Showing posts with label đại tá mạch văn trường. Show all posts
Showing posts with label đại tá mạch văn trường. Show all posts

Friday, November 13, 2020

 QK 4 VẪN ANH DŨNG CHIẾN ĐẤU CHO TỚI KHI CÓ LỊNH ĐẦU HÀNG OAN NGHIỆT 

Lời nói đầu: Trong tinh thần LUÔN LUÔN NHỚ ƠN các chiến sĩ VNCH đã hy sinh để cho chúng ta có cuộc sống bây giờ, hôm nay tôi xin gửi đến các bạn bài chuyển ngữ về các chiến công anh dũng của quân đoàn 4 và của tỉnh Long An thuộc quân đoàn 3 khi đánh trả và gây thiệt hại nặng cho quân xâm lăng CSBV gồm các sđ 5, sđ 303, sđ 4, và sđ 8; đặc biệt tại tỉnh lỵ Tân An, quận lỵ Thủ Thừa và Tân Trụ, các đv ĐPQ và NQ tại đây đã chống trả ngoan cường trước các đợt tấn công và gây thiệt hại nặng cho địch...

Sau đây là phần chuyển ngữ.

...

Quân Khu 4 VNCH Giữ Vững Tay Súng

"Sau khi tướng CSBV Trần văn Trà nhận lịnh mới từ tướng Võ nguyên Giáp, ông đã gửi sđ 5 csbv tới tỉnh Long An. Sau ba ngày vất vả vượt qua (tramp) những kinh đào và ruộng lúa, một trung đoàn (tr.đ.) của sđ này đã tới khu vực tập trung gần Tân An, tỉnh lỵ của tỉnh Long An. Tr.đ. thứ hai sẽ tấn công Thủ Thừa, phía bắc của Tân An. Tr.đ. thứ ba làm trừ bị gần Tân An. Đoạn đường này của quốc lộ 4 (QL-4) nằm giữa sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Một mạng lưới các kinh cắt ngang vùng đất này. Nếu quân csbv chiếm được TÂN AN và những cây cầu trên QL-4 bắt ngang hai sông Vàm Cỏ này, họ sẽ cắt đứt (sever) Sài Gòn từ vùng Châu Thổ và khó đánh bật (dislodge) họ. 

Để hỗ trợ những cuộc tấn công chánh vào Xuân Lộc và dọc theo QL-4 này, vào hừng đông của NGÀY 7 THÁNG 4 1975, sđ 303 csbv đã mở một loạt tấn công NGHI BINH (diversionary) gần Mộc Hóa, nhưng chỉ gây ảnh hưởng nhỏ bé. Tại quân khu 3, đặc công đã pháo kích sân bay Biên Hòa bằng hỏa tiển 122 ly ngày 8/4, chỉ gây thiệt hại nhẹ. Tại Tây Ninh, quân csbv tấn công Lữ đoàn 3 thiết kỵ của chuẩn tướng Trần quang Khôi, cũng chỉ gây thiệt hại nhẹ. Dù khẳng định (conviction) của Trà rằng mọi tấn công sẽ khiến nam VN sụp đổ, QLVNCH đã dễ dàng đẩy lui những đột kích yếu ớt này.

Sau khi đã tới vị trí đã định, sáng sớm NGÀY 9 THÁNG TƯ hai tr.đ. của sđ 5 csbv đã tấn công lực lượng ĐPQ giữ Thủ Thừa và Tân An. Một thành phần csbv khác tạo chướng ngại trên QL-4 (có lẽ là thuộc quận Bến Tranh tỉnh Định Tường -- Người dịch) gần ranh giới giữa hai tỉnh Long An/Định Tường để ngăn viện quân của sđ 7 VNCH tiến lên từ phía nam. Mục tiêu của cs tại Tân An là chiếm sân bay và tiến nhanh vào tp này. Khi bình minh ló dạng, các đv của cs đã xuất hiện và chiếm một phần nhỏ của sân bay nhưng phải ngừng lại vì DPQ chống trả QUYẾT LIỆT. Vì bị kẹt ở giữa đồng trống và ko thể tiến lên, các đv csbv này đã phơi mình cho pháo binh nên phải nhanh chóng rút lui. Đơn vị ĐPQ đã phản công, và vào giữa chiều (midafternoon) bắc quân đã bị thiệt hại nặng, để lại 100 XÁC TẠI TRẬN.

SĐ 7 của VNCH đã nhanh chóng đáp trả cuộc tấn công này. Tăng cường bởi chi đoàn M-113 và đại đội trinh sát của sđ, tr.đ. 12 của sđ 7, chỉ huy bởi ĐT Đặng Phương Thành, đã nhanh chóng di chuyển từ một vị trí trong tỉnh Định Tường ở phía nam để đến Tân An. Vượt qua biên giới giữa hai quân khu 3 và 4 là chuyện hiếm xảy ra, nhưng theo tham mưu trưởng (TMT) của sđ 7, "Vì Long An gần sđ 7 hơn là đv chủ quản của họ là quân khu 3 tại Biên Hòa, nên chúng tôi đã đc phép trước là phối hợp và cung cấp hỗ trợ cần thiết cho tỉnh này."

Sau khi phá bỏ chướng ngại đã kể trên QL-4, tr.đ. 12 đã tiếp tục tiến về phiá bắc và giao chiến với hậu quân của sđ 5 csbv. Trong VÒNG BỐN NGÀY, quân VNCH đã đánh nhiều trận với HAI TR.Đ. của sđ 5 csbv, và hoàn toàn đánh tan (shatter) một tr.đ. . 

Tổn thất của cs rất cao: BỐN ĐẾN NĂM TRĂM TÊN BỊ GIẾT, 30 BỊ BẮT SỐNG và nhiều vũ khí bị tịch thu. Lính csbv phần lớn là CHƯA TỚI 18 TUỔI (teenager), vừa mới xâm nhập vào nam VN. Sợ hãi, chưa quen với địa thế, và huấn luyện sơ sài, họ đã làm mồi cho các lực lượng đpq Long An và chánh qui VNCH. Nhưng chiến thắng nào cũng phải trả giá: tr.đ. 12 của sđ 7 có 37 chết và 90 bị thương.

Kết quả cũng như vậy tại THỦ THỪA. TP quan trọng này chỉ bảo vệ bởi Nghĩa Quân (NQ). Nghĩ rằng đây là mục tiêu dễ dàng, CS chỉ gửi một đv nhỏ đặc công cho cuộc tấn công đầu tiên. Đặc công tiến vào trước bình minh, xâm nhập qua chợ quận và cố gắng tràn ngập bch chi khu bằng một cuộc đột kích. Họ đã canh giờ để tránh đại đội (đ.đ.) giang thuyền của tỉnh Long An - thường chỉ trở về căn cứ sau lúc mặt trời mọc, sau khi tuần tiểu đêm. Nhưng xui cho họ, sáng hôm đó, đoàn tàu đã về sớm hơn. Bắt gặp các đặc công giữa đồng trống, đại liên trên các tàu đã hạ gần hết các đặc công, trừ vài tên lọt vào tp, nhưng bị cảnh sát đẩy lui. Sau trận này, tiểu khu trưởng tăng cường cho Thủ Thừa hai TĐ ĐPQ.

