Wednesday, March 27, 2019

Lê Ngọc Diệp - Một năm đi làm Phó Quận Trưởng Bố Đức (tỉnh Phước Long)
Posted on May 13, 2015 by Ban Thông Tin
Bài viết nầy chỉ là một bút ký vì tôi nhắc lại những biến cố đã xảy ra từ 50 năm trước một cách không có thứ tự, và vì thời gian quá lâu nên có thể có nhiều thiếu xót về những địa danh và những nhân vật liên hệ nên xin quý vị và quý bạn đồng môn vui lòng miễn chấp. Bài ký sự nầy cũng để kính cẩn tưởng niệm quý vị Giáo Sư và quý đồng môn vị quốc vong thân, tử nạn trong các trại “Học Tập Cải Tạo” và bỏ mình hay mất tích trên đường “Vượt Biên”, đồng thời tưởng nhớ đến các chiến sĩ âm thầm hy sinh trong bóng tối vì ít ai để ý đến họ. Đó là những chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, các cán bộ và viên chức xã ấp, Nhân Dân Tự Vệ cũng như lực lượng CSQG, LLĐB mà tôi có dịp tiếp xúc trong hai năm 1964 và 1965 tại tỉnh Phước Long.


Khóa 9 Đốc Sự là một khóa tương đối đặc biệt vì là khóa “giao thời” giữa hai nền Cộng Hòa: Đệ Nhứt và Đệ Nhị. Nhập học vào khoảng tháng 9 năm 1960 và ra trường vào ngày 23 tháng 3 năm 1964. Và cũng là khóa đầu tiên thụ huấn quân sự tại trường Võ Bị Thủ Đức (khóa 17) thay vì tại quân trường Hạ Sĩ quan Hiện Dịch Đồng Đế ở Nha Trang như các khóa Đốc Sự 7 và 8. Thời gian đi tập sự vào mùa hè năm 1963 nhằm vào những tháng cuối cùng của nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, lúc đó tôi đi tập sự tại quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, một quận trù phú nằm cạnh Quốc lộ 1 và đường đi Khánh Dương. Tôi đã có dịp tham dự lễ khánh thành ấp chiến lược Hòn Khói ven biển trên đường đi Phú Yên. Trong dịp nầy có sự chủ tọa của ông Ngô Đình Nhu trong trang phục Thanh Niên Cộng Hòa và ái nữ của ông là Ngô Đình Lệ Thủy trong y phục Thanh Nữ Cộng Hòa.

Tôi và đồng môn cùng khóa là anh Phan Thanh Xuân về nhận nhiệm vụ tại tỉnh Phước Long. Tỉnh nầy chỉ cách Sài Gòn 180 km nhưng quốc lộ 13 bất an nên chúng tôi phải đi máy bay của Air Việt Nam đến Ban Mê Thuột, từ đó đón xe đò về ngược lại tỉnh lỵ Phước Long. Khoảng đường chỉ hơn 200 km mà xe chạy từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều mới đến quận lỵ Phước Bình nằm sát chân núi Bà Rá. Núi không cao lắm nhưng trời mưa âm u mây trắng phủ kín ngọn núi, sương mờ huyền ảo, đất đỏ đặc sệt, hai đứa chúng tôi không dám bước xuống xe vì đi không được. Chúng tôi trình diện ông Phó Tỉnh Trưởng là anh Đèo Văn Ngày (1). Sau đó, Phan Thanh Xuân và tôi trình diện Tỉnh Trưởng là Trung Tá Mã Sanh Nhơn, gốc nhảy dù có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường. Trung Tá Mã Sanh Nhơn cho biết hiện đang có hai Phó Quận trống là Đức Phong và Bố Đức, tên nguyên thủy của Đức Phong là Bù Đăng nằm cạnh quốc lộ 14 trên đường đi Ban Mê Thuột, Bố Đức là Bù Đốp nằm sát biên giới Việt Miên hướng bắc Lộc Ninh. Phan Thanh Xuân và tôi quyết định bắt thăm chớ không để Trung Tá Tỉnh Trưởng chỉ định. Xuân đi Đức Phong, tôi về Bố Đức.

Bố Đức cách tỉnh lỵ Phước Long khoảng 25 km về phía Tây và cách biên giới Việt Miên khoảng 4 km, ranh giới Việt Miên chỉ là con suối mang tên Bu Jer Man, mùa khô đi bộ qua cũng được. Cơ sở hành chánh của quận nằm trên một ngọn đồi nhỏ trong một biệt thự do người Pháp xây cất, dân số toàn quận vào năm 1964 chính xác là 9.800 người, đa số là dân thiểu số gốc Stieng, tên của họ chỉ có hai chữ và họ luôn luôn bắt đầu bằng chữ Điểu như Điểu Sen, Điểu Chôm… Quận lỵ là xã Phước Lục chỉ có khoảng 500 dân gồm hai dãy nhà, ở chính giữa là một nhà lồng chợ. Quận có 4 xã và xã xa nhứt là xã Bù Gia Mập cách quận lỵ khoảng 40 km đường rừng về phía Bắc miệt Ba Biên Giới. Đồn điền cao su Bù Đốp nằm giữa quận lỵ và biên giới, đồn điền nầy thuộc công ty Cao Su Viễn Đông (Société des Caoutchouc d’Extrême-Orient), tên thường gọi là CEXO thành lập năm 1911, đồn điền Bù Đốp xây dựng năm 1911 rộng 810 mẫu. Hằng tháng có máy bay Cessna lên tiếp tế và phát lương. Thời cực thịnh công ty nầy đã bỏ tiền ra để làm đường xe lửa Sài Gòn-Lộc Ninh dài 142 km để chuyên chở cao su. Hầu hết dân cạo mủ được mộ từ miền Bắc và miền Trung như Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi từ thập niên 1930 và con cháu của họ vẫn tiếp tục làm phu tại đây. Bên cạnh đó là một số dinh điền như dinh điền Châu Ninh I, Châu Ninh II gần quận lỵ, và đường đi Bù Gia Mập cũng có một số dinh điền. Các dinh điền tọa lạc tại những đất phì nhiêu và thưa dân, thường là những xứ đạo do một linh mục quản trị và án ngữ tại những vị trí chiến lược sát biên giới. Việc thiết lập các dinh điền nầy dọc theo biên giới chứng tỏ các giới chức lãnh đạo đương thời một tầm nhìn rất xa về phương diện kinh tế và an ninh. Ngoài ra, còn có trại Lực Lượng Đặc Biệt Bù Đốp với sân bay riêng nằm sát biên giới Việt Miên cạnh đuờng mòn Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh đó tôi về nhận nhiệm vụ Phó Quận Trưởng Bố Đức vào khoảng tháng 4 năm 1964. Buổi lễ bàn giao rất đơn giản, không kèn không trống, được tổ chức tại văn phòng Quận dưới sự chứng kiến của Đại Úy Quận Trưởng Nguyễn Trắng gốc Biệt Động Quận, Chuẩn úy Băng Chi khu phó, các Xã trưởng, các sĩ quan Trưởng Ban của Chi khu, các Trưởng Ban trong Văn phòng Hành chánh quận, Chi Cảnh sát. Ông Cao Thái Khá, Phó Quận Trưởng tiền nhiệm sau khi ký giấy bàn giao lại cho tôi, bèn nói “Tôi bàn giao cho ông như tôi uống 10 thang thuốc bổ!”.

Công việc hành chánh thật ra không có nhiều, vì 90% là người sắc tộc, hầu hết là thị thực các chứng thư hành chánh. Tôi chú ý đến các giấy tờ di chuyển mà Đại uý Quận Trưởng không chịu ký vì ông cho rằng cho họ di chuyển thì Quận mất dân. Tôi trình bày cùng ông Quận Trưởng rằng ông ta có lý của ông ta để không ký nhưng tôi nghỉ người dân có quyền di chuyển và Quận có nhiệm vụ thị thực chữ ký của xã. Đại úy quận trưởng bận chuyện hành quân nên cũng quên đi chuyện nầy, hơn nữa nếu Quận không cho dân di chuyển, không lẻ con cháu của phu cạo mủ cứ tiếp tục làm phu đồn điền từ đời nầy qua đời khác hay sao?

Làm gì cũng vậy, làm chánh bao giờ cũng có quyền hạn hơn làm phó vì quyền hạn của người làm phó là do người chánh giao cho (2), nhưng làm phó nhiều khi cũng khỏe vì không có trách nhiệm. Người ta thường nói làm “phó thường dân” là sướng nhứt. Một năm làm phó quận trưởng tại Bố Đức vào năm 1964 đến 1965 cũng có nhiều công tác có ý nghĩa và lý thú. Thứ nhứt là mộ phu khai phá đồng Gia Rây để có đất cho dân làm rẫy, đi thăm các xã ở xa, kế đó là tổ chức bầu cử Hội Đồng Tỉnh vì trong hai năm nói trên không có bầu cử Quốc Hội hay Tổng Thống. Tôi có hai kỷ niệm khó quên trong cuộc bầu cử Hội Đồng Tỉnh vào năm 1964.

Người thiểu số Stieng không lưu tâm đến việc bỏ phiếu nên nhân viên phụ trách phòng phiếu phải đến các xã để “vận động” cho họ đi bầu. Văn phòng quận liên lạc xã xa nhứt là xã Bù Gia Mập nói rằng đúng ngày bầu cử quận sẽ mang thùng phiếu đến và xã trưởng thông báo cho cư dân trong xã ở nhà bỏ phiếu. Một phái đoàn bầu cử khá hùng hậu của Quận gồm Đại Úy Quận Trưởng, nhân viên bầu cử và tôi, thêm một tiểu đội nghĩa quân kể cả một toán Lực Lượng Đặc Biệt trong đó có 2 binh sĩ Hoa Kỳ cũng tháp tùng. Đường đi lên Bù Gia Mập khá nhiêu khê vì không có đường dọc biên giới từ quận đến Bù Gia Mập, do đó, phải đi ra quận lỵ Phước Bình mất 25 km rồi theo đường đất đỏ từ chân núi Bà Rá thêm 30 km nữa. Đường gập gềnh chỉ có xe Jeep mới chạy nổi, chạy lắc lư như rùa bò, tối hôm đó phái đoàn ghé một dinh điền ngủ qua đêm. Vấn đề an ninh trong năm 1964 rất tốt, không có chuyện giựt mìn hay đắp đê trong lãnh thổ của quận Bố Đức. Dân dinh điền đêm hôm đó đãi phái đoàn quận một bữa thịt cầy, hai người lính Mỹ không những ăn mà còn khen ngon! Tôi đinh ninh khi đến xã thì dân chúng sẽ tụ họp để bỏ phiếu nhưng chẳng thấy bóng dáng người dân nào, hoàn toàn vắng hoe. Không lẽ người dân sợ đi bỏ phiếu như vậy hay sao? Đây là “tiến trình dân chủ” mà! Đúng lúc tôi đang suy nghĩ miên man thì một đoàn người từ mé rừng khiên vác nhiều con heo rừng đi ra và vô xã, gọi là xã cho vui chớ đúng ra là cái sóc Bù Gia Mập với hơn một trăm gian nhà sàn. Hỏi ra mới biết đó là cách người dân ở đây đi săn heo rừng, khi họ tìm được heo rừng, họ tập trung cả sóc lùa bầy heo vào một khu rừng rồi rào chung quanh khu rừng đó lại, chỉ để một hai lỗ trống. Một số người vô đó rượt đuổi, mấy con heo chạy thoát ra những lỗ trống và bị đập chết. Tôi thấy họ khiêng về hơn một chục con heo rừng! Cuộc bầu cử ngày hôm đó cũng hoàn tất.

