Wednesday, November 30, 2022

 

BÌNH GIẢ - Trước cuộc đổ bộ 1965

Do Đại Tá Frank P Eller, TQLCHK (Hồi hưu)
 
Trong những ngày cuối năm 1964, một trận chiến dựng nên trong chiến tranh Việt Nam cho đến lúc này, đã xảy ra trong pham vi và ngoài làng Bình Giả. Lúc tôi phục vụ với tư cách là cố vấn chính cho Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam, đơn vị làm lực lượng trừ bị cho Quân Đoàn III và đóng quân tại Dĩ An, gần Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và Phi trường Biên Hòa.. Tiểu đoàn đã lâm chiến, cùng với hai Tiểu đoàn khác, đã gánh chịu những tổn thất lớn. Bài viết này để tưởng nhớ những người đã tử trận và mất tích trong cuộc chiến ấy.     

Tình hình suốt cả Miền Nam Việt Nam lúc này rất mỏng manh nhất. Tiếp theo cú đảo chánh Tháng 11 năm 1963 đã tạo hậu quả việc lật đỗ và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đất nước đã bị chìm sâu trong năm bất ổn và biến động. Hấu hết các cấp chỉ huy Tĩnh và Quận đều bị thay thế cũng như một số Tư lệnh phải trao quyền. Đáng kể nhất là chương trình Ấp Chiến Lược, vốn nói chung thành công trong việc chia cắt dân chúng xa lìa bọn Việt Cộng ở vùng nông thôn héo lánh. VC đã lợi dụng tình hình bất an và sa sút trong việc lãnh đạo để tấn công  những thôn làng chiến lược, và từ đó chúng mở rộng tầm ảnh hưởng ra ngoài nơi đông dân cư. Thêm nửa, VC đã tung ra hai cuộc tấn công thành đạt chống lại Hoa Kỳ- cuộc tấn kích vào Phi trường Biên Hòa vào tháng 11, gây ra hậu quả cho một số người Mỹ thương vong cũng như hư hại nhiều phi cơ, và cuốc đánh phá vào cư xá Sĩ quan độc thân Mỹ vào tháng 12 cũng gây tổn thất cho người Mỹ.

Từ khi tôi gia nhập Tiểu đoàn vào tháng 5 1964, đơn vị đã tham chiến một số cuộc hành quân suốt Quân Khu II và IV, thường là bao gồm khu vực miền nam của đất nước. Mắc dầu thường xuyên gặp địch quân nhưng ít khi quá cấp một Trung đội. Thỉnh thoảng trong các cuộc hành quân chúng tôi nhận được tin những đơn vị địch lớn hơn hoặc đi qua những khu vực đóng quân của những đơn vị lớn hơn nửa. Chúng tôi thường bị pháo kích và bắn tỉa và tổn thất do mìn gài nổ, nhưng địch quân đã tránh né và chúng tôi cũng không thể gài chúng vào trận đánh lớn. Việc này thay đổi đáng kể tại Bình Giả. Trong suốt thời gian trước trận Binh Gia, Tiểu đoàn gần như lâm chiến liên tục vào những trấn đánh như kể trên suốt ròng 3 tháng. Trước Mùa Giáng Sinh, Đơn vị được phép tạm nghỉ trở về hậu cứ ở Vũng Tàu để tái trang bị và cho người lính TQLC thăm gia đình. Vào buổi sáng Ngày Giáng Sinh, chúng tôi trở lại Dĩ An vá tái tục nhiệm vụ Trừ bị cho QĐII. Vị Tiểu đoàn trưởng và tôi thường lên Bộ Tư Lệnh QĐ nghe thuyết trình về tình hình mổi ngày cũng như gặp các Sĩ quan Tham Mưu và cố vấn và được cho biết tổng quát tình hình chiến thuật của Quân Khu II.

Ngày 28 tháng 12, một đơn vị đích không rõ quân số tấn kích quyết liệt và chiếm giử làng Binh Giả gồm từ 6 đến 8 ngàn người tỵ nạn Thiên Chúa giáo chạy trốn Miến Bắc Việt Nam trước đây. Dù quyết liệt đánh trả nhưng dân quân đã bị tràn ngập. Họ đã mất liên lạc do chạy thoát hay ẩn nấp nơi nào đó. Kết quả là hai Đại đội của Tiểu Đoàn 30 đã phản công từ phía Tây nhưng bị đánh bật trở ra. Rỏ ràng là một đơn vị khá lớn của địch đã chiếm giử Bình Giả và nhất quyết bám chặt.

Ngày 29 tháng 12, QĐ II cho toàn bộ TĐ30 và TĐ 33 Biệt Động Quân vào cuộc chiến.. Trong giai đoạn này hai chiếc trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ đã bị băn rơi và một nửa Tiểu Đoàn 33 BĐQ đã bị bao vây và tràn ngập, và hai Cố vấn Hoa Kỳ đã bị bắt.. Số quân BĐQ còn lại quyết chiến và đã giừ được một góc làng nhờ thêm vào yểm trợ trên không.  BĐQ đã tiếp tục chống trả suốt đêm và đẩy lui được địch quân. Tin tức cho biết không còn nghi ngờ gì nửa quân số đáng kể của địch không còn kiểm soát được Binh Giả. Cuối ngày 29 Tiểu đoàn chúng tôi nhận lệnh chuẩn bị tham chiến vào ngày 30 tháng 12 để đánh trả và đuổi địch ra khỏi Binh Giả. Tiểu đoàn trưởng ( Thiếu Tá Nguyễn Văn Nho) và tôi cùng với Phụ tá cố vấn ( Trung úy Phillip Brady mới về đơn vị 1 tháng trước), với các Sĩ quan Tham Mưu Tiểu đoàn phối hợp với BTL QĐII  nhận bản đồ và lệnh hành quân cùng tin tức tình báo. Phối hợp với Trực thăng của LQHK lãnh nhiệm vụ  chở quân chúng tôi vào điểm đổ bộ LZ phía Tây Bắc của làng được xếp đặt với hỏa lực yểm trợ của Phi đội cánh quạt cùng với trực thăng võ trang, cũng như trao đổi tần số liên lạc. Cũng còn có quyết định không có pháo binh yểm trợ vì ngoài tầm băn và QĐ cũng không  muốn chuyển pháo lên vị trí để yểm trợ chúng tôi ngừa khi đánh lớn.

Vào khoảng 8:30 ngày 30 tháng 2, đợt đổ quân đầu tiên cất cánh rời phi trường Biên Hòa. Dù được không yểm mạnh mẻ nhưng không thấy có dấu hiệu hỏa lực của địch và Tiểu đoàn xuống quân không bị chống trả và tiến vào Binh Giả rừ phía Tây. Tiểu đoàn mở rộng kỹ càng xuyên qua làng và lục soát cẩn thận. Dân làng cho biết quân số địch ít nhất là 750. Báo cáo cho hay có cả quân Bắc Việt và Trung Cộng. Nếu đúng như thế, mực độ cuộc chiến đến lúc ấy có nghỉa là nhiếu đơn vị cấp Tiểu đoàn địch đã tấn kích và chiếm giử làng. Thêm nửa, đơn vị bạn dưới hầm trú ẩn cho hay trong khi địch chiếm cứ chứng tỏ chúng rất kỹ luật và chỉ huy đàng hoàng. Sau khi lập lại an ninh ngôi làng, Tiểu đoàn đã trợ giúp tản thương lấy hài cốt cho các BĐQ thương vong. BĐQ sống sót đã cùng thiết lập phòng thủ ngôi làng. Vào thời điểm này, TĐ4TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ và chờ lệnh của QĐII.

Vào cuối ngày hôm ấy, một trực thăng võ trang khởi đầu một trận oanh kích vào một địa điểm cách độ 1 ngàn 500 thước về phía Đông Nam của làng do báo cáo tập trung lớn quân địch trước đó. Trong cuộc tấn kích này, do tôi quan sát  một chiếc phi cơ đã bị phòng không của địch bắn rơi. Chiệc trực thăng bốc cháy và bị nhào xuống ở một góc độ nhanh cho tới khi chạm đất và nổ tung trong khói lửa. Vụ rơi máy bay này đã lập ra một loạt những biến cố thảm khốc cho TĐ4TQLC. Dù không có hy vọng có người sống sót nhưng QĐ đã ra lệnh cho một toán lục soát ngay tức thì để xác nhận nơi bị nạn, liệu có người sống sót hay không, nếu không thì thu nhặt thi thể phi hành đoàn. Thiếu tá Nho nói chuyện với Trung tâm trưởng hành quân và tôi với cố vấn Hoa Kỳ của Trung tâm cho họ biết rằng, không thể nào có người sống sót. Kết quả là có lệnh cho một toán tuần sát vào sáng sớm hôm sau do đã trể rồi. Tối hôm ấy, địch mở cuộc tấn công vào làng nhưng không sao chọc thủng được vòng phòng thủ của chúng tôi. Hỏa châu thả sáng suốt đêm và khu trục yểm trợ hỏa pháo.

Rạng sáng ngày hôm sau, 31 tháng 12, một Đại đội khởi hành từ góc Đông Nam của làng theo phương hướng địa bàn đến nới máy bay rớt. Tôi đi theo Đại đội để xin phi cơ yểm trợ nếu cần..Chúng tôi có phi cơ võ trang và khu trục từ căn cứ Biên Hòa. Ngoài phi cơ ra chúng tôi chỉ còn có súng cối để yểm trợ. Sự thiếu sót pháo binh đè nặng trên tôi khi chúng tôi di chuyển thận trọng vào khu rừng nơi máy bay bị rớt và vào nơi chắc chắn sẽ có địch quân trú đóng. Ngay khi đến điểm máy bay rơi ai cũng biết chắc là không có thể còn ai sống sót. Chiếc trực thẵng đã bị cháy ruội và hài cốt bị cháy đen nằm trong vòng một đường kính độ 2 thước. Phía bên ngoài có vài mảng dất mới đào dấu hiệu quân địch đã chôn thi hài của phi hành đoàn. Đại đội trưởng (Trung Úy Đỗ Hữu Tùng) đã lập vòng phòng thủ quanh địa điểm. Lúc này khi TQLC tiến ra vị trí vài tên địch đã xuất hiện. Lập tức chúng bị băn ngả một tên bị baăn lộn đẩu ngả xuống. Bọn kia bỏ chạy. Tôi theo chân anh em TQLC lên xem tên địch bị bắn. Theo tôi quan sát, tên địch có vẻ no tròn với độ 180 cân anh, cao ít nhất cũng 1 thước 70, quân phục đầy đủ sạch sẻ với dây lưng đạn và mang khẩu carbine..Không có giấy tờ căn cước gì trên người. Theo tôi tên này hoặc là Bắc quân hay Trung Cộng. Sau vụ chạm súng này, có vẻ địch quân đang bao vây chúng tôi. Ngay khi Địa đội chạm súng, địch đã bắn pháo vào vào vị trí chúng tôi với đại liên và súng phòng không. Tôi báo cáo ngay cho phi vụ ứng chiến và xin yểm trợ ngay ngoài phòng tuyến.. Tôi cũng gọi xin khu trục A 1 E cánh quạt từ Biên Hòa. Vào thời điểm này, nổ lực tìm kiếm thi hài của phi hành đoàn phải ngưng lại vì chạm súng khắp nơi. Tổn thất tăng lên khi địch tiến sát vào vòng phòng thủ với hàng loạt biển người khích động bởi tiếng kèn thúc quân. Nơi ẩn núp duy nhất danh cho chúng tôi là thân cây cao su, nhưng TQLC và phi cơ không sao ngăn chặn được tiến quân của địch. Vừa đúng lúc một viên đạn thù trúng ngay nón sắt của tôi đánh ngả tôi xuống. Khi vừa tỉnh dậy tôi không còn thấy gì và cặp mắt tôi phỏng nặng. Tôi tự nhiên quẹt tay lên mắt và khi nhìn thấy rỏ được là hai tia máu vọt ra từ mặt tôi. Tôi bắt đầu lấy băng cá nhân đeo trên dây lưng và nay trước khi lấy được tôi đã thấy một Y tá ngay bên cạnh cười toét miệng và liền băng bó ngay cho tôi. Tôi cũng nghiệm ra rằng đa số người lính TQLC Việt Nam đã cười khi tình hình nguy biến và tôi biết là dấu hiệu xấu đã đến. Sau này khi xem lại, tôi thấy viên đạn đã trúng xéo một bên nón sắt và làm vở tung ra. Phần miểng đã gây thương tích xuống mủi và khuôn mặt của tôi. Nếu viên đân nhích lên một tí hay nhích xuống một tí chắc là thội đời rồi. Tôi tìm người mang máy truyền tin nhưng không thấy đâu nên tôi bò tới chổ vị Đại đội trưởng nhưng máy của ông cũng bị trúng đạn hư hỏng. Chúng tôi bị hỏa lực địch nặng nề hơn khi chúng tiến sát , nhảy  từ gốc cao su này sang gốc khác, TQLC đã rút gọn về quanh vị trí chiếc máy bay rơi. Khi địch càng gần sát, Nhận thấy sẽ bị địch bao vây nên Đại đội trưởng đã ra lệnh rút lui. Đại đội mất liên lạc và dưới làn đạn rút lui về phía Bắc và rồi về lại Bình Giả, mang theo những người bị thương nhưng phải bỏ lại 12  TQLC tử trận cộng thêm với phi hành đoàn trực thăng. Trên đường lui quân về Binh Giả. Một chiếc trực thăng tản thương LQHK đáp xuống và chúng tôi đã di tản  được vài TQLC bị thương.

