Showing posts with label trung đoàn 42. Show all posts
Showing posts with label trung đoàn 42. Show all posts

Thursday, July 24, 2025


BÃI ĐÁP RẤT "HOT" CỦA TĐ 3/42 TRONG TRẬN DAK SEANG 

Lời nói đầu: Theo những thông tin trên mạng, trong trận Dak Seang 1970, có khoảng 4 hay 5 TĐ tiếp viện cho trại gồm 2 TĐ của MIKE Force quân đoàn 2, TĐ 23 BĐQ, 1 hay 2 TĐ của trung đoàn 42 bộ binh (trong đó có TĐ 3/42 trong bài này). Theo sắp xếp của phòng 3 sđ 22 hay ban 3 trung đoàn 42, mỗi TĐ có bãi đáp, viết tắt là LZ khác nhau. Thời đó bãi đáp nào mà khi đổ quân mà gặp ngay hỏa lực địch thì bãi đáp đó "hot", còn ko gặp hỏa lực địch thì gọi là bãi đáp "cold". Bài dưới đây mô tả về tổn thất  trong lúc đổ quân của TĐ 3/42.

- Trong những phút đầu tiên của đợt đổ quân này, trong số 22 người gồm phi hành đoàn Mỹ, lính Mỹ và lính VNCH, đã có 16 người chết do máy bay rớt, do hỏa lực dữ dội của địch. Chỉ có 6 người sống sót. Chưa kể 1 trực thăng khổng lồ HH-3H, chuyên cấp cứu phi công lâm nạn và một chiếc UH-1 đổ quân bị rơi tại bãi đáp này.

https://www.virtualwall.org/dm/0MontanaRx01a.htm

Rosendo là 1 người lính chuyên nghiệp, quê ở Big Spring, Texas, vào lính từ 1964, từng phục vụ 1 nhiệm kỳ tại VN từ 1966-67.

Rosendo là 1 người lính dò đường và là thành phần của toán an ninh của đoàn 17 không vận. (Lính dò đường thuộc BĐQ Mỹ, có nhiệm vụ tìm và an ninh bãi đáp -- ND). Ngày 15/4/1970, Rosendo đã bị trúng đạn tử thương khi ông tìm cách đổ quân VNCH vào bãi đáp Orange để đối phó với việc tập trung quân CSBV chung quanh trại LLĐB ở Dak Seang, khoảng 20 dặm bắc của Dak to. Ông là âm thoại viên và cùng với 1 lính Mỹ và 1 toán lính VNCH là toán đầu tiên đổ xuống và sau đó bảo vệ an ninh bãi đáp cho những toán khác khi đột nhiên 1 chiếc trực thăng thứ hai cũng đến để đổ quân nhưng bị trúng đạn từ dưới đất bắn lên. Chiếc này bị bắn rơi. Chuyên viên Montana bị thương và tiếp tục tái lập liên lạc truyền tin. Ông đã tử trận khi 1 loạt đạn bắn vào ông.

===

Tình hình tại trại LLĐB Dak Seang thì hơi phức tạp 1 chút so với mô tả trên. Trại này đang bị tấn công và người ta quyết định đổ quân với TĐ 3/42 VNCH, vào 1 nơi hơi cao khoảng 1 dặm từ trại để giảm áp lực cho trại này. Như đã nói, đại đội 170 trực thăng tấn công, viết tắt là AHC, nhận trách nhiệm này. Dù cơ bản Bắc quân đã bao vây bãi đáp dự trù này nhưng phi công ko thấy vì chúng núp trong công sự ngụy trang kỹ lưỡng - và do chúng để cho chiếc UH-1 đáp xuống mà ko nổ súng khiến phi công nghĩ rằng đây là 1 bãi đáp "nguội". (Đại đội 170 AHC đóng tại Pleiku với 8 chiếc gunship UH-1 B và 20 chiếc chở quân UH-1D, ngoài ra còn tăng phải bởi 1 toán vận chuyển, 1 toán truyền tin, và 1 toán quân y. Đại đội này từng đổ toán biệt kích sang Lào và KPC-- ND). 

Chiếc Huey đầu tiên chở 2 lính dò đường Mỹ (Chuyên viên bậc 5 Rosendo Montana và hạ sĩ Herndon Bivens) và 6 lính VN. Chiếc Huey thứ hai, UH-1H số đuôi 68-16203, trúng đạn và rơi giữa bãi đáp. Dù 2 lính VN chết do máy bay rơi, 4 phi hành đoàn Mỹ và 4 lính VNCH khác chỉ bị thương nhẹ và chạy khỏi máy bay. Viên phi công, chuẩn úy Albert Barthelme, bị thương nặng nhưng được khiêng tới 1 một hố bom gần đó. Chuẩn úy Roger Miller (copilot), chuyên viên bậc 4 Vincent Davis và chuyên viên bậc 5 Donald Summers, và 4 lính VN ở với Barthelme; những người lính VN sống sót từ chiếc đầu tiên ở gần đó. Tất cả đều bị hỏa lực mạnh của bắc quân. Các cố gắng cấp thời để triệt xuất họ đều bị cản trở bởi 3 yếu tố:

- Trừ chiếc Huey chở Montana và Bivens, các chiếc trực thăng trong khu vực đều đầy lính VNCH hay gunship - vì mang nhiều rocket và đạn 7.62 ly cho hai khẩu M-60 nên ngoài phi hành đoàn 4 người, gunship ko thể chở thêm người như loại chở quân (slick) -- ND). 

- Bãi đáp nằm trên đỉnh đồi này phần nào tắc nghẽn bởi xác chiếc 68-16203; và

- Toàn khu vực bãi đáp giờ đây dưới hỏa lực từ lính csbv núp trong công sự bao gồm đại liên 4 nòng 12.8 ly và 23 ly phòng không.

Một lực lượng tìm và cấp cứu, gọi tắt là SAR, gồm 1 chiếc A-1 Skyraider và hai chiếc trực thăng khổng lồ HH-3, biệt danh Giant Jolly Green, xem hình, (tốc độ tối đa của máy bay là 164 dặm/giờ, phi hành đoàn 4 người, chở được 28 người hay 6.500 cân Anh). 



3 chiếc này đã vội vả xuất phát từ Đà Nẳng và bay đến khu vực. Trong khi chiếc A-1 Skyraider tìm cách khống chế các khẩu đại liên, chiếc HH-3H (Jolly Green 27, số đuôi 66-13280) dẫn đầu, định đáp xuống nhưng 2 lần đầu ko thành công. Ở lần đáp thứ 3, 1 khẩu 12.8 ly từ 1 nơi kín đáo nào đó đã nổ súng và bắn rơi chiếc này. Phi công Travis Scott, chết tại chỗ. Thiếu tá Travis Wofford, copilot, bị thương tương đối nhẹ, kéo 2 phi hành đoàn bị phỏng nặng rời xa chỗ máy bay rơi. Chỗ chiếc HH-3 này rơi ko xa hai chiếc kia, tuy ko bị hỏa lực dữ dội của csbv, nhưng lại ko thể yểm trợ lẫn nhau. May mắn thay, chiếc HH-3E thứ hai, số đuôi 68-10360, có thể đáp xuống kế nơi máy bay rơi và cứu Wofford và 2 phi hành đoàn bị thương từ chiếc 66-13280 trước khi bị trúng đạn phòng không 23 ly, xem hình và buộc phải rời chiến trường.

Hai chiếc UH-1D, ko chở quân, của đại đội 170 trực thăng tấn công đã đến. Một chiếc, lái bởi chuẩn úy Bill McDonald, đáp xuống dưới hỏa lực dữ dội của địch và mang chuyên viên bậc 4 Davis và chuyên viên bậc 5 Summer từ chiếc UH-1H số đuôi 68-16203 lên máy bay. Dù chiếc của McDonald bị hư hại do hỏa lực địch, phi công đã cố gắng đáp vào bên trong trại. Chiếc UH-1 thứ hai, đáp xuống kế chiếc của McDonald, cứu phi hành đoàn, và cất cánh với những kẻ bị thương khác. Vào lúc này, Davis và Summers được báo rằng 1 trong 2 người lính dò đường Mỹ đã chết và chuẩn úy Barthelme bị thương nặng.

Khi trời tối, trại LLĐB lại bị tấn công, và ko còn hy vọng nào để triệt xuất lính Mỹ và VN trên đỉnh đồi kể trên. Trong đêm tối, vài lính VNCH cố gắng vào trại và 2 người thành công. Miller và Bivens được yêu cầu ở lại chỗ chiếc UH-1 bị rơi với chuẩn úy Barthelme, vì ông này ko thể di chuyển, và chờ đợi sáng. Những cố gắng của toán SAR (tìm và cấp cứu) đã bắt đầu từ sáng sớm, nhưng vô ích - vì ko thấy nơi ẩn núp của những người lính Mỹ Việt trên đây. 

Tới ngày 29/4/1970 quân bạn đã tới bãi đáp này và tìm thấy xác của chuẩn úy Barthelme và chuyên viên 5 Montana. Ko có dấu vết của chuẩn úy Miller và hạ sĩ Bivens. 

Sau này người ta biết chuẩn úy Miller bị bắt, và được thả bởi bắc quân ngày 5/3/1973. Ông cho biết rằng trong đêm đó, sau khi Barthelme chết, cả hai cố gắng vào trại nhưng bị phục kích dọc đường. Bivens đã trúng nhiều phát ở ngực, và Miller được kể lại rằng Bivens đã chết 2 giờ sau khi bị bắt.

Tóm lại, 2 lính bộ binh Mỹ, 8 phi hành đoàn Mỹ, và 12 lính vnch đã xuống đất, nhưng chỉ có 6 người sống sót.

- Chiếc UH-1 số đuôi 68-16203: chuẩn úy Barthelme tử trận. Chuẩn úy Miller, tù binh, thả ngày 5/3/1973. Chuyên viên 5 Summers, bị thương, được tìm thấy. Chuyên viên 4 Davis, bị thương, được tìm thấy.

