn cảnh giác/báo động. Tất cả mọi người sống trong nhà tạm, rất đông đúc và không bao giờ có đủ thức ăn và nước .
Khoảng thời gian đó mẹ tôi phát hiện ra mình đã có thai và tôi đã ra đời vào tháng Tám năm 1980 hai tháng sớm hơn dự trù . Trong khi đó, các nhà ngoại giao từ khắp nơi trên thế giới đến thăm trại để giúp tái định cư cho người tị nạn về các nước thứ ba. Úc là gần Việt Nam và anh trai của cha tôi đã đến đó bằng thuyền. Gia đình tôi đc chuyển đến một trại quá cảnh gần Bangkok. Vào 1 ngày của tháng mười một, chúng tôi đã rời trại , tôi bị tiêu chảy. Mẹ tôi không dám nói với ai, vì sợ chúng tôi sẽ không được phép trên máy bay. Mẹ dùng quần áo quấn chặt tôi và, cùng với bốn gia đình tị nạn Việt Nam khác, chúng tôi lên máy bay của hảng hàng không Qantas. Không có người châu Á khác trên tàu.
Chúng tôi bay cao xuyên qua những câu chuyện cũ như các cánh đồng chết, hàng rào kẽm gai và mìn, và giả từ vĩnh viễn cậu Hồng Khanh. Bố mẹ tôi vẫn chưa cảm thấy nhẹ nhõm. Không có gì là chắc chắn, kể cả sau đó. Họ ngồi im lặng trong khi những người da trắng xung quanh họ nói chuyện một cách lịch sự. Ngay cả anh Văn, nay đã hai tuổi , im lặng trong suốt cuộc hành trình.
Khi các tiếp viên hàng phục vụ thức ăn, cha mẹ tôi hoảng sợ, lo sợ chúng tôi phải trả tiền . Chúng tôi không có gì ngoại trừ quần áo đang mặc và sarong trong đó tôi được quấn chặt. Bữa ăn có phục vụ một lon Coca-Cola. Khi người Mỹ đến Việt Nam, ngoài việc mang lại sự hỗ trợ quân sự cho miền Nam , họ đã mang thức uống sang trọng và lạ ngon này. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, mẹ tôi đã không nhìn thấy một lon Coca-Cola nào . Bây giờ, năm năm sau đó, mẹ nhìn chằm chằm vào nó và cuối cùng tin rằng nỗi sợ hãi và sự chờ đợi khủng khiếp đã­ đi qua . Màu trắng đỏ có thể có nghĩa là tự do. Dường như mẹ đã nín thở trong nhiều năm qua. Tay nắm chặt Coca-Cola và tôi, em bé ba tháng tuổi, mẹ tôi đã khóc, gần như không tin được : chúng tôi vẫn còn sống.
Đó là một ngày mát mẻ. Như thường lệ, xe buýt, xe tải và các xe thể thao đã cải biến ầm ầm chạy qua ngôi nhà của chúng tôi trên Chapel Road, Bankstown, phía tây nam Sydney. Bên trong, bố mẹ tôi đã sẵn sàng. Hôm nay, gần 30 năm sau khi đến Úc, con gái của họ đã trở thành luật sư. Cha tôi mặc bộ đồ 'vét' duy nhất của mình, với áo sơ mi có cổ màu trắng và cà vạt màu xanh hải quân, ông từng mặc đi đám cưới, đám tang, lễ tốt nghiệp và các sự kiện lớn ở nhà thờ . Mẹ tôi đã mặc một chiếc áo đen dài tay với các hoa văn disco điên cuồng của thập niên 1980, quần màu xám than và đôi dép màu đen. Tôi nhìn cha tôi với tóc có xịt keo và lông mày vẻ đậm , và mẹ tôi, thì ko điểm trang (mẹ không bao giờ học được cách dùng nó), và trong cố gắng của mẹ để không giống như một người nông dân, trình bày mình với thế giới như nữ hoàng của Western Sydney. Đây là cách ăn mặc đẹp nhất của họ .
Chúng tôi đậu xe ở CLB Thể thao Bankstown và đi bộ đến ga xe lửa. Cha tôi vẫn còn mặc giày nặng với mủi giày bằng thép từ thời làm công nhân nhà máy . Kính đeo mắt giá $ 3 , vẫn còn số độ + 2.0 , treo trên mủi nhăn nheo của ba . Tôi nhớ lại về lần đầu tiên cha mẹ tôi đi tàu lửa tới vùng đất mới này, trong những thập kỷ trước đây. Với một gia đình trẻ và không có xe hơi, trong một nỗ lực để tiết kiệm tiền mua thực phẩm ở các tiệm bán lẻ , mỗi cuối tuần họ đẩy một xe mua hàng (shopping cart) băng qua một số đường xe lửa để đến cửa hàng bán sỉ trái cây và rau tại Flemington. Họ đã trở thành gương mặt quen thuộc với các nông gia Việt Nam đã đưa sản phẩm của họ tới đó.
Con tàu đến đúng giờ và chúng tôi bắt đầu đi đến trạm St James ở trung tâm Sydney. Các ga quen thuộc trên tuyến Bankstown qua nhanh , và đó là phong cảnh của cuộc sống của chúng tôi tại Úc. Xe vượt nhanh qua trạm Lakemba, nơi tôi đã bước xuống mỗi ngày để học ở MacKillop Girls High, sau đó là đường Georges và đền thờ Cao Đài, nơi lễ tang của bà tôi đã được tổ chức. Chúng tôi đi qua đường phố nơi Văn học tae kwon do .
Sau vài ga , chúng tôi đến Marrickville, nơi đầu tiên chúng tôi cư trú sau khi chúng tôi ở tại nhà tập thể (hostel) dành cho ng nhập cư Villawood. Tôi nhớ đến những căn hộ mà chúng tôi chạy chơi xung quanh đối diện nhà ga, nơi mà hàng xóm đã dạy mẹ tôi may để kiếm sống sống và từ đây cha tôi đi bộ mỗi ngày để làm việc trong một nhà máy. Nơi chúng tôi có lễ Giáng sinh đầu tiên , mà tôi có thể nhớ lại.