Trở về lại Bình Giả, Đại đội trưởng và tôi đã cho Tiểu đoàn trưởng biết chi tiết toàn vẹn về lực lượng địch chúng tôi đã chạm súng tại địa điểm rơi máy bay, nói rõ là một đơn vị khá đông đảo được trang bị tới chốn, với binh lính kỹ luật, và được yểm trợ hỏa lực hùng hậu với súng cối, đại liên và phòng không. Tiếp theo sau cuộc tường trình ngắn và theo đề nghị của Tiểu đoàn trưởng tôi cần được chửa trị thương tích nên tôi đã về một góc làng chờ trực thăng tản thương đến đón. Sau đấy, tôi được di tản về Quân Y viện Hải Quân Sài Gòn để chửa trị vết thương. Không rõ là ai cho lệnh cho lệnh Tiểu đoàn vào lại nơi máy bay rớt. Hoặc Thiếu Tá Nho được lệnh  hành quân hay do quyết định của chính ông cũng không rõ. Cả hai vị Tiểu đoàn trưởng và Tiểu đoàn phó đều là chiến binh dày dạn kinh nghiệm chiến trường và họ từng biết không cần tìm vào những hiểm nguy không cần thiết. Quyết định đưa một Đại đội vào nơi máy bay bị bắn hạ đã là một hiểm nguy tính toán khiến cho Thiếu Tá Nho bất đắc dỉ phải thi hành. Bấy giờ, với tin tức mới nhận được từ nới máy bay rơi, cộng thêm hậu quả cuộc trận đánh của những ngày trước, thiếu pháo binh yểm trợ, và sự thật là địch đã chiến đấu trên địa thế thuận lợi cho chúng, cùng với nghi vấn trong việc khéo léo rút quân  tức thời không còn có tăng quân trợ lực. Tuy thế, Thiếu Tá Nho đã chuyển quân sau đó với một Đại đội trừ để lại Binh Giả vào nơi phi cơ bị hạ. Hài cốt của Phi hành đoàn Trực thăng đã được di tản nhưng trước khi 12 thi thể TQLC tử trận được bốc chuyển, Tiểu đoàn đã bị tấn công dữ dội bởi một lực lượng sau này được biết là thành phần của hai Trung đoàn của Sư đoàn 9 VC, là đơn vị tham chiến lớn nhất cho đến giờ phút ấy. Chúng được yểm trợ bởi Pháo đoàn 80 chỉ huy bởi SQ Bắc Việt được trang bị súng cối 81 ly, pháo 70 ly, súng không giật 75 ly và đại liên phòng không 12.7 ly. Đơn vị này chỉ huy bởi một Tướng VC và vượt quân số của TĐ4TQLC ít nhất từ 7 đến 8 trên 1. Thua sút về quân số và tệ hại hơn là không có Pháo binh yễm trợ, TQLC đã chiến đấu dũng cảm nhưng không sao vượt qua nổi trở lực quá tầm mức ấy. Một Địa đội đã rút lui về Bình Giả với tổn thất nặng nề. Một Đại đội bị tràn ngập và một Đại đội chiến đấu cho đến đêm khuya mới thoát ra khỏi trận địa lui quân về Bình Giả. Cho tới viên đạn cuối cùng, TĐ4TQLC đã chịu tổn thất  gồm 122 tử trận, bao gồm 29 Sĩ quan trong quân số 35 của Tiểu đoàn và 71 người bị thương. Thêm vào đó, Đại úy TQLCHK Donald Cook , được đưa đến Tiểu đoàn 30 ngày trước, đã bị thương và bị bắt cầm tù ( Xin đọc quyển sách do Cựu Đại tá TQLCHK Donald L. Price về The First Marine captured in Vietnam: A Biography of Donald G. Cook, Tháng 7/2007) .Trung Úy Trần Ngọc Toàn, Đại đội trưởng Đại đội I đã viết lại cuộc chiến với Mặt  trận Bình Giả. Với 3 vết thương trên người, Trung úy Toàn đã một mình ôm khẩu súng AR15 bò về tới làng Bình Giả và được trực thăng chuyển về Quân Y viện Đại Hàn Vũng Tàu vào ngày 3 tháng 1 năm 1965……
 
Bản dịch do Trần ngọc Toàn, cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ4 TQLC

Tuesday, November 29, 2022

 Cuộc đời của KTS Võ Trọng Nghĩa.

Thay thế các chữ trong tên họ bằng trị số tương ứng, ta có:

VÕ = 67 = 13 = 4

TRỌNG = 42753 = 21 = 3

NGHĨA = 53511 = 15 = 6

Cộng lại: 4 3 6 = 13.

Sau đây là một phần ý nghĩa của số này thích ứng với cuộc đời của vị KTS này.

Đọc thêm:

Võ Trọng Nghĩa: Góc khuất ở những công trình nổi tiếng thế giới và cuộc sống khó tin của kiến trúc sư lừng danh (cafef.vn)