NGÀY KẾ, vị chi khu trưởng đã ra lịnh cho các tàu này phải dấu kín trong một kinh nhỏ gần đó, trong khi ông dùng ĐPQ để hành quân tìm kiếm quân cs. Khi họ lục soát những cánh đồng ruộng khô nứt, đột nhiên họ bị tấn công dữ dội bởi một đv lớn của cs. Đó là tr.đ. TRỪ BỊ của sđ 5 csbv. ĐPQ rút ra bờ kinh, nhưng họ bị ghìm chặc (pin down) bởi hỏa lực địch và chờ hủy diệt. Chi khu trưởng đã nhanh chóng dùng các tàu kể trên phản công, ông kể lại:

Sau khi bắn dọn đường bằng vũ khí nặng, cộng quân bắt đầu tấn công chúng tôi. Họ xuất hiện đầy đặc khắp cánh đồng mênh mong để tấn công biển người... Khi tôi ra lịnh, các giang thuyền của chúng tôi... đã hăm hở nhập cuộc (enter the fray). Tôi đã ra lịnh rõ ràng: "Di chuyển tới lui trên sông và bắn liên tục." Sáu tàu tuần giang với 3 đại liên mỗi tàu, mỗi khẩu có thể bắn 350 viên một phút. Các tàu này đầy đủ đạn dược. Sáu tàu đổ bộ khác với 18 đại liên và bắn gần 6.000 viên phút. Đ.đ. giang thuyền xung phong được lịnh rằng nếu tàu nào bị chìm do B-40 thì bỏ luôn. Không tàu được ngừng để cứu nó. Mỗi tàu phải tiếp tục bắn tới khi địch bị đẩy lui. Địch quân lúc đầu tưởng đã thắng lợi, nào ngờ đột nhiên bị tấn công dữ dội bởi đoàn tàu này. Bọn chúng đã phản ứng nhanh chóng bằng cách bắn B-40 và B-41 và súng cối các loại vào các tàu, tạo những cột nước trên sông. Rất may các tàu đều di chuyển nên ko chiếc nào trúng đạn và đoàn tàu đã ngăn được cuộc tấn công ồ ạt này vì họ đã tạo một bức tường lửa... Một số địch quân sống sót, rút ra xa. Họ đã ko thể thu hồi xác của đồng chí, nằm rải rác trên cánh đồng ruộng khô.

Cuộc tấn công này đã gây thiệt hại nặng cho bắc quân. Cơ quan tùy viên quân sự của Mỹ hay DAO báo cáo 120 QUÂN CSBV bị giết, nhưng địch quân ko rút lui. Họ đã bắt đầu tấn công các tiền đồn nhỏ của NQ chung quanh quận lỵ Thủ Thừa, trong khi dùng đại bác để tấn công lực lượng phòng thủ của quận lỵ này. Dù quyết tâm sắt đá của DPQ/NQ Long An, vòng vây của quân csbv đã từ từ siết chặt chung quanh quận lỵ Thủ Thừa. 

Bắc quân cũng định mở các cuộc tấn công lớn để chiếm Cần Thơ, thủ phủ của vùng Châu Thổ (còn gọi là Hậu Giang) và cũng là nơi đặt BTL quân khu 4 (QK-4), nhưng tình báo VNCH đã khám phá những kế hoạch này. NGÀY 1 THÁNG 4, tình báo QK-4 đã bắt được mật điện rằng bắc quân sẽ tấn công trong tháng tư. NGÀY KẾ, vnch còn biết thêm rằng một tr.đ. quân địa phương sẽ phối hợp với ba tr.đ. của sđ 4 csbv tấn công Cần Thơ và chiếm tp này. Sau đó vnch đã phát hiện sđ này chuyển từ Rừng U Minh. Một mật điện khác ra lịnh cho QK-9 của CS phải tấn công ko trể hơn NGÀY 8 THÁNG TƯ.

Dựa vào tin này, TL QK-4, tướng Nguyễn khoa Nam, ra lịnh cho sđ 21, đang hành quân dọc theo rìa của Rừng U Minh, lập tức rút về bảo vệ Cần Thơ. SĐ này có ba tr.đ.: 31, 32, và 33. SĐ cũng có Thiết đoàn 9 cơ hữu, gồm toàn M-113. Nam đã tăng phái cho SĐ này tr.đ. 11 của sđ 7, và tr.đ. 63 bộ binh MỚI THÀNH LẬP, lấy từ lính ĐPQ của tỉnh An Giang. Tất cả pháo binh gần đó và pháo binh diện địa (ý nói pháo binh của tiểu khu), đều đc lịnh phải hỗ trợ hỏa lực cho sđ 21. 

ĐT MẠCH VĂN TRƯỜNG, TL sđ 21 là một trong những cán bộ đầu tiên khi lập sđ vào 1959, ông từng chỉ huy tr.đ. 8 của sđ 5 VNCH tại An Lộc 1972, và từng là tỉnh trưởng Long Khánh. Trường làm TL của sđ 21 tháng 10/74 khi tướng Lê văn Hưng làm TL phó QK-4. 

Để chặn bước tiến của địch, Trường đã bố trí tr.đ. 32 cơ hữu và hai trung đoàn tăng phái là 11 và 63, cùng với các lực lượng DPQ, tại các phòng tuyến vững chắc DỌC THEO XA LỘ đi vào Cần Thơ, mà CS gọi là ĐƯỜNG VÒNG CUNG (Arc Road). Ông giữ một tr.đ. thứ hai làm trừ bị, và kết hợp Thiết đoàn 9 và tr.đ. 33, đều thuộc sđ 21 thành Lực lượng Đặc Nhiệm 933. Ông đã đặt lực lượng (LL) này nằm ngoài các phòng tuyến của ông như là một LL CƠ ĐỘNG có thể tấn công vào HẬU QUÂN của địch và ngăn chận viện quân từ bên ngoài vào khu vực. Theo Trường, "VÀO TỐI 8 THÁNG 4, sđ 4 csbv đã tới Đường Vòng Cung và bí mật vượt sông (họ phải vượt sông từng người, nên chỉ có thể mang theo vũ khí nhẹ). Họ đã tấn công NGAY TRƯỚC BÌNH MINH. Từ phòng tuyến vững chắc đã mô tả ở trên, các đv của chúng tôi đã chống trả dữ dội, kết hợp với những tác xạ tiên liệu của pháo binh đã ngăn những tấn công của csbv. Kế đó trực thăng võ trang và oanh tạc cơ của KQ từ sân bay Trà Nóc và Bình Thủy đã ném bom và bắn phá khu vực này. Ở bên ngoài Đường Vòng Cung, LL Đặc Nhiệm 933 đã ngăn chận mọi viện quân của csbv. Địch quân đã đào hầm hố và chống cự suốt CẢ NGÀY dưới hỏa lực liên tục của pháo binh và KQVNCH... Họ đã bị thiệt hại nặng. NGÀY 10 THÁNG TƯ, Phòng 2 (Tình báo) của QK-4 đã bắt được mật điện từ Trung Ương Cục Miền Nam và QK-9 ra lịnh cho sđ 4 CSBV rút lui."