Tại trạm Sydenham tôi nhìn thấy một cô gái châu Á trong một bộ đồng phục trung học ngồi một mình, chờ đợi cho tàu của mình. Cô ấy nhỏ con với một chiếc túi quá khổ, nhìn chằm chằm vào khoảng không, và điều này nhắc tôi nhớ lại mình rất nhiều năm trước đây. Chờ đợi cho tương lai .

"Chúng tôi đến trạm St James và đi lên cầu thang để lên mặt đường phố. Tòa án tối cao NSW xuất hiện trước mắt chúng tôi . Vĩ đại . Uy nghiêm. Một biểu tượng của công lý, của người dân, của dân chủ. Những lý tưởng đã được theo đuổi và giữ chặt bởi cha mẹ tôi khi họ rời khỏi đất nước" .
Tôi đề nghị uống cà phê tại quán cà phê bên cạnh. Trong khi cha mẹ tôi nhìn các luật sư và trợ lý pháp lý, tôi đã giải thích ý nghĩa của các bộ tóc giả và áo rất buồn cười này . Cha tôi đã bắt đầu nói về Việt Nam trước khi thống nhất. "Trước năm 1975 ..." Ông cứ luyên thuyên về các trường đại học trong thời Tổng thống Diệm và cách cộng sản phá hủy chất lượng giáo dục. Tôi đã nhìn thấy cha nghiêng đầu khi mẹ tôi nói. Những miếng nhỏ của keo xịt tóc đã khô rơi xuống vai cha như vảy gàu. Tôi gạt chúng đi.
Bên trong, chúng tôi đi qua máy quét an ninh trên đường đến Tòa án Banco trên từng 13. Các bức tranh sơn dầu lớn của các cựu chánh án treo dọc theo các bức tường như tổ tiên đang cảnh giác chúng tôi . Khi đó, trái tim tôi bắt đầu đập nhanh khi thấy cha mẹ tôi đã đi đến chỗ ngồi của mình trong khi tôi ngồi với những ng sắp là LS . Chánh án mặc áo choàng vào phòng . Một sự im lặng đầy trang nghiêm tràn ngập căn phòng. Những tân LS đứng lên từng người một. Một ngàn suy nghĩ đã đến với tôi khi đến lượt tôi. Cha mẹ tôi đã theo dõi với sự tôn kính và niềm tự hào; mẹ tôi, một sinh viên luật cũ cuả chế độ Sài Gòn đã bị tước đoạt những gì tôi mà tôi đang có bây giờ , đứng khiêm nhường.
Tôi nhìn họ, với những kỷ niệm khủng khiếp của họ ngay dưới da của họ; tôi nghĩ về bom mìn, dấu chân ướt trong rừng, máy may, giày với mủ thép trắng, hộp rau từ các chợ đầu mối và các hóa đơn chưa thanh toán từ xa, rất xa, xuất hiện xung quanh chúng tôi như một con rắn với đèn màu. Tôi nhìn thấy một người phụ nữ trẻ nằm co mình giữa đêm ở một ruộng lúa gần biên giới Việt Nam-Campuchia, ôm một đứa bé trong khi tiếng súng nổ trong bóng tối. Tôi nhìn thấy một người đàn ông trẻ tuổi bên trong hàng rào kẽm gai, xa lìa vợ , sẵn sàng tự tử .
Sau đó, dựa vào vai cha , tôi khóc nức nở trong khi ông vỗ nhẹ vào lưng tôi. Tất cả tôi có thể nói là thì thào "Cảm ơn ba." Cả ba chúng tôi lúng túng ôm nhau . Không ai trong chúng tôi biết làm thế nào để thể hiện tất cả những gì chúng tôi cảm thấy: chúng tôi đã đến một nơi - mà trái tim và linh hồn của chúng tôi đã khiêm tốn hy vọng, đã âm thầm chịu đựng , hầu như không có đủ can đảm để ước mơ đó sẽ trở thành sự thật. Cuối cùng , mẹ tôi cuối cùng đã kéo tôi đi, siết chặt tay tôi. Mẹ cười trong nước mắt trong khi nhân viên chỉ cho chúng tôi đường đến thang máy. Chúng tôi đã đến bến bờ Tự Do .
(Dịch xong lúc 5:30 chiều ngày CN 16/8/15 trong lúc nhiệt độ 97 độ F !)

Saturday, February 14, 2015



Ta đi làm ở Tây

Nguồn : trên mạng . 


“Bệnh ì, lười học hỏi và quan liêu trong nghề nghiệp đã hạn chế tôi quá nhiều trong hành trình tìm việc phù hợp ở xứ người. Ở đây, cơ may hoàn toàn không mỉm cười với kẻ bất tài, lười biếng”.

Thùy Mai, du học, làm thêm, làm việc, Tây, ta
Tác giả trong thời gian du học tại Úc - Ảnh do nhân vật cung cấp
Tôi, một phụ nữ vừa bước vào tuổi ba mươi lăm, khăn gói lên đường du học sau cuộc chia tay đầy nước mắt với chồng và hai đứa con. Chuyến bay dài tám tiếng của Hãng Hàng không Việt Nam đưa tôi đến với Melbourne, thành phố lớn thứ hai sau Sydney của đất nước Úc rộng lớn và xinh đẹp.
Melbourne vào thu thật lãng mạn và trữ tình. Những tòa nhà với kiến trúc Victoria ngập tràn hoa hồng, lãng đãng phủ đầy dây thường xuân. Muôn ngàn lá đỏ, lá vàng xào xạc dệt lên sắc xanh mượt mà của những thảm cỏ trải dài theo các đại lộ.
Xe của trường đưa tôi và ba cô bạn khác đi qua trung tâm thành phố. Tôi như choáng ngợp trước vẻ đẹp hiện đại của các tòa cao ốc của Melbourne. Xen lẫn trong sự kiêu hãnh của một thành phố phát triển, đâu đó chấm phá nét trầm mặc của những tháp nhà thờ cổ kính. Melbourne đã được tạp chí “The Economist” bình chọn là “Thành phố dễ sống nhất thế giới” dựa vào các tiêu chí văn hóa, thời tiết, giá cả sinh hoạt và điều kiện xã hội.