Monday, November 28, 2022

 Tỉnh Bình Thuận: Khu KTM Đức Linh, Mồ Chôn Tập Thể Dân Phan Thiết

28/11/200500:00:00(Xem: 5566)
Mường Giang
- (Viết nhớ đồng đội và đồng bào Phan Thiết-Bình Thuận đã chết thảm tại Trại cải tạo Huy Khiêm và Kinh tế mới Đức Linh.)
Hơn ba thế kỷ thăng trầm, một vùng đất rộng mông mênh lần lượt bị cắt chia, tan hợp. Rốt cục Bình Thuận trước sau gì cũng vẫn là Bình Thuận, cũng cát, gió, tháp Chàm, những con sông mùa nắng cạn nước và biển xanh sóng dậy ven bờ Mọi người bảo Bình Thuận là đất vua ở, vì nơi đây có Lạc Trị, Hâu Quách, Tịnh Mỹ, Phố Hải, Ma Lâm Chàm.. còn lưu dấu đầy bia ký, lăng mộ, cùng nhiều kỷ vật thời xưa của các vị tiên vương Chiêm quốc, đó là chưa kể Phố Hải từng là nơi phát tích của thị tộc Cau Kramucavamca ở phương nam vào thế kỷ thứ VI sau Tây Lịch, mà di tích còn sót lại tới ngày nay là hai tháp Chàm trên đồi Ngọc Lâm.
Mọi người cũng bảo Bình Thuận là đường vua đi vì khắp nơi từ Bảo Sơn tự ở Tuy Phong vào tới Bửu Sơn tự trên núi Cố,ra tới đảo Phú Quý, đều có vết chân của chúa Nguyễn Ánh trong thời gian tẩu quốc. Bình Thuận là nơi Nguyễn tất Thành trong lúc bị dồn vào đường cùng vì cha là Nguyễn sinh Sắc bị bãi chức tri huyện Bình Khê, Bình Định do uống ruợu say đánh chết người, nên Thành phải tìm đường mưu sinh và được vào dạy học tại trường Dục Thanh Phan Thiết. Bình Thuận là nơi cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng làm quan hai lần, Tri Phủ Hoà Đa và Tuần Vũ Bình Thuận. Ninh Chử, Phan Rang, trước khi tách ra tỉnh Ninh Thuận, cũng thuộc đất Bình Thuận cổ, là sinh quán của cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu.
Tất cả những người đã đặt chân qua Bình Thuận như Nguyễn Ánh, Nguyễn tất Thành, Ngô Đình Diệm và Nguyễn văn Thiệu về sau đều làm Vua, Chủ tịch, Tổng Thống. Ngày nay nhắc tới vua Gia Long Nguyễn Ánh, người Bình Thuận hoài niệm về những công trình dựng và mở nước Việt, trong đó có đất Thuận Thành, và những quốc tự khắp nơi trong tỉnh, qua những cai tên trang trọng ý nghĩa được Ngài sắc tứ ban tặng.
Ngày nay nhắc tới Hồ chí Minh - Nguyễn tất Thành, ngoại trừ phe đảng và VC, thử hỏi có ai muốn nhắc tới trường Dục Thanh bởi vì những chứng tích của nó làm nát hồn mọi người khi đau lòng nhớ lại nỗi đời dâu biển, thế thái nhân tình của những tên ăn chén đá bát Việt gian Bình Thuận Thôi thì cứ quên để khỏi nhớ thêm hổ thẹn trăm chiều trước nỗi vẽ rắn thêm chân, chỉ hươu nói ngựa.
Ngày nay nhắc tới Ngô Đình Diệm, người Bình Thuận lại nhớ tới những xóm làng thôn ấp mọc lên từ các vùng lau sậy hoang vu, những nơi có thần cây đa ma cây gáo, những đồi hoang biển vắng khắp Phan Thiết, La Gi, Đức Linh , Sông Mao, Thanh Hải.. nhưng kỹ niệm ấm lòng nhất của người quá cố, là câu chuyện của hai người bạn tri kỷ, tri tâm: Ngô Đình Diệm - Hoàng Tỷ, trong những ngày cuối năm, ông Tổng Thống của một nước đứng trước mồ cố nhân, sụt sùi kể lễ, nhắc nhớ tâm tình. Và cuối cùng, ngày nay nhắc nhở tới Nguyễn văn Thiệu, người Bình Thuận thường nhắc tới một giai đoạn lịch sử thăng trầm, trong đó có một khoảng thời gian ngắn ngủi từ 1967-1975, khi người làm Tổng Thống, ít ra người dân xứ biển cũng được no cơm ấm áo trong cảnh hạnh phúc thanh bình.
Hỡi ôi Bình Thuận là bãi chiến trường ba trăm năm cũ, người đến người đi dấy lên rồi tàn lụn, xô nghiêng hay tạo dựng sông núi để được tiếng đời là minh quân hay bạo chúa, thì nay đổi đời đã rỏ, dù sử sách hôm nay hay ngày mai ghi không hết kịp, thì đã có bia đời, bia miệng như người Bình Thuận đã ghi những chuyện Việt Minh, Tây Tà qua suốt bao năm. Ngày nay khách phương xa tới chơi Bình Thuận, nơi từng là đất vua ở, đường vua đi, vào giữa độ xuân về hay trong các mùa lễ hội, không có gì thích thú cho bằng leo lên chiếc xe ngựa cũ kỷ hiện vẫn còn chạy đầy Phan Thiết. Bởi vì chỉ có trong khoãng không gian này, rất có thể giữa tiếng vó ngựa lộp cộp xen lẫn tiếng lục lạc len keng, bác xà ích sẽ kể cho mọi người nghe những giai thoại thật đẹp của miền biển mặn mấy mươi năm về trước và sự đổi thay của mấy mươi năm về sau, nhưng sau trước gì thì Bình Thuận cũng vẫn là chốn thân quen của mọi người , với những buồn vui, nhất là những năm tháng bị đoạ đày trên núi rừng ma thiêng nước độc, mà VC gọi là Kinh tế mới. Đời đã khác đi nhiều nhưng vẫn là cái nền mờ tỏ của bao đời tạo dựng, cho nên đâu có ai xóa được "
1- KINH TẾ MỚI ĐỨC LINH, MỒ CHÔN TẬP THỂ NGƯỜI PHAN THIẾT
Tháng bảy ở Phan Thiết, trời hay hờn dỗi nên cứ trút mau những cơn mưa ngày thật buồn. Phường phố quẩn quanh nhỏ nhoi thêm ngụp lặn dưới màn nước xám mù mịt nên càng tiêu điều, tĩnh mịch. Mấy hàng phượng vỹ ven đường, hoa đã rụng hết, chỉ còn trơ lại ít cụm lá hoang, co rúm ngả nghiêng với gió. Ve sầu rên khóc trong hốc cây, sóng vổ ỳ ầm xoáy mạn bờ sông Mường Mán, có tiếng người ca sĩ nào đó, từ chiếc loa khuếch thanh trên đỉnh lầu nước giữa vườn hoa độc lập, nức nở ngậm ngùi qua ca khúc 'đêm buồn tỉnh lẽ' của Tú Nhi, bất chợt khiến cho ta bâng khuâng héo hắt.
Nhưng buồn rầu mấy mấy rồi cũng qua khi trời dứt cơn gió mưa, mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Người người rộn rịp, vui vẻ vì tháng bảy là thời điểm tốt nhất trong năm của dân Phan Thiết. Mùa cá nục, cá chim đã kết thúc sau sáu tháng vất vả vật lộn trên sóng nước. Ngư phủ giờ đây hoan hỉ với túi tiền rủng rỉnh được chia, tha hồ mua sắm. Thật vậy kể từ ngày Việt Nam Cộng Hòa có chương trình cải tiến nông ngư nghiệp, dân làm biển được vay tiền trả góp dài hạn, lãi suất thật nhẹ để đóng tàu, thuyền, mua thủy động cơ và ngư cụ, mà khỏi phải qua trung gian đầu cơ cắt cổ thuở xưa.
Nhờ cải cách này, đời sống của ngư dân được cải thiện, những túp lều tranh vách lá xiêu vẹo tồi tàn được thay thế bằng những căn nhà tôle vách gạch tuy cổ điển nhưng khang trang ấm cúng. Thuyền bè chạy bằng buồm cổ lỗ bị phế thải, nghìn trăm tàu đánh cá nhỏ, lớn đóng theo kiểu Thái Lan, gắn máy kéo Nhật, sơn phết lòe loẹt, san sát xuôi ngược trên sông, biển. Thanh niên nam nữ trong giới này đã biết hưởng thụ vật chất theo thành thị. Khu phố 6, 7, 8, 9 của phường Đức Thắng, dọc bến Ngư Ông, là một trong nhiều xóm làng kiểu mẫu, sau cơn đại hỏa hoạn năm 1956, nói lên sự thành công mỹ mãn của ngư dân.
Ven thị xã, đồng ruộng bát ngát đang ngút ngàn trổ hạt, hương lúa mới thoang thoảng bốc thơm trong gió, đó đây trai gái vui vẻ gặt hái. Lúa đầy kho, khoai sắn la liệt nằm phơi khắp sân, thêm vào đó có đàn heo con ủn ỉn bấu níu vú mẹ trong chuồng, là những món tiền đáng kể. Như ngư dân, nông gia cũng được hưởng chương trình trợ vốn trả góp của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp và Ty Nông Nghiệp, Ty Khuyến Nông.. để mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu rầy và nái giống. Riêng xi măng xây chuồng và thực phẩm dành cho gia súc, được cấp không. Sau ba tháng chăn nuôi, chỉ hoàn lại chính phủ ba con heo con mà thôi, nái được giữ lại. Quỷ phát triển của ngân hàng Á Châu bán máy cày, máy gặt trả góp, trâu bò nay bớt nhọc nhằn phần nào. Mái ngói đỏ chen chúc mọc, nhà nhà vang tiếng nhạc lời ca, phát ra từ chiếc máy thu thanh xinh xắn. Đời sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, với những mối tình chân mộc mạc.
Hoa quả chen chúc trên đất, gỗ quý bất tận chốn rừng hoang, cá tôm hải sản đầy sông biển với khí hậu quá điều hòa thích hợp. Phan Thiết - Bình Thuận đúng là miền đất hứa lý tưởng đời đời của mọi người, nếu không có cuộc chiến tranh trường kỳ do cộng sản quốc tế đề xướng. Rồi thì chiến tranh và máu người dân bất hạnh triền miên chảy suốt non sông, cơ hồ tưới xanh luống mạ. Mộ chí hoang vu lũ lượt chớm mọc khắp nơi, sang hồ, xừ sang, hồ sang xế.. tiếng đàn nhị hồ đưa đám não nuột như bất tận. Miền đất hứa biến thành vùng biển động, sự sống và nỗi chết không phân biệt ranh giới với thời gian, thấy đó chết đó vì mìn bẫy, bom đạn, pháo kích, ám sát và nạn đạn lạc, bắn lầm. Buồn ngồi nhai lại các bài hát thời thượng năm nào của cả hai phía, để thêm tức tủi, ngậm ngùi: 'đời ta thêm vui thắm tươi, vườn mộng xanh khắp nơi, hòa theo tiếng hát tươi vui, mừng thay chúng em nay sống nơi tự do.. là rế rế la phà, mì rề mì, mì mì rề rề rề la mí..' hay '.. bài phong kiến bốc lột, diệt thực dân, đem ấm no hạnh phúc..' Được sống sót trong đêm rã ngũ 18-4-1975 để đối mặt nhận diện bọn việt cộng nằm vùng hay a dua theo kẻ thắng trận, cờ lọng, đèn đóm, phủ phục hai bên vệ đường đón mừng giặc Hồ phương Bắc vào hoan hỉ với túi tiền rủng rỉnh được chia, tha hồ mua sắm. Thật vậy kể từ ngày Việt Nam Cộng Hòa có chương trình cải tiến nông ngư nghiệp, dân làm biển được vay tiền trả góp dài hạn, lãi suất thật nhẹ để đóng tàu, thuyền, mua thủy động cơ và ngư cụ, mà khỏi phải qua trung gian đầu cơ cắt cổ thuở xưa.
Nhờ cải cách này, đời sống của ngư dân được cải thiện, những túp lều tranh vách lá xiêu vẹo tồi tàn được thay thế bằng những căn nhà tôle vách gạch tuy cổ điển nhưng khang trang ấm cúng. Thuyền bè chạy bằng buồm cổ lỗ bị phế thải, nghìn trăm tàu đánh cá nhỏ, lớn đóng theo kiểu Thái Lan, gắn máy kéo Nhật, sơn phết lòe loẹt, san sát xuôi ngược trên sông, biển. Thanh niên nam nữ trong giới này đã biết hưởng thụ vật chất theo thành thị. Khu phố 6, 7, 8, 9 của phường Đức Thắng, dọc bến Ngư Ông, là một trong nhiều xóm làng kiểu mẫu, sau cơn đại hỏa hoạn năm 1956, nói lên sự thành công mỹ mãn của ngư dân.
Ven thị xã, đồng ruộng bát ngát đang ngút ngàn trổ hạt, hương lúa mới thoang thoảng bốc thơm trong gió, đó đây trai gái vui vẻ gặt hái. Lúa đầy kho, khoai sắn la liệt nằm phơi khắp sân, thêm vào đó có đàn heo con ủn ỉn bấu níu vú mẹ trong chuồng, là những món tiền đáng kể. Như ngư dân, nông gia cũng được hưởng chương trình trợ vốn trả góp của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp và Ty Nông Nghiệp, Ty Khuyến Nông.. để mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu rầy và nái giống. Riêng xi măng xây chuồng và thực phẩm dành cho gia súc, được cấp không. Sau ba tháng chăn nuôi, chỉ hoàn lại chính phủ ba con heo con mà thôi, nái được giữ lại. Quỷ phát triển của ngân hàng Á Châu bán máy cày, máy gặt trả góp, trâu bò nay bớt nhọc nhằn phần nào. Mái ngói đỏ chen chúc mọc, nhà nhà vang tiếng nhạc lời ca, phát ra từ chiếc máy thu thanh xinh xắn. Đời sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, với những mối tình chân mộc mạc.
Hoa quả chen chúc trên đất, gỗ quý bất tận chốn rừng hoang, cá tôm hải sản đầy sông biển với khí hậu quá điều hòa thích hợp. Phan Thiết - Bình Thuận đúng là miền đất hứa lý tưởng đời đời của mọi người, nếu không có cuộc chiến tranh trường kỳ do cộng sản quốc tế đề xướng. Rồi thì chiến tranh và máu người dân bất hạnh triền miên chảy suốt non sông, cơ hồ tưới xanh luống mạ. Mộ chí hoang vu lũ lượt chớm mọc khắp nơi, sang hồ, xừ sang, hồ sang xế.. tiếng đàn nhị hồ đưa đám não nuột như bất tận. Miền đất hứa biến thành vùng biển động, sự sống và nỗi chết không phân biệt ranh giới với thời gian, thấy đó chết đó vì mìn bẫy, bom đạn, pháo kích, ám sát và nạn đạn lạc, bắn lầm. Buồn ngồi nhai lại các bài hát thời thượng năm nào của cả hai phía, để thêm tức tủi, ngậm ngùi: 'đời ta thêm vui thắm tươi, vườn mộng xanh khắp nơi, hòa theo tiếng hát tươi vui, mừng thay chúng em nay sống nơi tự do.. là rế rế la phà, mì rề mì, mì mì rề rề rề la mí..' hay '.. bài phong kiến bốc lột, diệt thực dân, đem ấm no hạnh phúc..' Được sống sót trong đêm rã ngũ 18-4-1975 để đối mặt nhận diện bọn việt cộng nằm vùng hay a dua theo kẻ thắng trận, cờ lọng, đèn đóm, phủ phục hai bên vệ đường đón mừng giặc Hồ phương Bắc vào thành phố, có thấy cảnh xử giảo, có nghe tiếng rên xiết của hàng loạt nạn nhân quằn quại dưới trận đòn thù trong đêm tiếp thu và nhiều đêm liên tiếp, mới biết sự đổi đời rất có ý nghĩa, nhất là đối với đám âm binh 30-4, với những kẻ cầu an lừng khừng, với bọn trí thức không tưởng quen bóp méo sự thật, qua cái lăng kính, bất lương, bất bình thường..