Sự chống trả mãnh liệt này của VNCH đã khiến hơn 400 QUÂN CS CHẾT VÀ BỊ THƯƠNG. Tài liệu nội bộ của CSBV đã nhận định, "việc chúng ta gửi một lực lượng lớn xuyên qua phòng tuyến Đường Vòng Đai và sau đó rút họ về đã tạo một ảnh hưởng xấu đối với sức chiến đấu của các chiến sĩ... các vị trí pháo binh của địch đã pháo liên tục các tr.đ. của sđ 4. Dự trữ đạn dược của chúng ta xuống thấp và chúng ta ko thể khống chế hỏa lực pháo binh của địch (vào lúc này kho đạn của QK-9 chỉ còn 10 tấn đạn cho mọi loại súng). NGÀY 15 THÁNG 4, ... Đảng Ủy QK đã họp để đánh giá tình hình. Đảng ủy đã kết luận... rằng địch đã quyết tâm giữ Cần Thơ và chúng ta chưa thể phối hợp cuộc tấn công Cần Thơ... với tấn công chiếm Sài Gòn... NGÀY 18 THÁNG 4, QK-9 nhận lịnh từ Trung Ương Cục ngưng tấn công cho tới 26 THÁNG TƯ." 

Trước các thất bại (setback) của sđ 4 và 5, QK-8 của cs đã mở nhiều cuộc tấn công để thu hút quân vnch ra xa QL-4. NGÀY 13 THÁNG TƯ, hai tr.đ. của sđ 8 csbv và hai TĐ địa phương của Long An đã tấn công TÂN TRỤ, một quận lỵ quan trọng ở đông của tỉnh lỵ Tân An nơi mà sông Vàm Cỏ Tây và Vàm Cỏ Đông gặp nhau. TRONG BỐN NGÀY nghĩa quân anh dũng ở đây, yểm trợ bởi nhiều phi xuất của KQ và một tiểu đoàn DPQ của Long An, đã đẩy lui cộng quân.  Để hỗ trợ NQ, tướng Nguyễn văn Toàn đã ra lịnh cho các thành phần của sđ 22 bb, vừa mới gửi tới, giúp bảo vệ Tân Trụ. Dù sđ 22 chỉ còn là cái bóng của chính nó, một trong những tr.đ. tân lập của sđ này đã nhanh chóng đẩy lui quân csbv. Sau khi ko thể chiếm được phần đất nào của Long An, sđ 8 bỏ cuộc và rút về phía bắc, tới nơi tập trung quân gần Sài Gòn NGÀY 25 THÁNG TƯ.

Dù cho bắc quân bị thiệt hại nặng, cuộc chiến trên QL-4 chưa hết. Để giúp lực lượng vnch tại vùng Châu Thổ, Đô đốc Chung Tấn Cang đã ra lịnh cho LL Đặc Nhiệm 99 di chuyển về phía nam để kiểm soát các thủy lộ của khu vực Tiền Giang. NGÀY 16 THÁNG 4, hải quân ĐT Nguyễn hữu Dõng, TL của LL này cho đoàn tàu hướng về tỉnh Long An. Đoàn tàu đã giúp đẩy lui quân cs tại Tân Trụ, nhưng chiến thắng lớn nhứt đã đến NGÀY HÔM SAU. Khi chạy trên sông Vàm Cỏ Tây tới kinh Thủ Thừa, LL đã tình cờ gặp (stumble onto) MỘT ĐV LỚN CỦA CS ĐANG TẮM TRÊN SÔNG. Các tàu của Dõng lập tức tấn công. Hỏa lực của đại liên đã phun ra (spurt) từ sàn tàu, quét mạnh trên sông, nhưng bọn CS trên bờ đã nhanh chóng bắn trả. Đạn B-40 và cối bắt đầu rơi xuống nước. Và Dõng ra lịnh cho hai tàu phun lửa, có biệt danh là Zippo: khạc ra lửa, hai tàu này đã thiêu cháy hàng chục Bắc quân. Bọn còn sống trốn chạy trong hoảng loạn, để lại hàng chục xác chết cháy đen nổi trên sông. TRONG TUẦN KẾ, LL của Dõng đã chiến đấu mỗi ngày, đã hạn chế nghiêm trọng mọi cố gắng tiếp tế của bắc quân, và ngăn ngừa chúng chuyển quân dễ dàng dọc theo các kinh rạch ở đây. Sau những thất bại liên tục này, quân csbv đã quyết định NGỪNG CÁC CUỘC HÀNH QUÂN ở QK-4 cho tới cuộc tấn công chánh vào Sài Gòn. Thiết kế của tướng Trà để cắt Sài Gòn với vùng Châu Thổ đã thất bại thảm hại. QL VNCH đã giữ vững vùng Châu Thổ Sông Cửu Long. 

...

Chuyển ngữ từ trang 402-407 của quyển Black April (Tháng Tư Đen) của tác giả George Veith. 

Dịch xong ngày thứ 5 12 Nov 2020.

Saturday, June 1, 2019

Xin Có Ý Kiến:
Cần xét lại cuốn sách
của Alan  Dawson về
“55 Ngày Đêm Miền Nam Sụp Đổ”
Ngc Hoài Phương


Ký giả Alan Dawson, trưởng phòng Thông Tấn UPI ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông đã viết quyển “55 Days: The Fall of South Vietnam”, Prentice Hall xuất bản năm 1977, dày 366 trang, giá 12.50 Mỹ kim. Quyển sách đó có những điểm sai lầm nhưng hình như chưa có bài viết nào phân tích trên báo chí Việt ngữ tại hải ngoại nên nó đã chìm vào quên lãng.
Nhân bài dịch của ông Hoàng Long Hải, đăng tải trên nhật báo Người Việt số 6698 (Thứ Sáu 9 tháng 4-2004) trong một đoạn trích dẫn cuốn sách “55 Ngày Ðêm Miền Nam Sụp Ðổ” của Alan Dawson, hình ảnh của Chiến Hữu Vương Văn Trổ được nhắc lại. Trung tá Vương Văn Trổ nổi danh người hùng của Quân Lực VNCH trong Ngũ Hổ Miền Tây. Sau ngày 30-4-1975, ông trải qua 13 năm trong lao tù Cộng Sản, hiện định cư tại Houston, Texas; trong khi đó, ký giả Alan Dawson cho khai tử.
Ký giả Ngọc Hoài Phương, Chủ Nhiệm tờ Hồn Việt, liên lạc với nhân chứng – cựu Trung tá Vương Văn Trổ, người đã bị Alan Dawson khai tử – dẫn chứng sự kiện cụ thể mà nhà báo kỳ cựu của UPI đã viết sai lệch. KBC Hải Ngoại)