Trong cuộc bầu cử nầy, tôi có thêm một kỷ niệm khá hào hứng. Một lần tôi vào thăm đồn điền Bù Đốp cách biên giới không xa và gặp người thơ ký đồn điền. Ông nầy vào khoảng 60 tuổi, vóc người ốm ốm, đầu luôn luôn đội nón len màu nâu vì thời tiết rừng hơi lạnh. Thấy ông ta có vẻ hiểu biết nên tôi thường hàn huyên, ông cho biết vì buồn đời tư nên lên đây làm thơ ký cho đỡ buồn. Nhiều bữa ông đi bộ từ đồn điền ra văn phòng quận gặp tôi, khoảng đường gần 4 cây số không có phương tiện chuyên chở cộng cộng. Đang mùa bầu cử Hội Đồng tỉnh nên ông nộp đơn ứng cử nghị viên cho đơn vị Bù Đốp. Ông có trình độ văn hóa khá và nói tiếng Pháp thông thạo nên ông đắc cử và được bầu làm chủ tịch Hội Đồng tỉnh Phưóc Long, ông đi Sài Gòn tham dự Đại Hội Hội Đồng Tỉnh Toàn Quốc và sau đó được bầu làm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện của VNCH. Người đó là ông Nguyễn Bá Lương, sau 30/4/75 nghe nói ông qua đời trong trại giam Long Thành. Thành thử đất Bố Đức cũng là vượng địa!

Mấy tháng cuối năm 1964 tình hình an ninh vẫn còn tốt. Cuối tuần một số nhân viên quận và bên chi khu cùng Hội Đồng Xã tổ chức đi săn, thường đến đồn điền Bù Đốp và chỉ cần 2, 3 người vào rừng đi săn trong đó có ông phó xã trưởng Phước Lục là tay săn bắn nổi tiếng. Trước khi đi ông ta căn dặn: “Quý vị ở nhà bắt sẵn nước sôi chúng tôi về sẽ có thịt”. Thật vậy, họ chỉ đi ra rừng cao su một chặp sau nghe tiếng súng nổ là họ về mang theo thường là heo rừng hay nhím, nhiều khi nước chưa kịp sôi. Ban đêm có rất nhiều thú đến vườn cao su tìm ăn hột cao su, rừng cao su trống nên dễ đi và dễ thấy thú rừng. Đường đi xuống Lộc Ninh phía tay trái quốc lộ 13 khoảng 3 cây số có một cái bàu tức là một hồ nước cạn giữa rừng gọi là Bàu Sen. Nơi đây thú rừng hay tập trung uống nước, chúng uống một lần lúc 6, 7 giờ tối trước khi đi ăn và một lần nữa lúc 4, 5 giờ sáng khi chúng ăn xong và đi về hang ổ. Đi săn ban đêm phải rọi đèn, tức là đội trên đầu một chiến đèn pin chiếu sáng. Ánh mắt của thú rừng phản chiếu ánh sáng của đèn rọi trong đêm tối, và những tay săn chuyên nghiệp nhìn ánh mắt của thú rừng biết là thú rừng gì và bao lớn. Hai con mắt xa nhau (gọi là “bang dang”) là thú to, gần nhau là thú nhỏ. Màu xanh là nai hưu, màu đỏ dợt là chồn, nhím, còn màu đỏ sậm là cọp, beo thì nên tránh, đừng bắn nguy hiểm vì dù trúng đạn chúng cũng có thể nhảy lại chụp người bắn. Lúc bình yên thú rừng rất nhiều, sân đá banh gần bên quận lỵ, nhiều khi đang đá banh, một con mễn từ trong rừng chạy ra sân banh, các cầu thủ bỏ banh tranh nhau rượt con mễn. Cọp còn ra chợ Phước Long liếm các thớt thịt nữa là, chợ Bố Đức thật sự không có thịt heo hay gà vịt mà chỉ có thịt nai, mễn, heo rừng và nhím! Tôi thích đi săn vì xưa nay chưa bao giờ lội rừng đi săn, người dân ở đây gọi rừng là rừng thiêng, tôi không biết có thiêng hay không nhưng vào đó, ban ngày thì ngộp thở vì cây cối dầy đặc, ban đêm thì thấy mình nhỏ bé trong bóng tối mênh mông. Ở chân núi Bà Rá có một cái miếu gọi là Linh Sơn Miếu. Núi Bà Rá ở Phước Long và núi Bà Đen ở Tây Ninh là “hai chị em sinh đôi” và là hai quả núi cuối cùng của dãy Trường Sơn, núi Bà Đen cao hơn khoảng 100 m nên có lẽ là núi chị! Những người lính Stieng đi hành quân khi ra khỏi rừng đều quay lại chào khu rừng một cách kính cẩn rồi mới về lại quận lỵ. Tôi không lãng mạn đi săn để tìm một “Sơn Nữ Phà Ka” nào đó trong cái không khí huyền ảo của “Trăng Mờ Bên Bờ Suối”. Tôi và Chuẩn úy Phúc, Ban 5 Chi Khu, đi săn với một mục đích rất thực tế, đi tìm một con voi có cặp ngà vì bán cặp ngà thì mua được một chiếc xe Jeep chạy đường rừng. Chúng tôi vác súng đi theo con suối Bù Jer Măn, thấy nhiều vết chân voi và dấu voi cạ mình trên các thân cây nhưng không gặp con voi nào!

Một số phong tục tập quán của người thiểu số ở đây khó lòng áp dụng luật lệ của người Kinh để xét xử. Tôi chứng kiến hai trường hợp, một là tại xã Phước Lục gần quận, xảy ra một vụ thưa kiện giữa một người dân về một cái mác bị mất cắp. Ông ta nghi hai người lối xóm lấy, ông xã trưởng cũng là người thiểu số, yêu cầu hai nghi can lặn nước, người nào nổi lên trước người đó là thủ phạm. Xét xử nhanh chóng và không tranh cãi lôi thôi. Một lần khác về vụ “ma lai”, người dân thiểu số tin rằng con ma lai rút ruột làm người ta đau bụng và chết. Một buổi tối nọ, ông xã trưởng Bù Gia Mập gọi máy truyền tin, lúc đó là máy Motorola, báo cáo bắt được một con ma lai và sẽ giết nó chết. Tôi nói khoan đã, để ngày mai chở “con ma” đó về quận rồi sẽ tính sau. Nhưng sau đó, ông xã trưởng báo cáo đã giết “con ma” đó chết, tôi yêu cầu ông xã trưởng về quận trình diện. Ông ta trình bày trong xã có nhiều người bị đau bụng chết, và hai ba người đã chiêm bao thấy nghi can bị kết tội là một con “ma lai” nên dân trong xã đã giết con ma đó. Tôi hỏi ông ta tại sao ông biết người đó là con “ma lai”? Ông nói cứ nấu chì cho chảy ra rồi đổ vào bàn tay của người đó, nếu bị phỏng thì người đó đúng là con “ma lai”! Tôi nói nếu bây giờ tôi nấu chì đổ thử vào tay của ông, ông có chịu thử không, ông ta gật đầu nhưng không biết tại sao tôi lại không thử?

Vào khoảng tháng 1/1965, tình hình an ninh không còn bình thường nữa sau chuyến tôi đi về tỉnh tham dự một buổi họp. Trên đường về tôi ghé qua quán cà phê duy nhứt ở quận lỵ Phước Bình để ăn tô hủ tiếu và uống cà phê. Tôi tình cờ gặp lại chú Tư, người cùng quê ở Mỹ Tho khi tôi còn nhỏ, chú Tư đang theo nghề xe be vào rừng lấy gỗ. Sau khi thăm hỏi, chú Tư nói với tôi: “Cậu đi đứng cẩn thận, vô rừng tôi gặp mấy ổng nhiều lắm, họ không phải là dân ở đây.” Tôi gật đầu vì tin tức của những người dân đi làm rẫy về cũng cho biết như vậy. Nhiều bữa voi chạy ra đường, nghĩa là rừng bị động, rừng bị động vì có người trong đó, không ai khác hơn là quân cộng sản. Tôi chia tay chú Tư để về quận vì lúc đó đã gần 2 giờ chiều. Nhiều lúc tôi chợt nghĩ nếu tôi lưu lại quận Bố Đức 6, 7 năm như ông cựu phó quận trưởng chắc tôi buồn lắm. Vì vậy khi nghe tin trường QGHC mở kỳ thi tuyển ban Cao Học đầu tiên, tôi nộp đơn thi và đi phép về Sài Gòn mua thêm sách để chuẩn bị thi, học trong sự bất ổn, học trong tiếng súng vang đêm, học trong tiếng vọng của B52. Một số nhân viên Ủy ban Hành Chánh xã và nhân viên quận phải đi ngủ “lưu động”, nghĩa là tối đến mang võng và mùng mền ra rừng ngũ, nay nơi nầy mai nơi khác vì bọn du kích chận xe đò và nói với dân quận rằng chúng nó biết tôi ở căn nhà nào tại quận lỵ. Lúc đó, tôi cũng được tin người bạn cùng khóa, anh Nguyễn Thế Vinh, Phó Quận Trưởng Tuyên Bình, tỉnh Kiến Tường, hy sinh khi cộng sản tấn công và tràn ngập quận.