- Chiếc Huey thứ hai: chuyên viên 5 Montana, chết. đại úy Bivens, bị thương, nhưng chết sau khi bị bắt, ko thấy xác.

- Chiếc trực thăng khổng lồ HH-3E, thuộc đệ Thất Không lực: Đại úy Scott, phi công, tử trận. Thiếu tá Wofford, copilot, bị thương. Trung sĩ nhất (SSGT) Davis, chết vì thương tích ngày 25/5/1970. Trung sĩ kỹ thuật Hartzel, chết vì thương tích ngày 20/4/1970/

- Thuộc TĐ 3/42 VNCH: có 10 chết, ko rõ tên. Hai sống sót, ko rõ tên.

Tham khảo thêm từ các nguồn sau:

- https://macvsog.cc/1970.htm

- https://www.defense.gov/News/Feature-Stories/Story/Article/2549011/medal-of-honor-monday-army-command-sgt-maj-gary-littrell/

===

San Jose ngày 24/7/2025, cập nhật ngày 7 Aug 25.

Tài Trần

Sunday, April 13, 2025

 Tìm Dấu Chân Xưa

 

Ngày tháng chờ đợi cho quyết định tương lai của chúng tôi, những y, nha, dược sĩ của khoá 21 hiện dịch cũng đã đến dù biết chắc rằng con đường trước mặt sẽ chờ đón chúng tôi với nhiều chông gai hơn là con đường trải thảm. Chiến cuộc đã đến hồi cam go mà phe miền Nam đang phải chịu nhiều thiệt thòi vì sự gian trá của phe địch và sự thiếu thiện chí của phe đồng minh; chúng tôi vẫn nôn nóng muốn sớm biết tương lai của mình qua qua việc chọn nhiệm sở vào một ngày vào hạ tuần tháng 2 năm 1975 dưới sự chứng kiến của Y-sĩ Đại tá chỉ huy trưởng và các Sĩ quan cán bộ của Tiểu đoàn Sinh viên.

 

Tình hình ngoài chiến trường đã căng thẳng, nhu cầu của quân y sĩ cho các binh đoàn nhiều hơn các quân y viện. Chỉ có một vài nhu cầu hiếm hoi ở Tổng Y viện Duy-Tân, Quân y viện Pleiku và Quân y viện Ban-Mê-Thuột dành cho các y sĩ cựu nội trú ngoại khoa hay thần kinh giải phẩu đã qua 2 kỳ thực tập với tính cách là nội trú thực thụ.

 

Bạch Thế Thức và Phan Thanh Hải có đủ điều kiện và ưu tiên về TYV Duy-Tân, Trần Ngưu Tử, Nguyễn Chi Vỹ về QYV Pleiku, Thủ khoa Nguyễn Phan Khuê cùng với Trần Văn Cương hăm hở chọn QYV Ban Mê Thuột, Trần Trung Hoà về Quảng Đức Phạm Hồng Hải về Đại đội giải phẩu lưu động của Liên đoàn 72. Chỉ có vài chỗ ở các Sư đoàn miền Nam, Nguyễn Văn Quốc chọn Sư đoàn 7; Huỳnh Thắng Toàn, Nguyễn Văn Đơ  về Sư Đoàn 9; Lê Huy Hoè  về SĐ 5; Nguyen Minh Huấn, Phạm Văn Hạnh về SĐ 21 Bộ Binh;Mai Thanh Hồng về SĐ18 để về sau cũng đủ nếm mùi gian lao với thiên hạ trên đường triệt thoái băng rừng từ Xuân Lộc về Bà Rịa. Không có nhu cầu của Không quân, chỉ có 2 chỗ ở Hải quân cho Nguyễn Văn Công và Nguyễn Ngọc Chiếu. Xếp hạng trung bình, chúng tôi: Nguyễn Khánh Hỷ, Thái Văn Châu, Lê Vĩnh Thịnh, Phan Ngọc Hà và một dược sĩ thuộc khoá trưng tập 16 (trình diện trễ) đã chọn Sư đoàn 22 Bộ binh.

 

Tuy là những nguời lính hiện dịch nhưng trước mặt những gian nguy kề cận ít nhiều chúng tôi cũng có những dị đoan và ít ai muốn tình nguyện đi về các đơn vị dũng mãnh như Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, ngoại trừ hai trường hơp tình nguyện của Vũ Đức Giang và Nguyễn Tiến Dũng đầu quân về Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Chúng tôi muốn xuôi theo định mệnh theo điều mà ngày nay các người thân chung quanh tôi vẫn hay nói là "tuỳ duyên". Vũ Đức Giang và Nguyễn Tiến Dũng về TQLC vì thần tượng của chúng tôi ngày ấy ở Trường Quân Y: y sĩ Thiếu tá Trần Xuân Dũng, một nghệ sĩ chơi đàn guitare rất hay, ăn nói rất có duyên; không bao giờ quỵ luỵ thượng cấp, coi thường gian nan khi đi hành quân theo tiẻu đoàn ở TQLC; đã làm Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 QY trước khi về khối huấn luyện TQY.

 

Ông chỉ huy trưởng và nhiều vị Sĩ quan gốc nhảy dù đã không khỏi thất vọng khi những người có bằng nhảy dù đã không về Dù. Chỉ hiếm hoi Trần Duy Thanh (Thanh Khều) và Châu Hữu Hầu có bằng Dù tình nguyện về Nhảy Dù: Không thích mạo hiểm, Nguyễn Văn Quốc, Trần Văn Cương, Lê Huy Hoè, …không về Dù; Tuấn Voi đi Biệt Động Quân, trái lại những người chưa từng học nhảy dù như Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Xuân Thiều, Nguyễn Văn Thạnh đã chọn SĐ Nhảy Dù; Trương văn Như xưa nay vẫn thích có bằng nhảy dù khi hát bài Lính Thành Phố nên về Nhảy dù theo đúng sự mong đợi. Trưởng khoá Nguyễn Tài Mai cùng Nguyễn Văn Chí, Bùi Chí Hùng, Ngô Bá Bảo, Nguyễn Quốc Anh, Đỗ Danh Toàn, Nguyễn Trọng Nghĩa, Hồ Sĩ Nghĩa, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Đăng Cung, "Cụ" Khoát đi Biệt động quân; Nguyễn Văn Châu, Huỳnh Đình Đại Nguyễn Bá Linh, Bùi Ngọc Sĩ theo bước Vũ Đức Giang ("Giang mù") và Nguyễn Tiến Dũng về trình diện bộ tư lệnh SĐ TQLC. Dương Thanh Trắc về Liên doàn 81 Biệt Kích Dù, " Ông Tây " Trịnh Nhật Toản đi Thiết giáp để rồi phải kiêng cữ món cua rang muối cho đến bây giờ mỗi khi đi nhậu với bạn bè. Nhưng,... dù là chọn đơn vị tĩnh tại không tác chiến; đi theo binh đoàn hay tình nguyện theo đơn vị tổng trừ bị đánh đấm thật sự, chỉ vài tuần lễ sau đó chúng tôi đã lột xác vì hầu hết chúng tôi đã:

Về Nơi Gió Cát

Cùng chia sẻ những vui thích và âu lo trong mấy năm Đại học, gặp nhau mỗi ngày ở phòng ăn, vũ đình trường, hay trong phòng học, chúng tôi đã khá thân nhau, giờ này cùng nhận chung nhiệm sở năm người chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn.

Phù Hiệu Sư Đoàn 22 QLVNCH

 

Việc đầu tiên là tìm hiểu một ít về đơn vị mà chúng tôi sẽ đến. Bác sĩ Hãn nguyên y sĩ trưởng Trung đoàn 42, thuộc Sư đoàn 22 mới vừa giải ngũ vì thương tật ở mắt đã cho chúng tôi những hiểu biết ít nhiều về Tiểu đoàn 22Quân y và bộ tư lệnh sư đoàn cũng như tính tình của các ông Trung đoàn trưởng cùng với những kinh nghiệm xử thế đối với họ. Chúng tôi hẹn ngày lên đường và ngày trình diện. Thịnh muốn đến đơn vị ngay để dễ làm việc về sau vì trong sự vụ lệnh không thấy có cho phép chúng tôi được nghỉ ngày phép nào hết trước khi đi nhận nhiệm sở. Tôi muốn ghé thăm nhà một vài ngày; Châu phải ở lại Sài Gòn khoảng vài tuần lễ vì phải trình luận án. Hỷ và Diễm không có ý kiến. Sau cùng chúng tôi đồng ý với nhau sẽ trình diện vào ngày đầu tuần sau và Châu sẽ xin phép Cục Quân Y sẽ trình diện sau ngày trình luận án. Từ giã "người bạn nhỏ" với những lời hứa hẹn đẹp đẽ; từ biệt Sài Gòn vời những ngày hoa mộng dù trong chiến tranh đã cho người dân một cuộc sống khá thoải mái, ban đêm quán xá vẫn đèn hoa sáng rỡ, các rạp hát vẫn mở cửa thường trực để dân chúng được thưởng ngoạn những phim ảnh hàng đầu của nền điện ảnh thế giới: Quo va dis;Bac-sĩ Zhivago, ... Ngoài kia là chiến trường đang sôi sục mà giờ này chúng tôi mới chính thức nhập cuộc.