Tôi bận rộn việc học tiếng Anh của mình tại campus Clayton, trường Đại học Monash, một trong tám trường đại học hàng đầu của nước Úc. Clayton cách trung tâm thành phố khoảng 45 phút đi tàu điện. Tôi được nghỉ hai tháng sau khi kết thúc khóa học bồi dưỡng tiếng Anh. Melbourne lúc này bắt đầu vào đông. Cảm thấy chán vì mình đã khám phá gần hết thành phố xinh đẹp này, tôi lao vào cuộc hành trình mới để thử sức mình ở đất lạ xứ người.
Và thế là… tôi đi làm ở “Tây”.
Nông trại
“Tây” chỉ là cách ví von của người Việt Nam nếu một ai đó đi ra nước ngoài. Sau nhiều ngày tìm việc trên mạng, tôi đã được một farm (nông trại) nho ở vùng Tongala, cách Melbourne 300 km nhận làm.
Người chủ farm nho là một người Úc gốc Việt. Chị có giọng nói nhỏ nhẹ, dễ thương đặc trưng của người Nam Bộ. Công việc chính của tôi ở farm chủ yếu là cắt cành nho. Một luống nho khoảng 5 cây. Một ngày trung bình nếu cắt được hai luống nho, tôi sẽ được trả 100 đô-la Úc.
Chị chủ nông trại bảo tôi việc nhẹ nhàng và đơn giản, chỉ cần siêng năng là có thể kiếm được 1.400 đô trong hai tuần. Phát cuồng vì nghĩ mình sắp kiếm được món hời, tôi rủ thêm ba cô bạn ở cùng đi làm farm. Cả bọn thích thú chuẩn bị hành lý lên đường.
Đúng 10 giờ vào một ngày Chủ nhật đẹp trời, chúng tôi lên Southern Cross, ga trung chuyển giữa các tuyến tàu qua CBD của Melbourne để bắt chuyến tàu Vlines về Tongala. Sau hơn bốn tiếng đồng hồ lắc lư trên tàu, chúng tôi được vợ chồng chị chủ ra tận ga đón về farm. Đường về farm đi ngang qua các cánh rừng vắng vẻ, không thấy bóng dáng người, chỉ thấy những chú căng-gu-ru ngơ ngác nhảy ngang qua đường.
Khác với mường tượng của chúng tôi về một nơi ở thôn dã hiền hòa xinh đẹp như chúng tôi đã từng xem trong bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”, nơi mà chúng tôi sẽ ở trong suốt hai tuần trông tạm bợ, tuềnh toàng và nhếch nhác như các lều đào vàng ở vùng Ballarat.
Phải có chừng hơn 40 người đến từ các nước khác nhau của Châu Á để làm farm như chúng tôi. Bốn chúng tôi cùng ở trong một căn phòng nhỏ hẹp mà mỗi ngày mỗi đứa phải trả 10 đồng. Không có nước máy sinh hoạt ngoại trừ nước mưa và các ao hồ nhỏ hẹp, vàng quánh. Bốn chúng tôi ngao ngán nhìn nhau, tự hỏi không biết mình đang làm gì ở cái chốn khỉ ho cò gáy này.
Một đêm ngủ say như chết sau chuyến đi dài. Người quản lý farm gọi chúng tôi dậy từ lúc 5 giờ sáng. Mắt còn cay xè vì ngái ngủ, chúng tôi cố gắng chuẩn bị thức ăn của ngày hôm trước để chuẩn bị ra farm. Lụ xụ trong chiếc áo phao dày xịch, tôi vội vàng xỏ chân vào đôi bốt và bước ra ngoài. Tiết trời lạnh giá khiến tôi ù hết cả tai, mắt cay xé. Người quản lý bảo 40 người chúng tôi sẽ chia làm hai nhóm. Mỗi nhóm lên hai xe để đi ra farm nho.
Đường lên farm nho vắng rợn người, chỉ có những tiếng kêu buồn thảm thiết của những chú quạ. Đó đây xuất hiện những dấu chân không biết của loài thú nào trông kỳ dị và bí hiểm. Tôi liếc mắt nhìn ba cô bạn của mình.
Kể từ khi đến nơi ở cho đến bây giờ, chúng tôi vốn là những đứa lắm lời, nhiều chuyện không biết tự tắt tiếng khi nào. Chẳng ai thèm nói với ai một lời. Tôi đọc được trong ánh mắt của ba cô bạn sự hoang mang và lo lắng. Cố gắng mở miệng để tếu táo đùa một câu cho không khí bớt phần ảm đạm nhưng hơi lạnh thọc sâu vào cổ họng khiến lưỡi tôi cứng đơ.
Từ nơi ở lên farm nho mất một tiếng đồng hồ. Đến nơi, mỗi chúng tôi được giao một chiếc kéo để cắt cành nho. Tôi bắt đầu công việc đầu tiên của mình từ khi đặt chân lên nước Úc với hai luống nho dài.
Đưa kéo cắt một dây nho đầu tiên, tôi lấy hết sức bình sinh mới cắt được. Thân nho tuy nhỏ, mảnh nhưng lại rất dai. Rồi nhát thứ hai, ba, tư rồi thứ năm, hai tay tôi tê cứng, lòng bàn tay sưng rộp lên. Cắt mãi vẫn chưa hết được một cây nho, tôi thảng thốt nhìn sang cô bạn “đồng nghiệp” người Nepal ở bên cạnh. Có vẻ như cô cũng mới vào làm giống tôi. Nhìn cô bặm môi bặm miệng cố cắt đứt thân nho trong cái giá lạnh tê người, tôi chợt nhếch miệng cười. Một nụ cười khan, khô và cay đắng.
Tôi là một sinh viên cao học, được học bổng do chính phủ Úc và Việt Nam hợp tác tài trợ. Lương một tháng của tôi dư sức để ăn, ở và chi tiêu ở Melbourne. Tại sao lại gồng mình đến nơi này? Tôi vừa rủa thầm sự ngu ngốc, dại dột của mình, vừa miệt mài làm theo quán tính cho đến khi họng khô rốc, bụng đói cồn cào.