Rồi vào đầu tháng 5 năm 1965 tình hình chiến sự bộc phát một cách dữ dội. Quận Đức Phong bị quân CS tấn công và tràn ngập, người bạn đồng môn cùng lên Phước Long với tôi, là Phó Quận Trưởng tại đây theo xe be thoát ra được vòng vây. Mấy ngày sau tỉnh lỵ Phước Long và quận lỵ Phước Bình cũng bị tấn công nhưng tiếp viện của QLVNCH giải tỏa được, quân cộng sản bị thiệt hại nặng và rút lui. Đầu tháng 6 năm 1965, quân cộng sản tấn công quận lỵ Đôn Luân đặt tại Đồng Xoài. Tại chi khu Bố Đức chúng tôi theo dõi trận đánh qua máy truyền tin Motorola, chi khu Đồng Xoài bị tấn công và kêu gọi chi khu Bố Đức bắn yểm trợ, yểm trợ làm sao được trong khi chi khu Bố Đức chỉ có hai khẩu 81 ly bắn xa không quá 4 km, Bố Đức cách Đồng Xoài 40 km. Chúng tôi nhìn nhau không nói lời nào, Thiếu Tá Trần Như Tăng cũng gốc Biệt Động Quân vừa về đảm nhận chức vụ quận trưởng, ông rất bình tỉnh báo cáo tình hình đến tiểu khu, Bố Đức vô sự. Lực lượng bảo vệ chi khu Đồng Xoài có khoảng 400 tay súng gồm địa phương quân và nghĩa quân xóm Đạo Đồng Xoài. Lực lượng địch gồm trung đoàn 2 của công trường 7 CSVN, các đơn vị phụ thuộc và các bộ đội địa phương, quân số ước lượng không dưới 3.000 quân, tức gấp 7, 8 lần quân trú phòng. Giao chiến suốt đêm 10/6/65, quân ta bị tràn ngập và rút lui về căn cứ quân sự kế bên và cố thủ, đến sáng tiểu đoàn 52 BĐQ được trực thăng vận đến tấn công trực diện vào quận Đôn Luân do quân CS chiếm giữ. Cường độ của trận Đồng Xoài được mô tả rằng “Cứ mỗi 10 giây đồng hồ là có một người ngã xuống” (3). Quân CS rút lui về đồn điền Thuận Lợi, Tiểu Đoàn 7 Nhảy dù được trực thăng vận đến trận chiến và giao chiến ác liệt xảy ra tại đây. Nghe nói Phó Quận Trưởng Đồng Xoài ( tôi không nhớ tên) bị CS bắt đi mất tích. Trận Đồng Xoài là một trận đánh lớn sau trận Ấp Bắc vào tháng 1/1963 tại tỉnh Định Tường và trận Bình Giả vào tháng 12/1964 tại tỉnh Phước Tuy. Phước Long có vai trò chiến lược quan trọng và nằm trong tuyến phòng thủ từ xa của Quân lực Việt Nam Cộng hòa để bảo vệ Sài Gòn và các tỉnh đông dân trù phú của miền Nam. Phước Long cũng là điểm án ngữ, ngăn chặn hành lang vận tải của quân cộng sản qua Lào và Campuchia vào miền Đông, đồng thời giữ vị trí chia cắt các vùng do quân cộng sản tạm chiếm, cô lập vùng Lộc Ninh với Tây Nguyên và các tỉnh miền Đông khác. Phước Long là một tiểu khu cùng với tiểu khu Bình Dương và Bình Long thuộc Khu 32 Chiến Thuật của QLVNCH, Bộ Chỉ Huy đóng tại Bình Dương. Ngoài ra, quận Bố Đức nằm sát biên giới Việt Miên nên cộng sản thường chuyển quân xuất phát từ Kampuchea theo tỉnh lộ 748 ngang qua Bù Đốp và tỉnh lộ 741 ngang qua Bù Gia Mập vào căn cứ địa của chúng trong tam giác của 3 địa danh: Phước Long, Bình Long và Đồng Xoài. Mặt trận Đồng Xoài kéo dài đến ngày 20/6/1965 thì ổn định.

Vào thời điểm đó, tỉnh lỵ Phước Long, quận Phước Bình, quận Đức Phong, căn cứ Bà Rá, quận Đôn Luân (Đồng Xoài) và căn cứ LLĐB Đồng Xoài đều bị tấn công. Đồng Xoài là mặt trận chính. Quận Bố Đức và căn cứ LLĐB Bù Đốp đặt trong tình trạng báo động 100%. Vào một hôm mấy người lính của Lực Lượng Đặc Biệt từ trại Bù Đốp ghé thăm Quận và cho Chi Khu xem hai khẩu AK47 mới tinh mà họ vừa tịch thu được khi tiêu diệt một toán Việt Cộng. Một trung sĩ già kinh nghiệm nói: “Đây là toán tiền sát của địch, đại quân của chúng chắc chắn ở phía sau”. Người trung sĩ thông dịch viên dịch lại cho hai người lính Mỹ còn rất trẻ nghe nhưng họ có vẻ không tin và lên xe về lại căn cứ. Nửa khuya hôm đó, LLĐB cách quận 4 km bị quân CSBV tấn công. Súng nổ dữ dội suốt đêm, máy bay dội bom và thả hỏa châu sáng cả một vùng biên giới. Tôi và ủy ban hành chánh xã di chuyển ra một khu rừng gần đó. Sáng sớm hôm sau trực thăng đổ quân tiếp viện, căn cứ LLĐB vẫn đứng vững tuy bị đánh chiếm ¾. Một số sĩ quan LLĐB tối hôm qua ghé nhà thăm tôi và uống bia, nay không còn nữa. Lực lượng tiếp viện đổ quân truy kích quân cộng sản. Tôi tháp tùng Thiếu tá Quận Trưởng đến thăm căn cứ Bù Đốp, xác quân cộng sản để hàng dài trên sân bay, nhiều tên ngồi chết dựa vào các gốc cao su xung quanh vung vãi những lọ thuốc rắn của Trung Cộng. Quân cộng sản chưa đánh quận Bố Đức vì chúng bị chận đứng tại trại LLĐB Bù Đốp và bị thiệt hại nặng tại Đồng Xoài theo sự hiểu biết của tôi.

Các trại LLĐB thường án ngữ tại các cứ điểm quan trọng dọc theo biên giới Việt Miên, thám thính biên giới và ngăn chận đường xâm nhập, giao liên và tiếp vận của quân cộng sản, mở các trận tấn công tiêu diệt và phá hoại hậu phương của địch. Trại LLĐB Bù Đốp có khoảng 500 quân đồn trú và được trang bị đầy đủ, trong khi đó, các lực lượng địa phương quân và nghiã quân trang bị khá thô sơ, thời gian tôi phục vụ tại Bố Đức, họ còn được trang bị bằng súng Carbine M1 bằng từng phát một, súng Garant, tiểu liên Thompson, trung liên Bar không tương xứng với lực lượng của CSBV. Một thời gian sau được trang bị Carbine M2 bắn liên thanh như M16. Hơn nữa, khi muốn tấn công một vị trí nào, địch thường tập trung một quân số áp đảo nên các vị trí đó thường bị tràn ngập. Địch tập trung một quân số gấp 7, 8 lần đông hơn quân trú phòng ở Đồng Xoài.

Chỉ còn quận Bố Đức chưa bị tấn công, tất cả công chức, cán bộ được lịnh võ trang, tính ra được một trung đội và tôi là người chịu trách nhiệm điều động trung đội nầy góp phần vào việc phòng thủ quận. Tinh thần nhân viên, cán bộ và binh lính trong chi khu sẵn sàng chiến đấu tuy tình hình căng thẳng. Trong tình trạng đó, tôi được tin trúng tuyển vào Ban Cao Học Hành Chánh và sẽ nhập học vào tháng 9 năm 1965. Tôi trình diện Trung Tá Tỉnh Trưởng Mã Sanh Nhơn, ông nhìn tôi một chút rồi nói: “Tôi để anh đi vì đó là tương lai của anh”. Trung Tá Mã Sanh Nhơn sau đó về làm Tỉnh Trưởng tỉnh Hậu Nghiã, bạn đồng khóa của tôi là anh Phạm Thành Trung làm Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh. Anh Trung vào khoảng năm 1968 (?) hướng dẫn một phái đoàn ty sở trưởng đi quan sát cuộc tấn công của địch tại sân banh Hậu Nghiã thì bị quân cộng sản bắn sẻ chết.

Tôi đón máy bay về Biên Hòa, rồi Sài Gòn để chuẩn bị nhập học. Đi về cũng với chiếc va-li cũ nhưng hành trang nặng thêm với những ký ức của cuộc chiến tranh đang ở vào một giai đoạn khốc liệt nhứt. Tình hình quân sự ở biên giới thì như vậy nhưng chánh trị ở Sài Gòn lại bất ổn, miền Nam chứng kiến cuộc Chỉnh Lý của tướng Nguyễn Khánh, chống Hiến Chương Vũng Tàu, rồi chánh phủ dân sự của cụ Trần văn Hương, bác sĩ Phan Huy Quát, đảo chánh hụt của tướng Dương văn Đức và Lâm văn Phát, đảo chánh hụt của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, biểu tình… Ba tháng sau khi về lại Sài Gòn, tôi được tin quận Bố Đức bị địch tấn công và tràn ngập.

Ghi chú:

(1) Anh Đèo văn Ngày hình như lúc đó là Tham sự Hành Chánh, tôi không có thêm chi tiết nhưng Tập I Biên Khảo của HVQGHC xuất bản năm 2015 ghi ở mục “Tử nạn trong các trại Học tập cải tạo” là anh “Đèo văn Ngày (ĐS17B) chết vì bị cộng sản sát hại bên ngoài trại học tập cải tạo sau 30/4/1975”, có thể anh Đèo văn Ngày trở lại học khóa ĐS17B vì khóa nầy tốt nghiệp vào tháng 12/1972?).

(2) Tập I, Phần Biên Khảo về Học Viện QGHC, xb 2015, trang 149, “Mặc dù trong nền hành chánh có dự trù phương thức ủy quyền, nhưng ủy quyền lại phụ tùy cá tính của mỗi cá nhân hơn là vào các văn bản lập quy. Mãi đến năm 1974, Bộ Nội Vụ mới có văn bản hướng dẫn chánh thức về chức chưởng Phụ Tá Hành Chánh cấp tỉnh”, tuy nhiên tất cả tùy thuộc vào mức độ tin cậy của ông chánh.