Nụ cười hy vọng ngày nào đã tắt hẳn trên môi giới ngư dân, khi tàu thuyền đánh cá vào hợp doanh, chủ nhân là đảng. Song song nhà phố, cơ sở công thương nghiệp, rạp hát, bệnh viện tư, ruộng vườn, nông cơ, nông cụ cả trâu bò.. hoặc vào hợp tác, hoặc là tài sản xã hội chủ nghĩa. Dân làm chủ không, nhà nước, cán bộ đảng xử lý. Cơ cấu phường xã cũng lần lượt thay đổi, anh Chín bí thư, chị Ba phụ nữ mấy hôm đầu, sau đợt cướp ngày, kiếm được cái xe, căn lầu, vàng bạc đô la, lần lượt biến mất hay cũng chỉ như ta sống phất phơ bên lề thế sự, dù vẫn dép râu, nón cối, vai lũng lẳng cái xà cột cho oai.
Cán Bắc, công an răng thưa má hóp vùng Nghệ Tĩnh, thanh niên nam nữ cán bộ đảng chánh hiệu, đầy Bình Thuận, nhởn nhơ dòm ngó, vây bủa đồng bào kín hơn thiên la địa võng. Người Phan Thiết giờ phờ đi với gạo, dầu, phân bón, thuốc men, thức ăn và quần áo. Tay trắng hoàn tay trắng vì sản lượng chi tiêu quái ác. Đời sống văn minh của xã hội miền Nam như cái xe không phanh, vun vút tuộc dốc cầu Mường Mán, từ chết cho đến bị thương thê thảm. Nhiều mẹ Việt Cộng, nhất là miền đất thành đồng Đại Nẩm, Bình Lâm, Tường Phong.. uất ức tự tử vì biết dại, biết hối thì đã quá muộn màng trong cảnh trắng tay, chồng con thành liệt sĩ, còn gia đình thì nghèo đói mạt rệp. Thương ai cho bằng thương thân, những người còn chút phương tiện vội vã bồng bế nhau liều chết vượt biển tìm tự do. Rốt cục lãnh đủ vẫn là giới bần cố nông, vô sản, chỉ được đảng ban phát cho cái vỏ sơn phết, mà bụng thì trống rỗng hơn bao giờ hết vì bế tắc công ăn việc làm. Đói rách, bệnh tật và tuyệt vọng hằng hằng thường trực hành hạ họ.
Như cả nước, năm 1977 người Phan Thiết hoàn toàn sạch hết ngoài cái nhà trống bó buộc phải giữ để lây lất sống, giữa lúc cướp giựt bốc cao, Thuận Hải (Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Tuy) được đảng ưu ái chọn làm thí điểm 101 'KINH TẾ MỚI'.
Phan Thiết hoang vắng như bãi tha ma, đường phố khắp nơi thay tên chất ngất. Những anh hùng liệt nữ dày công đối với xã tắc sơn hà như Nguyễn Hoàng, Lương ngọc Quyến, Huyền Trân Công Chúa, Trần quý Cáp.. được thay bằng những tên Trương Tam, Lý Tứ lạ hoắc, không biết đâu mà mò lý lịch, vì trong dòng sử Việt không hề nói tới. Các phố chính trước năm 1975 như Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thành, Gia Long, Đồng Khánh.. chỉ còn là cái bóng mờ với hằng loạt căn nhà bị niêm phong khép kín. Một vài tiệm buôn của người Hoa còn bị kẹt lại, chưa vượt biên hay đi nước ngoài bán công khai, co rúm sau cánh cửa sắt thu hẹp, buôn bán vặt vãnh chờ thời như chổi, dép râu, cờ đảng, ảnh 'bác'. Thầy giáo Thành, nay là cố chủ tịch nước có hình treo khắp nơi. Cờ đỏ, bảng vàng sơn phết, giăng mắc che kín mặt trời, làm vẩn đục không khí trong lành nơi miền biển mặn. Vườn hoa hoang phế, rạp hát bẩn thỉu vì phim ảnh VC và khối cộng sản tuyên truyền hạ cấp, rẻ tiền, ngày qua tháng lại với hình ảnh Điện biên Phủ, bắn máy bay Mỹ, Anh Trổi, chị Sáu.. Tòa Hành Chánh Bình Thuận cũng như các Ty sở, Tiểu Khu ngày xưa là nơi chốn khang trang lịch sự, nay thành chỗ sống chung hòa hợp, hòa giải, trung lập giữa Cán Bộ từ miền Bắc vào và dòng họ Trư bát Giói. Mùi cám lợn, phân heo và thuốc lào, bốc ra tận đường Chu Mạnh Trinh, Hải Thượng nơi đài chiến sĩ Quốc Gia Việt Nam, khiến khách bộ hành phải nhanh chân rời xa vùng xú uế. Nghĩa trang QLVNCH cạnh QYV Đoàn mạnh Hoạch, tượng Phật Bà Quan Âm lộ thiên trên triền đồi Lầu ông Hoàng bị san bằng, đập bỏ. Chợ lớn trên đường Gia Long vẫn xám đen màu khói từ đêm binh biến 2-4-1975, cầu sắt trên sông Cà Ty gãy nhịp nào ai ngó tới, dù vàng ngọc, tiền bạc và tài sản của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại đã không cánh mà bay mất. Các nhà lều sản xuất nước mắm danh tiếng nhất nhì của Việt Nam từ thời tiền chiến tại Đức Thắng, Bình Hưng, Lạc Đạo sập tiệm vì ngày lại ngày, hàng hàng lớp lớp các xe vận tải, Molotova, GMC giải phóng đưa về Bắc, cho tới nước bổi cũng không chừa. Người người dửng dưng như kẻ lạ xa, mặc sâu bọ cầm quyền trị nước.
Nhớ lại chương trình tị nạn cộng sản của Bộ Xã Hội và chính sách an cư Việt kiều Kampuchia hồi hương năm 1970 của bác sĩ Quốc Vụ Khanh Phan quang Đán, thời Việt Nam Cộng Hòa mà ngao ngán cho kinh tế mới của Việt Cộng tại Đức Linh. Đây là tên ghép của hai quận Tánh Linh và Hoài Đức, tỉnh Bình Tuy thời Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1961, Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì có tình cảm liên quan mật thiết với Bình Thuận khi giữ chức Tri Huyện Hòa Đa và Tuần Vũ tỉnh, hơn nửa có tình bạn sâu nặng với nhà giáo lão thành Hoàng Tỷ, nên Ông đã cấp một ngân khoản lớn để cho đồng bào nghèo tại các quận Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vào khẩn hoang lập ấp tại vùng hoang sơn trù phú của huyện Tuy Định, sau này là quận Tánh Linh. Vùng đất mới được tách thành một quận mới, đó là Hoài Đức, quận lỵ đóng tại Vỏ Đắc. Đây là vùng đất đỏ cao độ hoang vu của tỉnh Đồng Nai Thượng xưa, được tách ra từ tỉnh Bình Thuận, nằm trong sơn hệ Di Linh - Lâm Đồng, phần cuối cùng của rặng Trường Sơn, thuộc cao nguyên nam Trung Phần. Toàn vùng lúc đó chỉ là núi rừng hiểm trở, lắm ác thú như cọp, voi, heo rừng, mảng xà, rắn độc. Khắp nơi muỗi mòng, đỉa vắt sền sệt như bánh canh, đâu có thua gì vùng U Minh, Đồng Tháp. Giang sơn của người thượng Roglai và Chàm, khí hậu ẩm thấp, phong thổ độc địa. Sông La Ngà lắm ghềnh thác, thường gây lũ lụt bất thường vì lưu lượng nước lên xuống không đều, ảnh hưởng của triền núi nơi sông chảy qua. Do trên mực độ dân số trong vùng rất thưa thớt, ngoại trừ Võ Đắc, Lạc Tánh.. là nơi các Trung Đoàn thuộc SĐ18BB thường tạm đóng trong lúc hành quân.
Ngay khi có lệnh đi kinh tế mới, ba câu hỏi đã được đồng bào bàn tán lén lút: đi hay là ở lỳ, cưỡng lệnh sẽ ra sao và Đức Linh là chốn nào nhỉ" Một số còn tiền, chạy vội cái giấy về đất cũ nơi các thôn xóm ven đô như Phú Lâm, Phú Hội, Lại An, Phú Long.. Số khác may mắn hơn được xuất ngoại chính thức bằng tàu của Đảng đậu trước Trường Nữ tiểu học năm 1977, sau khi đóng hết vàng, đô la và hiến nhà cửa cho cán bộ. Chiếc tàu này sau đó đến được trại tị nạn Pulau Bidong của Mã Lai Á, mang số 67, hầu hết là người Việt gốc Hoa giàu có của Bình Thuận. Những người không có tên đi kinh tế mới, thì phải đi nghĩa vụ lao động tại Đức Linh, không phân biệt nam nữ, số tuổi hạn định 17-50, đó là chưa kể tới các nghĩa vụ thanh niên xung phong và nghĩa vụ quân sự, điều kiện ắt có để làm dân thường trú Phan Thiết có sổ gia đình, hộ khẩu và tem phiếu mua nhu yếu phẩm chỉ có bán tại cửa hàng quốc doanh. Viết sao cho hết đây, nỗi thương tâm đau khổ trong những ngày cuối cùng của dịch kinh tế mới. Khắp nơi vang tiếng khóc, người người ủ rũ tựa hồn ma. Chống đối dữ dội lệnh trên, cũng vẫn là những kẻ được đảng nâng niu dụ dỗ buổi trước, đó là mấy bác phu xe, gánh mướn, các chị bán mẹt buôn bưng, anh thợ nề, chú dân biển.. ở các khu phố xôi đậu ven đô buổi trước tại Đức Long, Đức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long.. Vì là thành phần vô sản chuyên chính và có công với đảng, nên các cán bộ khu, phường đều lánh né, mặc sức cho họ tru tréo, trong lúc sắp đi xa. Những người khác, nhất là thành phần bị gán bậy là ngụy quân, ngụy quyền, tư sản mại bản.. thì biết phận, vặt vãnh bóp chắt những thứ còn lại sau cuộc phong trần, bán để có tiền mua đinh, lá, dây lạt và thức ăn khô dự trữ, để bắt đầu làm một cuộc hành trình mới như cha ông ta đã làm từ 300 năm trước, có điều lúc đó tiền nhân ra đi trong phấn khởi đầy lạc thú và hy vọng, còn giờ con cháu lên đường bởi cùm gông và bạo lực. Để gọi là ưu ái với dân, nhà nước tại Bình Thuận cấp tem phiếu mua thuốc phải trả tiền và như thế, lớp lớp người nối đuôi nhau trước nhà thuốc tây quốc doanh duy nhất, trước là nhà thuốc Phạm tư Tề, để mua vài thứ thưốc nội chế bằng võ cây đường bột, ký ninh nivaquine và những loại thuốc chống sốt rét nước độc tại chợ đen đều lên giá vùn vụt theo ngày cách mạng từ rừng vào tiếp thu Phan Thành, để không bị cảnh trâu sau uống nước bùn trâu trước, nhưng biết làm sao hơn"
Phút cuối bị súng đạn bó buộc phải xa rời nơi chôn nhao cắt rún, sao mà buồn quá đổi. Mười ba năm sống đời quân ngủ, ta đã đi cùng khắp mọi nẻo đường đất nước, từ biển lên rừng, chốn đồng quê cho tới thành thị, vẫn được trở về, dù về trong nỗi đau phải mất mát một phần thịt da của mẹ. Nay thì hết thật rồi, nhà xưa thành hoang phế, sự nghiệp nát hơn tương, thân nhân, bằng hữu.. kẻ chết kẻ còn bị tù đầy, còn ta tuổi xanh chịu đời vất vưởng, bất lực. Chỉ còn biết lau nước mắt, cắn nát môi và uất nghẹn căm hờn, lần chót nhìn lại mảnh tường đổ của mái ấm vừa bị hạ, nếp sống cũ bị xóa mờ, chấp nhận làm kẻ lưu vong trên chính quê hương mình.
Một đêm không ngủ, một đêm náo loạn tập thể, kẻ ở người đi gạt lệ an ủi quyến luyến. Các gia đình 'ưu việt' thuở trước tru tréo đảng và nhà nước không tiếc lời. Trưởng khu, chủ tịch, bí thư kể cả công an khu vực trốn mất suốt đêm, vì sợ bọn điên cùng đường trả thù. Cảnh tử biệt sinh ly sao mà buồn lắm thế.
2-ĐƯỜNG LÊN SƠN CƯỚC :
Năm giờ sáng ngày 17-7-1977, trong lúc nạn nhân chưa được hoàn hồn sau một đêm thức trắng thì máy nói, từ đỉnh cao của lầu nước, mở hết tốc độ âm thanh, tru tréo, ra rã thúc hối đồng bào sẵn sàng lên đường. Đoàn thanh niên nam nữ 30-4 theo lệnh hối hả, khuân vác đồ đạc của các nạn nhân ra xe. Phường khóm, tổ khu phố lũ lượt kéo tới chúc mừng, có cả phóng viên, nhà báo, quả là một chuyện ngược ngạo lì lợm, kinh thiên động địa, chưa từng thấy trong lịch sử con người.
Đúng 7 giờ sáng, tất cả xe cộ của chín phường trong thị xã, sau khi hốt đủ người, tập trung tại vườn hoa nhỏ đầu đường Gia Long. Năm Lý, Trung Tá Việt Cộng, chủ tịch ủy ban Kinh Tế Mới Đức Linh, một người phát xít nhưng được hầu hết dân chúng bị đi Kinh Tế Mới rất ái mộ vì ông hiền từ, chân thật, còn có nhân tính con người, trong xã hội hết tình người, đã đọc diễn văn, cắt băng khánh thành rồi ban lệnh khởi hành. Ngay từ đó, hàng trăm tên du kích, công an hầm hầm áp tãi 10.000 người Phan Thiết và 2500 nạn nhân KTM miền Trung trốn trại, lên Kinh Tế Mới Đức Linh để xây dựng cuộc đời mới trong thiên đàng xã nghĩa.
Đoàn xe dài lê thê, hàng nối hàng, chạy vòng quanh vườn hoa nhỏ trước nhà sách Vui Vui, ngược chiều phố Gia Long, Đồng Khánh, Trần quý Cáp với tốc độ chậm, để các nạn nhân được nhìn lại nơi chốn thân yêu lần chót, sau đó nhấn hết ga, mặc kệ đồng bào đang bị chèn ép sau thùng xe vận tải, khiến cho người, đồ đạc, gia súc chen chúc ngồi đứng, dở khóc, dở cười.
Phan Thiết - Đức Linh cách xa 178 km, trừ đoạn đường 58 km trên quốc lộ 1 tráng nhựa tốt, số còn lại từ căn cứ 6 đến Võ Đắc, gọi là Tỉnh lộ 1, chỉ là đường đất đá gồ ghế, nhiều chỗ cầu bị gẫy chưa được sửa chữa, phải chạy vòng dưới lòng suối sâu vô cùng nguy hiểm. Rừng lá tuy được khai quang, nhưng nhiều nơi xe vẫn chui luồn dưới những tàn cây mịt mù sương khói, không nhìn thấy mặt trời, khắp nơi vượn khỉ nhảy nhót trong lùm cây, đa đa gù vang đây đó. Một vài chú sóc tinh nghịch, khi biến, lúc hiện trước đầu xe như trêu chọc người phố thị. Bình Tuy đang mùa nắng cháy, hơi núi bốc nóng như thiêu, cộng với bụi đường đất đỏ, khiến cho ai cũng rã rượi, mệt nhừ vì khát nước, nhồi xốc, chen lấn và tủi phận.
Đường bộ băng ngang thiết lộ tại ga Suối Kiết, muôn năm nằm ngủ quên dưới chân núi Ông mịt mù mây phủ. Từ đây đường bắt đầu lên dốc xuống đồi, nhiều quãng cây cối mọc be ra tới ngoài che kín lối đi. 12 giờ trưa cùng ngày, xe mới tới phố huyện Lạc Tánh, cũng là cửa ngõ vào thiên đàng Kinh Tế Mới Đức Linh. Có tất cả 8 khu vực, 1 nằm bên nam sông là Vỏ Su, kế cầu Lăng Quăng, nối tiếp với Kinh Tế Mới Duy Cần dành cho đồng bào các quận 8, 9, 10 Sài Gòn và Trại cải tạo dân quân Huy Khiêm. Các khu vực khác đều ở bên bắc sông La Ngà, gồm có Đồng Kho, Tà Pao, Bắc Ruộng 1, 2, Nghị Đức, Mê Pu và Sùng Nhơn. Sự sắp xếp tùy theo đoàn xe tới sớm hay chậm, không cần biết khu, phường hay liên hệ gia đình, khiến cho nhiều hộ, cha mẹ ở nam, con cái tại bắc, nhưng đã đến đường cùng, đành cắn răng, bấm bụng, gạt nước mắt mà sống qua ngày.