Vài ngày nghỉ ở nhà qua thật nhanh; mấy đứa cháu nhỏ không còn làm mặt xa lạ sau khi nhận quà của chú; cha mẹ tôi hớn hở khi gặp lại con nhưng không khỏi lo âu khi biết sau lần về thăm nhà tôi sẽ không trở lại trường học nữa mà sẽ ra đơn vị. Đêm cuối cùng mọi tụ tập ở bàn ăn và cùng cho tôi những lời khuyên nhủ. Ba người anh lớn đã từng phục vụ trong quân đội ở những đơn vị tác chiến nên những kinh nghiệm của các anh về lãnh đạo chỉ huy và ẩn núp khi bị pháo kích thật sự bổ ích nhưng lại làm cho cha mẹ tôi lo lắng nhiều hơn. Mẹ tôi khuyên tôi giữ gìn sức khoẻ và tử tế với binh sĩ, cha tôi thì nói như một lời ra lệnh: phải tận tuỵ với chức năng và nghề nghiệp. Sau này nhiều lần quá mệt mỏi trong những phiên trực chỉ cần nhớ dến lời dặn dò của cha mẹ tôi là tôi tránh được những xao lãng trong công việc, tránh được những thiếu sót, và hơn thế nữa, một lần tôi đã chữa trị cho một thương binh địch với tất cả lương tâm của một y sĩ. Tôi trấn an cha mẹ, nói rằng mình vẫn chỉ làm việc ở bệnh xá hay nếu có phải đi hành quân thì cũng đi theo bộ chỉ huy của trung đoàn, nhưng nếu cha mẹ tôi biết rằng hai năm trước đây, trong mùa hè đỏ lửa chính bộ tư lệnh tiền phương của Sư đoàn 22 đã bị địch bao vây và tràn ngập ở Tân Cảnh và ông Đại tá tư lệnh cũng đã bị vùi thây trong hàng rào dây kẽm; mấy bác sĩ bị bắt làm tù binh thì cha mẹ tôi sẽ lo lắng đến chừng nào. Chợt nhớ dến mấy câu thơ tiền chiến:

 

          Ngày trước mẹ đóng cho con sách,

          Dành dụm cho con đến học đường

          Ngày nay đang buổi non sông rách

          Mẹ gửi con ra bãi chiến trường

 

Một chút ngậm ngùi!

Tôi cũng đã chào từ giã bạn bè và vài người thầy cũ. Anh Lương, anh của một người thầy cũ sốt sắng hướng dẫn tôi tìm nhà người quen ở Qui Nhơn nhân dịp anh trở lại dạy học ở đó vào những ngày đầu tuần. Ba lô và những thứ quân trang, quân dụng đã được gói kỹ và nhét trong một túi vải để dưới sàng xe; với áo sơ mi trắng, quần nĩ xanh đen, xắc du lịch nhỏ với vài quyển sách y khoa ít người biết mình là dân nhà binh; nếu dọc đường xe có bị VC chặn lai thì sẽ khai là SVYK về thăm nhà. Quốc lộ I ở đoạn này khá tốt, xe chạy êm; trời dịu mát; hai bên đường đồng ruộng, đồi núi phủ một màu xanh tươi của những ngày đang mùa xuân.

 

Niềm quyến luyến gia đình, núi Nhạn, sông Đà, đỉnh Chóp Chài gợi bao kỷ niệm thời niên thiếu chỉ còn lờ mờ sau lưng. Xe chạy theo đường vòng bên trái, leo dốc Quán Cau, Đầm Ô Loan mờ hiện trong màn sương ở hướng Đông Bắc. Phong cảnh khá ngoạn mục như một bức tranh thanh bình. Ước gì không có chiến tranh! Nhưng sự bình thản không kéo dài bao lâu, xe đang ngon trớn bỗng chạy chậm hẳn lại. Một đám người đang tụ tập và bàn tán việc gì bên lề đường bên trái. Xe từ từ vượt qua đám đông; đủ chậm để mọi người nhìn, nghe những lời bàn tán và biết việc gì đã xảy ra: thì ra đó là xác của một du kích bị bắn chết đêm qua khi mò về làng lấy gạo. Hình ảnh của chiến tranh đã nhanh chóng xoá đi những phút giây lãng mạn và mộng mơ. Hình như phía sau nét yêu kiều của đồng ruộng Tuy An; cầu Ngân Sơn bên dòng sông trong vắt; Sông Cầu, biển xanh, lô nhô sóng vỗ về bờ cát trắng tình tự với những gành đá mộng mơ là những sự rình rập đe dọa mà tôi phải đề phòng. Xe xuống đèo Cù Mông, đến ngả ba Phú Tài để vào thành phố Qui Nhơn theo đường nhựa khá thơ mộng với những hàng dương liễu những cây liễu rũ.

 

Dòng sông Qui Nhơn ở bên trái và đầm Thị Nại phía bên phải như còn vang vọng những trận thư hùng của quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn ngày nào. Qui Nhơn với những nét diễm kiều của thành phố biển. Bãi cát vàng bên biển xanh, những hải đảo, Gành Ráng, những tà áo trắng bên trường Sư Phạm dễ gợi lại ý thơ

 

"...Bên khóm thùy dương em thướt tha,
Bên này tơ liễu anh trông qua..." ( Hàn Mặc Tử).

 

 

Khi không còn xô bồ như lúc còn hiện diện của quân đội đồng minh, thành phố đã trở lại nét đẹp ngày cũ, nét yêu kiều cùng với tình yêu đủ tạo nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ (*) mà khi chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, chưa có những dòng nhạc phản chiến, khi những ý thức chính trị chưa ảnh hưởng vào sự thuần khiết đam mê, đã đủ cho chàng đưa nghệ thuật thăng hoa với những dòng nhạc mượt mà :

 "Diễm Xưa": "... Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao..."; Gọi nắng cho vai em gầy, đường xa áo bay..." trong mùa "Hạ Trắng" nghe "Biển Nhớ " bâng khuâng.

 

Dạo phố, đến ty xã hội đường Gia Long thăm chị Hạc bạn của những người anh lớn trong gia đình nhưng không gặp, chị đã đổi về Bộ Xã hội ở Saigon; mua huy hiệu "hắc tam sơn, bạch nhị hà" của Sư đoàn 22 về may lên vai áo thay cái huy hiệu của Trường Quân y để bớt đi cái vẻ lính mới khi đi trình diện ngày hôm sau.

 

Buổi sáng Thứ Hai, người quen đưa tơi đến ngả tư Phú Tài, từ đó đón xe của Sư đoàn 22 vào bộ tư lệnh; trình Sự Vụ lệnh và Căn cước quân nhân cho người quân cảnh; vài phút thì may mắn có xe jeep của kho y-dược Qui Nhơn vào thanh tra về y dược của kho y dược Tiểu Đoàn 22 Quân y; tôi nhận ra dược sĩ Văn và dược sĩ Minh khá quen mặt, các anh cũng là dân hiện dịch, niềm nở chỉ dẫn tôi đến văn phòng Tiểu Đoàn. Bác sĩ Thái, Tiểu đoàn phó đưa tôi đi làm vài thủ tục hành chánh cần thiết ở các ban liên hệ và đưa về giới thiệu với Bác sĩ Ý, tiểu đoàn trưởng. Y sĩ Đại uý Lê Thành Ý là người cao lớn vạm vỡ, thầm nghĩ rằng thượng cấp của tôi phải là một người giữ cung cách nhà binh lắm nên phải thận trọng chào kính và trình diện theo lễ nghi quân cách; tiến về phía bàn giấy của anh khoảng 3m, đứng nghiêm, đưa tay lên chân mày phải vừa mới xưng

"y sĩ Trung uý Phan..."

thì anh đã xô ghế đứng dậy, không chào lại tôi mà đến bắt tay và vỗ vai niềm nở: “dân hiện dịch, ngon lành nhé".

 

Rồi anh tự cho biết anh cũng dân hiện dịch, khoá 15, trước đã đầu quân cho Lực Lượng Đặc Biệt; về Biệt Động Quân trước khi về Sư đoàn 22. Trưa hôm ấy tôi được giới thiệu với Bác sĩ Đãi, Nha sĩ Bảo, Dược sĩ Văn và Dược sĩ Hưởng. Nhân sự lúc này đang lúc thiếu thốn: Bác sĩ Quát (khoá 19 HD) phụ trách phòng ngoại chẩn đang về Nha Trang để cư tang thân phụ, Bác sĩ Tuấn "Huế" đang nghỉ phép; Bác sĩ Văn Công Tuấn (Tuấn "Bình-định") đã được biệt phái về một chức vụ dân cử ở Hội Đồng tỉnh Bình định; Bác sĩ Lê Thành Các ở Đại đội chỉ huy công vụ đã phải tăng phái đi hành quân với Thiết đoàn14, tôi được tạm thời phụ trách phòng ngoại chẩn mỗi buổi sáng và luân phiên trực gác với Bác-sĩ Đãi ở phòng nhận bệnh và các trại bệnh của bệnh xá Sư đoàn.

 

Hai ngày đầu không có gì vất vả lắm, nhưng đến ngày thứ ba công việc bận rộn hơn. Số bệnh nhân ở phòng ngoại chẩn tăng lên gấp bội; ông Tiểu đoàn trưởng than phiền rằng tôi hơi dễ dãi trong việc cấp thuốc theo đòi hỏi của bệnh nhân. Buổi chiều và tối có vài đợt thương binh được đưa về. Thương tích không nặng lắm nhưng họ về một loạt trong một chuyến xe nên tôi khá lúng túng trong thứ tự ưu tiên giải quyết và nhất là phải thận trọng để tránh thiếu sót và sai lầm. Nhưng rồi cũng đâu vào đó, các quân y tá đã khá quen với công việc và họ làm việc rất lẹ làng.
Mấy ngày sau công việc mỗi ngày một nhiều hơn vì chiến trường ở Bình Khê đang hồi cam go; trung đoàn 42 khá vất vả đương đầu với Sư đoàn 3 Sao vàng của Bắc Việt. Mọi người gặp tôi đều phàn nàn tại sao những người bạn đồng hành của tôi Châu, Hỷ và Thịnh vẫn chưa ra trình diện. Buổi chiều và tối sau giờ làm việc trở về căn phòng mà nghe đâu trước đây là phòng hồi sức cấp cứu của đơn vị quân y sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Không một phương tiện giải trí, ngủ trong một mình trong một căn phòng rộng nhiều lúc cũng cảm thấy "lạnh gáy"

“An Sơn Bá Tước”


Thế rồi lần lượt tôi cũng đã gặp tất cả các sĩ quan quân y của tiểu đoàn, những bạn đồng hành đồng khoá: Thịnh, Hỷ, đã dền trình diện; Châu đến trễ hơn vì phải trình luận án tốt nghiệp. Sự chậm trễ của Châu tuy đã được phép của Cục Quân Y, nhưng không rõ vì không nhận được văn thư của Cục Quân Y hay vì lý do nào khác mà anh Tiểu Đoàn trưỏng đã tỏ thái độ hằn học với những lời nói khá cộc cằn khi Châu trình diện khác hẳn với những cử chỉ vồn vã đối với tôi và Thịnh trong mấy ngày trước. Châu đã buồn không ít về chuyện này. Còn những người khác có người tôi đã quen hay biết mặt từ khi còn ở trong Trường Quân Y, ở các thư viện, hay giảng đường Y khoa hay ở các Bệnh viện Sài Gòn, cũng có người tôi chưa hề gặp lần nào. Mỗi người một tâm tính, một hoàn cảnh gia đình nhưng ở đây chúng tôi có chung nhau một điều là cùng về đây phục vụ để lo cho thương bệnh binh và gia đình quân nhân của Sư đoàn 22. Bác sĩ Quát đã về và tiếp tục công việc ở phòng ngoại chẩn tuy anh còn buồn và mệt mỏi sau đám tang của thân phụ.