(3) Ký giả Everett Runnes của báo Life Magazine ngày 2/7/1965 với tựa đề bài viết về trận Đồng Xoài, tỉnh Phước Long vào tháng 6/1965: “Every ten seconds a man would fall”. Ký giả nầy hy sinh ngày 27/8/1965.
NHỮNG KỶ NIỆM VỀ HÀ VĨNH TƯỜNG
Đặng Xuân Hùng
        Tôi và Tường trở nên thân sau khi cùng chọn nhiệm sở: Tỉnh Phước Long, cùng với Nguyễn Hữu Nhơn và Lê Thanh Quang. Sau khi lên trình diện chúng tôi được cho về ăn Tết và sẽ bắt đầu nhận việc sau Tết âm lịch 1973, bắt đầu cuộc đời công chức tại một tỉnh lẻ. Sau khi sắp xếp công việc, Nhơn: Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Tu Nghiệp, Quang: Trưởng Ty Hành Chánh, Tường: Chủ sự phòng Tài thâu và tôi: Chủ sự phòng Kinh Tế, Ty Kinh Tài (Kinh Tế-Tài Chánh), vì Tỉnh thuộc loại C. Chúng tôi được đưa đến tạm trú tại Lưu trú xá của Trung Tâm Tu Nghiệp, vừa được xây cất xong. Đó là một căn nhà tương đối lớn, có cửa lớn ở hai đầu và một hành lang ở giữa đi vào 4 phòng dọc theo hai bên hành lang. Lưu trú xá này được xây cất để những viên chức xã ấp ở những quận xa xôi về tu nghiệp, có chỗ ngủ qua đêm. Nhưng thực tế nó chưa bao giờ được sử dụng. Lúc đầu tôi và Tường ở chung, Nhơn và Quang mỗi người một phòng, còn một phòng dùng để bàn ping pong. Cuộc sống tỉnh lẻ chẳng có gì giải trí ngoài những nơi như quán cà phê, bàn bi da hoặc ở nhà đọc sách hay đánh bài. Vì chúng tôi có đủ 4 “tay” trong một căn nhà cộng thêm với những bạn bè lui tới thăm nên môn giải trí sau cùng đã trở nên phổ thông nhất, đôi khi đông chúng tôi còn gầy tới 2 “sòng”, một xì phé và một sập xám. Riêng Tường thì nổi bật với tài xì phé, sau mỗi lần tan sòng, Tường thắng 5, 7 ngàn là bình thường. Tuy nhiên chúng tôi có một thỏa thuận người nào thắng nhiều nhất sẽ là “đầu tàu” cho bữa ăn sáng ngày hôm sau nên nếu thắng ít đôi khi còn lỗ.
        Tại Phước Long có cặp vợ chồng Trưởng ty Điện lực với chiếc xe La Dalat màu trắng duy nhất tại tỉnh và họ nổi tiếng tham dự những sòng đánh lớn gồm những bộ mặt cao cấp trong Tỉnh và những thương gia “nặng kí”, họ thường lái xe lòng vòng trong Tỉnh và hầu hết mọi người nhận ra họ, Tường hay nói đùa:
       - Tao sẽ phải “đụng” với hai vợ chồng Trưởng ty Điện lực để nó phải bán nhà máy đèn.
        Thế rồi một ngày Thứ bảy, Tường nghe nói buổi tối sẽ có sòng ở nhà ông Phó Tỉnh và có vợ chồng Trưởng ty Điện lực tham dự. Tường hỏi tôi:
       - Mầy còn bao nhiêu tiền?
        Tôi trả lời:
        - Tao còn 15 ngàn.
        Tường nói:
        - Đưa cho tao, tao còn 25 ngàn, tối nay tao sẽ đụng với tụi nó.
        Chiều tối Tường ra đi, chúng tôi gầy sòng sập xám cò con ở nhà để giải trí cuối tuần. Đến 8 giờ sáng vẫn chưa thấy Tường về. Chúng tôi đoán Tường “chiến thắng”nên mới ở lâu như vậy?. Khoảng 9:00 thấy Tường lững thững đi bộ về  miệng tủm tỉm cười, tôi hỏi:
        - Sao? Tối hôm qua thế nào?
        Tường trả lời:
        - Tao nợ bà Phó thêm 120 ngàn nữa.  
        Sau đó chúng tôi đi ăn sáng và ngồi nghe Tường thuật lại cuộc “đọ sức” đêm qua. Khoảng một tuần sau Tường về Saigon, khi trở lại Tỉnh, Tường nói với tôi:
        - Tao phải nói bà xã đi bán cái nhẫn hột xoàn để lấy tiền trả nợ bà Phó.         
        Trong thời gian làm chủ sự Kinh tế, khi nào anh Trưởng ty Kinh Tài về Saigon thì tôi đảm trách việc Xử Lý Thường Vụ, nhưng đôi khi cả anh Trưởng ty và tôi cùng về Saigon để lo công việc cho Tỉnh thì Tường đảm trách việc xử lý nầy.    
        Một hôm tôi mới vào văn phòng thì ông Phó Tỉnh gọi tôi lên văn phòng để gặp, khi tôi vào, ông đưa cho tôi một tờ giấy và hỏi:
        - Anh làm sao mà tụi thương gia “tố” anh đòi tiền mỗi khi cấp giấy phép kinh tế?
        Tôi bối rối vì đây là lần đầu tiên phải đối đầu với “trouble” trong cuộc đời công chức. Nhìn lướt qua tôi đọc được tên 7 thương gia vẫn thường xin cấp giấy phép chuyên chở hàng hóa. Tôi cho ông Phó Tỉnh biết những lời tố cáo trong đơn là hoàn toàn sai sự thật. Sau đó ông Phó Tỉnh nói tôi về văn phòng làm việc và ông sẽ cho điều tra về vấn đề nầy. Khoảng vài tiếng sau ông gọi tôi lên văn phòng trở lại và cho biết lý do sở dĩ có đơn tố cáo nầy là vì đây là sự trả thù nhưng “lầm người”. Ông giải thích thời gian hai tuần trước đó, tôi và anh Trưởng ty đi công tác ở Saigon, Tường xử lý thường vụ Trưởng ty, nhưng Tường lại vào phòng làm việc của tôi ngồi. Khi ký lộ trình thư cho ông Tỉnh Đoàn Trưởng Cán Bộ XDNT do một cán bộ để trên bàn, vì mới làm việc chưa biết hết những cấp chỉ huy tại Tỉnh nên Tường hỏi:
        - Ông LTB là ông nào?
        Anh cán bộ nghe vậy chạy về văn phòng nói với ông Tỉnh Đoàn Trưởng CB/XDNT:
        - Ông ấy kêu ông lên trình diện.
        Ông Tỉnh Đoàn Trưởng chạy qua tự giới thiệu và trách về việc bắt ông trình diện mới ký Lộ Trình Thư, và ý định trả thù bắt nguồn từ đó, nhưng Tường lại ngồi làm việc tại bàn của tôi nên tôi trở thành nạn nhân của việc trả thù.
        Sau vài tháng bà xã tôi xin chuyển lên Phước Long dạy học. Tường dọn qua phòng khác ở một mình, nhưng ăn cơm chung với vợ chồng chúng tôi. Vài tuần sau Tường nhờ tôi về Saigon đón bà xã lên bằng trực thăng của Air America, một hãng máy bay của cơ quan viện trợ Mỹ, vì tôi làm kinh tế và thường xuyên đi công tác Saigon. Bà xã của Tường là VTT mà một số bạn K17 có lẽ cũng biết. Thật sự hai người quen nhau nhưng gia đình Tường hoàn toàn không biết gì về sự liên hệ đó. Sau khi xuống trực thăng, nhìn qua một bãi đất trống tôi chỉ cho chị  Thủy và nói:
        - Đó là một căn nhà tụi tui ở, chị nhìn nó giống nhà bảo sanh không? Chị vô tư trả lời:
        - Ừ, nó giống nhà bảo sanh nên vào nhà nầy chắc sẽ có con.
        Đó là một câu nói đùa, nhưng đã trở thành sự thật: đó là cháu Hà Vĩnh Thuận, con trai duy nhất của Tường. Bà xã Tường đã có cháu Thuận từ căn nhà đó.
        Vài tháng sau tôi sang lại một căn cư xá công chức. Trên nguyên tắc Tòa HC Tỉnh làm giấy cấp quyền sử dụng nhưng thực sự mình phải thương lượng với chủ nhà cũ và trả họ một số tiền. Chúng tôi dọn về căn cư xá, khoảng một tháng sau, Tường được đưa đi giữ chức Phó Quận Bố Đức, một quận lưu vong được thành lập trên phần đất của Xã Phước Tín, Quận Phước Bình, vì Quận Bố Đức cũ đã bị VC chiếm đóng từ “Mùa hè đỏ lửa 1972”. Ông Quận Trưởng Bố Đức làm chủ căn cư xá bên cạnh tôi nên đã để Tường xử dụng căn cư xá. Thế là chúng tôi lại sống bên cạnh nhau. Đầu năm 1974, tôi được cử đi làm Phó quận Phước Bình, quận Châu thành của tỉnh Phước Long, nhưng văn phòng Quận cách tỉnh lỵ khoảng 3 km, và chỉ cách văn phòng của Tường 2km, Hằng ngày chúng tôi vẫn ăn sáng với nhau và sau đó ra văn phòng vì cùng chung một đường.
         Khoảng giữa năm 1974, Tường được cử đi làm Phó quận Đôn Luân tức Đồng Xoài. Cái tên được nhiều người biết đến. Tường đưa bà xã về Saigon vì cũng sắp đến ngày sanh, Tường ở trong Chi khu cùng với Quận Trưởng, chúng tôi ít gặp nhau hơn. Thỉnh thoảng Tường về Tỉnh họp cùng với Quận Trưởng hoặc đôi khi lấy lý do về Tỉnh công tác để đi trực thăng về Tỉnh chơi vài ngày vì trực thăng là phương tiện di chuyển độc nhất từ tỉnh xuống quận. Có lần tôi về Saigon khi trở lại tỉnh bạn bè cho biết Tường về tỉnh chơi nhưng khi biết tôi đi Saigon, Tường lại xách túi ra sân bay trực thăng kiếm máy bay đi về lại Đồng Xoài, mặc dầu ở tỉnh cũng có cả chục anh em QGHC.
        Khi bà xã tôi gần sanh cháu thứ nhì, mỗi tuần về Tỉnh chơi Tường hay hỏi tôi có cần tiền không? Nhưng tôi luôn trả lời “không” vì tôi biết Tường cũng cần tiền để lo cho cháu Thuận mới sinh. Sau vài tháng, Tường đưa vợ con lên ở trong Chi khu Đồng Xoài cho đến khi bắt đầu trận chiến xảy ra vào ngày 13-12-1974, quận Đức Phong của Phước Long (giáp tỉnh Quảng Đức) đã bị mất sau một đêm bị VC tấn công, sau đó VC tiến đánh Chi khu Bố Đức, bao vây Quận Đồng Xoài và pháo kích vào Tỉnh lỵ. Air Việt Nam ngưng các chuyến bay đến Phước Long từ ngày 13-12-1974. Sáng hôm đó tôi cố gắng ra văn phòng với mục đích dùng máy của Ban Viễn Thông để nói Tường kiếm máy bay trực thăng bay về Tỉnh, nhưng sau khi liên lạc được, ông Trưởng ban viễn thông của tôi cho biết: Ông Phó Tường mới lái xe ra ngoài Chi khu. Sau đó vài ngày tôi lại ra văn phòng và cố gắng liên lạc với Tường một lần nữa nhưng cũng không gặp. Những ngày sau đó tôi không ra văn phòng nữa vì tình trạng pháo kích nặng nề hơn. Tình hình trong tỉnh ngày càng rối loạn, cho tới ngày 23-12-1974, tôi đã trốn khỏi tỉnh bằng máy bay thám thính L.20 của Không quân công tác ở tỉnh và bị Tỉnh Trưởng báo cáo “đào nhiệm” về BNV. Nhóm chúng tôi gồm 4 người: một anh ĐS14, hai anh TS5 và tôi bị ông Tổng Trưởng bộ NV nhờ BTL/CSQG làm thủ tục truy tố về tội “đào nhiệm” với mục đích làm gương cho những tỉnh khác, nhưng tình hình thay đổi quá nhanh sau khi các tỉnh vùng 1, 2 bỏ chạy, các anh em HC chạy về trình diện BNV rất đông, nên việc truy tố chúng tôi được giao lại cho một Uỷ ban có tên “Hội Đồng Quản Trị Viên Chức BNV” đứng đầu là ông TTK xét xử. Cuối cùng chúng tôi được “tha” và đưa lên trông coi Trại Tiếp cư dân Phước Long tại Bình Dương. Tại đây tôi đã đi tìm những người trong Chi khu Đồng Xoài để hỏi tin tức của Tường. Cuối cùng tôi gặp được một sĩ quan cho biết chính mắt anh nhìn thấy khi Tường vừa lái xe ra tới cổng Chi Khu thì một quả đạn pháo kích rơi trúng xe và xác Tường bị tan nát văng tứ tung.
         Quyết định ở lại Đồng Xoài của Tường có lẽ do hai nguyên nhân: thứ nhất muốn chứng tỏ bản lãnh của một cấp chỉ huy và thứ hai là hy vọng những cấp chỉ huy cao cấp sẽ phải tiếp cứu ban tham mưu của Quận vào giờ phút chót, nhưng thực tế không như vậy, tất cả hầu hết những cấp chỉ huy cao cấp của Tỉnh Phước Long từ Tỉnh Trưởng bị chết hoặc bị bắt. Riêng hai người bạn đồng khóa Lê Thanh Quang và Nguyễn Hữu Nhơn bị bắt. Sau ngày 30-4-75 Quang được tha về nhưng đi bộ đến Đồng Xoài thì bị sốt cấp tính và từ trần tại đây. Dân địa phương đã chôn cất và giữ lại kỷ vật của Quang rồi liên lạc trao lại cho vợ Quang khi lên bốc mộ. Nguyễn Hữu Nhơn được tha về, sống ở Saigon một thời gian rồi chết.
        Sau 35 năm tôi mới có dịp viết lại những kỷ niệm của một tình bạn trong một giai đoạn ngắn ngủi của cuộc đời công chức, để chia sẻ với các bạn những gì đã xảy đến cho một người bạn của chúng ta ở một tỉnh lẻ xa xôi. Và cũng như thắp lên một nén hương để tưởng nhớ những người bạn đồng khóa, vì tinh thần trách nhiệm, tự trọng đã hy sinh những gì quý giá nhất đời mình cho Tổ quốc và cũng đã bảo vệ danh dự ngôi trường đào tạo chúng ta và tập thể đã kế thừa từ ngôi trường đó.
         Mùa Thu 2008