Chúng tôi í ới gọi nhau ăn trưa. Không có lò vi sóng để hâm thức ăn, chúng tôi trệu trạo nhai lát bánh mì kẹp thịt xông khói cứng đơ, vất vưởng mùi ôi thiu của ngày hôm trước. Không khí nặng nề bao trùm. Vẫn không ai mở miêng nói được câu nào. Chúng tôi uể oải kết thúc bữa ăn với chai nước mưa mà tôi nhanh tay lấy được từ chỗ trú chân tối hôm qua.
Bìa rừng là nơi chúng tôi thường đến để giải quyết vệ sinh cá nhân trong suốt hai tuần làm farm. Nếu như ở Melbourne, nhà vệ sinh công cộng nhan nhản khắp nơi và không hề thấy bóng dáng ai tè bậy ngoài đường, thì ở trên farm, chúng tôi trở lại với thói quen như khi mình đang ở Việt nam. Mấy cô bạn người Nepal khinh khỉnh bảo chúng tôi cứ tè bậy như họ ngay ở luống nho mình làm. Đi ra bìa rừng vừa mất thời gian, vừa nguy hiểm vì lỡ có thú dữ tấn công.
Một ngày làm việc nặng nề, chậm chạp trôi qua. Tôi chỉ cắt được một luống nho. Không hoàn thành chỉ tiêu, tôi chỉ nhận được 50 đồng. Các cô bạn của tôi cũng thế.
Buổi tối, sau khi tắm rửa trong cái giá lạnh -10C với thùng nước vàng quạch, chúng tôi lại ngủ với nhau trong căn phòng chật chội. Hơi lạnh từ nền nhà tản vào lưng khiến tôi lạnh thấu xương, không tài nào chợp mắt được. Tôi ứa nước mắt. Nhiều trạng thái cảm xúc pha trộn. Tôi nhớ nhà, nhớ hai con. Nhớ hai đôi mắt long lanh như sao, nhớ giọng nói nũng nịu yêu yêu đến lạ. Nếu như bây giờ đang ở Việt Nam, hẳn tôi đang nằm trên một đống chăn nệm thơm tho trong căn phòng ấm cúng cùng với chồng và hai con.
Hai ba ngày một lần, chúng tôi được vợ chồng chủ farm chở ra chợ mua thức ăn. Nói là chợ nhưng nó chẳng khác chợ quê ở Việt Nam là bao lăm. Thức ăn đắt khủng khiếp vì tốn công vận chuyển. Muốn ăn ngon và đầy đủ chất, chúng tôi phải tiêu mất 10 đồng một ngày mỗi đứa. Dù xót tiền nhưng cũng chẵng có cách nào hơn. Một tuần lại trôi qua với ngày làm việc dài đăng đẵng, với những bữa ăn lạnh ngắt, với bàn tay phồng rộp và thân xác mỏi nhừ. Một cuộc sống không internet, không ti vi và không di động.
Tôi tình cờ gặp một người phụ nữ trạc tuổi mẹ chồng tôi 70 tuổi, bà Hoa ở farm nho. Quê bà Hoa ở Vĩnh Long. Bà qua đây đã vài chục năm và cũng làm farm đươc chừng đó thời gian. Không biết ngoại ngữ, không có bằng cấp, chứng chỉ, bà sống lạc lõng giữa cộng đồng người nói tiếng Anh ở Melbourne. Thất nghiệp, bà nhận được tiền trợ cấp xã hội hàng tháng của nước Úc để sinh sống qua ngày.
Bà dạy cho tôi một số mẹo vặt để cắt dây nho nhanh hơn và làm thế nào để không bị đau tay. Trông người bà nhỏ bé, gày yếu như thế nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy bà đã được tôi luyện như thế nào trong môi trường quá ư khắc nghiệt này. Bà có thể cắt từ 3 đến 4 luống nho trong một ngày trong khi tôi cố gắng lắm mới cắt được một luống rưỡi.
Nhà hàng
Thời tiết ở Melbourne chẳng dễ chịu chút nào. Nắng đấy, mưa đấy. Lạnh đấy, nóng đấy. Đồng bóng như một bà góa đang vào thời tiền mãn kinh.
Tuần thứ hai của chúng tôi bắt đầu với cái nắng hanh gắt. Phơi mặt cả ngày giữa cái nắng và gió, mặt chúng tôi sạm hẵn đi. Của đáng tội, tiền làm ra không đủ để mua mỹ phẩm bù lại cho làn da xuống cấp. Một lần nhớ đời! Kết thúc vụ làm farm, sau khi trừ chi phí đi lại, ăn uống và ở hàng ngày, chúng tôi nhận được gần 600 Úc kim. Khi chuyến tàu Vlines đưa chúng tôi trở lại ga Southern Cross, cả bọn nhìn nhau mắt rưng rưng. Dường như đang trở lại cuộc sống thân quen mà mình đã đánh mất từ lâu lắm. Khoan khoái mỉm cười. Lại nhìn thấy người rồi!
Cái nết đánh chết không chừa. Tôi vẫn không bỏ cái thói ham công tiếc việc của mình. Lại sục sao các trang mạng tìm việc. Tuy nhiên lần này may mắn hơn, tôi nhận được lời đề nghị thử việc của một nhà hàng Thai Takeaway bận rộn ở Elsternwick. Công việc chính của tôi sẽ là bồi bàn. Tôi nói chuyện qua điện thoại với ông chủ nhà hàng là tôi không có kinh nghiệm về phục vụ bàn nhưng ông khuyến khích tôi là cứ thử xem một lần cho biết.
Y hẹn, tôi đến đấy vào buổi tối thứ Sáu. Do đến sớm hơn giờ mở cửa của nhà hàng, nên tôi được ông bà chủ đón tiếp tận tình, niềm nở. John, ông chủ nhà hàng là người Úc đáng mến và dễ tính như bao người Úc khác. Ông giải thích cặn kẽ công việc của tôi. Chủ yếu là nghe đặt hàng qua điện thoại, ghi lại số liên lạc, địa chỉ nhà, món ăn, hình thức thanh toán của khách hàng.