Anh Quát trông điềm đạm hơn nhiều so với những ngày anh đã cùng với ban cán bộ SV khoá 17 "dìu dắt" chúng tôi khi chúng tôi mới chập chững đi vào quân đội. Bác sĩ Tuấn cũng đã hết phép, trở về làm việc, lần đầu tiên tôi gặp anh vì tuy chỉ hơn tôi vài khoá nhưng anh học ở Huế nên chưa có cơ hội gặp gỡ. Bác sĩ Huỳnh Thiện Hậu thuộc khoá 18 Hiện dịch thỉnh thoảng trực tiếp đưa thương binh của Trung đoàn 47 từ chiến trường về bệnh xá Sư-đoàn; tuy nắng gió miền núi rừng cằn cỗi, bom đạn nơi chiến trường đang sôi động có làm cho gương mặt anh trông rắn rõi một chút nhưng tôi vẫn nhận ra người y sĩ đàn anh tương đối điển trai với nước da trắng và sống mũi cao một thời cũng đã có lần cùng các huynh trưởng khoá 17 "chăm sóc" chúng tôi khi chúng tôi còn ngờ nghệch trong bộ quân phục của một lính mới năm nào. Lần ấy anh Hậu chỉ bắt tay tôi, nói một vài câu thăm hỏi ngắn, bàn giao thương binh, ngồi nghỉ, không nói câu gì nữa không rõ vì anh đang quá mệt mỏi hay vì không muốn nói điều gì chưa tiện nói, chỉ thấy anh hơi buồn. Sau này anh bị kẹt lại ở Tuy Hòa trên đường di tản đường bộ với đơn vị vì từ chối vé phi cơ của Air Vietnam mà vợ anh, một nhân viên của hãng hàng không đã được ưu tiên mua sẵn cho anh. Bác sĩ Huỳnh Đình A (Trung đoàn 47) và Bác sĩ Nguyễn Thanh Hải ("Hải địa chỉ "ở trung đoàn 41) thuộc khóa 20 hiện dịch thỉnh thoảng về lãnh tiếp liệu y dược hay báo cáo tình trạng thương binh.

Một buổi chiều, bác sĩ Thanh, y sĩ trưởng trung đoàn 41 về văn phòng tiểu đoàn để hỏi thăm tin tức về việc thuyên chuyển, anh đang hy vọng rằng lá đơn của anh sẽ được chiếu cố vì anh đã có đủ điều kiện thâm niên ở đơn vị tác chiến và nhất là lúc này đơn vị không còn kẹt vấn đề nhân sự; đã có chúng tôi, những người đàn em thế chân anh. Nhưng anh đã thất vọng: vì nhu cầu chiến trường, mọi người vẫn án binh bất động. Anh chất hết năm người chúng tôi lên chiếc xe jeep của anh, ra phố Qui Nhơn giải khát.

Để tránh Quân cảnh xét giấy phép hay Sự vụ lệnh anh chạy xe theo cổng sau của trại gia binh, băng qua các đồng ruộng khô. Trong khi xe đang lắc lư qua những chỗ lồi lõm trên đường mòn anh chỉ ngón tay về phía các gốc rạ và ruộng mía nói với vẻ hằn học và bất mãn: "mấy toa thấy đó, đồng ruộng ở đây khô cằn như vậy, nhưng lúa và mía vẫn mọc được là nhờ nó được tưới bằng mồ hôi và cả máu của chúng mình đó". Ngồi bên cạnh tôi như linh cảm một việc gì không hay qua câu nói của Bác-sĩ Thanh, Châu nói nhỏ với tôi : "Hà còn độc thân không có gì đáng ngại, nhưng tôi còn vợ, 2 đứa con và một đứa sắp sửa chào đời không biết rồi sẽ ra sao !" Lần thứ hai tôi nghe những lời nói không hay như một điềm gỡ của Châu. Lần trước khi làm lễ mãn khoá, sau khi chào quốc kỳ, đến phút mặc niệm những anh hùng tử sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc, khi khúc nhạc Chiến Sĩ Vô Danh được tấu lên, Châu nói có cảm giác ớn lạnh và thấy toàn thân nổi da gà.

Một lần khác, một buổi tối, đơn vị sinh hoạt chính huấn, nhìn những bức hoạ do Bác sĩ Ý vẽ treo trong hội trường Châu nói bên tai tôi: “sao mấy cây lớn trong các bức tranh đều bị đốn hết vậy"! Nhìn các bức tranh có mấy cây cao bị cưa sát gốc và những chồi non đang nhú lên tôi chỉ nghĩ đến bố cục và sự tương phản màu sắc của những chiếc lá xanh non trên nền vàng nâu của các gốc cây, nhưng Châu lại lại nghĩ đến sự huỷ diệt và tang tóc. Châu là người trình diện trễ nhất trong đám chúng tôi nhưng lại là người được cử ra Trung đoàn trước nhất. Đại đội 224 Quân y của Trung đoàn 42 đang khuyết chức y sĩ đại đội phó, Châu được bổ nhiệm vào chức vụ này. Một chút lo lắng cho Châu và anh em chúng tôi vì Trung doàn 42 đang hành quân ở Bình Khê và đang đương đầu với những trận tấn công biển người của Sư đoàn Sao vàng, nhưng cũng có chút an ủi vì Trung đoàn 42 là trung đoàn có kỷ luật và là Trung đoàn thiện chiến nhất của Sư đoàn 22 và anh Y sĩ trưởng hiện tại: Bác sĩ Nguyễn Thọ Trường, thuộc khoá 20 hiện dịch cũng như Bác sĩ Hãn trước đó là những đàn anh rất tử tế với đàn em và binh sĩ, đã có những tiếng tốt trong đơn vị.

Với hàm râu quai nón trông anh giống như một người Trung Đông hơn là một người Việt Nam; dáng dấp bề thế đủ tạo cho anh uy tín của một cấp chỉ huy nên nói chuyện với ai anh cũng nhỏ nhẹ và hầu như chưa bao giờ làm phật lòng ai về bất cứ chuyện gì. Vì lý do tôn giáo, anh ăn chay trường từ nhỏ. Ngay cả những ngày phải thụ huấn quân sự ở quân trường, hay cả trong những chuyến hành quân anh Trường đều giữ giới luật rất nghiêm. Săn sóc cho thương binh anh không phân biệt cấp bực anh thương binh thuộc phe nào, bên ta hay bên địch. Nhiều lần vì chăm sóc vết thương của các cán binh Cộng sản anh suýt bị những rủi ro, có lần cùng với một y tá băng bó vết thương của tù binh, anh bị bắn sẻ, đường đạn bay ngang trước ngực, ghim vào tảng đá lớn phía sau làm toét một mảnh lớn bay ngược lại cắt một đường dài trên trán người thương binh, một lần khác cũng đang lúc quan sát vết thương của thương binh địch một quả pháo 105 ly rơi cách anh không xa, may mà nó rơi ngay vào một hố đạn cũ nên không ai bị hề hấn gì.

Sau những lần như vậy những người lính của anh tin dị đoan và muốn tránh cho anh tiếp xúc với thương binh phía bên kia, nhưng anh thì suy nghĩ và nói ngược lại vì mình chưa làm hết thiên chức của y sĩ nên những "đấng bề trên" cảnh cáo. Dù suy nghĩ thế nào thì những việc làm của anh quả tình đã đúng theo châm ngôn Tổ quốc Nhân loại của ngành Quân y. Buổi sáng chia tay với Châu, chúng tôi không có "rượu tiễn" mà chỉ có những tô bún bò Huế thật cay ở khu gia binh; biết Châu không còn tiền vì vừa phải trang trải mọi chi phí cho việc trình luận án, chia cho Châu một ít tiền, Châu không nhận, nói rằng không có tiêu xài gì và cơm nước thì đã có phần ở đại đội rồi, nhưng tôi cứ nhét đại vào túi áo vì làm sao biết được biết trước mọi việc sẽ thế nào, tình thế đang hồi căng thẳng. Chúng tôi ràn rụa nước mắt vì cay chứ không phải vì những giọt lệ chia tay vì vẫn nghĩ rằng mặc dù chiến tranh đang khốc liệt chúng tôi vẫn phải hy vọng còn phải cố gắng để trở về với gia đình.