Nguồn : https://ongvove.wordpress.com/2010/04/21/phut-thanh-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-t%C6%B0%E1%BB%9Bng-le-van-h%C6%B0ng/
Quả thật tôi chỉ biết rõ quãng đời của Chuẩn Tướng vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ T.O.C/ Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn 3, từ Sài Gòn… bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được… Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại gọi đến liên tục.
12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng dòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễu hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân… ra đi. Tôi ngỡ ngàng tự nhủ: “Như vậy là Phó Đề Đốc Thăng tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?”(Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, lực lượng Đặc Chủng ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/ QuĐ IV). Trong làn sóng người lục tục kéo đi, bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quây, Tham Mưu Trưởng QuĐ IV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá Trưởng Toán Trực TOC hỏi ông có biết vụ này không, rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi để ông nói chuyện.
Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30-4. Tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ này giá có Phúc thì hết chê. Phúc khỏe mạnh, tháo vát, giỏi giắn… Nhưng Trung Úy Phúc đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến “quá giang”trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn – Long An bị cộng quân cắt đứt với trận chiến dằn dai nhiều ngày, chưa khai thông được.
7 giờ 30 sáng 30-4, tại phòng họp BTL, như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị Tướng và các quan chức. Lần này có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải bỏ đi, mang theo Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Diệp, Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ), Thiếu Tá Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, Đại Tá Đạt, Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5.
8 giờ 30 Đại Tá Thiên được cử tạm thời đảm trách chức vụ Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh.
9 giờ 30 hai vị Tướng Lãnh gặp nhau trong phòng việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 đang chỉ huy công cuộc giải tỏa quốc lộ Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về Bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn, nên phải quay về. Chuẩn Tướng lại lệnh cho tôi gọi về Bộ TThM để ông gặp Tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tùy phái cho biết:
“Tổng Tham Mưu hiện không còn ai. Các Tướng Tá, Sĩ Quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ”.
Tôi hiểu liền các vị ấy có mặt tại đó để làm gì! Sau vị nguyên thủ quốc gia (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), B/TThM cũng đã lặng lẽ đóng cửa!… Và như vậy, có nghĩa là riêng QuĐ IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: “Đất nước thực sự đã mất rồi!…”Tôi bước vào phòng trình tự sự lên 2 vị Tướng. Tôi thấy mắt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống, rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình Chuẩn Tướng. Lúc này Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về tòa nhà Tư Lệnh. 15 phút sau, tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị Tướng. Gặp Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt:
– Tổng Thống Minh đã đầu hàng!…
Chuẩn Tướng quày quả đẩy cửa vào Phòng Tư Lệnh. 15 phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Vùng IV kể từ giờ phút này. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn. Nếu nó “bung”thì làm lại liền. Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho 3 Tư Lệnh Sư Đoàn 7, 9 và 21.
Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng Lãnh trách nhiệm sinh tử Vùng IV lúc này muốn ngăn trở những hỗn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm này. Chính vì vậy mà giờ phút này, Chuẩn Tướng vẫn liên lạc cùng Tướng Tần, Tư Lệnh Vùng IV Không Quân, hỏi ông về việc sử dụng bom CPU. Tôi không rõ chuyện thảo luận của 2 vị về việc này, nhưng 1 tiếng sau đó, sau khi rời phòng họp, Tướng Tần cùng các sĩ quan của ông đã lên các phi cơ rời căn cứ… nối gót lực lượng Hải Quân!….
Giờ phút này, tôi đang giúp Chuẩn Tướng điều chỉnh lại bộ dây ba chạc trên người ông, Chuẩn Tướng như đang trong tư thế đối đầu tại chiến tuyến. Cửa phòng xịch mở, 3-4 Đại Tá tất bật kéo nhau vào. Các vị này trong số 7 vị Đại Tá được Tư Lệnh Quân Đoàn đề cử vào chức vụ Phụ Tá Tư Lệnh Phó đặc trách về Xây Dựng & Bình Định, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân… Thấy điệu dạng họ như vậy, Chuẩn Tướng cười mỉm:
– Các ông làm gì vậy? Tôi còn đây mà.
Thì ra các vị đến để yêu cầu ông Tướng trình Tướng Tư Lệnh để họ được đảm nhiệm chức vụ Trung Đoàn Trưởng, lấp chỗ các vị đã tự ý rời nhiệm. Tôi ngầm hiểu ý nghĩa về việc yêu cầu đó: Thông thường các Trung Đoàn Trưởng được cấp trực thăng C & C sử dụng trong ngày. Tôi được biết Đại Tá Bùi Huy Sảnh, Trung Đoàn 33 cũng vừa rời bỏ chức vụ. Chẳng biết ông có di tản được không?
Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình hình hơn là treo cờ hàng. Ngay khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn.
Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy vậy, cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm cộng quân nào vào các Thị Xã. Các Tiểu Khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi không thấy đói, nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục, kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút này, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi Đại Đội Trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng. Cho tới giờ phút này, tôi chưa hề được Chuẩn Tướng ra lệnh lạc nào cả…
13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng cùng 2 con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng… Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy ngùn ngụt. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu hủy? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng có còn đó không, và việc thiêu hủy giấy tờ này do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút này có còn đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3 ! Tôi tự hỏi: “Trong tình huống này, 2 vị Tướng có còn chỉ huy cấp dưới được nữa hay không”. Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.
14 giờ 30, Chuẩn Tướng lại trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Tôi đứng bên trái Chuẩn Tướng, cách vài bước, hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo ông. Mới vào Hè mà cảnh vật như đã Thu, Đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàn phượng vĩ đang nở hoa đỏ ối giữa sân, thêm hình ảnh bất động của Chuẩn Tướng trước mặt, tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u-buồn, tan tát… Bất chợt, Chuẩn Tướng quay lại hỏi tôi:
– Cô đi đâu?
– Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ rửa tội.
Vừa lúc đó cửa cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở ra nhẹ nhõm.
Mấy ngày nay, tình hình chiến sự, tình hình đất nước đen tối như vậy, mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho bà Tướng cùng thân quyến. Bây giờ lại đi xin rửa tội. Tôi không bao giờ nghĩ ra chuyện ông bà Tướng đã âm thầm cùng bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn gia đình. Và phần bà đã dọn mình bằng chính cung cách riêng của bà. Bà muốn khi từ giã cõi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa, và bước vào áo quan với bộ đồ mới tinh, trong trắng… Nhưng vào phút cuối cùng, khi nhìn thấy 2 con thơ dại, Chuẩn Tướng thay đổi ý và nằn nì bà ở lại đùm bọc 2 con.
Buổi sáng, ngay sau khi bản thông điệp của Tổng Thống Minh vừa dứt, bà Tướng gọi sang văn phòng bảo tôi tìm cho bà càng nhiều càng tốt thuốc valium 5mg. Bà Tướng vốn bị bệnh mất ngủ đã nhiều năm, nên việc bà cần loại thuốc này không có gì đặc biệt, tôi nghĩ vậy. Nhưng khi gọi cho Trung Tá Lưu, Liên Đoàn Trưởng 74 Quân Y, ông khuyên tôi đừng nên can dự vào, để lương tâm khỏi bị ray rứt sau này. Rốt cuộc tôi xuống trạm xá Quân Đoàn và người sĩ quan trợ y đã dốc hết số thuốc còn lại trên trăm viên. Bà Tướng nhận số thuốc rất điềm nhiên trước giờ đi nhà thờ xin lễ rửa tội.
Gương mặt Chuẩn Tướng thoáng chút rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.
Đã 3 giờ chiều. Tôi được biết có cuộc hẹn gặp gỡ thảo luận về việc tiếp thu Cần Thơ giữa BTL/QuĐ IV với đại diện của phía cộng quân. Mọi sự sẽ diễn ra tại văn phòng Tư Lệnh. Tôi không rõ ngoài 2 vị Tướng còn có những ai khác, phía cộng quân bao nhiêu người và ai đã thảo ra văn bản để đôi bên cùng đồng ý ký kết.
16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh này. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra ở phía trước. Bên kia đường, đối diện vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Tôi ra hiệu cho anh quân cảnh sang bên kia đường đón chận hỏi 1 người trong số họ. Thì ra những thanh niên này thoát ra từ trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ đã bỏ ngỏ. Giờ phút này có lẽ không gì thần tiên bằng là họ đang được trở lại nhà. Hèn gì họ vừa chạy vừa biểu lộ vẻ vui mừng rối rít. Nhìn cảnh tượng trước mắt, tự dưng tôi thấy dâng lên trong lòng nỗi cô độc, trống vắng làm sao! Hình như chỉ còn mỗi một xe jeep chúng tôi độc hành trên con đường ngắn quen thuộc, mà giờ đây như xa lạ và dài lê thê ra…