Sau 13 năm tù cải tạo, và khi đặt chân tới Hoa Kỳ (HO-16 năm 1993) mới chợt khám phá ra là mình đã bị ông nhà báo Alan Dawson khai tử một cách nhục nhã từ cuối tháng 4 – 1975 trong cuốn sách mang tựa đề “55 Ngày Ðêm Miền Nam Sụp Ðổ”. Người bị nhà báo Alan Dawson “giết chết” một cách lãng nhách trên đây là Trung Tá Vương Văn Trổ, nguyên Tỉnh trưởng Kiên Giang kiêm Thị trưởng Rạch Giá.
Mặc dù đã gần ba mươi năm trôi qua, nhưng đối với ngày Quốc Hận 30 tháng 4-1975 vẫn còn là một vết thương nhức nhối không thể xóa mờ được trong tâm trí của người Việt tỵ nạn. Do đó hàng năm, cứ vào dịp này, cộng đồng người Việt ở khắp nơi thường tổ chức những buổi họp mặt để tưởng niệm ngày đau thương của dân tộc, ngày mà Miền Nam Việt Nam đã bị đồng minh bỏ rơi, bán đứng cho Cộng Sản.
Các cơ quan truyền thông, nhất là các báo Việt ngữ trong dịp này cũng thường có những bài đặc biệt liên quan đến biến cố lịch sử đó. Không phải chỉ riêng sách báo của Cộng Sản nặng phần trình diễn tuyên truyền, thiếu trung thực, còn cố tình xuyên tạc mà ngay cả một số nhà báo ngoại quốc khi viết về biến cố 30-4-75 cũng đã đưa ra nhiều chi tiết sai lạc, và tệ hại hơn nữa là có nhiều chi tiết cho người đọc có cảm tưởng là tác giả đã cố tình dựng đứng câu chuyện để bôi nhọ nhân vật được nhắc tới nói riêng và cả tập thể người lính Việt Nam Cộng Hòa nói chung như trương hợp ông Tỉnh trưởng Kiên Giang là một thí dụ điển hình.
Ðọc báo Người Việt số 6698 (Thứ Sáu 9 tháng 4-2004) trong một trích đoạn cuốn sách “55 Ngày Ðêm Miền Nam Sụp Ðổ” của Alan Dawson do Hoàng Long Hải dịch có đoạn ghi như sau:
“Tướng Nam ra lệnh cấm binh sĩ dưới quyền ông rời bỏ vị trí. Ông đến từng nơi lúc bấy giờ được coi như là “tuyến đầu” ra lệnh cho sĩ quan ở ngay vị trí. Ông ta bắn chết viên đầu tỉnh ở Sadec, phía Tây Cần Thơ vì ông nầy bỏ tỉnh di tản theo người Mỹ. Viên tỉnh trưởng tỉnh Kiên Giang ở trong vịnh Xiêm La không tuân lệnh cố thủ của ông, đã bỏ đơn vị lên thuyền chạy về phía Nam. Tướng Nam ra lệnh cho trực thăng đuổi theo và bắn chìm những tàu nầy”.
Sự thật thì đoạn văn trên đây hoàn toàn được viết theo óc tưởng tượng của ông nhà báo Alan Dawson vì ông Tỉnh trưởng Kiên Giang không bỏ đi và nhất là Tướng Nguyễn Khoa Nam, một vị tướng tài ba, một anh hùng của QLVNCH không bao giờ và không thể có những quyết định nông nổi thiếu suy nghĩ như điều Alan Dawson đã gán ghép. Ngay cả đối với địch quân, Tướng Nam cũng mang lòng nhân đạo ra đối xử thì không thể có chuyện ông ra lệnh cho trực thăng đuổi theo bắn chìm những tàu bỏ chạy. Người ta còn nhớ (theo lời kể của Trung Tá Vương Văn Trổ) ngày 25 tháng 2 năm 1975, lực lượng Tiểu khu Kiên Giang đã đánh tan một đơn vị Cộng sản, bắt sống 2 chiến binh CS bị thương nặng hấp hối. Biết chuyện này, Tướng Nam đã ra lệnh cho tiểu khu phải tải thương nhanh để cứu sống địch quân.
Ðể phản bác lại những điều Alan Dawson đã viết liên quan đến thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang ngày cuối tháng 4-1975, qua một cuộc điện đàm, Trung Tá Vương Văn Trổ cho biết: “Khoảng 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4-75, qua điện thoại, Tướng Lê Văn Hưng nhắc tôi rằng Tướng Nam chỉ thị phải cố gắng ngăn chận địch quân ngoài thành phố để tránh gây thiệt hại cho dân chúng. Ðến 6 giờ chiều cùng ngày, Tướng Nam còn chỉ thị tôi phải cố gắng lo cho dân chúng và binh sĩ”.
Với giọng buồn bã, Trung Tá cựu Tỉnh trưởng Kiên Giang nói tiếp: “Nhưng đến 9 giờ tối thì được tin Tướng Lê Văn Hưng đã tự sát và lệnh Quân Ðoàn cho Tiểu Khu buông súng. Tôi cho họp các cấp chỉ huy để thông báo tình hình, và đồng thời cũng loan báo chiến hạm Hải Quân đang chờ thân nhân ngoài khơi. Nhờ thông báo này mà một số cán bộ hành chánh, quân đội, dân chúng tại thị xã đã đem được gia đình ra đi an toàn. Riêng lực lượng Nhân Dân Tự Vệ vì không có hệ thống truyền tin nên đích thân tôi phải dùng xe chạy đi liên lạc. Trong lúc làm nhiệm vụ cuối cùng, tôi bị Cộng sản bắt lúc 12 giờ đêm ngày 30 tháng 4-1975 tại cầu số 2 trong thị xã Rạch Giá…”.
Ðược biết Trung Tá Tỉnh trưởng Kiên Giang vốn xuất thân từ khóa 10 trường Võ Khoa Thủ Ðức. Các chức vụ sau cùng của ông được ghi nhận: Tỉnh trưởng Sa Ðéc (1973-1974), Tỉnh trưởng Kiên Giang kiêm thị trưởng Rạch Giá (1974-1975). Ðầu thập niên 70, năm sĩ quan cấp tá được mệnh danh “Ngũ Hổ Miền Tây” của Quân Lực VNCH: nhất Kiệt, nhì Huy, tam Nam, tứ Trổ, ngũ Cẩn.
Trải qua 13 năm tù từ Nam ra Bắc và cuối cùng chuyển về trại Xuân Lộc (Long Khánh) rồi được phóng thích năm 1988. Ông rời Việt Nam qua Hoa Kỳ theo diện HO 16 và định cư tại Houston, Texas từ 1993 đến nay…