Châu được Bác sĩ Ý đưa thẳng ra vùng hành quân, hôm ấy Thịnh có đi theo "hộ tống" vì theo sự sắp xếp của bộ chỉ huy Tiểu đoàn thì Thịnh sẽ ra đại đội 221 Quân y của Trung đoàn 40, phụ tá cho Bác sĩ Minh; còn Hỷ thì sẽ thay thế anh Lê Thành Các ở Thiết đoàn 14. Bác sĩ Các là người hiền lành, và ham học hỏi, mới ngày nào gặp anh ở Bệnh viện Bình Dân khi đi thực tập ơ trại Niệu khoa của giáo sư Ngô Gia Hy anh đã tận tình chỉ dẫn cho tôi những điều hay ho cơ bản trong bộ môn này, giờ đây người thư sinh bị "bắt phong trần" cũng đã phong trần dày dạn như ai; anh kể lại chuyện thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vào buổi sáng khi anh mới thức dậy đang làm vài động tác thể dục, quả đạn pháo 105 ly rơi cách nơi anh không đầy 5m nhưng nhờ chiếc xe command car đã che chắn cho anh. Lần ấy tôi mừng cho anh đã không gặp nguy hiểm trong cuộc "baptêmme de feu".

Nha sỉ Bảo thì nói rằng nhờ công đức của anh trong việc tận tuỵ tìm kiếm các con Trichomonas ở phòng khám phụ khoa của bệnh xá Sư đoàn đã cứu anh. Tình thế biến chuyển thật nhanh; vài ngày sau đó Châu cùng với anh Đệ (phu quân của chi Yến, cùng khoá với chúng tôi) về văn phòng Tiểu đoàn quân y để lãnh thuốc men và những thứ hàng nhu yếu khác đang thiếu hụt. Hỏi thăm về tình hình chiến sự anh cho biết trận chiến chưa ngã ngũ nhưng tin tình báo cho biết công binh của phe Cộng đang thiết lập một con đường tắt để đánh bọc hậu. Thấy Châu tương đối dày dạn và không than cực, chúng tôi yên tâm là Châu đã thích ứng phần nào với hoàn cảnh mới và mọi việc cũng không đến nỗi nào.

 

Nhưng tình thế xoay chuyển quá lẹ làng. Quyết định triệt thoái khỏi cao nguyên sau trận Ban Mê Thuột là một một việc ngu xuẩn cả về chiến lược, chiến thuật lẫn những tính toán trên bàn cờ chính trị. Hằng ngày sau giờ cơm chiều chúng tôi thường tập trung trong căn phòng chung của chúng tôi hay ở các bực xi-măng ở trước văn phòng bộ chỉ huy, cùng nhau nghe đài BBCvà VOA, nhận định về tình hình chiến sự nhưng chỉ nghe toàn những tin không vui.. Không còn là một sự linh cảm nữa mà là một de doạ thật sự về một trận đánh mà tôi không biết đâu là giới tuyến. Thương binh về mỗi ngày một nhiều, Quân Y Viện Qui Nhơn đã quá khả năng nhận bệnh, trả về cho chúng tôi những trường hợp bị thương ở các phần mềm và ngay cả những trường hợp thương tổn đến xương khớp. Họ chỉ nhận những thương binh với vết thương cần phải giải phẩu ở bụng ngực. Phòng mổ của bệnh xá Sư đoàn mà lâu nay chúng tôi chỉ dùng để giải quyết các trường hợp tiểu phẩu được chỉnh đốn lại để có thể đón nhận những trường hợp trung phẩu. May mà hầu hết anh em quân y sĩ chúng tôi đều là những cựu nội trú ngoại khoa nên việc này không đến nỗi vất vả lắm còn chuyên viên gây mê thì trong Tiểu đoàn cũng đã có sẵn vài người. Thịnh, Hỷ và tôi vì nhu cầu của phòng mổ được giữ lại làm việc ở bệnh xá sư đoàn tạm thời chưa phải phân phối về các đại đội quân y của các trung đoàn; hình như việc này có gây một vài dị nghị ở các y sĩ đàn anh của chúng tôi ở các trung đoàn vì theo lẽ thông thường thì chúng tôi phải thay thế họ. Nhưng chúng tôi cũng không làm gì khác hơn chúng tôi không xin xỏ, chúng tôi chỉ làm theo lệnh và là nhu cầu trong lúc chiến trận đang hồi sôi bỏng.

 

Dược sĩ Văn nhờ có quen thân với những sĩ quan truyền tin và các sĩ quan ở phòng 2 và phòng 3 của Sư đoàn nên có biết một vài tin thức thật sự của chiến trường. Địch quân đã né, không muốn trực diện đối đầu với Trung đoàn 42 và 47, đã đi đường vòng về áp sát phòng tuyến của Sư đoàn và điều này cũng dễ nhận biết qua những quả đạn pháo kích ngày càng nhiều vào doanh trại của chúng tôi vào ban đêm [những điều mà "ông Cò (2*)" của chúng tôi vẫn biết trong những buổi họp tham mưu với bộ tham mưu sư đoàn nhưng vẫn cố dấu chúng tôi vì sợ tinh thần sa sút. Ban ngày chúng tôi phải luôn trong tình trạng báo động, làm việc với áo giáp, nón sắt, súng M16 với một cấp số đạn và bi đông đầy nước.

Một hôm trong phiên trực tôi và Thịnh "điếc" đang làm sạch vết thương phần mềm của một anh khinh binh, tôi phụ trách vết thương ở tay và mặt còn Thịnh phụ trách vết thương ở chân phải của thương binh. Người thương binh bị thương nhiều nơi do mảnh của lựu đạn nhưng không mất máu nhiều lắm tôi cố gằng lấy hết các mảnh kim khí và khâu thật đẹp ở mặt như một việc làm quen thuộc trước đây ở Bệnh viện Nguyễn Văn Học hay Bình Dân.

 

Hỷ mở cửa phòng mổ bước vào nói nhỏ vào tai tôi: "Đà Nẵng mất rồi". Tôi nghe như rụng rời. Đà Nẵng từ trước đến nay vẫn là thành trì kiên cố trong những lần tấn công của Cộng quân, là hậu cứ vững chắc của quân đoàn I, quân khu I nếu không muốn nói là cả miền Trung. Giờ đây hơn một trăm ngàn quân và gia đình họ ra sao? Trong đó chắc chắn có những người bạn của chúng tôi. Thịnh vẫn chưa biết tin, vẫn cặm cụi với việc khâu vá vết thương, lấy cớ chóng mặt tôi giao hết phần việc còn lại cho Thịnh, theo Hỷ ra ngoài vì không còn lòng dạ nào tiếp tục làm việc.


Chiến sĩ Sư Đoàn 22 cố thủ tại Bình Khê tháng 3/1974

(Trích ongvove.wordpress.com) 

Sáng hôm sau chúng tôi mở lại giấy sự vụ lệnh bổ nhiệm lúc trước để điểm danh những người bạn có thể đang bị kẹt ở Đà Nẵng và Huế. Tiểu đoàn I và Tiểu đoàn II, Tiểu đoàn III Quân y có Chu Kỳ Đức, Phan Tiếc ,Vũ Quốc Cường, Phạm Anh Dũng, Lê Bình Đẳng, Võ Dũng và nghe đâu tất cả các quân y sĩ mới về Thuỷ quân lục chiến cũng đã được phân phối về các tiểu đoàn đang tham chiến ở miền Trung; như vậy số phận của Vũ Đức Giang, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Bá Linh, Nguyễn Văn Châu, Hồ Đinh Dư, Huỳnh Đình Đại, Trương Ngọc Hiền không biết sẽ ra sao. Đã đành các bạn theo các đơn vị tác chiến phải vất vả, hai người bạn: Bạch Thế Thức và Phan Thanh Hải được ưu tiên chọn Tổng Y viện Duy Tân tưởng sẽ được an nhàn hơn chắc cũng không ngờ giờ này cũng phải bôn tẩu.

 

Chúng tôi ra bờ rào dây kẽm và đốt tất cả những giấy tờ loại này, chỉ giữ lại những tờ căn cước cá nhân vì nghĩ rằng nếu có sa cơ bị bắt thì họ sẽ không có những tài liệu để khai thác hay tuyên truyền phóng đại. Buổi trưa sau giờ cơm, dược sĩ Diễm đưa chúng tôi vào thăm kho y dược và y cụ. Thuốc men vẫn còn khá đầy đủ trên các kệ thuốc, các tạp chí Y học như JAMA, Lancette, Schwartz’s Surgery vẫn còn nguyên trong bao bì vì chưa ai rảnh để đọc, các tủ đựng y cụ vẫn còn nguyên với những món hàng tương đối có giá: những chiếc ophthalmoscope, stethoscope còn mới nguyên trong họp, những thứ mà vào thời kỳ sinh viên chúng tôi phải đắn đo khi khi mua sắm sao cho vừa với túi tiền của mình và của gia đình, giờ này Dược sĩ Diễm muốn biếu không cho chúng tôi. Tôi ướm thử một chiếc tensionmetre, chắc nặng cỡ 3 gói mì ăn liền, thôi không cần đâu 3 gói mì sẽ có giá hơn chiếc tensionmetre trong ba lô trên đường mưu sinh thoát hiểm mà tôi đang mường tượng trong đầu.

 

Ngày chúa nhật có lệnh cấm trại trăm phần trăm mọi sự xuất trại kể cả có sự vụ lệnh đều phải được sự xác nhận của đơn vị trưởng. Dược sĩ Diễm xin phép được đi lễ nhà thờ do cha tuyên uý làm chủ lễ trong khuôn viên của bộ tư lệnh sư đoàn. Tôi không có đạo nhưng vẫn muốn cầu xin ơn trên che chở nên đã theo Diễm di nhà thờ. Diễm cầu nguyện rất thành tâm và trong một lúc nào đó tôi thấy anh có rơm rớm nước mắt, có thể anh đang nghĩ đến gia đình trong khi cầu nguyện.

 

Tối hôm ấy Bác sĩ Ý, tiểu đoàn trưởng tập họp tất cả các sĩ quan trong tiểu đoàn trong văn phòng tiểu đoàn, nói rằng có một phiên họp. Nói là họp nhưng chẳng có gì để bàn thảo hay thông báo; hình như "ông cò" muốn dò xét những suy nghĩ của chúng tôi trước tình hình căng thẳng này. Ông mở chai Champagne, hộp bánh Lu, rót cho mỗi người một ly rượu và một chiếc bánh và dõng dạc nói:" tình thế có khẩn trương nhưng các anh em nên giữ vững tinh thần, chúng ta là những sĩ quan quí tộc- vào thời của Napoléon sĩ quan quân y thường được phong là những bá tước..."