Lối về đất chết đầy ghê rợn, cồn mây heo hút chắn lối đi, thêm trận mưa rừng đầu mùa, khiến mọi người càng đứt ruột. Xe đã vào truôn, đây là Đồng Kho tre mây nối vòng tay lớn che mát đường đi, lố nhố khắp nơi từng dãy nhà sàn của bộ lạc Roglai xơ xác rã rời với cát bụi thời gian. Rồi thì bờ bụi, lau lách như muốn nuốt trửng con lộ đất đỏ ngoằn ngoèo đầy ổ gà, ổ voi, len lỏi hai bên vách núi cao ngất, dẫn tới thung lũng Đoàn Kết, ủ rủ cheo leo dưới chân rặng núi Ông, đang chực chờ đón người Kinh Tế Mới. Nhiều xe lại bị tách rời, lại những bàn tay khẳng khiu đau khổ đưa vội, vẫy vẫy chào chào, hẹn ngày tái ngộ. Rồi Tà Pao, vùng đất úng thủy, mệt mỏi ngủ lỳ giữa tiếng thác ghềnh gào thét. Chiếc cầu sắt vừa mới được bắc ngang sông La Ngà, còn thơm mùi sơn đỏ, từ xe nhìn xuống thăm thẵm vực sâu, kẻ ở người đi ngàn trăm lưu luyến. Rừng núi cũng hân hoan đón người lạc bước nhưng dân địa phương, đa số là Quảng Ngãi thù ghét ra mặt, lòng dạ sâu hiểm hơn rắn rết, một ngụy hai ngụy, xin nước uống cũng không cho, làm cho ai nấy thêm não nùng cho thân phận con người bại trận, mất nước.
Huy Khiêm, Bắc Ruộng, Nghị Đức, Mê Pu, Sùng Nhơn, Madogui, đèo Chuối trên quốc lộ 20, những địa danh một thời in mòn gót giầy của người lính trận Trung Đoàn 43, SĐ18BB, nay thành chỗ giam giữ nô lệ Phan Thiết. Ngày nóng, đêm lạnh, gió núi, sương rừng se sắt buốt lịm thịt da. Sơn cốc bị đá xanh, mây xám, bụi đỏ miên viễn mịt mờ. Rừng già, rừng xanh chằng chịt, từ đây chúng ta thành sơn nhân, dã thú, ngày ngày ngắm mây trắng la đà ngâm câu 'Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại' của Hàn Dũ khi bị đầy, cho bớt nhớ nhà.. Bắc Ruộng 2, hay Tà Lễ 2 sau là thôn 3, xã Bắc Ruộng, quận Tánh Linh, lừng danh nhất trong 9 địa điểm giam cầm người Phan Thiết. Đây là một làng chiến đấu cũ của Việt Cộng trước năm 1975, vùng oanh kích tự do nên quanh quẩn khắp nơi còn in dấu nhiều nền đất xám, bìm cỏ rậm rịp, đụn mối cao ngất, hầm chông hố bom còn nguyên vẹn chưa được lấp lấy. Thêm vào đó rừng sát đường nên ban đêm văng vẳng tiếng cọp gầm, voi rống, cú vạc tru tréo cầm canh, thay thế tiếng chó gà báo thức. Pháp trường cây xoài quéo, nơi ngã ba vào Nghị Đức như còn ẩn hiện các hồn ma oan khiên Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Cộng kết tội Việt gian, đem xử giảo rồi quăng xác xuống suối cho thú dữ ăn. Máu người hòa với nước mưa làm cho nước lạch lúc nào cũng đỏ thắm không bao giờ cạn và đổi màu.
Nhiều dãy lều Kinh Tế Mới được các nghĩa vụ lao động dựng vội vã cho đạt chỉ tiêu, dọc theo hai bên đường cho tới bìa rừng. Không biết phải dùng cái danh từ gì để gọi nó cho hợp lý, vì láng cũng chẳng phải là láng mà nhà lại càng kỳ cục vì chỉ có mái lá lợp thưa thớt nên các tia nắng mặt trời ban ngày hay ánh trăng đêm tha hồ nằm bên trong thưởng thức. Thảm nhất là hàng cột con ốm yếu, khẳng khiu như kiếp cơ hàn của người dân Việt trong xã nghĩa, chỉ chực gãy mỗi khi gió rừng nổi giận. Chỉ có cái nền nhà là được khai quang, còn bên ngoài cỏ lau xanh ngắt. Đồ đạc, người ngợm bị vứt bên đường, ỳ ạch khuân vác vào địa điểm vừa bốc thăm nhà, đã muốn ngất ngư chết xỉu. Tội nghiệp và thảm thê vô cùng là các gia đình quân công cán cảnh Việt Nam Cộng Hòa có chồng đang còn tù tội, chỉ có một góa phụ và mấy đấng trẻ nít, làm sao đúng tiêu chuẩn lao động sản xuất đây, vậy mà cũng bị hốt lên rừng để xây dựng kinh tế mới.
Mọi sự rồi cũng phải qua, dù thích hay không muốn. Lấy sức người sỏi đá cũng thành cơm, thì sá gì phần ruộng dành cho người Phan Thiết. Kinh Tế Mới lúc đó vẫn còn đắm chìm dưới biển lau sậy, tận hồ Lạc, dưới chân núi Bảo Đại mù mịt hơi sương. Ngày tháng vùn vụt lướt nhanh, người người phờ phạc vì lao tác và thiếu dinh dưỡng. Dầm mưa đội nắng, suốt ngày ngâm mình trong bùn, sình, nước đục, cuốc, đắp, phát quang.. quanh đi quẩn lại, từ 5 giờ sáng thức giấc theo tiếng kẻng gọi hồn cho tới tối mù mịt mới mò về nhà, cũng bấy nhiêu thôi. Tình cờ soi gương, thấy mình như đổi khác, ta đã thành sơn nhân, thành tên ma đói chập chờn vất vưởng trong cõi đời trầm thống não nùng. Thương sao là thương mấy bà, mấy cô em học sinh trung tiểu học năm nào, ngây thơ, bé bỏng, phải xếp bút nghiên theo cha mẹ đi lao động. Mệnh phụ, tiểu thơ, thanh tân, đài các, mắt phượng da ngà, chỉ sau một thời gian ngắn dầu dãi phong trần, tất cả biến thành cô gái lọ lem, quần áo rách rưới, da dẻ xám xịt gầy gò, khấp khểnh vác cây cuốc xã hội chủ nghĩa cao hơn đầu người, tức tủi thương cho phận hồng nhan đa truân, giữa buổi đất trời nổi cơn gió bụi, khóc thét khi đỉa vắt bám vào chân, đùi, nước mắt ràn rụa như không bao giờ vơi trên các khuôn mặt đẹp của một thời hoa bướm, nay chỉ còn hốc hác, héo mòn. Đàn ông, thanh niên, thương gia, trí thức, dân lao động, làm biển.. cũng đâu có sung sướng gì. Tất cả lết lê quằn quại trong địa nguc trần gian. Thần chết cũng đánh hơi bạo lực, bắt đầu đến với người Kinh Tế Mới. Thôi thì đủ thứ, từ chuyện phong thổ u uất ẩm thấp, nước uống thức ăn thiếu vệ sinh và chất bổ dưỡng, muỗi rừng ào ạt tấn công người gây bệnh thổ tả và các loại sốt chết bất đắc kỳ tử. Ngoài bệnh tật, còn chết vì đốn cây, chặt tre vô ý, đi ruộng không coi chừng bị rắn độc cắn cũng chết, đói quá ăn rau nấm bậy bạ trúng độc cũng chết, mìn chông hố bom lựu đạn ngày xưa để lại, thỉnh thoảng nổ bậy, ai bất hạnh trờ tới đúng lúc cũng chết.
Tang tóc, lầm than, khổ đau và nhục nhả vây kín người Phan Thiết bị hốt đi Kinh Tế Mới trong giai đoạn này. Hỡi ơi những năm tháng đời quân ngũ, ta đã chôn người thật nhiều, chôn xác bạn trên chiến trường vội vã, chôn xác thù giữa trận địa hoang liêu. Rồi qua nhiều lò cải tạo, nay đến miền kinh tế mới, lại tiếp tục lo việc chung thân cho bao nhiêu người, nào đồng đội, đồng bào, thân nhân, bằng hữu, tất cả chỉ có hai bàn tay, vài thanh tre, một cái hố thẳm, gói ghém một đời người bất hạnh trót sinh nhằm thế kỷ, ngủ yên trong manh chiếu rách hay chiếc mền tả tơi, bụng rỗng xương sống xương sườn đếm đủ. Tất cả chỉ là cát bụi, 'sinh ký tử qui', thế gian là cõi không không miên trường. Chôn người đâu có gì khó" nhưng đứng nhìn xác chết lạnh tanh, với cảnh thống khổ biệt ly giữa biển nước mắt, nghe lời nỉ non kể lể của quyến thuộc người xấu số, để làm như một kẻ dửng dưng không hề có tình người như người Việt Cộng là một điều cười ra nước mắt:
'.. sao thấy cay xè trên chót môi
rờ tay mới biết lệ mình rơi,
đời người, sinh tử là qui, ký
thì có gì đâu phải rã rời"'
Thế là hết, những người Phan Thiết một đời bỏ đi làm cách mạng, chỉ mong mang lại no cơm ấm áo cho đồng bào mình nhưng họ đã lạc lầm chạy theo chủ nghĩa ngoại lai, nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của cộng đảng quốc tế từ Mạc tư Khoa, Bắc Kinh, Hà Nội, mang thương đau về cho xứ sở, chốn chôn nhao cắt rún, cho thâm tình bằng hữu và mọi gia đình, để đổi lấy chút tem phiếu và quyền lợi thừa mứa do đảng và nhà nước vung vãi khi đã ôm ngập tới đầu. Đói, chết, tuyệt vọng trùng trùng đã khiến cho người Phan Thiết quật cường trở lại. Thế là bất chấp du kích công an, đồn canh trạm gác, kiểm soát khắp nơi như thiên la địa võng, mọi người khăn gói bồng bế nhau trở về. Đây là cuộc di tản cuối cùng của người Việt Phan Thiết sau ngày mất nước 30-4-1975.
Từ đó Phan Thiết trở thành quê hương của đói rách lầm than. Người người dửng dưng trước thời cuộc, nhắm mắt xuôi tay chấp nhận kiếp số. Phó mặc cho đảng và cán bộ đẩy đưa, xếp đặt, coi như mình không có hiện diện trong cõi đời này. Phố Gia Long, nay đổi thành Nguyễn Huệ, nhưng có mang cái tên gì chăng nữa thì đó cũng thành khu chợ trời công khai, người ta, kể cả cán bộ Bắc hồi kết Nam, mang những thứ của công chiến lợi phẩm hay mua rẻ hoặc móc ngoặc từ quốc doanh, nhà kho.. ra bán cho phó thường dân với giá cắt cổ. Đây cũng là chốn bàn bạc áp phe và toan tính chuyện vượt biên, vượt biển. Ao rách bạc mầu vá víu chen lẫn với bò vàng cán ngố, cười đó rồi trở mặt đó, tuồng hát cứ quay tít trong sự lường gạt đấu trí với nhau để sống còn. Riêng các nạn nhân Kinh Tế Mới, bắt rồi thả, sáng nay đẩy lên xe về rừng, mai mốt đã thấy xuất hiện nơi phố chợ. Nhà tù chật cứng, tư cách gì bắt dân thường đi cải tạo, hơn nữa chỉ tiêu Tỉnh đã đạt được 150%, nhà của Họ cũng đã bị chiếm, thôi làm lơ cho yên việc. Từ đó quán cà phê mọc lên như nấm vẫn không đủ chỗ cho người thất nghiệp. Nhà ga xe lửa Phan Thiết, vườn hoa đường Nguyễn Hoàng, bến cá Cồn Chà.. thành khách sạn miễn phí của người tay trắng từ Kinh Tế Mới chạy về. Ngày tỏa ra khắp nơi kiếm ăn, tối tụ lại ngủ chung tập thể khắp sân ga, hiên người, tắm nước sông, uống nước máy, biến thành con ma chơi, kẻ tha nhân ngay chính trên quê hương do Tổ tiên, cha ông và ngay bàn tay gầy dựng của mình.
3-RỦ NHAU BỎ XỨ MÀ ĐI VƯỢT BIỂN :
Người Bình Thuận đã bỏ xứ mà đi ngay khi giặc về đêm 18-4-1975, đa số là người Bắc di cư ở các phường ven biển như Thanh Hải, Phan Rí, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú và nhất là Bình Tuy. Từ những năm 1977 tới 1980, đảng Cộng Sản qua công an và hải quan 'bán chính thức' tổ chức vượt biển để lấy vàng, dù trước đó, luật pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, luật hình sự, điều 85, mục 2 và điều 88, xử phạt nặng kể cả công an, cán bộ cưỡng ép, xúi giục người trốn ra nước ngoài. Năm 1977 khởi đầu thử nghiệm chuyện xuất cảng người, mà đối tượng là giới tài phiệt Việt-Hoa, theo thời giá mỗi đầu người 10 lạng vàng y, trị giá 4000 đô la Mỹ. Cũng trong năm này, Phan Thiết có tổ chức đi bán công khai nhưng sau đó dẹp luôn vì ai cũng muốn đi chui, vừa rẽ lại an toàn.
Có một điều tréo cẳng ngỏng là Bình Thuận là nơi có nhiều cửa sông, bến cảng, ghe thuyền lớn và rất nhiều, nhưng hầu như có ít tầu ghe vượt biên, ngoại trừ số ra đi năm 1975. Tại trại Pulau Bidong, từ năm 1977 cho tới 1980, có tới mấy trăm tàu vượt biên, nhưng ghe Bình Thuận chỉ có chừng 5 chiếc, một là tàu đi bán công khai năm 1977, số còn lại là chiếc giã Nùng Phan Rí, I chiếc khác mang số Phan Rí là tàu quốc doanh và chiếc duy nhất có 32 người Phan Thiết, đi ngày 31-10-1978 tại bãi Thương Chánh, mang số PT1109, là tàu số 100 của trại Bidong, Mã Lai Á. Vào tháng 9/1978, lợi dụng Việt Cộng Bình Thuận no say ăn mừng, một chiếc tàu đánh cá hạng trung tại Bình Hưng, chở trên 200 người, công khai ra biển vào ban ngày. Chiếc tàu vượt biên may mắn trên lại gặp may mắn lần nữa khi tiếp cận với một chiếc tầu dầu Mỹ, tất cả được vớt và gởi tạm thời tại một trại tị nạn ở thủ đô Jakarta, Nam Dương.
Sau này, nhiều người Phan Thiết vượt biển kể rằng sở dĩ họ không dám vượt biên ở tỉnh nhà vì hầu hết những người có tàu thuyền tại địa phương rất gian xảo, đồng ý tổ chức lấy vàng, rồi đi báo công an, sau đó tiếp tục làm lại từ đầu. Nhưng theo dân biển, thì họ cũng bị người đi vượt biên gạt bằng cách chung vàng giả, chỉ có lớp vàng mạ ở bên ngoài, bên trong là chì, bạc hay là đồng. Tóm lại ai thật ai giả, không biết đâu mà mò. Nhưng có điều chắc chắn là từ sau năm 1980, gần 90% các chủ ghe tàu Bình Thuận đã đem tàu thuyền của họ ra đi không trở lại, mãi tới đầu năm 1990, khi Đông Au, Liên Xô giã từ thiên đàng xã nghĩa, Việt Cộng đói quá chịu mở cửa đón Việt kiều khúc ruột xa khơi trở về, các chương trình đoàn tụ gia đình, diện con lai, HO.. và trên hết quốc tế chấm dứt nhận người vượt biển, người Bình Thuận mới chịu chấm dứt mộng du học ngoại quốc bằng đường biển.
Lai thêm một năm buồn ly xứ sắp tới, đêm nay trời Xóm Cồn bổng lạnh buốt, như những lời thơ thảm tuyệt của bạn già gửi từ Kinh tế mới Đức Linh tới :
' thư bạn gửi từ vùng kinh tế mới
đến tay ta hơn sáu chục ngày dài
giọng đùa cợt như thuở chớm đôi mươi
nhưng bút mực làm sao che nước mắt
*
Đọc thơ bạn giữa đất trời cô độc
đêm nay buồn thổn thức với quê hương
thảm thương ơi bao bè bạn đoạn trường
giờ vẫn trả nợ trai thời tao loạn.
Xóm Cồn, Chạp 2005
MƯỜNG GIANG