Tháng Tư năm 1999, sau khi đọc bài “Chân Dung Người Lính VNCH” của nhà báo Sơn Tùng trên tờ Diễn Ðàn Hiệp Lực ở Houston, trong đó có nhắc đến Tướng Nguyễn Khoa Nam và ông Tỉnh trưởng Kiên Giang (nhưng lại căn cứ theo sự kiện ghi trong sách của Alan Dawson nên sai lạc), Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường đã cho phổ biến một thư ngỏ gọi là “đóng góp bổ sung với các bài báo đã đăng một vài chi tiết để tinh thần vinh danh anh hùng qua mẩu chuyện trên được giá trị chính xác”. Theo như lời kể của Tướng Trường (nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Hậu Giang trược thuộc Quân Ðoàn 4) thì đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975 tại miền Tây, Việt Cộng dốc toàn lực tấn công vào các tỉnh lỵ thuộc lãnh thổ QK.4. Riêng tại khu Chiến Thuật Hậu Giang tại An Xuyên, tỉnh lỵ Cà Mau bị hai tiểu đoàn U Minh tấn công; Ðại Tá Nhan Nhựt Chương, Tiểu khu trưởng, cùng lực lượng tiểu khu An Xuyên đã đẩy lui địch và làm chủ tình hình trước trời sáng.
Theo lời kể của Tướng Trường thì tại Tiểu khu Ba Xuyên, tỉnh lỵ Sóc Trăng đã bị hai tiểu đoàn Cợ Ðộng tấn công, nhưng đã bị lực lượng của Tiểu khu dưới quyền Ðại Tá Liêu Quang Nghĩa diệt trọn một tiểu đoàn, và tiểu đoàn còn lại tháo chạy. Trong khi đó đơn vị bạn ở Bạc Liêu dưới quyền Ðại Tá Huỳnh Ngọc Diệp đã đẩy lui cuộc tấn công của một Trung đoàn địch, ta tịch thu nhiều vũ khí. Một Trung đoàn chính quy Bắc Việt cũng mở cuộc tấn công vào tỉnh lỵ Vỵ Thanh (Chương Thiện). Quân đội VNCH dưới quyền Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu quyết liệt giữ vững vị trí để chờ trời sáng phản công…
Riêng tại Tiểu khu Kiên Giang, tỉnh lỵ Rạch Giá, bị một Trung đoàn Việt Cộng tấn công nhưng đã bị lực lượng bạn dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Vương Văn Trổ đầy lui gây cho địch tổn thất nặng nề. Tại tiều khu Phong Dinh (Bản doanh của Quân Ðoàn 4) vòng đai tỉnh lỵ Cần Thơ do Sư Ðoàn 21 Bộ Binh trách nhiệm phòng thủ, đã bị Sư đoàn 4 Hậu Giang Việt Cộng tấn công nhiều đợt rất ác liệt nhưng đều bị quân ta đẩy lui… Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường cho tập trung báo cáo của các tiểu khu và đúc kết tình hình trình lên Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư Lệnh Quân Ðoàn 4. Theo lời Tướng Trường thì Tướng Nam rất hài lòng và vững tin nơi khả năng chỉ huy và tinh thần chiến đấu của thuộc cấp. Tướng Nam cũng chỉ thị phải ưu tiên hỏa lực yểm trợ cho Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn phản công tại Chương Thiện. Riêng Tiểu khu Kiên Giang theo tin tức phòng 2 thì còn một tiểu đoàn Việt Cộng nằm ngoài vòng chưa tham chiến, và địch có thể tăng cường tiểu đoàn này để tấn công trong đêm sau. Thiếu Tướng Nam không muốn có giao tranh trong thành phố gây thiệt hại sinh mạng và tài sản của đồng bào, nên đã chỉ thị cho Tướng Trường phải tăng cường cho tiểu khu Kiên Giang một tiểu đoàn thuộc SÐ/21 để chận đánh địch ở ngoài vòng đai tỉnh lỵ.
Về chi tiết này, Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường ghi lại trong thư ngỏ đã được phổ biến, nguyên văn như sau: “Tôi liên lạc với Trung Tá Vương Văn Trổ TKT/KG để duyệt tình hình sau cùng và chọn bãi đổ quân. Chúng tôi đồng ý bãi đáp thả quân dọc bờ biển phía Tây tỉnh lỵ là an toàn nhất. Nhưng cuộc thả quân chưa kịp thực hiện thì có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Quốc gia bị bức tử!!! Cuộc chiến chấm dứt!!! Tại Quân Khu 4, các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng và Trần Văn Hai (Tư Lệnh Sư Ðoàn 7-BB) tự sát. Trung Tá Vương Văn Trổ TKT/KG bị Việt Cộng bắt đêm 30-4-75 tại Rạch Giá. Tôi bị VC bắt ngày 5-5-1975 tại Cần Thơ. Chúng tôi gặp lại nhau trong trại giam VC tại khám Cần Thơ và sau đó bị lưu đày ra miền Bắc. Cựu Trung Tá Vương Văn Trổ được VC phóng thích năm 1988. Tôi được phóng thích năm 1992 (17 năm). Cựu Trung Tá Vương Văn Trổ đi Mỹ diện HO và hiện cư ngụ tại Houston, Texas…”
Trong một buổi tâm tình với ký giả Dương Phục qua làn sóng điện đài phát thanh ở Houston nhân dịp kỷ niệm Ngày Quân Lực VNCH tháng 6 năm 1999, khi nhắc đến Tướng Nam, Trung Tá Trổ đã nhấn mạnh rằng “Cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một vị chỉ huy tài đức vẹn toàn, gương mẫu về mọi mặt. Ông chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp, và đồng thời còn có lòng nhân đạo đối với cả địch quân…”. Nhân dịp này, cựu tỉnh trưởng Kiên Giang Vương Văn Trổ cũng không khỏi chua chát than rằng “Thương thay người chỉ huy đáng kính trọng đó lại bị giáng thêm một tội để mang theo về thế giới mới…” qua một đoạn văn trong cuốn “55 Ngày Ðêm Miền Nam Sụp Ðổ” của Alan Dawson khi gán ghép Tướng Nam ra lệnh cho trực thăng đuổi theo và bắn chìm đoàn tàu chở tỉnh trưởng Kiên Giang đang bỏ chạy…
Ông cho đây là một sự nhục mạ danh dự Tướng Nguyễn Khoa Nam và cả tập thể Quân Ðội VNCH. Và ông mong rằng sau này các sử gia sẽ có sự công bằng khi ghi lại các sự kiện liên quan đến lịch sử.
Ngọc Hoài Phương
nguồn: Hưng Việt