Ngồi bên tôi Dược sĩ Diễm nói nhỏ: “chúng mình là những An sơn Bá tước đấy". Từ đó về sau mỗi khi gặp nhau chúng tôi hay gọi đùa nhau là Bá tước Thịnh, Bá tước Hỷ, bá tước Diễm, ...

 

Riêng về Bác sĩ Ý sau này có dịp tiếp xúc với những y sĩ đàn anh , họ cho biết anh Ý là một người có năng khiếu hội hoạ, giỏi ngoại ngữ và khá về chuyên môn nhưng vì thích mạo hiểm nên không chọn nhiệm sở ở các Quân y viện mà chỉ thích làm Y-sĩ tiền tuyến. Chính anh đã thiết lập một phòng mổ dã chiến tại một tiền đồn của Biệt Động Quân biên phòng để mổ gắp đầu đạn M79 trong cơ thể một thương binh khi phi công của trực thăng MEDIVAC từ chối tản thương người thương binh này vì sợ nguy hiểm: đầu đạn M79 có thể nổ bất cứ lúc nào. Biết anh giỏi ngoại ngữ tuy nhiên chưa nghe anh nói tiếng Anh hay tiếng Pháp với lính mà chỉ nghe anh noi tiếng Đan-mạch nhiều, nhiều khi anh gọi những người lính bằng những tiếng như: " thằng b.c", thằng c.c.", ...

 

Ngoài các "An Sơn Bá tước" tôi cũng đã có dip làm quen với vài sĩ quan hành chánh và trợ y trong đơn vị. Thiếu uý Chánh lo hồ sơ nhân viên, Thiếu uý Lộc lo tiếp liệu y dược và tổng quát, Thiếu uý Ẩn không nhớ coi về phần việc gì tôi chỉ nhớ rằng anh có biết chút ít vế việc xem bói và tử vi có biệt danh là "thầy bói Lợn", Thiếu Uý Giàu người sĩ quan trẻ nhất đơn vị, còn dáng dấp học trò mà chúng tôi vẫn gọi một cách thân thương là "Út Giàu", Trung uý Anh, và Thiếu Uý Chiến, người bạn mới quen đã vĩnh biệt chúng tôi khá sớm trong chiến cuộc.

Đêm hôm ấy mọi người được lệnh phải ứng trực và nghỉ ngơi tại bộ chỉ huy của tiểu đoàn. Nửa đêm thanh vắng bổng có tiếng sáo của ai thổi từ bên phòng hộ sinh, người thổi sáo đã tấu bài Hận Đồ Bàn nghe não nuột và tức tưởi, tôi nói nhỏ với Nha sĩ Bảo hay là kẻ nào muốn dùng tiếng sáo Trương Lương để làm nản lòng binh sĩ? Bảo bực mình ra ngoài cầm một viên đá thật lớn ném mạnh lên mái tôn nhà hộ sinh; tiếng sáo ngưng một lúc nhưng sau đó lại vang lên, cũng với tấu khúc Hận Đồ Bàn. Bảo xách súng lên đạn lắc cắc và cầm một viên đá lớn hơn đến chọi thẳng vào cửa sổ tiếng sáo mới chịu im.

 

Buổi chào cờ sáng đầu tuần hôm sau được bãi bỏ vì tình hình đặc biệt, có lẽ không ai muốn những hàng quân đang nghiêm chỉnh chào quốc kỳ lại là mục tiêu ngon lành của những quả đạn pháo kích giống như những hàng quân của Mỹ trong những bộ đồ tiểu lễ chào cở là mục tiêu của những oanh tạc cơ Zero của Nhật trong trận Trân Châu Cảng.

Nhưng đúng 8 giờ chúng tôi được lệnh tập họp để nhận lệnh hành quân đặc biệt: ba bác sĩ tân binh chúng tôi Hà, Thịnh , Hỷ cùng với Dược sĩ Diễm dưới quyền điều động của Bác sĩ Đãi đưa tất cả thương bệnh binh ra quân cảng Qui Nhơn chờ lệnh. Tôi đã hiểu ra việc gì rồi nhưng muốn nói đùa với Hỷ và Thịnh: "sao hành quân gì kỳ vậy? Đang giao tranh ở miền Tây theo phương giác 270 thì mình lại di chuyển theo phương giác 90 về miền Đông vậy thì tăng cường và yểm trợ cho ai?"

Thịnh vỗ vào lưng tôi : "mày còn lèm bèm gì nữa? thi hành trước, khiếu nại sau". Chúng tôi được cho lên một chiếc xe jeep trành mà hạ sĩ Hải, tài xế nói rằng xe này là xe nằm ụ đang chờ tân trang. Quả vậy chiếc xe trông thật bệ rạc: mui vải thì rách tả tơi, những chiếc ghế đã rách hết nệm, được lót bằng những miếng ván giấy carton và hình như bình xăng chỉ đủ xăng để chạy đến quân cảng. Nhưng dù cà rịch cà tàng, chiếc xe cũng đã đưa chúng tôi đến đúng điểm hẹn lúc 9 giờ sáng. Bác sĩ Đãi đến trước ngồi chờ chúng tôi. Chiếc tàu lớn của Hải quân tôi không nhớ số đang đậu sẵn ở cầu tàu. Thương binh không cần chờ lệnh đã xuống xe theo đường cầu vòng leo lên tàu.

 

Theo lệnh của Bác sĩ Đãi, chúng tôi và các quân y tá vẫn yên tâm chờ đợi nhưng rồi không biết chờ đến bao lâu, một vài y tá đi loanh quanh trong bến cảng và lục lạo những chiếc valises của những người đã lên tàu vội vã bỏ lại, có lẽ vì đồ đạc lỉnh kỉnh nặng và không đáng giá, phần lớn là những thứ sách vở báo chí hay vật lưu niệm chỉ có giá trị đối với người liên quan và trong những lúc bình yên. Hạ sĩ Hải người tài xế của chúng tôi phát giác ra rằng có một chiếc xe jeep khác không có ai lái, trên xe cũng không có đồ đạc gì, mang bảng số của SĐ 22, chìa khoá xe còn gắn trên ổ khoá và bình xăng còn đầy, hỏi chúng tôi có cần đổi xe không? Ai cũng nghĩ rằng mình sẽ lên tàu Hải quân nên xe cộ giờ này có ích gì nhưng có lẽ vì lý do nghề nghiệp Hải thích những chiếc xe mới, còn tốt hơn những chiếc xe cũ ọp ẹp như chiếc xe của chúng tôi lúc ấy nên bảo mọi người chuyển đồ lên chiếc xe mới. Không ai phản đối gì, và Hải đã đúng: còn đứng trên mặt đất thì còn cần xe”.

 

Mặt trời đã ngã về hướng Tây, 1 giờ; rồi 2 giờ rồi 3 giờ chúng tôi vẫn trông ngóng nhưng không thấy bóng dáng của người lính nào hay cấp chỉ huy của đơn vị. Bốn giờ. Tàu Hải quân nhổ neo và chậm rãi rẽ sóng ra khơi, nhưng tàu không đi xa, chỉ ra đậu ngoài khơi, còn trong tầm mắt đủ để khiêu khích sự nuối tiếc của chúng tôi.

Đang lay hoay chưa biết tính toán thế nào; đã 5 giờ chiều thỉnh thoảng vài tiếng súng nổ đó đây trong thành phố đủ tạo tình trạng hoang mang. Xe của Bác sĩ Quát và Bác sĩ Thái đến cùng với vài y tá. Anh Thái nhìn chúng tôi ngạc nhiên hỏi: "sao chúng mày còn ở đây? Ra ngoài này từ sáng sớm không lên tàu chần chừ ở đây làm gì?". Một người nào đó đáp rằng: vì chúng em chỉ nhận được lệnh đến đây chờ Bộ chỉ huy của tiểu đoàn".

-"Sao chúng mày ngu thế!". Bực dọc vì những lệnh lạc rời rạc, thiếu minh bạch của anh Tiểu Đoàn trưởng và sự ngây thơ đến mức ngu si của chúng tôi anh Thái đã không còn giữ phong thái lịch sự thường ngày. Anh lại than phiền rằng anh Tiểu đoàn trưởng đã ra lệnh di chuyển quá trễ để giờ này không còn tàu Hải quân, và trời cũng đã tối làm sao có thể đi đường bộ được. Nhìn mặt trời còn đủ sáng, thấy cảnh nhốn nháo của mọi người, tôi cảm thấy nếu phải qua đêm ở đây thật là bất tiện và chắc gì ngày mai tình hình có thể sáng sủa hơn, đề nghị với anh Thái rằng phải rời Qui Nhơn càng sớm càng tốt; nếu cần thì cũng liều mà chạy đường bộ còn hơn là nằm ở đây đêm nay trong tình trạng không có vị trí phòng thủ an toàn như thế này. Mọi người đều đồng ý chọn giải pháp này, quay đầu xe về hướng quốc lộ I; đến ngả ba Phú Tài, trực chỉ về hướng Nha Trang chạy với vận tốc tối đa mà xe có thể chạy.