Monday, November 21, 2022

Bạn có thể mua kiến-

thức MIỄN-PHÍ nhưng

bạn có thể phải trả

giá RẤT ĐẮC cho sự

ngu-dốt của mình.

Sunday, November 20, 2022

                                                TÌNH HÌNH TẠI BÌNH GIÃ TRƯỚC KHI XẢY RA TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ VÀO CUỐI THÁNG 12/1964.

Dịch từ: trang 175 - 179 của quyển "Dai-Uy" của cựu trung tá hồi hưu James Behnke, từng là cố vấn của TĐ 33 BĐQ của VNCH.

1/ CHI KHU ĐỨC THẠNH BỊ PHÁO KÍCH

"Sau đó, hiệu thính viên Chan gọi tôi nghe máy. Đó là một phi công L-19. Y đang ở trên khu vực của tôi. Dù tôi ko thể nghe tiếng máy, tôi vẫn biết rằng y ở trên cao và về hướng tây, giữa tôi và Sài Gòn. Y nói với tôi sẽ có mặt suốt đêm. Nghĩa là bao vùng. Y sẽ là đài tiếp vận (relay) của tôi, nghĩa là tôi có thể liên lạc với các cố vấn Mỹ ở BTL quân đoàn ngay lập tức. Thông thường, đơn vị bộ binh dưới đất phải liên lạc mỗi đầu giờ với máy bay, nhưng vì chỉ có mình tôi, nên tôi ko thể làm điều đó. Tôi nói với y đừng trông chờ tôi gọi y vì tôi cần phải ngủ. Nếu tôi cần, tôi sẽ la hoán lên (holler/yell). Y đáp nhận (roger), và nói y luôn túc trực (stand by). 

Tôi ngủ rất nhanh. Đột nhiên tôi đánh thức bởi những tiếng nổ lớn kinh khủng. Bum. Bum. Bum. Tôi bật dậy, mắt mở lớn. Mọi người đều bật dậy và nhìn chung quanh. Điều gì xảy ra. Đột nhiên tiếng súng im bặt. Khoảng 30 hay 40 viên đã được bắn.

Chẳng bao lâu chúng tôi biết điều gì đã xảy ra. Một tiền đồn nhỏ ở đầu phía tây cuả làng đã bị pháo bằng cối. (Tiền đồn này là chi khu Đức Thạnh, nằm ngay trên liên tỉnh lộ 7, đường từ Xuân Lộc đi Bà Rịa -- người dịch). Tôi thắc mắc tại sao chúng ko pháo chúng tôi. Cuối cùng tôi cũng biết. Chúng ko pháo vào làng vì có dân. Chúng chỉ pháo vào tiền đồn. Do đó chúng tôi ngủ tiếp.

2/ BẮN LẦM Ở VƯỜN CHUỐI

Ngày kế, 7/12/1964. Chúng tôi rất vui khi thấy chiến xa và thiết vận xa vào làng. Tôi gặp đại úy cố vấn Mỹ của chi đoàn -- một sĩ quan da đen có tên White có thân hình vạm vở (heavy set) và vui tính. Chúng tôi trò chuyện vui vẻ. Các thiết vận xa của y sẽ phối hợp với chúng tôi để bảo vệ làng. Riêng xe tăng sẽ ở những nơi dễ bị tấn công nhứt. Có lẽ cả hai đơn vị (đv) sẽ ở lại làng này vài ngày. 

Vào cuối ngày thì có chuyện. Tôi đang ở quảng trường của làng thì đại úy cho người gọi tôi. Tôi xách máy truyền tin và chạy tới chỗ ông. Ông đang ở rìa bắc của làng. Một số lính BĐQ trong khi tuần tiểu khu vực này, đã nghe dân làng nói vài VC đang đào hố (hole up) trong một vườn chuối ở đông bắc. Vườn này rất sát làng. Thực ra, khu vực bắc làng là đồng trống dài nửa dặm hay 800 mét. Vườn chuối này nằm giữa cánh đồng này.

Đại úy yêu cầu tôi kêu trực thăng võ trang bắn vào khu vực này. Tôi gọi một chiếc, nhưng trong khi chờ nó tới tôi nghi ngờ về yêu cầu này. Có thể có sai lầm. Vườn chuối ở giữa đồng trống. Tại sao VC lại trốn ở đó? Dĩ nhiên, chúng có thể. Nhưng cũng có thể có dân làng ở đó. Tôi hỏi đại úy để xác nhận, để chắc chắn ko có người vô tội ở vườn chuối. Ông gửi vài người già đến đó. Họ đã tới và bảo đảm với chúng tôi rằng ko ai ở đấy. "VC, VC," họ nói luôn miệng.

Khoảng thời gian đó, các trực thăng đã tới mục tiêu. Tôi điều chỉnh tác xạ. Chiếc đầu tiên nổ súng tấn công từ nam lên bắc. Viên phi công làm tốt công tác vì ko viên nào rơi ngoài mục tiêu. Vườn chuối bị bắn nát (chewed to bits). Đột nhiên, điều khủng khiếp xảy ra. Dân làng chạy khỏi vườn chuối vừa kêu khóc.

"Có dân làng," tôi thét lên. Tôi chụp com-bi-nê và hét vào máy "ngừng bắn".

Chiếc trực thăng ngừng bắn lập tức và quẹo trái (banked left). Dân làng hoảng sợ vừa kêu la vừa chạy khỏi vườn chuối. Khi tới gần họ, tôi thấy một người đàn ông ẳm một em trai. Em này hình như (appear) đã chết. Tay buông xuôi, đầu nghẹo ra sau (tilted back). Em bị trúng bốn nơi. Hai ở tay và hai ở ngực. Máu me khắp người (what a bloody mess). Tôi lập tức gọi chiếc võ trang, chiếc đã bắn em, đưa em đi bịnh viện. Máy bay đáp xuống và chúng tôi đưa em lên. Khi máy bay cất cánh, nước mắt tôi dâng trào.

Tôi nổi giận với chính tôi, với thế giới, với cuộc chiến này. Tôi tháo nón và ném ra xa. Tôi đứng đó, như một pho tượng, hai tay buông xuôi. Tôi chạy nhanh về làng, nước mắt tuôn trào. Tôi vừa giết một đứa bé vô tội. Tất cả giận dữ và thất vọng và đau khổ của 5 (năm) tháng phục vụ tại Việt Nam đã khiến tôi khóc nức nở (pour out in sobs). Tôi chạy đến quảng trường của làng và tới phía sau nhà thờ, dựa súng vào tường để nghỉ một lát. Ngồi trên ghế dài (pew) cuối nhà thờ, tôi khóc nức nở. "Tôi phải làm gì bây giờ, thưa Chúa?," tôi tự hỏi. "Rời bỏ nơi đây? Về nhà? Tiếp tục chiến đấu?"

Người tôi tan nát (I was so torn). Tôi đã từng học để trở thành mục sư (study for the ministry). Nay một đứa bé chết bởi tay tôi. Tôi phải làm gì? Rời bỏ quân đội và trở lại chũng viện (go back to Seminary)? Tôi cầu xin Chúa tha thứ tôi và chấm dứt chiến tranh, chấm dứt cuộc giết chóc bất tận này đối với gần như mọi người Việt Nam. Nhưng tôi lại nghĩ, tôi đã ko can đảm rời bỏ quân đội để trở về chũng viện. Tôi đã hứa với Chúa nhiều lần trong quá khứ. Lần này tôi chỉ nói, "Ngài hảy làm những gì ngài muốn."

Sau vài phút, nước mắt đã cạn, tôi đi về phía sau của nhà thờ, lấy súng, và đi bộ tới tiểu đoàn. Tôi phải ở với họ.

3/ THIẾT GIÁP BỊ PHỤC KÍCH TRÊN LIÊN TỈNH LỘ 7

Ngày kế là một ngày nghỉ. Thật vui khi đi bộ quanh làng, nói chuyện với dân và xem cách họ sống. Tôi thật sự rất vui. Tôi thụ hưởng từng khoảnh khắc. Đây là một ngày xả hơi, quên mọi khủng khiếp của chiến tranh.

Ngày kế chúng tôi được lịnh di chuyển. Chúng tôi sẽ lục soát khu vực phía đông Bình Giả, hướng mà địch rút. Đây là một hành quân phối hợp với xe tăng và thiết vận xa của đại úy White yễm trợ chúng tôi. Buổi sáng đó trời tốt. Chúng tôi bị bắn sẻ một hai phát khi di chuyển về phía đông làng, nhưng ko có gì đáng lo. Địch ko tấn công xe tăng và thiết vận xa giữa đồng trống. 

Lát sau, thiết giáp cho biết đã bắt một VC địa phương. Tôi ko thể hiểu được vì ko có làng nào quanh Bình Giả và người dân ở đây đều thân thiện với chúng tôi. Nhưng họ lại nói đã bắt một VC. Vào lúc đó, đại úy White có lịnh rời Bình Giả và trở lại Vũng Tàu. Thật là lạ, vì cuộc hành quân chưa kết thúc. Chúng tôi di chuyển về làng và được lịnh ở lại. Đơn vị của đại úy White phải đi về phía tây của làng và dùng liên tỉnh lộ 7 để xuôi nam về Vũng Tàu. (Liên tỉnh lộ này, đã được sư đoàn 18 bộ binh dùng để rút lui khỏi Xuân Lộc tháng 4/1975 -- người dịch). Chúng tôi vẩy tay chào đoàn xe thiết giáp.

Khoảng nửa giờ sau, ở khoảng cách rất xa, chúng tôi nghe những tiếng nổ. Tôi và đại úy nhìn nhau. Có chạm súng. Chúng tôi quá xa họ để nghe tiếng súng nhỏ, nhưng chúng tôi có thể nghe tiếng súng của đại liên 50 đặt trên thiết vận xa và xe tăng, và những tiếng nổ của súng 57 ly không giật của VC. Như vậy là thiết giáp bị phục kích. Chúng tôi bất lực nhìn nhau. Nếu chúng tôi di chuyển bộ, xuyên khu rừng này, tới địa điểm phục kích, thì mọi thứ đã xong. Tôi cảm thấy thất vọng. Chúng tôi biết chúng tôi phải làm gì, như đi tới đó để giúp đại úy White. Tôi muốn làm điều đó, nhưng đồng thời tôi cũng ko muốn đi vì biết địch đã giăng bẫy nếu chúng tôi tới. Tôi vừa thất vọng và hổ thẹn. Nhưng tôi ko có quyền quyết định, mà thuộc phía BĐQ. Họ ko di chuyển. Có lẽ họ được lịnh ở lại giữ làng dù cho tình hình diển thế nào.

Sau đó tôi có tin đại úy White đã thoát cuộc phục kích. Lúc đó ông ở giữa đoàn xe và có thể bị giết, nhưng ông đã đạp tay ga (jam the accerator) của xe jeep, và vượt qua những xe tăng và thiết vận xa bị cháy và tới nơi an toàn. Không trúng phát đạn nào. Một số xe tăng và thiết vận xa cũng thoát cuộc phục kích. Sau đó chúng tôi biết rằng SÁU xe thiết giáp bị tiêu diệt, bảy người chết, 20 bị thương, và 14 mất tích, trong đó có một trung sĩ Mỹ. Cuộc phục kích xảy ra và kết thúc nhanh chóng. Sau đó đại úy gom lại những kẻ sống sót và đi về phía Vũng Tàu. Máy bay của không quân VNCH đến ném bom và bắn phá, nhưng quá trể. 

Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn ra lịnh TĐ 33 BĐQ ở lại Bình Giả vài ngày.