Saturday, May 25, 2019

Trả lại sự thật cho chiến sử VNCH: Một Chiến Công Bị Quên Lãng

30/04/201300:00:00(Xem: 4644)
Trả lại sự thật cho chiến sử VNCH: Một Chiến Công Bị Quên Lãng
tuong-le-nguyen-vy_
Hình ảnh Tướng Lê Nguyên Vỹ.

Đỗ Văn Phúc
Trận tử thủ An Lộc được xem là một trong ba trận đánh lừng danh nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè năm 1972, mà sau này được nhà văn Dù Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa”.
Bốn mươi mốt năm về trước, đúng vào 7 tháng 4, 1972, Cộng quân đã tung ba sư đoàn bộ binh (5, 7, và 9) cùng thiết giáp ồ ạt tấn công vào thị trấn bé nhỏ An Lộc, nơi đang là tỉnh lị của tỉnh Bình Long, chỉ cách thủ đô Sài Gòn khoảng một trăm cây số. Mục tiêu tối hậu của Cộng Sản Hà Nội là chiếm bằng được An Lộc để làm thủ đô cho cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam”, nhằm hỗ trợ cho mục tiêu chính trị của Hà Nội là tạo một uy thế cho đám bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng để có tiếng nói tại Hội Nghị Paris.
Nhưng sau ba tháng bao vây tấn công một thị trấn nhỏ bé có diện tích chỉ khoảng 4 cây số vuông, sử dụng đến hàng chục ngàn binh sĩ, hàng trăm xe tăng tối tân, bắn hàng trăm ngàn viên đại pháo, hoả tiễn, Cộng Quân đã chuốc lấy thảm bại và rút lui sau khi để lại trên 10000 xác chết cộng với khoảng 25 ngàn khác bị thương.
Trận tử thủ được xem là chấm dứt vào ngày 7 tháng 7, 1972 khi các đơn vị tăng viện của Quân Lực VNCH tiến vào An Lộc, bắt tay với các đơn vị phòng thủ và tiếng súng địch đã ngưng hẳn.
Đã có nhiều bài viết về trận An Lộc với nhiều chi tiết và nêu danh các quân nhân anh hùng đã tham gia trận đánh. Gần đây, Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh cho ra mắt cuốn sách Chiến Thắng An Lộc 1972 dày 418 trang vớí nhiều sử liệu đáng giá.
Nhưng không rõ lý do gì, trong hơn 400 trang giấy, một trong những người anh hùng có công đầu trong trận đánh đã bị bỏ quên, hoặc chỉ được nhắc qua một cách mờ nhạt trong vài câu như chỉ là một trong những chiến binh có mặt, tham gia trận chiến. Trong các trang 181-183, Phần 1, Chương 11 ghi công trận các vị chỉ huy từ các Tướng Nguyễn Văn Minh, Lê Văn Hưng, đến các Đại Tá Lê Quang Lưỡng (Nhảy Dù), Trần Văn Nhật (TQLC), Mạch Văn Trường (Trung oàn 8 BB), Lý Đức Quân (Trung Đoàn 9 BB), Nguyễn Văn Biếc (BĐQ), Phan Văn Huấn (Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù), tuyệt đối không có một câu nào cho Đại Tá Lê Nguyên Vỹ. Chỉ đến gần cuối, ở trang 188, mới thấy ghi qua loa như sau:
- Cố Chuẩn Tướng LÊ NGUYÊN VỸ, cựu Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà năm 1975, đã tuẫn tiết tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh (căn cứ Lai Khê, Tỉnh Bình Dương). Ông đã giữ tròn khí phách của Vị làm Tướng, “Thành còn thì Tướng còn, Thành mất thì Tướng mất”, hay nói khác đi ”Đất nước còn thì còn là Tuớng Soái, đất nước mất vào tay giặc Cộng thì Tướng phải chết theo vận mệnh của Đất Nước”, cho tròn cả NGHĨA ĐẠO LÀM NGƯỜI và mang NGHIỆP TƯỚNG.
Có phải người ta có khuynh hướng nhắc đến cấp trưởng mà coi nhẹ vai trò của những vị phó chăng?
Phàm khi viết những tài liệu mang tính lịch sử, người viết không được để thiên kiến, tình cảm cá nhân của mình vào mà tâng bốc điều không đáng tâng bốc, và làm ngơ những điều không được làm ngơ.
Chúng tôi muốn nói đến chiến công của cố Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, mà trong trận An Lộc , là Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trước khi Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (Tư Lệnh) đưa bộ Tham Mưu vào An Lộc, thì Tướng Vỹ chỉ huy Bộ Tư Lệnh Hành Quân nhẹ ở đó.
Đó là một chiến công có tính cách quyết định vì khi Cộng quân tung xe thiết giáp T-54 vào trận, quân sĩ VNCH rất bối rối - đây là lần đầu tiên trực chiến với chiến xa địch có hoả lực còn hơn loại thiết giáp M-41 của VNCH. Dù bộ binh VNCH đã được trang bị loại hoả tiễn cầm tay M-72 từ năm trước, nhưng chỉ được dùng để phá hầm chứ chưa bắn xe thiết giáp bao giờ.
Sau vài loạt M-72 bắn không hiệu quả vì bắn hoặc quá xa, hoặc quá gần, hoặc không trúng chỗ nhược, anh em binh sĩ đã tỏ ra vô cùng lo âu. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ là người đã can đảm nhảy ra khỏi chiến hào, tự tay bắn M-72 làm cháy chiếc chiến xa địch.
Chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài Viết Về Cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ của tác giả Triệu Vũ đăng trên Tạp chí KBC:
Một chiếc T54 đang nghiến xích sắt trên mặt đường sát bên hông BTL/Hành Quân. Mọi người, từ binh sĩ tới Tư Lệnh chiến trường, đều nín thở như chờ đợi một thảm họa và hầu như phó mặc cho số phận. Bỗng Đại Tá Vỹ lao khỏi hầm, với nón sắt, áo giáp và đặc biệt khẩu súng chống chiến xa M72 trên tay, theo sau là Trung úy sĩ quan tùy viên. Tới bờ tường phòng thủ, vừa lúc chiến xa địch vượt qua khỏi cổng chính khoảng 20 mé. Ông quỳ người, giữ tư thế tác xạ, đưa M72 lên vai. Người sĩ quan tùy viên kế bên, khom người quan sát. Mọi người trong hầm chỉ huy hồi hộp phóng tầm nhìn qua lỗ châu mai. Một tiếng nổ. Và một luồng lửa đỏ tống về phía sau. Chiến xa địch bị trúng hỏa tiễn, bốc khói nhưng vẫn cố di động trước khi trở thành một khối sắt xám xịt vô dụng bên vệ đường.