Thế nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy nó hoàn toàn không đơn giản chút nào. Làm sao tôi có thể nhớ một lần cả hàng trăm món ăn của Thái với các tên gọi khác nhau ngay trong ngày đầu tiên. Lại còn phải hỏi khách hàng thích cay nhiều, cay ít và không cay, có nước dừa hay không có nước dừa... Tôi thử vai của ông chủ nhà hàng John nghe điện thoại khách hàng. Do căng thẵng, tôi không thể nghe đúng địa chỉ nhà và tên đường của khách hàng. Có lẽ do tôi chưa biết gì về vùng này nên không quen đường. Thậm chí tôi còn ghi sai số thẻ Master Card của khách hàng.
Rồi các món ăn, cả một mớ hỗn độn mà tôi không tài nào nhớ nổi. Bà chủ nhà hàng người Thái có dáng người đậm, mặt bự phấn. Bà tỏ ra rất khó chịu khi tôi nghe sai thông tin. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mất tự tin và nghi ngờ khả năng tiếng Anh của mình. Qua Úc cả năm trời nhưng tại sao vẫn không nghe được dù chỉ là một cuộc điện thoại. Lại nguyền rủa mình, đôi khi tôi suy nghĩ đơn giản là mình có thể làm được mọi việc nhưng thực tế ở nước Úc, người ta làm việc rất chuyên nghiệp và bài bản. Một người tay ngang khó có thể nhận được việc nếu không có kinh nghiệm và được đào tạo đúng ngành, đúng nghề.
Hết giờ làm việc, John gói cho tôi phần ăn tối. Ông trả công 4 giờ làm việc vớ vẩn của tôi 60 đồng và hẹn chủ sáng Chủ nhật sẽ gọi lại. Tôi không biết hẹn gọi lại có phải là cách từ chối khéo léo của người Úc hay không nhưng mỗi khi tôi nghe ai đó ở Úc nói sẽ gọi lại có nghĩa là mình sẽ không được nhận việc.
Cổ cồn trắng
Chán với các công việc thời vụ, tay chân, tôi cố đăng ký vào một công việc phù hợp với kinh nghiệm ở Việt Nam và phù hợp với ngành mình đang học ở Melbourne.
Tình cờ tôi nhận được mẫu quảng cảo của Career One trong hộp mail của mình. Một công ty truyền thông tư nhân, Loungcraft ở Dandenong cần tuyển biên tập viên truyền hình. Tôi vội vã mông má đơn xin làm việc và CV của mình cùng với người tham khảo là hai ông giáo sư tiến sĩ đang trực tiếp dạy tôi ở trường Đại học Monash. Một tuần sau tôi nhận được thư mời phỏng vấn. Vì công ty Loungecraft chỉ cần tuyển người làm bán thời gian nên họ không quan tâm việc tôi là người bản xứ hay định cư lâu dài hay không. Vội vàng quơ mấy cuốn sách ở thư viện, tôi mang về nhà nghiến ngấu đọc lấy đọc để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn và làm bài kiểm tra.
Tôi bước vào bài kiểm tra kiến thức bằng việc dựng một trailer trên Macbook với phần mềm Final Cut Pro. Cùng thi với tôi có khoảng 10 ứng viên đến từ các nước khác nhau. Phân nửa là các bạn người bản xứ. Hy vọng tràn trề là mình sẽ nhận được việc này vì mình quá kinh nghiệm và được đào tạo bài bản, tôi cố gắng thể hiện hết tất cả những gì có thể. Trong số các trailer, tôi và một bạn ở địa phương được đánh giá cao về ý tưởng, kỹ thuật dựng và xử lý hiệu ứng hình ảnh. Tôi cố gắng thuyết trình về bài tập của mình một cách súc tích và hiệu quả. May mắn tôi được công ty đánh giá cao và lọt tiếp vào vòng hai.
Bước vào phần thi thứ hai với In Design, một phần mềm chuyên dụng dành cho tạp chí. Tôi vẫn đang còn học phần mềm này trong khóa học của mình. Loay hoay như gà mắc tóc vì không rành về lĩnh vực này, bài kiểm tra của tôi bộc lộ hết những điểm yếu của một người không chuyên. Vẫn là anh bạn người bản xứ và hai ứng viên khác đến từ Ấn Độ hoàn thành bài tập của họ một cách xuất sắc. Người quản lý của Loungecraft nói với tôi vì đây là công việc cần người gấp và trả lương nên họ không thể chờ đợi và đào tạo.
Trên chuyến tàu về ga Flinder street, tôi suy nghĩ rất nhiều. Có lẽ nếu người Úc hoặc các nước khác đến, họ chỉ cần nỗ lực 100%. Riêng tôi phải nỗ lực đến 200% hoặc hơn thế thì may ra mới kiếm được công việc “cổ cồn trắng” ở Melbourne.
Lúc còn ở Việt Nam, tôi sống trong ảo tưởng rằng mình là người có kiến thức và giỏi giang. Nhưng thực tế từ khi qua Úc cho đến bây giờ, tôi vỡ ra nhiều điều. Nhược điểm lớn nhất của tôi và phần lớn du học sinh Việt nam tại Úc đó là khả năng giao tiếp tiếng Anh. Chúng ta kém nhiều so với các bạn đến từ nước khác ở Châu Á, thậm chí còn thua các nước Đông Nam Á. Người Việt hay chê Trung Quốc nói tiếng Anh kém nhưng các sinh viên Trung Quốc mà tôi biết nói tiếng Anh tốt không thua gì người bản ngữ. Họ rất siêng năng và có tư duy nhạy bén.
Tôi cố vớt vát bằng cách xin thực tập ở đó một thời gian để lấy kinh nghiệm và học hỏi. Chỉ sau một thời gian, tôi phải bỏ dở công việc thực tập vì chỉ tính việc đi lại từ nơi tôi ở đến Dandenong và ngược lại ngốn mất của tôi 5 giờ đồng hồ vàng ngọc. Đành lỡ hẹn chờ dịp khác tốt hơn.
Gạ tình, lừa tiền trên Gumtree
Mặc dù cô bạn nhỏ của tôi nhiều lần cảnh báo về việc gạ tình lừa tiền trên Gumtree nhưng tôi vẫn kiên trì tìm việc ở trang web này. Thực ra tôi cũng muốn kiếm thêm chút tiền nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hòa mình vào cuộc sống của Melbourne để khám phá nó.