Monday, November 14, 2022

 Những sự thật về trận Bình Giã

01 Tháng Mười Một 201012:00 SA(Xem: 2205)
Những sự thật về trận Bình Giã
51Vote
41Vote
30Vote
20Vote
10Vote
4.52
Lá thư của một QN đơn vị cũ:

Đã 44 năm, kể từ ngày 31 tháng 12 năm 1964, đột nhiên tôi nhận được một lá thư khá dài của một QN đơn vị cũ, nguyên là một Hạ Sĩ Quan Trừ Bị phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, từ tháng 6 năm 1963 đến cuối năm 66. Tôi thật bất ngờ và rất xúc động khi đọc những dòng tâm tư chân thật nhưng nhiều cay đắng của anh. Sau đây là những trích đoạn khiến tôi bàng hoàng và thiển nghĩ là sẽ khiến cho chúng ta suy gẫm:

Kính anh Toàn,

Tình cờ đọc được địa chỉ của anh trong Đặc san Đa Hiệu ở nhà một người bạn, tôi muốn liên lạc với anh, cũng là cấp chỉ huy của tôi ngày trước (6/1963), già rồi muốn tìm lại một vài hồi ức trong quá khứ. Không biết anh có chấp nhận không?

Kính anh, tôi là TS Trần Văn Của, SQ 62A/701.458 thuộc Ban 4/TĐ4/TQLC. Lúc mới ra trường thuyên chuyển về TĐ, có thời gian vài tháng ở chung ĐĐ2 với anh, lúc đó Đ/U Trần Văn Hoán ĐĐT, anh là ĐĐP, rồi C/U Đơn, C/U Chí, C/U Long… Tôi nhớ ghi lại đây tất cả các cấp chỉ huy còn lại trong TĐ anh xem có đúng không? BCH/TĐ Đ/U Lê Hằng Minh TĐT, Đ/U Tôn Thất Soạn TĐP, C/U Đặng Văn Học Ban 1(T/S Tấn), C/U Nguyễn Văn Thinh Ban 2-An Ninh (Th/S Nhung), C/U Nguyễn Văn Trực Ban 3, Tr/U Ng Văn Thuận Ban 4 (T/S Của) Ch/U Lê Văn Hiếu Tiếp Liệu (T/S De), Ban 5 (Không nhớ), Ban Quân Lương (Th/S Lượng), ĐĐCH Ch/U Roanh. ĐĐ1 Đ/U Nguyễn Thành Trí, C/U Song mặt hơi rỗ, C/U Hưng (ba gai). ĐĐ2 Đ/U Hoán, Th/U Toàn, C/U Đơn, C/U Chí, C/U Long… ĐĐ3 Đ/U Trương Văn Nhứt, Th/U Tùng, C/U Lịch… ĐĐ4 (trước không nhớ) sau Đ/U Vượng, T/U Tống, C/U Nghiêm, C/U TX Quang. Quân Xa T/S Búp.

Thưa anh, nhân sự lúc bấy giờ tôi nhớ được bao nhiêu đó, sau ngày anh bị thương rồi, Võ Kỉnh mới về, chuyện đó đã 43 năm qua rồi. Nhắc lại xưa quá phải không anh? Không biết anh có thích nghe chuyện đời quân ngũ trong quá khứ không? Người ta nói già rồi ưa nghĩ về quá khứ, tuổi này mà nghĩ đến tương lai thì không biết bắt đầu từ đâu. Tiếc rẻ quá khứ là đối với những người uy quyền, ăn trên ngồi trước, hưởng nhiều bổng lộc, nay thì không còn nữa, mới nhớ những ngày vàng son, còn thân phận những người cấp dưới được ví như con chốt trên bàn cờ: Tướng Sĩ Tượng thủ thành. Xe Pháo Ngựa còn chạy tới chạy lui, lúc nào cần thí thì đút đầu vô. Còn thân phận chốt là cứ đi tới không được lui, số mạng sống chết là tùy đầu óc của người điều khiển có thông minh hay không? Có mưu lược cao hay không? Thưa anh, tôi là HSQ/TB, lên đường thi hành nhiệm vụ của người trai trong thời chiến, tôi có được 3 năm rưỡi sống với binh chủng TQLC, giải ngũ cuối năm 1966, không thăng cấp, không huy chương, không chiến thương (mặc dầu có bị thương 2 lần), bị đì vì cấp chỉ huy không thích người lính ba gai. Do đó, mới bị đưa đi học Khóa 13 Rừng Núi Sình Lầy, đâu giữa năm 64 gì đó. TQLC mà đi học RNSL của BĐQ lúc đó thật lạ. Tr/Tá Nguyễn Văn Kiên làm CHT, SQ Kỹ luật Hướng dẫn là C/U Giao, Vân. Trước khi giải ngũ khoảng 6 tháng lại bị thuyên chuyển về TĐ5/TQLC của Đ/U Nhã, xuống ĐĐ2/TĐ5 của Tr/U Phán, bị đì hành quân mút mùa không được về hậu cứ trước khi giả ngũ, phải lố thêm 2 tháng của thời hạn quân dịch (4 năm 2 tháng). Chính vì nhiều kỷ niệm buồn vui của đời lính tuy không lâu nhưng nhớ hoài hình ảnh người lính áo rằn mũ xanh. Mặc dầu ở cấp bậc hay chức vụ nào mà mình hoàn thành được nhiệm vụ thì rất hãnh diện, thấy không hổ thẹn. Nhưng riêng tôi thì không làm được, ôm hồ sơ quân bạ với 64 ngày trọng cấm, đến cấp chỉ huy nào hay đơn vị nào các anh cũng không thích người quân nhân vô kỷ luật. Có nhiều khi lỗi ở mình, cũng có nhiều khi lỗi tại cấp chỉ huy tạo cho mình trở thành vô kỷ luật. Bây giờ lớn tuổi nằm đêm mất ngủ nhớ lại chuyện xưa thấy hổ thẹn, đôi lúc cũng thấy vui vui…

Phải chi ngày 30.4.75 tất cả cấp chỉ huy mà vô kỷ luật, bất tuân hành lệnh cấp trên, không tuân theo lệnh của Tổng Thống đầu hàng thì Miền Nam chưa đến nỗi phải lọt vào tay giặc. Có mất cũng thời gian lâu hơn. Còn súng đạn cứ đánh. Tiếc quá đếm lại thì được có mấy vị Tướng còn giữ được sĩ khí, tiết tháo anh hùng, không đầu hàng giặc. Không hiểu còn những ông, giặc chưa đến mà bỏ binh sĩ chạy trước. Những vị buông súng đầu hàng, chấp nhận nhục nhã tự ôm gói vào trại tù. Chắc các vị đó còn nghĩ đến CP 3,4 thành phần, còn giữ được tiền tài, danh vọng. Làm Tướng mà thành mất sao không chết theo thành. Nước mất nhà tan mà các ông còn sống nhăn răng. Không biết hồi học binh pháp, chiến thuật các cấp chỉ huy có học bài nào đầu hàng hay không? Riêng thuộc cấp tôi nghĩ không có bài đó. Tôi thấy Quân Đội Nhật không có bài học đó. Nên lúc Nhựt Hoàng tuyên bố đầu hàng, bài học là phải mổ bụng tự sát để giữ gìn sĩ khí, danh dự. Bậy quá, đó là tậm sự trăn trở của người lính già. Sau bao nhiêu năm còn đau nhói. Sao phải viết dài dòng lên đây khi mà anh chưa nhận ra người thưộc cấp cũ. Không biết nhìn hình ảnh anh có nhớ lại không? Nếu có nói gì không đúng xin anh bỏ qua.

Thưa anh, mục đích liên lạc với anh là để nhớ lại hình ảnh người lính áo rằn ngày xưa, mà tôi rất quí và thương những người lính đó, với chiếc ba-lô nặng trĩu trên lưng, vai mang nặng nề cây súng cổ lỗ sỉ thời Đệ II thế chiến. Phát một đơn vị hỏa lực đạn không đủ để đánh nhau với trận địa lớn như Bình Giả. Đâu có áp lực nặng của địch là được điều động đến để làm con ghẻ. Mặc tình cho mấy ông Tỉnh xài, thí mạng, công lao các ông huởng, chết chóc thì người lính TQLC lãnh đủ. Hình ảnh trận Bình Giả tang thương cỡ nào cho đến nay tôi không quên được. Chỉ vì tìm tông tích của chiếc trực thăng Mỹ gặp nạn, mà cấp trên tức tốc ra lệnh xua quân vào mục tiêu để tiếp cứu, trở thành một cuộc điều quân gấp rút, thiếu chuẩn bị, thiếu nghiên cứu, không nắm rõ tình hình địch, thiếu chuẩn bị phi pháo yễm trợ, cho nên TĐ4/TQLC phải chiến đấu lẻ loi. Một chống với lực lượng địch gấp 3, 4 lần. Hình ảnh của anh Đỗ Hữu Tùng ĐĐT/ĐD2 bị bao vây phải mở đường máu thoát về làng Bình Giả. Lúc đó, đại diện cho Ban 4 TĐ hành quân tôi đi với Tiểu Đoàn Trưởng Nho để lo về Tiếp vận, tôi nghe được những lời khiển trách thiếu xét đoán của cấp trên đối với cấp dưới, rồi ra lệnh cho anh Tùng gom lính thất lạc về nằm lại giữ làng Bình Giả. Nếu anh TĐT tin theo lới của anh Tùng báo cáo về tình hình địch mà anh đã đụng độ sáng nay, thì có kế hoạch HQ mới phải tính toán lại trước khi vào mục tiêu. Đằng này anh Nho lại cho các ĐĐ còn lại vào đường cũ của anh Tùng bị lọt gọn vào ổ phục kích buổi sáng. Thời gian anh có ở chung với anh Hoán mà anh có biết anh Hoán có tài bấm độn ngón tay tiên đoán vận mệnh không? Ra khỏi tuyến xuất phát lò tò theo anh ấy, anh ấy đưa tay lên bấm, đếm từng lóng tay rồi nói ngày nay, 31/12/64) không hạp cho số 4, có chuyện không lành! Nghe thì nghe thôi, mấy người tò te đâu có nghĩ gì. Không tin vì từ ngày đơn vị thành lập cho đến giờ ra trận là tốc chiến tốc thắng, xem địch đâu ra gì (khinh địch).