Quân sĩ từ trong hầm chỉ huy đổ ra ngoài reo hò mừng rỡ. Bây giờ người ta mới thực sự tin M72 đã bắn hạ chiến xa địch mà suốt mấy năm qua, từ khi được trang bị, chưa có cơ hội tác xạ. Ai ngờ ngày hôm đó, trong cơn nguy khốn, vị Đại Tá Tư Lệnh Phó chiến trường lại làm nhiệm vụ một khinh binh, đích thân sử dụng M72 triệt hạ T54 của Bắc Việt. Câu chuyện Đại Tá Vỹ bắn hạ chiến xa địch lan truyền, tinh thần quân sĩ trú phòng tại Bình Long - An Lộc lên cao. Đó đây có những báo cáo về Bộ Tư Lệnh, cho biết đã bắn hạ thêm nhiều chiếc khác.
Thật ra thì trong Phụ Lục, đăng các bài viết của nhiều tác giả từ trang 223 đến trang cuối sách, ông Nguyễn Ngọc Ánh có trích đăng một bài của Người Lính Già Phương Nam có viết một câu ngắn ở trang 364 xác nhận chiến công của Đại Tá Lê Nguyên Vỹ như sau:
“Ngày 18-04-1972, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, chỉ huy toàn thể lực lượng trú phòng, đã cam kết :”Ngày nào tôi còn, An Lộc còn”. Vị tướng này, đầu đội nón sắt, tay cầm súng XM.16, mặc áo thung, quần trận, vắt lựu đạn quanh mình, hoạt động liên tục. Hai tai Ông nghe báo cáo và điều động các binh sĩ dưới quyền khắp nơi. Thật sự An Lộc rất may mắn có được vị sĩ quan tài đức chỉ huy chiến trường này, và chính Ông là một trong những yếu tố niềm tin quan trọng giữ vững An Lộc. Có thêm nhiều chiến xa của Cộng quân bị bắn hạ gần Bộ Tư Lệnh”Tiền Phương” của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng. Chiến xa địch đầu tiên bị bắn cháy tại đây là do hoả tiễn M.72 của chính đích thân Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó, khai hoả. Ông nói :”trúng rồi, tôi đã diệt được nó …”
Nhờ chiến tích này mà
“Binh sĩ của Trung Đoàn 8 Bộ Binh lần lần đâm ra dạn dĩ, vác súng M.72 ra tác xạ, vài quả đầu có chút sai lệch, chiến xa địch “chưa chết”, nhưng càng bắn càng có kinh nghiệm, bắn trúng vào chỗ “nhược”. Chiến xa bốc cháy. 
Các chiến sĩ reo hò “Anh Em ơi !! xe tăng địch bị M.72 bắn cháy rồì!!!” Tiếng hô vang dậy, được chuyền nhau qua làn khói bốc ra từ chiến xa địch, cùng các xác cháy của các xạ thủ hay tài xế lái tăng địch vừa nhảy ra khỏi xe, đã làm nức lòng các chiến binh của Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Giờ này họ không còn sợ tăng của địch nữa, mà trái lại còn thích thú, vác M.72 đi lùng tăng địch mà bắn hạ. (tiếng bình dân của Anh Em chiến binh Trung Đoàn 8 gọi là sơi tái).”
(Chiến Thắng An Lộc 1972. Trang57)
Đoạn văn trích dẫn bên trên do tác giả Nguyễn Ngọc Ánh ca ngợi chiến tích của quân sĩ Trung Đoàn 8 BB, nhưng lại không hề nhắc đến Đại Tá Vỹ là người đã bắn phát M-72 hiệu quả đầu tiên, mà lại chỉ nhắc đến Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 BB là người có sáng kiến đem lên An Lộc mấy ngàn súng M-72 để trang bị cho binh sĩ. Trong nhiều trang khác rải rác trong tác phẩm, ông không tiếc lời đề cao Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 BB như là một trong những cấp chỉ huy có công lớn nhất tại An Lộc. Chúng tôi cũng từng phục vụ dưới quyền Đại Tá Trường (vào năm 1971, ông Trường còn là Trung Tá, vừa rời chức Quận Trưởng Thủ Đức về làm Phụ Tá Trung Đoàn Trưởng, rồi lên nắm Trung Đoàn thay thế Đại Tá Bùi Trạch Dần). Vì thế, chúng tôi không muốn viết về những điều không tiện nơi đây. Tất cả những sĩ quan Trung Đoàn 8 BB tham dự trận An Lộc đều biết rằng Đại Tá Trường, trong khi lái xe Jeep ở An Lộc, đã cán phải một trái M79 và bị thương nhẹ ở cổ. Theo một bài viết đăng trên báo KBC của nhà văn Trương Dưỡng (Sư Đoàn Dù), khi trực thăng đáp xuống để tản thương các thương binh nặng, ông Trường đã khập khểnh ra bãi đáp để được di tản. Nhưng Đại Tá Lê Quang Lưỡng (khi đó là Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù) đã cấp báo cho Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, gọi ông trở lại. Theo lời Thiếu Tá Nguyễn Chí Hiền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/8, sau vụ này, ông vào ở hẳn trong hầm chỉ huy của Tướng Hưng; và người trực tiếp điều động Trung Đoàn 8 chiến đấu là Thiếu Tá Trung Đoàn Phó Nguyễn Văn Tâm (Khoá 19 VBQGVN). Thiếu Tá Tâm sau này lên nắm Trung Đoàn 8BB và sau đó lên Trung tá, làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 21 BB. Hiện ông cư ngụ tại thành phố Milpitas, California. Thiếu Tá Hiền về sau được bổ nhậm làm Quận Trưởng Quận Châu Thành, Tỉnh Bình Dương; hiện cư ngụ tại thành phố Thias, France.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã biết trước rằng sự thắng bại của trận chiến sẽ phụ thuộc vào sự yểm trợ phi pháo của Hoa Kỳ. Trong giai đoạn mà Mỹ đang muốn bỏ rơi VNCH, họ không từ thủ đoạn để cho quân ta thảm bại để chính phủ VNCH phải chịu vào bàn hội nghị ký những điều khoản vô cùng bất lợi; miễn là Hoa Kỳ có cơ hội rút ra khỏi Việt Nam. Vì thế, khi Đại Tá Cố Vấn William Miller tỏ ý không muốn cùng toán cố vấn ở lại cùng tử thủ cạnh quân ta, thì Tướng Hưng đã thuyết phục, và làm theo lời yêu cầu của Đại Tá Miller là dời Trung Tâm Hành Quân vào một căn hầm vững chắc hơn. Để ăn chắc rằng Đại Tá Miller không cùng các quân nhân Mỹ dùng trực thăng di tản, Tướng Hưng đã dặn dò Đại Tá Lê Nguyên Vỹ phải bám sát Đại Tá Miller, theo dõi nhất cử nhất động. Chính phủ Hoa Kỳ vốn tôn trọng sinh mạng quân nhân của họ. Vì thế sự hiện diện của toán cố vấn Mỹ như là một con tin có giá để buộc Hoa Kỳ phải tích cực yểm trợ phi pháo, góp phần vào chiến thắng của quân ta.