Đến ngã tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, Chuẩn Tướng ra hiệu dừng xe. Ông bước xuống, đứng nhìn bao quát, có vẻ như đang sắp xếp một thế trận. Tôi nhìn ra 4 phía lộ, và nhận ra vẻ trống vắng rờn rợn. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố thoi thóp, im ỉm khiến tôi liên tưởng đến những đoạn film có cảnh tương tự: Les Sept Mercenaires, O.K Coral… thời còn đi học. Bỗng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một chiếc xe jeep đang theo đại lộ Hòa Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiếc jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng. Người ngồi trên xe là Tướng Mạch Văn Trường, tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông là một trong vài vị Tư Lệnh được Tổng Thống Thiệu ra sắc lệnh thăng cấp trước khi lên phi cơ rời Việt Nam. Tướng Trường xuống xe trình Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đã tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh.
Tại phòng khách, hai vị cùng ngồi trên ghế “canapé”. Với giọng nói cứng cỏi, quả quyết, ông nói với Tướng Trường rằng giờ này ông chỉ huy. Ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành lệnh cho 2 Chi Đoàn thiết vận xa M.113 đang ở vùng quận lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, Chuẩn Tướng đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng.
Đèn phòng vừa bật sáng, tôi nhìn ra cửa sổ, bóng tối đã nhợt nhờ ngoài sân. Phía cuối phòng, bà Tướng và gia đình đã ngồi vào bàn ăn, có vẻ vẫn an bình như mọi bửa cơm tối hằng ngày. Người lính phục dịch đặt trên bàn tiếp khách, chỗ Chuẩn Tướng đang ngồi, 1 cái dĩa, muỗng và 2 trứng gà ngâm trong ly nước sôi.
Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có 2 máy điện thoại: 1 tự động và 1 qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm 1 PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ 21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc này, Thiếu tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả 3 chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn về phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm.
Phái đoàn 2 bên rời BTL/QuĐ đã gần 2 tiếng đồng hồ và chính lúc này là giờ qui định phát thanh. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu thêm. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/QuĐ và đọc văn bản thông báo “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí…”Bản văn vắn tắt, nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi, những người hiểu rõ nội dung bản văn chung trong phiên hợp 2 bên, đều chết điếng: Đây không phải là bản văn đã được 2 bên thỏa thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp”(danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M 113 lái đến dinh để đi cùng Chuẩn Tướng đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn còn mang vẻ lễ độ của một cấp thừa hành, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của cộng quân đã có mặt ở Thị Xã Hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc này. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động này, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ, bất khuất của ông, như là dũng tướng tới bước đường cùng vẫn tả xung hữu đột, tôi khâm phục ông xiết bao! Với tinh thần tự nhận trách nhiệm tối cao, hai vị Tướng Lãnh muốn quân nhân phải được bảo đảm an toàn, ít nhứt cũng cho những binh sĩ khi họ không còn được quyền cầm vũ khí trong tay nữa. Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt cùng các lực lượng cộng quân và rồi bổng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?
Đang miên man nghĩ suy, tôi giựt mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng trầm trầm, chậm rãi của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Có lẽ Thiếu Tướng hỏi Chuẩn Tướng về bản văn phát thanh vừa rồi. Tôi nghe Chuẩn Tướng trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, ThMPh/ ChTrChTr/QuĐ đại diện cùng đi với phe cộng quân. Vì sao bản văn chung bị tráo? Và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhứt Đ/T Sáu biết mà thôi. Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa 2 vị Tướng kết thúc. Buông ống liên hợp xuống, Chuẩn Tướng thừ người, ngồi bất động. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ mệt nhọc tuyệt vọng trên gương mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Trong một cử chỉ buông xuôi, Chuẩn Tướng đưa 2 tay về phía trước, bằng một giọng nói oai mãnh, bất khuất ông đã quất về phía tôi và Thiếu Tá Phương một tràng lanh lảnh và đanh thép, khiến tôi rụng rời, vì biết sắp phải xa ông, vị Tướng tôi luôn kính quí. Tôi cúi đầu lặng thinh, cả một khoảnh khắc chơi vơi để 3 chúng tôi mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng…
Chuẩn tướng đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng Sĩ Trưởng Toán Tiểu Đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành 2 hàng bên hông dinh. Bằng một giọng cảm động, chân tình, Chuẩn Tướng cám ơn họ đã vẫn ở bên ông đến giờ phút cuối cùng này và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tùy ý… Bổng có tiếng người lính gác ở trên cao báo động có xe cộng quân đến. Lập tức Chuẩn Tướng chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí, rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Chuẩn Tướng vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc này tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui. Điện toàn bộ Thị Xã bị tắt ngúm. Như vậy điện trong dinh hiện có là do đường dây từ máy phát điện riêng của BTL/QuĐ. Trong bóng đêm u-uất đó, 2 vệt sáng rực phát ra từ 2 đèn pha chiếc xe jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi trông thật ghê rợn. Nhưng khi ra đến ngã tư, ánh đèn lại rẻ trái theo đại lộ Hòa Bình hướng về BTL/QuĐ. Họ không đến chỗ chúng tôi. Chuẩn Tướng đứng lên, lùi trở về phòng. Tôi dùng máy PRC 25 thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi 3-4 lần vẫn khong có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh TKhTr và dinh TLPh chỉ cách nhau hơn 300m thôi, nếu có tiếng súng nổ chúng tôi phải nghe được, nhưng sự việc máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Và như vậy tình hình trong dinh chúng tôi cũng rất nguy ngập, không rõ địch sẽ xuất hiện lúc nào. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ đang rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Và đây chính là giờ phút ông thuyết phục bà cần phải sống. Hai cháu bé đang vô tư đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch lối ra bao lơn. Tôi trở xuống nhà để tìm gặp, dặn dò toán gác. Thật ra tìm họ cũng là để tự trấn an mình.
10 phút sau, Chuẩn Tướng gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài tôi và Thiếu Tá Phương, còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Chuẩn Tướng đứng tại phòng ngủ, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé hồn nhiên lùa vào mái tóc cha làm lõa xõa vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn Tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến lòng tôi ngậm ngùi tê cứng. Bằng giọng nói tha thiết, ân cần, Chuẩn Tướng gởi lại bà cùng 2 con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1-5. Đó là lời ủy thác cuối cùng của Chuẩn Tướng. Dù đã từng xông pha bao chiến trận, nhưng trong giờ phút tử biệt này, Chuẩn Tướng không nén được nỗi uất nghẹn trong lời nói. Ông lấy lại trầm tĩnh thật nhanh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Để rồi giây phút vĩnh quyết đã đến!…
Hồi kết
Lúc đó đã 9 giờ đêm 30-4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông. Chừng đỡ lưng Chuẩn Tướng lên, mọi người lại đau lòng rấm rứt khóc khi thấy vẫn còn máu tươi rỉ ra chỗ viên đạn thoát ra khỏi thân thể ông. Chuông điện thoại lại reo lên. Tôi lật đật mời bà Tướng tiếp chuyện với Thiếu tướng Tư Lệnh. Bà sụt sùi báo tin Chuẩn Tướng đã… ra đi… Cuối cùng bà nghẹn ngào cảm ơn Thiếu Tướng Tư Lệnh đã gọi đến thăm hỏi, an ủi bà… Để rồi… 8 tiếng đồng hồ sau, lúc 5h30 sáng ngày 1-5, hai vị Tướng cao cấp nhất lãnh thổ vùng IV cùng gặp được nhau ở bên kia thế giới, với cùng ý chí “Tướng phải chết theo thành”.