 

Vĩnh biệt Qui Nhơn, chiều đã sắp tàn, tuy không phải là quê hương của mình nhưng là nơi mà trong một thời gian ngắn đầu đời binh nghiệp tôi đã sống; đã hy vọng; nơi đây có những người quen thân trong gia đình tôi và chính nơi đây quê hương của những người bạn đồng khoá của tôi: Nguyễn Chi Vỹ, Hồ Sĩ Nghĩa, Lê Minh Châu, Trương Thế Phiệt... Bác sĩ Quát đi đầu, những động tác thuần thục trên tay lái; gió thổi mạnh làm phất phơ vài sợi tóc dưới chiếc nón sắt trông anh thật oai vệ làm tôi chợt nhớ đến hình ảnh của chính anh trong phim "Chân Trời Tím"; nhưng giờ này là hình ảnh sống thật sự, không có nét gượng ép giả tạo nào. Tiếc thay việc rong chơi ở ngoài đời cũng như trong phim ảnh của anh đã sớm tàn cuộc mà phần thua thiệt đã về phía chúng ta (3*). Xe chúng tôi chiếc xe mà Hạ sĩ Hải vừa mới nhặt được ở quân cảng chạy khá tốt theo đuôi xe anh Quát, bác sĩ Đãi và bác sĩ Thái chạy sau. Đường chiều vắng và buồn; dọc đường trông thấy vài chiếc xe khác bị hỏng máy, nằm ụ nhưng không ai dám đoái hoài vì chính họ cũng chưa biết số mệnh họ như thế nào; chưa biết chuyến đi sẽ về đâu. Có lúc tôi thấy mắt cay cay...

 

Xe chạy qua Tuy Hòa, tôi cố nhìn và ghi lại những hình ảnh của quê hương vì biết đâu mình sẽ không còn cơ hội trở lại. Hàng mấy trăm người đứng dọc theo quốc lộ I ở ngả ba Trần Hưng Đạo, nơi rẽ vào thành phố để chờ và hỏi thăm tin tức của thân nhân di tản từ Cao nguyên và các tỉnh miền Trung. May mắn tôi gặp đươc người anh cả trong gia đình tôi, tôi gọi tên anh nhưng anh không nghe, Thịnh, Diễm và người khác trong xe cùng gọi lớn, anh quay về phía chúng tôi, nhìn thấy tôi và đưa tay khoát nhiều lần ra dấu bảo chúng tôi nên chạy nhanh đi, Nhưng đoàn xe xe bị nghẽn đường ở cầu Đà rằng, chạy đủ chậm, anh tôi chạy đến bên xe bảo: "Chạy nhanh di đừng quyến luyến gì, cha mẹ già yếu không chịu di tản, Cô em Út và mấy đứa cháu đã vào Nha Trang. Vào đó đi, anh P. và anh D. sẽ cùng em tính toán mọi việc, còn việc nhà để anh lo". Đoàn xe tiếp tục di chuyển, tôi thật ngậm ngùi... Anh tôi đứng nhìn theo, tôi nhìn anh nghẹn ngào. Phải, tôi may mắn sinh ra trong một gia đình đông anh em nhưng mọi người đều thương yêu và bảo bọc nhau, nhất là người anh cả của gia đình tôi đã rất nhiều lần thừa hành cha mẹ để lo lắng và quyết định mọi việc của anh em chúng tôi.

 

Nhìn lại quê hương một lần nữa, vẫn còn đó sừng sững núi Chóp chài, Núi Nhạn, và dòng sông Ba... Nhưng sao cảm thấy xót xa:

... Chóp chài như cô quạnh,
Khổng miếu sao hoang tàn,
Nhạn Tháp sầu u tịch,
Quê hương một màu tang...

 

Nha Trang, điểm hẹn và niềm hy vọng cũng đã về đêm, không còn vui nhộn như mấy tháng trước đây khi tôi ghé qua. Các dãy nhà phố đóng cửa sớm. Cảm thấy đã an toàn chúng tôi vào một quán café ở góc đường Độc Lập gần chợ Đầm còn đang mở. Nhưng café sao thật đắng và chủ quán lại cho hát bài " Compagnon Disparu"(chiến hữu mất tích) tôi linh cảm như có một sự mất mát. Không sai, đã có mấy ngưới bạn của tôi: Thái Văn Châu, Đoàn Trung Bửu, Vũ Đức Giang, vài người bạn mới quen như Thiếu Uý Chiến, anh Đệ chồng chị Yến đã không bao giờ trở về.

 

Mọi sự mong đợi cũng chỉ đem đến những thất vọng. Đoàn quân di tản từ Cao nguyên và từ các tỉnh ở phía Bắc chẳng những không tăng cường cho nền an ninh ở Nha Trang mà còn gây thêm hoang mang và những xáo trộn khác. Những giới chức ở Bưu điện hay ở những trạm viễn liên đã di tản hay vì vấn đề gì đã không đến nhiệm sở; mất liên lạc viễn thông, Nha Trang được đánh giá như đã thất thủ trong khi chưa hề có bóng dáng một cán binh Cộng sản nào trong thành phố. Một lần nữa tôi lại phải xa những người anh em thân yêu trong gia đình, để cố vượt thoát vòng kiểm soát của Cộng quân như một sự bất lực và ích kỷ, Nha Trang với biết bao kỷ niệm chói chang linh hồn phượng vĩ trong những ngày hè, những mùa thi, giờ đây tôi phải bỏ lại sau lưng thành phố, một vùng non nước hữu tình với biển xanh, bờ cát trắng.

Và rồi chỉ một thời gian ngắn ngay sau đó mọi sự đã xảy ra cho tôi và các bạn tôi như một sự trùng hợp mà một nghệ sĩ (4*) đã viết trong lời tựa giới thiệu những tác phẩm nghệ thuật của mình: "... nhưng khi đàn bướm bay xa, tiếng ca vừa dứt là lúc câu chuyện lưu đày xót xa hơn bao giờ hết..." và cũng đã đôi lần tôi cố gắng sống với thứ triết lý quý giá này của người nghệ sĩ tài ba ấy trong cuộc lưu đày trong các trại tập trung rằng:


" .. câu chuyện lưu đày chỉ là một cuộc hành hương vô tận”
và dấu chân xưa chắc chỉ còn như là tro tàn của nén hương đưa tiễn những người thân đã đi xa.

Chicago tháng 4 năm 2009
Phan Bảo Thư


(*) Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thời còn học sư phạm ở Qui nhơn
(2*) cò, tiếng lóng của chúng tôi để gọi cấp chỉ huy, đọc trại từ chữ commander.
(3*) Bác Sĩ Lê Bá Quát về sau đi tu, thọ giới tỳ kheo, và đã viên tịch vài năm trước đây ở California như là nhân chứng của những vô thường trong thế cuộc phù sinh.


Monday, March 24, 2025

 TRẬN CHIẾN CĂN CỨ HỎA LỰC SỐ 5 

Rời trường mẹ tôi về Tân Cảnh,

Trung đoàn 42 doanh trấn Tam Biên.

Ngày và đêm săn giặc triền miên,

Chiến thắng Charlie 5, rạng danh đời quân ngủ. 

Nguyễn-Văn Đây K2 30/6/1971

(Trận chiến nầy có nhiều ngưới đã viết, thật ra chỉ là phiến diện, những ngày rảnh rổi, tôi nhớ lại, vì chính tôi nằm trong đơn vị chủ lực tử thủ trong trận chiến đó và đã Chiến thắng vẽ vang, hôm nay tôi xin ghi lại ….) 

Từ ngày ra trường, số mạng đưa đẩy thế nào mà hai thằng cùng học một trường, một lớp từ trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ rồi cùng tốt nghiệp k2 ĐH/CTCT/ĐL ra đến tận Trung Đoàn 42/BB căn cứ tại Dakto Tân Cảnh. Tôi về làm ĐĐP/ĐĐ3/TĐ/2/BB còn Nguyễn Duy Triễn về TĐ 4 đang trấn giử căn cứ Hỏa Lực 6 đồi 1001. Trung Đoàn 42BB cách đây vài năm còn là một đơn vị biệt lập thuộc Biệt Khu 24 trấn giử vùng ba biên giới Việt Miên Lào. Đơn vị đã ngăn chặn, và tiêu diệt nhiều bộ đội cộng sản Bắc Việt xâm nhập, tịch thâu nhiều võ khí đạn dược cộng quân tiếp tế cho tai sai mục đích cướp bóc miền Nam

Nhận thấy tầm quan trọng của địa danh nầy, một trung đoàn bộ binh không thể đương cự với nhiều sư đoàn Việt cộng luôn lăm le rình mò ẩn nấp từ rừng già phía bên kia biên giới Miên-Lào muốn nuốt chửng trung đoàn 42BB, một trung đoàn gan dạ luôn luôn bẻ gãy mọi mưu toan xâm lược bành trướng của loài quỷ đỏ Bắc Việt. Để củng cố phòng ngự, yểm trợ và tấn công tiêu diệt đồng thời tạo thêm sự thuận lợi trong các cuộc hành quân càng ngày càng gia tăng tốc độ khốc liệt, năm 1969 Bộ Tổng Tham Mưu sáp nhập trung đoàn 42BB vào Sư Đoàn 22BB đã có sẳn ba trung đoàn 41BB ở Phù Cát, TR/Đ 40BB ờ Bồng Sơn, và TR/Đ 47BB Hảm Rồng Pleiku thuộc vùng đồng bằng áp lực tương đối nhẹ thở hơn vùng Ba Biên Giới 

Căn Cứ Hỏa Lực số 5 (FSB 5)

Ngày 30/3/1971, Triễn được trực thăng tiếp tế bốc đi căn cứ hỏa lực số 6, căn cứ tọa lạc trên đối 1001, cách Bộ chỉ huy trung đoàn độ chừng 10 phút theo đường chim bay, chếch về hướng bắc, căn cứ hỏa lực nầy còn được gọi là Charlie 6, họp cùng căn cứ hỏa-lực 5 (Charlie 5), độ cao 1338, bộ chỉ huy Trung đoàn 42BB tại Tân-Cảnh có đầy-đủ hỏa lực mạnh, bắn yểm-trợ toàn-vùng ba biên giới, ngoài ra còn chi khu Dakto, Phi trường Phượng-Hoàng tiếp-tế nhiên-liệu cho trực thăng và tiền-đồn biên phòng Ben-Het, tại đây có một tiểu đoàn Biệt Động Quân biên phòng. Khóa 2 có thiếu-úy George Thời (Ngô Thuận Thời) đồn trú tại đó.