Kích vào mục tìm người giúp việc (cleaner), tôi đọc được mẫu quảng cáo cần tìm người cho một người đàn ông độc thân bận bịu ở khu South Melbourne. Việc làm 3 giờ một ngày, tuần làm một lần. Tiền công 12 đồng một giờ kiêm thêm chi phí đi lại. Nghe cũng ổn, tôi viết mail cho người đàn ông này. Ông ta, Errold hồi âm và hẹn gặp tại nhà để chuẩn bị cho công việc. Đó là một căn phòng bừa bộn và cực kỳ luộm thuộm. Nếu như dọn dẹp sạch sẽ và gọn gàng chắc phải mất 5 tiếng đồng hồ. Cuộc gặp chóng vánh trôi qua, tôi nhanh chóng được ông ta ưu ái cho nhận việc.
Ngày đầu tiên, ngày thứ hai rồi ngày thứ ba trôi qua, Errold ở nhà nói chuyện với tôi. Errold bảo do công việc ngập đầu ngập óc cho nên đến ngần này tuổi ông vẫn chưa kết hôn. Ông ấy bảo đã vài lần qua Việt Nam, thích các món ăn Việt và rất ngưỡng mộ phụ nữ Việt. Rồi, Errold chùng giọng bảo tôi có việc muốn nói. Tim tôi đập loạn xạ, tôi sợ có việc không hay sẽ xảy ra với mình trong căn hộ này. “Tôi không muốn làm em hoảng sợ nhưng thú thật là tôi rất thích em. Tôi muốn em là người phụ nữ của tôi ở Úc. Tôi biết em có gia đình và vì thế em hãy giữ bí mật về điều này. Tôi sẽ cung cấp tiền cho em hàng ngày để ăn ở và đi lại”, Errold nói.
“Không bao giờ”. tôi mím môi. “Tôi không cần ai nuôi. Tôi có tiền. Tôi chỉ đi làm cho vui. Tôi không muốn phản bội chồng tôi.” Tôi định nói với Errold là nếu ông ấy đi quá xa tôi sẽ báo với cảnh sát vì tội quấy rối tình dục. Công việc cleaner của tôi nhanh chóng kết thúc chỉ vỏn vẹn trong ba ngày. Nhưng tôi vẫn tiếp tục tìm việc trên Gumtree. Tôi không hiểu vì sao Gumtree lại có sức hấp dẫn với tôi đến thế.
Một mẫu quảng cáo khá kêu đập vào mắt tôi. Một gia đình có con nhỏ đang tìm người giúp việc một ngày một tuần với giá 38 đồng một giờ. Làm phép tính nhanh, một ngày tôi có thể kiếm được 304 đồng, cao hơn lương nhân viên công sở, nếu được gia đình kia đồng ý. Thư xin việc nhanh chóng được gởi đi và cũng chóng nhận được hồi âm. Trong thư gia đình ấy bảo là họ rất lưu ý đến thư xin việc của tôi và đề nghị tôi gửi CV.
Tôi mừng rỡ khoe với cô bạn nhỏ cùng phòng cơ may của mình khi gia đình kia báo là họ sẽ nhận tôi làm người giúp việc. Họ bảo tôi rằng em họ của gia đình sẽ gọi cho tôi đến dọn dẹp trước ở căn hộ của họ trên đường Lonsdale một tuần nữa. Họ sẽ về nước vào giữa tháng Tư để sinh con. Vì phải trả tiền hàng tuần cho tôi qua tài khoản ngân hàng nên họ yêu cầu tôi gởi cho họ thông tin chi tiết về tài khoản ngân hàng. Họ cũng tha thiết muốn có bức hình của tôi để họ có thể biết mặt ai sắp làm việc cho họ.
Khó tả nổi niềm vui sướng của tôi khi đọc thư. Nếu được việc, tôi sẽ kiếm 1.200 Úc kim một tháng. Việc nhẹ, lương cao. Thỏa sức ăn chơi nhảy múa. Chia sẻ với cô bạn cùng phòng liệu có nên cung cấp chi tiết tài khoản của mình cho gia đình kia không, cô bạn đề nghị nói họ trả luôn tiền mặt. Tự nhiên tôi thấy chột dạ. Tôi nhớ loáng thoáng đâu đó trên Gumtree khuyên các ứng viên là không nên cung cấp thông tin tài khoản của mình cho bất cứ ai ở trên mạng. Tôi vội vàng kiểm tra lại, tá hỏa phát hiện ra Gumtree khuyến cáo không được cung cấp thông tin tài khoản cho bất cứ ai nếu chưa gặp mặt và nhận được việc làm.
Phúc đáp gia đình đó, tôi viết rằng không thể đưa họ thông tin tài khoản. Họ đang vi phạm luật chơi và tôi sẽ báo cáo lại điều này với Ban quản trị của Gumtree. May mắn cho tôi, tiền vẫn còn nguyên trong tài khoản.
Đôi lúc tôi cảm thấy mình chật vật để thích ứng với nhịp sống nhanh và hối hả ở Melbourne, cảm thấy khó nuốt với nền văn hóa đa sắc tộc này. Thế nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn với tất cả các cung bậc thăng trầm vốn có của nó. Tôi vẫn đi học, đi làm, dù làm những việc tay chân. Vui vì mình có việc và hái ra tiền. Chạnh lòng vì mình vẫn chưa bước chân vào được thế giới “cổ cồn trắng” của Mebourne. Một viên chức nhà nước Việt Nam với công việc tốt, có vị trí xã hội, nhưng, không len chân nổi vào xã hội “Tây” vì rào cản ngôn ngữ, IT thấp và chuyên môn kém cỏi của mình.
Trở về nhà sau một ngày làm việc cho hãng di dộng LycaMobile, từ stop 124 B của tram 96, tôi lang thang dọc theo sông Yarra để ngắm cảnh hoàng hôn đang buông phủ xuống thành phố. Một đám đông hiếu kỳ đang vây quanh bên bờ sông. Thì ra là kíp quay phim của hãng truyền thông nổi tiếng ABC của Úc chuẩn bị phỏng vấn trực tiếp một nhân vật nào đó của Quốc hội cho bản tin chiều của họ. Mắt tôi mờ đi, máu hừng hực chảy trong huyết quản. Đây chính là công việc tôi đang học, đam mê và thử vận may. Nhìn ê-kíp quay phim chạy lăng xăng để lấy bối cảnh phỏng vấn, tôi lại nhớ công việc của mình ở Việt Nam.