Chuông điện thoại lại reo. Tôi nhắc ống nghe lên, giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Giọng ông thật khẩn cấp, ông cần nói chuyện với Tướng Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí, “Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!”Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị này đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc cộng quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát các cuộc điện đàm… Sau này khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật ngu khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà tự ý trả lời Đại Tá Cẩn là Chuẩn Tướng đang bận chỉ huy các đơn vị nên không thể rời máy tiếp chuyện Đại Tá được. Tôi nghĩ chỉ có cách đó mới ngăn được Đại Tá, để ông không đòi gặp Chuẩn Tướng nữa. Tôi còn tự ý trả lời “Lệnh của ông Tướng truyền đi hồi sáng vẫn không thay đổi”khi Đại Tá hỏi đến điều này. Hậu quả là Đại Tá tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi ông bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và Cộng quân đã đưa Đại Tá ra xử bắn trước đám đông dân chúng. Trong lúc chỉ huy chiến đấu, Đại Tá Cẩn đã bị thuộc hạ của mình phản trắc, khống chế từ sau lưng. Tôi tin rằng chính vì vậy mà ông không kịp thực hiện được hành động can trường như Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó và Thiếu Tướng Tư Lệnh đã làm, khi Tiểu Khu thất thủ, mà đành để bị bắt sống. Ông vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện chiến trường An Lộc mùa hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó. Pháp trường của kẻ thắng càng tô đậm thêm ý chí hiên ngang, bất khuất của người dũng sĩ trước mũi súng quân thù. Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi nhớ ơn Ông cùng những người, cho dù là hàng binh sĩ, trong những giờ phút này vẫn còn ngả gục và thắm máu đào trên khắp đất nước non sông.
Có tiếng rè rè từ máy PRC 25 và loa khuếch đại vang lên tiếng gọi danh hiệu Chuẩn Tướng. Tôi nhìn lại bản đặc lệnh truyền tin và nhớ ra giọng nói của Thiếu Tá Điệp, Tiểu Đoàn Trưởng 1/31, đang trong vùng hành quân thuộc quận Bình Minh, chắc anh không liên lạc được với Bộ chỉ huy Trung Đoàn và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nên mới gọi thẳng về Chuẩn Tướng. Tôi báo cho Thiếu Tá Điệp biết chuyện của Chuẩn Tướng và cầu chúc anh may mắn. Trong đêm nay còn bao nhiêu đơn vị đang trong tình trạng bơ vơ, lạc đàn như Tiểu Đoàn của anh, kêu gọi cấp chỉ huy trong vô vọng và đành chờ đợi ánh bình minh để nhận lãnh số phận mình… Từ đó tôi quyết định tắt hẳn máy PRC 25.
Tôi bước trở lại phòng Chuẩn Tướng và nhìn thấy ông ngời sáng trong bộ lễ phục với đầy đủ quân hàm trên 2 cầu vai, cùng dây biểu chương, huy chương. Bà Tướng đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Xong xuôi, bà ngước lên nói cùng tôi, bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách. Tôi gật đầu im lặng. Trong bối cảnh này, tôi thấy mình cần phải tận lực giúp đỡ bà, còn việc thành bại là hướng sắp tới.
Trời đã khuya, chỉ còn độ tiếng nữa là sang ngày hôm sau. Thân nhân của Chuẩn Tướng vẫn còn đó cạnh ông. Có lẽ cũng không ai nhắm mắt được đêm nay. Tôi đến cầu thang, trở xuống nhà dưới, theo cửa sau vòng ra sân với đầu óc trĩu nặng lo nghĩ. “Khi hay tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, liệu bọn Cộng Sản có chấp nhận để yên cho mai táng ông không, mai táng bình thường thôi, chớ chưa nói đến chuyện đúng lễ nghi quân cách? Hay là đêm nay mình tìm nơi an táng ông chính tại trong khuôn viên dinh?…”Tôi lắc đầu, bỏ ý nghĩ đó và dừng lại chỗ cuối sân, nhìn ra cổng sắt. Đêm đen ghê rợn trùm phủ vạn vật. Trời tối đến độ tôi không nhận ra cánh cửa cổng. Còn vọng gác thì im sửng trên cao, không biết có còn người gác hay không? Sự im lặng chết chóc khiến tôi hoảng sợ đứng ỳ tại chỗ, không dám nhích tới. Tôi có cảm giác đang bị bao vây, rình rập, dòm ngó từng động tác. Tôi trở gót, theo cửa sau, bước lên phòng khách nhìn quanh quẩn, nơi đây cũng tối om, chỉ có chút ánh sáng của ngọn đèn trên lầu hắt xuống cầu thang cho tôi nhìn rõ nhà dưới trống vắng, không còn người lính phục dịch nào ở đó. Tôi quyết định nghỉ lại nơi đây. Đêm nay nếu có sự kiện gì xảy ra từ phía ngoài vào, tôi sẽ là người đón nhận, hay biết trước tiên. Trong bóng đêm cô tịch, tôi ngồi nhớ lại những việc vừa xảy ra, tất cả nhanh chóng kết thúc, tưởng chừng như một giấc chiêm bao! Sự đời như bọt nước bèo trôi, tụ rồi tan, mới hạnh phúc đó đã tan vở, mới cười vui đó đã ôm ra khóc. Lòng tôi bỗng chơi vơi rung động nhớ lại lời nói ôn nhu của Trung Tá Nghiêm, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chánh Trị Sư Đoàn 21, khi ông giới thiệu một pháp môn tu thiền cho tôi vào những ngày cuối năm 73 tại văn phòng Tư Lệnh ở Chương Thiện. Sự thôi thúc dâng lên kỳ lạ, tôi xúc động ngồi lại ngay ngắn, chắp tay trước ngực, tâm thành khẩn hướng vọng đến đức thầy Lương Sĩ Hằng, xin ông nhận tôi là môn sinh. Từ đó đến nay đã 24 năm trôi qua, không ngờ nỗi đam mê với môn học này, tôi vẫn tiếp tục đeo đuổi và tôi tin chắc sự ổn định được đầu óc nhờ hành thiền, đã giúp tôi viết lại bài anh hùng ca này một cách tuần tự, rõ ràng, nhớ rõ như mọi chuyện mới vừa xảy ra.
Sau đó tôi nằm xuống và tạm quên được mọi việc và chìm trong giấc ngủ. Lúc tôi trở giấc, trời vẫn còn tối, lòng tôi lại nặng trĩu khi đối diện với thực tại. Tôi bước ra sau, về phòng mình, gấp rút lo việc cá nhân khi thấy kim đồng hồ đã chỉ gần 5 giờ sáng.
Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, Phụ Tá Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Sự tao ngộ cũng thật vội vàng, ngắn ngủi. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhứt của BTL/QuĐ đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng lo thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung Úy Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay Thành đã thuyên chuyển về Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Hiện tại chắc chắn tôi phải nhờ Thành rất nhiều. Trong lúc chờ trời sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và đi mua quan tài. Lúc tôi tiến đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người, trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: Họ đánh giá tôi một ra khỏi đây, không bao giờ trở lại!
Lúc đó gia đình Chuẩn Tướng còn ở trên lầu. Tôi mở hé cánh cổng để vừa đủ đi qua, mắt tôi nhìn thấy Đại Tá C., một trong những Phụ Tá của Tư Lệnh Phó, đang đứng nơi công viên Hòa Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi bỗng mừng rỡ khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với 3-4 người tại trước cổng BTL/Đặc Nhiệm 4 của ông (Chức vụ cùng danh xưng có tính cách điều hành nội bộ của BTL/QuĐ IV do Tư Lệnh đề ra, phần lớn nhằm giải quyết số sĩ quan cao cấp “ối đọng”tại BTL). Tôi thầm ngợi khen ông trông vẫn tỉnh táo và trẻ trung trong bộ áo quần thường dân. Trong buổi sáng hôm nay, không hẹn mà tất cả chúng tôi đều mặc thường phục, hòa nhập vào lớp thường dân. Gặp được Đại Tá, tôi đặt thẳng vấn đề Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn ông đúng theo lễ nghi quân cách, xin Đại Tá với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (CS) để nói giúp. Tôi tưởng đã giải quyết được một gánh nặng to lớn khi Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc này.
Đến nhà cha mẹ vợ Trung Úy Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì, và tôi đang rất cần được giúp đỡ để thực hiện lời ủy thác của người chết. May mắn là nhà Thành có khoảng sân khá rộng, tôi xin được gởi chiếc Falcon và chiếc jeep sơn màu xanh với số ẩn tế dân sự. Chuyện gia đình Thành chấp nhận giữ 2 chiếc xe giúp tôi giữa lúc đen tối này là một hành động can đảm, như chấp nhận một bản án, nếu có người tố giác (mà lúc đó thiếu gì bọn ba-mươi-tháng-tư). Tôi biết như vậy, nhưng trong cơn nguy cấp, tôi không có cách nào hơn, đành phải nhờ Thành. Rất may là những ngày sau đó, khi chúng tôi đã rời Cần Thơ, biết tin gia đình Thành vẫn yên ổn. Viết lại những dòng này, tôi luôn ghi nhớ tấm lòng của cả hai bên gia đình Trung Úy Thành đối với gia đình Chuẩn Tướng.
Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua chiếc quan tài, rồi trở lại Sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, Phụ Tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5, để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩn liệm Chuẩn Tướng. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩn liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30-4, buổi sáng hôm nay, 1-5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Úy Việt, Tùy Viên Tư Lệnh đang đứng trong sân nhà của Trung Úy Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã “đăng ký trình diện”và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Úy Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Úy Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về QuYV trong tình trạng hấp hối. Việt kể, lúc đó khoảng 5 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở dưới hầm, ông bảo 2 tùy viên lên nhà, rồi dùng colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm, vì còn quá nhiều việc để làm.
Xe chúng tôi chạy ngang qua nhà Thiếu Tá Qu., Trưởng Phòng 1/SĐ 21, tôi nhìn thấy Thiếu Tá ngồi sau một cái bàn đặt ở ngoài sân, đang hí hoáy ghi. Một số người đứng vây quanh bàn ông. Tôi vỗ vai Thành bảo chạy chậm lại để kịp đọc được dòng chữ ghi trên tấm bảng đặt sát bàn viết “Nơi đăng ký trình diện nguỵ quân”. Tôi ngờ ngợ nghĩ “Như vậy, Th/T Qu. Là người do CS cài đặt vào Quân Đoàn ư? Hay ông nhạy cảm, muốn lập thành tích để được là người cách mạng ba-mươi-tháng-tư?”
Ra đến khu chợ, tôi ghi nhận một điều là hầu hết các tiệm ăn đều chật cứng thực khách. Lúc đó tôi bỗng thấy đói và nhớ ra từ đêm qua tôi chưa có thứ gì vào bụng. Tôi cùng Thành tìm chỗ ngồi để ăn sáng. Tiếng cười nói trao đổi giữa thực khách vang lên ỏm tỏi. Có hai người khách ngồi cùng bàn với chúng tôi, nói với nhau:
– Ăn cho đã! Ngày mai biết còn xài tiền được nữa không?!…