Từ trên lộ đất đỏ dẫn đến mục tiêu, khoảng cách chừng 3 Km, hai bên lộ đỏ là vườn chuối. Mục tiêu trước mặt là một vườn cao su rộng lớn. ĐĐ1 anh dẫn đầu, ĐĐ4 anh Tống bên cánh trái, ĐĐ3 anh Huệ bên cánh mặt. BCH/TĐ đi sau anh. ĐĐCH đi bọc hậu BCH/TĐ. Ngày hôm sau vào gom xác anh em mới phát hiện bên cánh trái không xa lắm, VC nó đặt mấy cây súng cối 82 ly. Nếu đội hình ĐĐ4 mở rộng một chút xíu nửa là đã gặp rồi. Có thể trận đánh đó chuyển hướng. Lúc ĐĐ1 gặp được chiếc trực thăng cùng 4 xác phi hành đoàn, thấy anh em mình bị treo cổ. Một số xác chết của binh sĩ ĐĐ2 bị VC lột hết quần áo. TĐT cho lệnh tiến lên phía trước. Các ĐĐ bắt tay làm vòng đai bao bọc mục tiêu thì Đ/U Hoán cầm bản đồ tiến lên gặp TĐT trình bày, chỉ tay lên những vòng cao độ và nói: Thiếu Tá nên cho quân tiến thêm một khoảng nữa để chiếm giữ ngọn đồi cao, thì liền bị anh Nho quạt, có đệm tiếng Tây khó nghe. Anh chỉ lấy xác rồi rút ra chớ đâu có ngủ đêm ở đây mà phải chiếm địa thế cao. Thì ra lúc đó tôi mới biết trong gia đình cơm không lành canh không ngọt. TĐT với TĐP không thuận với nhau nên không bàn bạc trước khi hành quân. Từ đó, Đ/U Hoán không thấy đến gần TĐT để cộng tác điều động các ĐĐ mà anh ấy đi riêng lẻ với tà lọt. BCH/TĐ tiến vào bên trong vườn cao su. ĐĐCH còn nằm trên lộ đất đỏ. Ngoài vòng đai, các ĐĐ báo về mặt nào cũng có VC xuất hiện đông lắm tiến vào áp lần lần đến đơn vị. Tôi nghe anh Nho cho lệnh xuống các ĐĐ một binh sĩ một gốc cao su chờ đến khi nào chúng vào đến cách 50 m mới đươc khai hỏa. Lệnh chắc nịch và coi rẻ tụi VC, rất tự tin. Tôi nghĩ vậy và chắc các anh em trong đơn vị cũng nghĩ vậy. Mình nằm sẵn nó mang mấy cái bia thịt vào thì có nước làm mồi cho Kình Ngư thôi. Nên rất yên tâm không lo nghĩ nhiều. Lúc đó khoảng 3-4 giờ chiều, mà tiếng súng khai hỏa không phải của các ĐĐ tác chiến bên ngoài mà của người lính Thám Báo của ĐĐCH, hắn đi vào vườn chuối lớn để đi đại tiện. Còn ĐĐCH rất ỷ y còn lột nón sắt lót ngồi dài trên lộ đỏ, cứ nghĩ có đánh nhau thì các ĐĐ tác chiến bên ngoài đụng trước cho nên tỉnh bơ, trong lúc bên ngoài VC xiết vòng vây, thì anh lính Thám Báo phát hiện VC nằm lềnh kênh trong đó, bèn la lên VC!,VC! rồi sẵn cây tiểu liên trên tay anh khai hỏa luôn. Đó là lực lượng khóa đít của VC chờ cho ĐĐCH lọt vào vườn cao su là khóa lại. Không ngờ ĐĐCH còn cái đuôi dài phía sau. Do đó, khi súng đã nổ, VC không khóa đít đươc vì ĐĐCH nằm thủ bên bờ phải lộ đất đỏ chống trả nên chúng chuyển hướng tấn công bên hông trái của anh Tống. ĐĐ4 vừa chống VC trước mặt vừa bị đánh bên hông. Bên ngoài VC chết như rạ. ĐĐ1 và ĐĐ3 bền chặt giữ vững vòng đai, từ từ khai tử từng tên. Tiếng súng nhỏ lớn nổ inh ỏi điếc tai. Súng cối 82 ly chúng câu vào. Đại bác KZ 57 ly bắn trực xạ. Lực lượng VC đông như kiến. Chết bao nhiêu chúng cứ tràn vào. Tôi nhớ đánh nhau đến khi mặt trời lặn, ĐĐCH bị địch cắt làm đôi. Số nằm ngoài vòng vây từ từ rút về làng Bình Giả. BCH/TĐ bị pháo tới tấp. Cành cây cao su gẫy đổ, mủ nhiễu xuống ướt cả mình. Cố vấn Mỹ kêu được 2 gunships lên không yểm trợ đươc vì hai bên quá sát gần, thế là nó bay mất. Cố vấn bị thương, TĐT cầm ống liên hợp tới lui liên lạc. Bên ngoài các ĐĐ tác chiến báo cáo hết đạn mà tôi không biết phải làm sao. Nằm chịu trận không bắn được một phát súng rồi cũng bị miểng đạn pháo chém đứt ngoài cánh tay. Anh Tống chạy vào BCH không có lấy một người lính. Cách tôi 30m, Đ/U Hoán ôm khẩu carbine M2 nằm bắn như một khinh binh. Hình ảnh thật oai hùng. Tiếng súng không còn ròn rã nữa sau hơn 2 tiếng đồng hồ giao chiến. Tôi nghĩ chắc họ hết đạn và phải cận chiến để sống còn. Phòng tuyến của ĐĐ4 bị vỡ. Từ đó chúng đánh vào BCH/TĐ. Tôi thấy Đại Úy Hoán bật người lên rồi ngã quỵ xuống. Người lính tà lọt cõng ông lên lưng rồi vọt chạy về hướng rừng cây. Th/T Nho dắt BCH rút ra theo con lộ đất đỏ đã bị cây thượng liên của VC đặt bên kia lộ đốn ngã cả TĐT lẫn Bác Sĩ Quân Y TĐ. Tôi và Cố Vấn nhắm hướng rừng tháo lui nên thoát về được đến làng Bình Giả. Còn phía ĐĐ1 của anh và ĐĐ3 vẫn còn nghe tiếng súng cầm cự đến 9 giờ đêm. Qua ngày hôm sau, TĐ gom quân trở vào trận địa lấy xác tôi mới thấy tình của người dân làng Bình Giả đối với mình. Họ mang võng cáng, rượu trắng thay cồn giúp mình tản thương. Phi hành đoàn trực thăng đáp xuống không chịu chở xác xình thúi bị Đại Tá Nguyễn Thành Yên rút súng lục đòi bắn nên họ chỉ chở 1 chuyến rồi không trở lại. Sau phải dùng xe GMC tải về Bà Rịa. Tôi không sao cầm đươc lòng khi thấy gia đình anh em binh sĩ gào khóc thảm thiết khi đến hậu cứ. Thôi xin dừng và cám ơn anh đã bỏ thời gian để đọc những lời vụng về của tôi kể lại.
Cầu chúc anh và gia đình các cháu bình an, dồi dào sưc khỏe.
Kính chào
Trần Văn Của
(Ký tên)

***


Vết thương cũ trong tôi như chợt vỡ ra sau khi đọc hết lá thư của cựu Trung Sĩ Trần Văn Của. Là Đại Đội Trưởng ĐĐ1/TĐ4/TQLC trong trận Bình Giả, tội đã bị thương nặng với ba phát đạn. Còn lại một mình với khẩu súng AR15 và 15 viên đạn, tôi đã bò suốt 3 đêm 2 ngày để gặp lại quân bạn trước cổng làng Bình Giả ngày 3 tháng 1 năm 1965. Vào đầu tháng 12 năm 1964, linh cảm trước những cuộc đụng độ lớn, tôi đã ra lệnh cho các Trung đội trưởng đều phải mang súng carbine M1 thay vì mang súng Colt 45 như trước đây. Tôi cầm khẩu AR15 vừa do TQLC Mỹ đưa sang thử nghiệm trên chiến trường. Chỉ 1 khẩu cho 1 Đại đội. Tôi cũng vừa thăng cấp Trung Úy và vừa đúng ngày Sinh Nhật thứ 25. Xin nói rõ về các cấp chỉ huy của TĐ4/TQLC lúc lâm trận Bình Giả: Thiếu Tá Nguyễn Văn Nho là Tiểu Đoàn Trưởng, Đ/U Trần Văn Hoán Tiểu Đoàn Phó, Tr/U (mới thăng cấp 22/12/1964) Trần Ngọc Toàn ĐĐT/ĐĐ1, Tr/U Đỗ Hữu Tùng ĐĐT/ ĐĐ2, Th/U Trịnh Văn Huệ, quyền ĐĐT/ĐĐ3 và Tr/U Nguyễn Đằng Tống ĐĐT/ĐĐ4. Tôi được may mắn tải thương về Quân Y Viện Đại Hàn ở Vũng Tàu. Sau 5 tháng điều trị, tôi được phận loại 2 (không tác chiến) và xuất viện với đôi nạng gỗ. Xuất thân là một sĩ quan Hiện Dịch từ Trường Võ Bị Đà Lạt, tôi tiếp tục phục vụ trong Binh Chủng TQLC ở hậu phương, rồi trở ra tác chiến vào tháng 10 năm 1973 cho đến ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, 30 tháng 4 năm 1975.

Nỗi đau nhức Bình Giả vẫn còn đeo đẳng bên tôi. Theo lời kể của một hồi chánh viên VC, tôi nghe được tại Bộ Chiêu Hồi vào năm 1969, và cuốn hồi ký “2 ngàn ngày dưới địa đạo Củ Chi” của Dương Đình Lôi, được biết Hà Nội đã cho đám VC tập kết năm 1954 cùng quân chính quy CS Bắc Việt xâm nhập vào Nam từ năm 1958. Cuối năm 1964, VC đã thành lập Sư Đoàn 9 do Trần Đình Xu làm Sư Trưởng, ở Miền Đông Nam Bộ với các Trung Đoàn 261, 262 và 263. Chúng đã đem cả Trung Đoàn tăng cường để chiếm làng Bình Giả vào ngày 20 tháng 12 năm 1964. Sau trận đánh này, Trung đoàn 261 VC bị thiệt hai rất nặng và bị xóa sổ trên chiến trường. Dù vậy, các ông Tướng vẫn chẳng bận tâm, nên Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH đã bị SĐ 9(-) VC bao vây ở Đồng Xoài, Phước Long. Trong khi, mấy ông Tướng đang lo tranh giành quyền lực sau ngày đảo chánh Tổng Thống Diệm 1/11/1963, giao trọn quyền điều binh cho đám bộ hạ bất tài và vô trách nhiệm. Sau khi, đã điều động 2 Tiểu Đòan BĐQ với Thiết Giáp tấn công tái chiếm làng Bình Giả không thành, họ đã trực thăng vận TĐ4/TQLC nhảy vào trận địa. TĐ4/TQLC là đơn vị Trừ Bị cuối cùng của Quân Đoàn III. TQLC và BĐQ đã đánh bật quân VC ra khỏi làng vào ngày 30 tháng 12 năm 1964. Ngay trong đêm này, VC xua quân đánh lại nhưng không làm được gì và phải rút lui. Một chiếc trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, trú đóng tại Vũng tàu đã được Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ gọi lên, rà theo bắn rượt đuổi. Do khinh địch và thiếu kinh nghiệm, chiếc trực thăng đã bị VC bắn hạ, rớt trong vườn cao su bỏ hoang, gần làng Xuyên Sơn và cách làng Bình Giả độ 4 cây số đương chim bay.

Rạng sáng ngày 31 tháng 12 năm 1964, trong khi các ông Tướng đang bận lo tổ chức Dạ Vũ linh đình tại Sài Gòn, lệnh của Quân Đoàn III buộc TĐ4/TQLC phải tiến quân vào tìm xác chiếc trực thăng Mỹ bị bắn rớt. Tiểu Đoàn Trưởng TĐ4/TQLC quyết liệt từ chối, với tin tức do Cha Xứ Đạo Bình Giả cho biết quân số VC lên đến Trung Đoàn, với cả quân chính quy CS mặc quân phục Miền Bắc và trang bị AK47, CKC, thượng liên, K50, B40… Trong khi, TQLC vẫn còn ôm súng Garant M1, Carbin M1, Trung liên BAR của Mỹ thời Đệ II Thế Chiến. Hơn nữa, TĐ4/TQLC hành quân không có Pháo Binh (đặt miết tại Phước Tuy) và Phi cơ không yểm.

Theo lời xác nhận của hai Cố Vấn Hoa Kỳ của đơn vị còn sống sót, là Đại Tá Franz Pete Eller ở Solana Beach, CA và cựu Đại Úy Phil O Brady ở San Francisco,CA, trước phản ứng quyết liệt của T/T Nho, Bộ Chỉ Huy Quân Sự Hoa Kỳ MACV tại Sài Gòn đã áp lực Bộ Tổng Tham Mưu VNCH buộc TĐ4/TQLC phải hành quân lấy xác 4 người của Phi hành đoàn trực thăng Mỹ, dù không có pháo binh và không quân yểm trợ. Khi ĐĐ1/TĐ4/TQLC tìm thấy xác chiếc trực thăng với 4 nhân viên phi hành Hoa Kỳ tử thương, đã nhìn thấy 1 Trung Đội của ĐĐ2 nằm chết hàng ngang như đội hình xung phong, xác bị VC lột hết quần áo. Thiếu Úy Nguyễn Văn Hùng nằm giữa hàng quân. Trực thăng Hoa Kỳ được tin bay lên rồi chỉ lấy 4 xác Mỹ bay mất. 12 xác TQLCVN phải chờ trực thăng Việt Nam. Cuối cùng, đơn vị phải thu xếp tải bộ sau 2,3 tiếng đồng hồ nằm chờ không thấy. Khi ấy đã quá muộn.

Tổng kết tổn thất trong trận Bình Giả về phía TĐ4/TQLC gồm 122 tử thương và gần 300 bị thương tại mặt trận. Trong số 122 chiến sĩ TQLC hy sinh có TĐ Trưởng, TĐ Phó, Bác Sĩ Quân Y TĐ, 1 Đại Đội Trưởng là T/Úy Trịnh Văn Huệ xuất thân Khóa 17 Trường Võ Bị Đà Lạt. Đặc biệt gồm có hai Thiếu Úy mới tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị Quốc Gia đến đơn vị ngày 15/12/1964 là Thủ khoa Võ Thành Kháng và Nguyễn Văn Hùng. Khi Khóa 19 Võ Bị nhập học tại ĐàLạt cuối năm 1962, 3 Trung Úy, Nguyễn Đằng Tống, Đỗ Hữu Tùng và Trần Ngọc Toàn xuất thân Khóa 16 đang chuẩn bị ra Trường. Các tân Sĩ quan từ Khóa 19 đến trình diện TĐ4/TQLC gồm có Thiếu Úy Võ Thành Kháng, Trần Vệ, Đỗ Hữu Ái, Thái Văn Bông, Nguyễn Văn Hùng. Chưa ai kịp lảnh lương Thiếu Úy.

Nhìn vào bảng tổn thất, ai cũng thấy rõ không chỉ có 100 Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ hy sinh đền nợ nước mà có đến 22 Sĩ Quan tử trận. Chính vì niềm đau ray rứt mang nặng trong lòng, từ chiến trường Bình Giả trở về, suốt hơn 40 năm, nên vào tháng 6 năm 2006, tôi đã tự nguyện đến Trung Tâm Việt Nam của Trường Đại Học Texas Tech, ở Lubbock, TX. để thuyết trình về trận Bình Giả trước người Mỹ. Tôi đã đến để vuốt mặt cho các cấp chỉ huy và bạn bè đồng đội của tôi, với tư cách là một cựu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ4/TQLC. Tôi cũng đến, với tư cách là một công dân Hoa Kỳ, khi hàng ngày nhìn thấy chiến binh Mỹ ngã gục trên chiến trường Irak, qua hệ thống truyền hình Hoa Kỳ, trong đó có cả con em của người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản. Hình như, người Mỹ chưa rút ra được “Bài Học Quý Giá” từ cuộc chiến Việt Nam với hơn 58 ngàn chiến binh đã hy sinh ngã gục...

Trần ngoc Toàn,
Cựu TĐT/TĐ4/TQLCVN