Trong suốt học kỳ 1, tôi cũng từng vác máy quay phim, đi làm phóng sự truyền hình khắp nơi ở Melbourne. Một người bản xứ trong lần phỏng vấn đã nói tôi rằng ông ấy tin tôi có khả năng làm việc ở đây. Vì tất cả những gì tôi đang làm thể hiện lòng nhiệt tình và say mê. Nhưng nhiệt tình và say mê thì vẫn chưa đủ. Những gì nước Úc cần còn là tính chuyên nghiệp, kỷ luật cao và tận tụy trong công việc. Tôi chợt thấy tiếc thời gian mình đã phí phạm trong suốt hơn chục năm kể từ khi tốt nghiệp ở Việt Nam. Bệnh ì, lười học hỏi và quan liêu trong nghề nghiệp đã hạn chế tôi quá nhiều trong hành trình tìm việc phù hợp ở xứ người. Ở Úc, cơ may hoàn toàn không mỉm cười với kẻ bất tài, lười biếng.
Tôi đứng vô hồn trên mố cầu treo bắc ngang dòng sông Yarra, con sông xinh đẹp không kém gì sông Seine hay Danube chảy qua thành phố Melbourne. Xa xa kia là sòng bài hoàng gia Crown, tòa nhà chọc trời Ereka Skydeck, nơi làm việc của tập đoàn truyền thông ABC, trụ sở tạp chí nổi tiếng “The Herald Sun”. Giọt nước mắt nóng hổi chợt lăn thầm trên má. Một cơn gió nhẹ thổi qua. Gió đưa giọt nước mắt kia hòa xuống dòng sông Yarra hay thổi nó đi ở một phương trời vô định nào?
(Theo Thùy Mai/ Nhịp Cầu Thế Giới)

Saturday, September 13, 2014

Nước Úc đang giãy chết... he he!

Nước Úc: 14 điều đáng ngại
Ls Phạm Duy Khương/ baouc.com  
Ảnh Internet
NQL: Sống quen với xứ sở hạnh phúc nhất thế giới, nếu sang Úc bạn sẽ gặp ít nhất 14 điều rất khó chịu. Thật đấy, he he!

Bạn tôi vẫn hỏi là Visa vẫn còn sao không ở lại Úc thêm, tôi thì nghĩ thế là đủ. Nước Úc có gì đâu, toàn những điều ngang trái. Ai dự định sang Úc thì phải cân nhắc thật kỹ. Chuẩn bị về rồi nên cũng không thấy có gì để mất nên viết liều
.
 1. Quan niệm về tình yêu và sex: ngược đời
  
Dạo này có đọc thông tin một bạn trẻ gì đó của Việt Nam tự tin, hiên ngang tuyên bố 27 tuổi tự hào vẹn tròn trinh tiết. Nếu ở Úc thì suỵt, bạn nói nhỏ chuyện này thôi, hoặc nếu nói thì bảo mình 18 đôi mươi thôi. Thanh niên Úc thiếu thực tế lắm, họ chẳng thèm cân đo vấn đề này đâu. Thậm chí sẽ tỏ ra rụt rè nếu biết thông tin này. Tôi từng hoảng hốt khi mấy anh bạn Úc bô bô cái mồm là trước khi trở thành bạn gái tao, nàng từng yêu 2-3 anh và anh nào cũng có màn ngủ thân mật.
2. Hệ thống giao thông thật nhức mắt
Một hệ thống giao thông thừa chữ đến mức chỗ nào cũng thấy biển nhắc nhở quy định về tốc độ cho phép từng đoạn, chỗ được phép đậu xe chi tiết từng mét một, thời gian đậu xe. Nhắc nhiều và chi tiết như vậy thì người ta học và nhớ luật làm gì nữa. Chưa kể, làm giảm ngân sách khi nơi nào có gắn camera bắn Tốc độ, phạt vượt đèn đỏ, rẽ trái phải đều gắn cảnh báo từ trước đó 100-200m. 
3. Kiến trúc nhà cửa: quá nguy hiểm
 
Nhà thiết kế không đâu vào đâu cả, đầy tính rủi ro. Nhìn đâu đâu cũng thấy những ngồi nhà vườn rộng, rào thưa và thấp, cửa kính thông thoáng. Thiết kế như vậy để mời trộm vào nhà.
4. Thầy giáo: rất đáng quan ngại
Giáo sư, tiến sĩ sao lại nói với học sinh hồn nhiên đến vậy. Cứ để học sinh ăn mặc áo ba lỗ, thiếu vải, quần đùi đến lớp. Chưa kể lại hay ăn quà trong lớp, vừa ăn nhồm nhoàm vừa trả lời thầy. Thầy cũng chẳng vừa khi ngồi lên bàn, chân đưa lên ghế, đôi khí chấm phá bằng dáng người vừa bước vào lớp vừa ăn chuối.
5. Cuộc sống sinh viên
 Cuộc sống sinh viên thật khổ hết đường nói. Ở nhà đang là cành vàng, lá ngọc, cơm bưng, nước rót. Ấy vậy mà sang đây việc gì cũng kinh qua từ làm nấm, dọn vệ sinh, rửa bát, phục vụ bàn, một thời gian thì tuyên bố không cần bố mẹ cho tiền ăn, tiền nhà nữa. Làm thế bố mẹ buồn chết.
6. Xăng xe: rất mất ổn định
Đây là nguồn hàng thiết yếu thì phải ổn định thì lại cứ sáng nắng, chiều mưa. Rất là gây ức chế. Vừa mua hôm qua với giá $152/100 lít thì đùng cái hôm nay nhảy xuống $138/100 lít; ngày kia lại xuống $135/100 lít. Chưa kể, vừa mua ở trạm xăng này với giá $155/100 lít, đi được mấy trăm mét thấy trạm xăng khác giá rẻ hơn. Nghĩ mà tiếc.