Chúng tôi biết Đại Tá Lê Nguyên Vỹ lần đầu vào đầu năm 1969, khi vừa tốt nghiệp ra đáo nhậm đơn vị là Trung Đoàn 8 BB mà Bộ Chỉ Huy đóng gần chợ Bến Cát. Sau khi được Đại Úy Nguyễn Văn Nết, Trưởng Ban 1 hướng dẫn các thủ tục hành chánh để chở bổ sung ra các tiểu đoàn, chúng tôi vào Câu Lạc Bộ Trung Đoàn để ăn trưa. Tại đây, tôi đã thấy có vài vị sĩ quan mặc áo thun màu ngụy trang và quần trận. Để ý kỹ, chúng tôi thấy có một ông to lớn, sắc mặt cứng cáp, nghiêm trang đang đưa mắt theo dõi chúng tôi. Đó là Đại Tá Vỹ người nổi tiếng là người trực tính, nóng nảy, cũng song song với tiếng tăm can trường, mưu lược trong trận mạc.
Ông là vị sĩ quan làm Trung Đoàn Trưởng lâu năm nhất. Từ Trung Đoàn 9 với nhiều chiến công hiển hách, ông về Trung Đoàn 8, vực đơn vị này lên ngang tầm những đơn vị xuất sắc. Nhờ các chiến công đó, mà năm 1969, dưới thời Thiếu Tướng Tư Lệnh Phạm Quốc Thuần, Sư Đoàn 5 Bộ Binh được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 6, tất cả quân nhân trong Sư Đoàn hãnh diện mang dây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương.
Có lẽ ông là vị chỉ huy tác chiến lên cấp khá chậm, chỉ vì ông không dính đến phe đảng, chính trị. Ông thăng tiến trong binh nghiệp qua sự chiến đấu mà không hề dùng đến các thủ thuật để lấy lòng cấp trên.
Là những sĩ quan cấp nhỏ, chúng tôi rất phục ông, nhưng cũng rất sợ phải chạm mặt ông. Có lần, trên đường ra chợ Bến Cát chơi, chúng tôi thấy chiếc xe Jeep của ông đang chạy từ hướng đối nghịch. Không chậm một phút, ba anh Thiếu Úy trẻ nhảy đại qua một hàng rào nhà dân sát đó để chạy né ông.
Lần thứ hai mà tôi đã không né được, mà phải đứng cạnh ông trong gần một giờ, vừa lo âu, vừa sợ sệt. Đó là dịp gần cuối năm 1969, khi Tiểu Đoàn tôi vừa qua phần huấn luyện bổ túc tại Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn; đang tập dượt lễ xuất quân. Là một Đại Đội Phó, tôi có nhiệm vụ tập cho binh sĩ hát bài Xuất Quân. Nhưng vì ham chơi, sau những tháng ngày hành quân miệt mài, nay có dịp về huấn luyện gần thị xã Bình Dương, bọn sĩ quan trẻ chúng tôi thường giao việc cho anh Trung Sĩ Thường Vụ để dù ra phố chơi. Vì thế, khi Trưởng Ban 5 Tiểu Đoàn bắt nhịp hát bài Xuất quân, binh sĩ người thuộc, người không, hát lọng cọng không ra hồn. Tôi lại xui xẻo đứng gần bên Đại Tá Trung Đoàn Trưởng. Mà càng xui hơn là đang mặc bộ quần áo trận màu hoa dù mà tôi còn giữ sau khi rời đơn vị Biệt Kích để vào quân trường Sĩ Quan. Lại càng xui hơn nữa khi phù hiệu Trung Đoàn 8 tôi đang mang trên túi áo là phù hiệu thêu hình đầu con cọp cũng chế biến đi. Số là ngày đó, mỗi Trung Đoàn đều có phù hiệu riêng: Trung Đoàn 7 mang hình đầu con sư tử, Trung Đoàn 8 đầu cọp, Trung Đoàn 9 đầu voi. Chẳng rõ anh hoạ sĩ nào đã không có sáng kiến riêng, mà cóp nguyên hình con cọp trên chai bia Lave Larue vào cái nền hình thoi màu vàng trông thiếu thẩm mỹ vô cùng. Người ta thường chế nhạo lính Trung Đoàn 8 là “Cọp La Ve”. Tôi bèn vẽ lại cái đầu cọp cho hùng hổ hơn, nhờ cô em vợ thêu trên nền vải hoa dù rồi may vào túi áo. Sau này, khi về làm Đại Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy, tôi đã vẽ lại mẫu con cọp bay với ba tia chớp và được Trung Đoàn chấp thuận cho thay thế mẫu cũ.
Đứng bên ông Trung Đoàn Trưởng nghiêm khắc, nóng tính, mà lại mặc quân phục rằn ri, đeo phù hiệu tự chế, hỏi sao trong bụng tôi lại không thấy lo âu? Nhưng Đại Tá Vỹ dường như không thắc mắc gì. Đứng lâu, cảm thấy nhột nhạt, tôi đánh bạo lên tiếng: “Thưa Đại Tá, chúng tôi làm Đại Đội Phó đã mấy tháng mà chưa có lệnh bổ nhiệm.” Ông nhìn qua tôi, nói như gầm gừ: “Hừ! Làm ăn có ra gì mới được bổ nhiệm chứ!”
Cố Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, một cấp chỉ huy nhiệt thành, đảm lược, nhiều kinh nghiệm chiến trường; ông đã góp nhiều công lao xây dựng các đơn vị bộ binh hùng mạnh, biết quan tâm đến sự sinh tồn của đơn vị, đúng nghĩa cùng nằm gai nếm mật với binh sĩ thuộc quyền. Trong thời gian tôi còn ở Trung Đoàn, không hề nghe những điều tai tiếng về ông ngoại trừ tính nóng nẩy. Khi miền Nam mất vào tay giặc Cộng, ông đã chọn cái chết để bảo toàn khí tiết của người Tướng Lãnh. Không viết cho hết về ông cũng chỉ vì chúng tôi có ít tài liệu. Nhưng không nói đến những công trận của ông mà người ta cố tình làm ngơ, chúng tôi thấy mình có tội với ông rất nhiều, cũng như có tội với tất cả những anh em chiến hữu khác đã từng đổ xương máu để chiến đấu bảo vệ miền Nam nói chung, và trong trận An Lộc nói riêng. Tôi mong những cựu chiến sĩ Trung Đoàn 8 BB từng có mặt ở An Lộc vào Muà Hè Đỏ Lửa – mà hiện nay nhiều anh em định cư tại Hoa Kỳ - sẽ xác nhận những điều tôi vừa nêu trong bài này.
Austin, April 2013.
Kỷ niệm 41 năm ngày Chiến Thắng An Lộc – Bình Long
Đỗ Văn Phúc