Tôi để Thành ngồi tại quán, một mình đi sâu vào chợ. Mắt tôi choáng ngợp với toàn màu đỏ: Cờ cộng sản cùng những cây vải đỏ bày bán khắp nơi. Dân chúng nơi đây quả đã sớm hội nhập với hoàn cảnh mới! Tôi mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm… rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh.
Quan tài đã được đem đến và được đặt trên 2 giá gỗ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có 2 cán binh cộng sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi? Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàn lại 3 ngày. Tôi thấy cỗ áo quan cũng “khiêm tốn”, nên bàn với Thành đến QuYV Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny-lông. Tôi muốn nhân dịp này để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Xe chúng tôi tới cổng QuYV, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng. Y sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh… đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhứt chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ ny-lông giấu nơi yên xe kèm theo lời nói:
– Thật may quá, chỉ còn một bộ duy nhứt. Từ sáng tới giờ phát hết rồi!
Tôi hỏi thêm:
– Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu?
Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chừng 30m và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Tôi cẩn thận nhìn quanh một lượt. Khi thấy chỉ có 3 chúng tôi, tôi cảm ơn anh, rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài 2 chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng-ca đặt trên 2 giá sắt cao gần 1m. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng-ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt. Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bùi ngùi mục kích nỗi cô độc của ông. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng hiền từ như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương trái trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương phải, vệt máu đã thẫm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và đọng lại trên bâu áo phải làm lem lấm 2 ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đấâu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cắm vào lon cát đã có 3 chân nhang của ai đó đã đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ, rồi lặng lẽ rời QuYV, với nỗi lòng thật nặng nề, mệt mỏi như người bệnh. Giờ phút cấp bách này, tôi không thể làm gì hơn được cho vị Tướng Tư Lệnh kính quí! Nhưng tôi hy vọng quí vị quân y sĩ của QuYV sẽ không bỏ mặc Thiếu Tướng. Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. 20 phút sau Trung Tá đến.
Sau lớp vải liệm là đến chiếc túi ny-lông ôm chặt thi thể Chuẩn Tướng. Chúng tôi đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩn liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn Trung Tá Bia điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bỗng có tiếng la lớn uất nghẹn:
– Trời ơi!… Ông “thầy”ơi!
Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quị xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng 3/33. Tiểu Đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai nấy tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 1968. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính quí vị “thầy”của mình…
Đúng lúc đó Trung Úy Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30-4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn một tuần nay của BTL/QuĐ. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi cần phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền.
Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Riêng phần gia đình Chuẩn Tướng, buổi sáng sớm sau khi gặp Thành tôi đã trở về hướng dẫn xe Falcon và xe jeep dân sự đến gởi bên nhà Thành rồi, với số hành lý chứa trong cóp sau xe.
Giờ phút trôi qua chậm chạp với nỗi lo lắng chờ đợi của tôi. Từ 16 giờ tôi bắt đầu sốt ruột, bứt rứt không yên. Mảng nắng chiều vàng vọt còn cố níu lại trên đỉnh tàn sao cao ngất. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bỗng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhảu nhảy xuống chạy vào nhà. Đã chuẩn bị sẵn, chúng tôi cùng họ đưa quan tài lên xe. Năm phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc và tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại!… Xe quẹo ra đại lộ Hòa Bình để hướng về Cái Răng.
Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thắm quan tài đến đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đắp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.
Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Sau này chính các vị sư ở đây đã giúp xây mộ cho Chuẩn Tướng. Tôi về nhà Thành để trông coi hai chiếc xe. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 8 giờ sáng ngày mai, 2-5, để về Sài Gòn. Tôi khẩn khoản yêu cầu Thượng Sĩ nhất Triệu, tài xế xe Falcon, cố gắng giúp đưa gia đình bà Tướng về đến Sài Gòn, một lần này nữa thôi. Buổi tối, tôi mở tất cả va-li trong cốp xe ra kiểm soát lại, đem thiêu hủy tất cả hình ảnh binh bị của Chuẩn Tướng. Ban chiều tôi đã trình bày cùng bà Tướng là không nên giữ lại những gì sẽ có hại cho gia đình bà, trên đường về không biết bất trắc ra sao. Hơn 10 giờ đêm, tôi vào giường thao thức không ngủ được. Tôi lo nghĩ đến chuyện di chuyển ngày mai. Nếu vì bất cứ lý do gì, người tài xế vắng mặt, thì tôi phải đảm trách phần việc khó khăn này của anh. Tôi chỉ từng lái xe jeep mà chưa từng lái chiếc xe tương đối cồng kềnh này, khó khăn nhứt là lúc lên xuống phà. Chiếc jeep giao cho Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc và gia đình.
Buổi sáng 2-5, tôi vô cùng mừng rỡ và cảm động khi thấy Thượng Sĩ Triệu xuất hiện. Không chỉ riêng chúng tôi mà người hạ sĩ quan già này, trong thời gian chờ giấy xuất ngũ, vẫn tận tuỵ với Chuẩn Tướng đến giờ phút hiểm nguy nhất. Đêm qua, khi về đến nhà Thành, Trung Sĩ Sao, cận vệ của Chuẩn Tướng mới bịn rịn từ giã tôi ra bến xe để về với gia đình chắc chắn đang rất trông chờ anh.
Không biết có còn dịp gặp lại nhau nữa không, tôi nghẹn ngào chia tay người bạn tâm đầu ý hợp và gia đình Trung Úy Thành rồi lên xe đến điểm hẹn. Xe tôi đi đầu, xe Phúc theo sau, bắt đầu xuống phà Cần Thơ trực chỉ Sài Gòn. Chúng tôi cùng chung tâm trạng mong nhanh chóng rời khỏi nơi đây. Qua bên kia bờ, mới đi được vài cây số, xe tôi gặp một toán cộng quân miền Nam đứng rải trên đường chận lại xét hỏi. Nhờ vậy xe Phúc thoát qua lọt. Một nữ cán binh, có vẻ là Trưởng Toán, cổ quàng khăn rằn, biểu tượng cán binh miền Nam, vai mang chiếc radio nhỏ đang phát vang rền một bài ca vọng cổ. Cô ta tiến đến bảo tôi mở cửa xe. Thấy chiếc va-li, họ lôi xuống bảo mở ra xem. Trong đó chỉ toàn là quần áo. Tôi mừng thầm là họ không khám phá ra chỗ cốp xe. Đến lượt cái bóp tay của bà Tướng, trong đó có một xấp tiền độ một trăm ngàn. Tôi choáng váng khi thấy cô ta lôi ra một xấp hình. Cô ta chú mục từng tấm một. Toàn là hình ảnh của Chuẩn Tướng mặc quân phục tại chiến trường. Có tấm chụp chung với cố vấn Hoa Kỳ nữa. Không kịp trấn tỉnh, tôi trả lời họ đây là vị Tướng đã chết rồi. Thế là họ ra lệnh bắt giữ bà Tướng và tôi với những tang vật đó. Trong lúc rộn ràng, tôi lấy cớ đến đóng cửa xe, rồi ra dấu bảo tài xế rồ máy chạy đi, mặc bà Tướng và tôi tự lo liệu sau. Tôi hy vọng, khi không thấy xe tôi, Phúc sẽ dừng xe lại chờ.
Chúng tôi bị đưa về BChH quận Bình Minh hiện do cộng quân chiếm giữ. Cùng chung số phận bị bắt còn có đôi nam nữ tuổi trạc 20-25 với lý do khá ngộ nghĩnh: Họ mang theo người số tiền gần 40 ngàn mà không có… “đăng ký”! Tại BChH quận, nữ cán binh áp giải chúng tôi đứng ra “tố giác tội trạng”chúng tôi trước hơn chục dân chúng hiếu kỳ, tính tình vốn chất phác của người miền Nam, họ chưa quen hình thức “đấu tố”này, nên chỉ trố mắt đứng nghe. Thao thao đã mồm rồi cô ta giao cả 4 chúng tôi cho một ông già, nói là cô cần đi dùng cơm trưa. Trong phòng bây giờ chỉ còn lại một nhân viên này. Tôi thầm khấn nguyện vong linh Chuẩn Tướng độ trì cho chúng tôi sớm rời được nơi đây. Một lát sau, bỗng dưng ông già trông giữ chúng tôi đem giao trả mọi thứ và cho chúng tôi đi. Có lẽ ông ta không phải là cộng sản chính cống. Chúng tôi lập tức lên xe thồ ra quốc lộ đón xe đò hướng về Vĩnh Long. Ngồi yên trên xe đò rồi, tôi lần dò kiểm lại các thứ: Mặc dù số tiền vơi đi, nhưng tôi vẫn hoàn lại đôi nam nữ số tiền họ bị mất trắng. Trước đó tôi đã thầm ước nguyện có mất tiền cũng được miễn sao được tự do thì thôi.
Trên chuyến xe đò ọp ẹp, chật ních người, nhưng ai nấy đều biểu lộ nỗi rạng rỡ, sung sướng. Họ cùng nhau phát biểu ca tụng cảnh hòa bình hôm nay, tha hồ đi suốt từ Nam chí Bắc… Thậm chí có người còn không tiếc lời chê bai, nguyền rủa đội quân trước đây đã từng bảo vệ họ. Tôi lơ đãng nhìn qua cửa hông xe, ngắm cảnh đồng ruộng bên ngoài, nhưng những âm điệu trong xe vẫn nhức nhối lọt vào tai. Cảnh vật vút qua như dòng đời trôi chảy. Tôi nghĩ ngợi mông lung đến một ngày không xa.
-Nghĩa
Phần viết thêm
Sau này tôi có được bà Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng liên lạc và cho tôi biết Chuẩn Tướng có để lại cho tôi một bức thư. Tôi trình bày với bà tôi không dám nhận, vì biết nội dung bức thư trăng trối là một lời ủy thác mà tôi không có khả năng thực hiện. Tôi biết Hưng bảo tôi mưu cầu phục quốc, nhưng tài hèn, sức mọn, tôi không làm được.

Nguyễn Đạt Thịnh