7. Lý tưởng: thiếu
Gia đình Úc không biết tạo lý tưởng cho con cái. Họ không làm được cái như cha mẹ Việt Nam là mong con mình trở thành ông A, bà B. Họ không bảo con họ là học đi không thì sau này về làm công nhân, làm ruộng bởi nếu làm mấy cái đấy thì họ cũng thừa sống rồi. Thanh niên Úc cũng không quá mơ mộng về chính trị, họ suy nghĩ giản đơn lắm.
Gần đây cũng thấy ý kiến quan ngại là Việt Nam đang hình thành một lớp người lớn chưa trưởng thành khi 30 tuổi vẫn phải xin tiền bố mẹ để nuôi con mình. Úc tệ hơn, lớp người lớn 30 hoặc trên 30 chưa trưởng thành nhiều hơn nhiều, họ vẫn phải xin tiền nhà nước hàng tháng để nuôi con và bản thân mình. Cứ vậy bao giờ mới lớn chứ.
8. Không còn câu chuyện cổ tích
Thỉnh thoảng thấy báo Việt Nam có bài giới thiệu về các bác đại gia Việt Nam thường biết vượt lên hoàn cảnh khi trước đây phải làm phục vụ trong nhà hàng, chạy xe ôm, nuôi lợn. Những cái này mà giật tít bên Úc thì chẳng ai để ý vì thực chất một lượng lớn thanh niên Úc khi còn học cấp III hoặc đại học đều phải tự lập và bắt đầu kiếm tiền từ việc đứng bàn, rửa bát, phục vụ tại các quán đồ ăn nhanh, đưa pizza... Những người này không biết xấu hổ khi suốt ngày huyênh hoang kể về các công việc này. Thỉnh thoảng lại cười sung sướng. Đến là chịu với suy nghĩ ngược đời.
9. Đất: hoang phí
Kiến trúc hiện đại thì nhà nhà phải mọc lên, nhà máy, xí nghiệp khắp nơi. Như vậy mới không thấy phí đất đai. Nhìn Úc xem, thật là lãng phí, một vùng rộng lớn toàn cây cối, cỏ và chăn nuôi gia súc. Nhìn mà tiếc, mình mà được quy hoạch thì biến hết thành đất ở, khu công nghiệp.
10. Trẻ nhỏ: quá mạo hiểm với sức khoẻ
Trẻ nhỏ vừa khi mới sinh hoặc còn nhỏ là cần được chăm sóc, giữ gìn cẩn thận khỏi nắng, gió và bụi bẩn. Ngược đời ở Úc khi tôi thường bắt gặp trong các chuyến đi chơi xa hình ảnh những ông bố, bà mẹ mang con còn đỏ hỏn nằm trên đồi gió, lang thang trên biển. Làm vậy các cháu bị cảm nắng, cảm gió thì sao. Tiếp, trẻ nhỏ cho đi nhà trẻ là vấn đề hết sức nguy hại khi thấy các trò toàn tiếp xúc với cát, đất, cây cối. Về đến nhà nhìn mặt mũi, quần áo bám bẩn thôi rồi. 
11. Vai trò đàn ông: tệ hại
Ở Việt Nam đàn ông sướng, sang đây cứ cạnh tranh với hết cái này đến cái kia mới được lưu ý. Đàn ông xếp sau trẻ nhỏ, đàn bà và ... chú chó đốm. Chưa kể, tôi thường bắt gặp những ông bố túi trước, túi sau đi trên đường, đi chợ, trong mỗi túi là một bé. Nhìn thương lắm. 
12. Động vật: tình yêu động vật biến mất
Tôi vẫn thường có thói quen ngắm những chú chim trong lồng, trong vườn, trên cây khi ở Việt Nam. Tuy nhiên, thỉnh thoảng mới thấy nên lúc trước cứ thấy chim là tôi ngắm lấy được, chỉ ước tóm được một chú làm của riêng. Cái cảm giác này không còn khi hàng ngày phải nhường đường, phải tránh bom rơi từ chim. Chim chỗ nào cũng thấy, nhiều lúc doạ để chúng bay đi mà vô tác dụng. Tự nhưng tình yêu chim biến mất nhẹ nhàng như thế.
Tiếp đến, tôi cũng có thói quen khi tức cái gì thì đá thụng, đụng nia. Nạn nhân thường là con chó. Bên này nhiều lúc ức chế muốn đá cho con chó một cái nhưng chỉ sợ đá xong ức chế không hết mà lại đóng thêm tiền phạt. Và nữa, anh nuôi chó anh có thể nhịn đói nhưng để chó nhịn đói thì...
13. Xe oto: 
Oto không còn là cái thể hiện sang chảnh nữa. Vậy thì đầu tư xe siêu sang làm gì khi nhà nhà oto, không ai quá chú trọng người kia đi xe gì. Thị trường mua bán oto thì tệ hại vô cùng. Việc mua bán oto đơn giản như mua một mớ rau. Việc đặt biển số xe của Úc cũng buồn cười. Ai cũng có thể nghĩ ra biển số và đề nghị cơ quan chức năng cấp theo như vậy. Ví dụ như SKU, LOVE, hihi, hana xyz. Làm như vậy thì biển số đẹp còn gì có ý nghĩa nữa. Gu thẩm mỹ kém thật.
14. Xếp hàng
 
Từng nghe thời bao cấp của Việt Nam thì hình ảnh xếp hàng nhận phần của mình là phổ biến. Ở Úc chắc giống Việt Nam thời lạc hậu ấy, đâu đâu cũng thấy người ta xếp hàng. Ở đời có hai cái không nên cản đó đói và buồn đi vệ sinh. Nhưng Úc lại làm chận cái quyền đó khi đến việc đi vệ sinh hoặc uống cốc cà phê, ăn cái bánh mà cũng phải xếp hàng. 
Còn nhiều điều nữa mà tôi cũng không nghĩ được ra hết trong một lúc như thế này. Cứ để bao giờ có thời gian thì lại bổ sung tiếp vậy. 
Nguồn: Facebook Luật Sư Pham Duy Khuong ( Du học sinh tại Melbourne)
Theo baouc.com