Sáng ngày 31/3/71 tôi lên ban Tài chánh trung đoàn mượn trước ba ngàn, thì bất-ngờ gặp lại Đ/u Sáu, là người đã từng làm việc tại Cần Thơ khi còn chuẩn úy mới ra trường, tôi biết anh ta nhưng có lẽ anh ta không biết tôi, tôi biết anh ta vì anh ta hay chạy cái velo -solex tới cua mấy cô nữ-sinh, ngày xưa “cua” gái kiểu nầy rất thịnh hành, ở tỉnh lẻ đất hẹp mà loại xe nầy lúc bấy giờ thuộc dạng thời thượng, con nhà khá giả lắm mới có được, và vì thế anh ta mới cưới được một cô nử-sinh thuộc dạng đẹp tại quê tôi và cũng chính tại nơi nầy, sắc-đẹp của người phụ nữ đó đã làm cho ông đại-úy nầy cười ra nước mắt.

Sau khi được ứng lương, tôi vội-vã xin trung-úy Đắt DDT/DD3 theo xe công tác trở lại thị-xã Kontum để chuộc lại hai cái nhẩn Mãn-khóa của tôi, vì tôi và Triển đã cầm tại Tiệm cầm-đồ hôm kia, khi hai thằng vừa chân ướt, chân ráo tới đây lần đầu tiên trong cuộc đời chinh chiến. Cô bé chủ tiệm cầm đồ gặp lại tôi rất là ngạc nhiên, vì cô nghĩ rằng chúng tôi không bao giờ trở lại, các tiệm cầm đồ không khi nào cầm nhẩn vàng của chúng tôi, có lẽ vì nể tình và chúng tôi thuyết-phục mãi cô mới cả gan cầm đại cho chúng tôi, mặc dù gia-đình không cho phép. Và cũng một lý do đơn giả, cô e sợ rằng chúng-tôi không bao giờ trở-lại? và điều đó có vẻ đúng, sau lần đó hiếm khi tôi có cơ-hội ghé về Kontum.

Mới đó mà đã chiều tối, sau khi cơm nước xong, trung-úy Đắt cho lệnh mời tất cả các trung đội trưởng tập họp, ban bố tình trạng căng thẳng, theo tin tình báo có khả năng địch sẽ đánh lớn, yêu cầu các trung-đội nên chuẩn-bị thật kỹ-lưỡng súng ống và đạn dược, các sỹ-quan, hạ sỹ quan đều phải luôn kiểm-soát chặt chẽ các binh sỹ thuộc cấp, đêm đốc canh các vọng gác không dược lơ là chểnh mảng vì địch có thể tấn công bất cứ lúc nào, xong đâu đấy ông cho mời mọi người uống cà phê, để các anh em còn tâm-sự và cũng để hiểu rõ nhau hơn.

Trung úy Đắt lần lượt cho tôi biết ch/u Cự, trung đội trưởng tr/đ 1, ch/u Nhi, Trung-đội 2, ch/u Hằng, Tr/d 3, ch/u Tuân, Tr/d 4, Trung-sĩ nhứt Thân, thường vụ Đại đội, trung sĩ nhứt Giá và nhiều hạ sĩ quan tiếp-liệu khác. Riêng tôi làm Đại dội Phó kiêm trung đội súng nặng ĐĐ 3/22/42BB và kể từ đêm hôm đó, từng loạt đạn hỏa tiễn 122 ly rót vào bộ chỉ huy trung-đoàn liên-tục, nhưng không hề hấn gì, binh sĩ nơi đây quá quen thuộc của từng loạt đạn của dịch bắn vào, tiếng depart nào của 122 ly, của 82ly hoặc 130 ly khoảng cách của trái đạn đầu tiên và các loạt đạn sau để đề phòng địch tấn-công tiếp theo, hầu tránh thiệt-hại, phòng thủ vững chắc. 

Đêm hôm đó VC tấn-công căn cứ hỏa-lực số 6. Nguyễn duy Triển, K2, là người đầu tiên tham dự trận đánh lớn cấp Sư-doàn và tôi là người thứ hai được tham dự trận chiến nầy, khi VC không thể nào chọc thủng tuyến phòng thủ của căn cứ hỏa lực số 6, mặc dù đã tung hơn một sư-đoàn, gồm một trung đoàn bao vây và tấn công căn cứ, hai trung đoàn chận đánh viện, một tiểu-đoàn phòng không, mọt tiểu đoàn pháo và một tiểu đoán đặc công. Như trên đã viết, căn cứ hỏa lực 6 còn được gọi là Charlie 6 được phòng thủ bởi tiểu đoàn 4/42/22BB, do thiếu tá Nguyễn văn Danh K19/VB làm tiểu đoàn trưởng, hai khẩu 105ly, hai 81ly, đại-bác không giựt 57ly, chống chiến-xa 72ly và một phi đạo ngắn cho trực thăng Chinook tải vỏ-khí nặng, tiếp tế. Sau ba ngay đánh phá với đủ loại chiến cụ, VC bất ngờ tung tiểu-đoàn đặc công tấn công thẳng vào bản doanh hành quân trung-đoàn 42BB tại thị xã Tân-Cảnh.

Căn-cứ Tân-cảnh khá lớn, được phòng-thủ bởi tiểu- đoàn 2/42/22BB, một tiều đoàn pháo binh, một chi đội thiết vận xa, một đại đội trinh-sát, một dại đọi công vụ, một đại đội Lao công đào-binh cùng một tiểu đoàn pháo 175ly của Mỹ bắn yễm-trợ các tiền-đồn xa. Lợi dụng đêm tối và sương mù dày đặt ban đêm, các toán đặc công tiến sát vào hàng kẽm gai cuối cùng, nơi vọng gác 7, trói và bịt miệng hai lính gác, tiến lần theo trục giao thông hào về phía ban chỉ huy trung đoàn thì bị phát hiện. 

Trung tá Lại văn Khuy, trung- đoàn trưởng kịp thời điều-động đại-đội trinh sát phản công, dẩy lui và tiêu-diệt hoàn toàn đơn vị tiền-phương của địch. Về cánh phía nam các vọng 1, 2, 3, 4, 5, 6 do đại-dội 3/2/42BB trấn giữ, binh-sĩ đã nổ sung kịp thời khóa miệng hoàn-toàn toán đặc công tiền sát của VC, làm chủ tình hình cho đến lúc trời mờ sáng, địch bắt đầu rút lui, tôi được lệnh điều dộng hai trung đội truy kích, bắt sống 4 tên, hầu hết dều bị thương, tịch thu 2AK 47, 2B40, B41, 20kg TNT được quấn chặt như những đòn bánh-tét dùng để giựt sập vọng-gác và phá kẽm gai, 2 K54 của hai tên chỉ huy 2 toán bị bắn chết tại chỗ, tôi giữ một khẩu làm kỷ niệm, một khẩu báo cáo, sau nầy đổi lại cho tr/uy Tom ở tiểu đoàn pháo 175 ly Mỹ, được 10 thùng bia ham, một radio cassette thêm 50 đô mồi.

Vì áp lực địch càng ngày càng gia tăng, cường độ pháo liên tục hầu tràn ngập căn cứ hỏa-lực 6, Quân-đoàn 2 xin bộ Tổng tham mưu tăng viện Lữ-Đoàn 2 dù, với các tiểu-đoàn 1, 5, 6 cộng thêm một tiểu đoàn pháo binh 105ly với ba pháo đội, hợp cùng 4 pháo đội 105ly, một pháo đội 155ly của SĐ22BB, cộng thêm 60 trực thăng đủ loại, hàng trăm phi vu oanh kích và sau 12 ngày tử chiến, quân VC hoàn toàn bị tiêu diệt, một nửa bị bắt và chết tai trận, một nửa tháo chạy qua bên kia biên giới. Chiến thắng nầy đã mở đầu một kỷ nguyên mới, làm rạng danh trung đoàn 42BB và đã dược tuyên dương trước QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA. Nguyễn Duy Triển được Anh-dũng Bội-tinh ngôi sao Vàng, tôi thì được cái Bạc.

Và hơn một tháng sau, để trả thu, cộng quân lại tung gần hai sư đoàn tấn công vào căn-cứ hỏa-lực số 5 đồi 1338, lúc bấy giờ do tiểu-đoàn 2/42/22BB trấn giữ. Ngày 20/5/1971 như còn hằn in trong trí tôi. Trực thăng vừa tiếp-tế xong, đúng vào ngày lãnh lương, thức ăn, cà-phê trà bánh đầy-đủ, cả đơn vị hầu như còn thức, binh-sĩ thuộc cấp thỉnh-thoảng giải trí bằng vài ván bài nho-nhỏ như tiến-lên, hoặc binh lai-rai chút ít, không được quyền sát-phạt, vì trong ngày phát lương ai có gia đình đều phải gởi tiền về khu gia-binh, nếu còn độc thân cũng phải đóng tiền cho hậu cứ mua nhu yếu phẩm, tiếp tế đồ dùng cá nhơn. Việt cộng chọn ngay đêm hôm đó, vào lúc 3 giờ sang bắt đầu khai hỏa. Từng loạt đạn B40, B41, AK đua nhau cắt xé hang rào, từng loạt tiếng hô xung-phong bị cắt quảng bởi hàng loạt lựu đạn ném tay chính-xác của các chiến sĩ ta dưới giao thông hào, đã bẻ gãy hàng loạt xung phong của giặc. Hạ-sỹ nhứt Khanh phụ trách ổ sung cối 61ly của đại đội, nhờ tôi giúp mở hộp đạn, rút hết thuốc bồi chung quanh đuôi trái đạn, bắn vòng cầu 50m. Các loại sung cộng đồng hạn chế xử-dụng, tránh không cho địch phát hiện vị-trí. Địch hoàn-toàn bị động nằm tại chỗ chờ chết, vì tiếng MK2 đều đặn cả một kho dự trữ trong những lần chạm trán trước, căn-cứ nầy Mỹ mới bàn giao lại cho Quân lực Việt Nam Cộng-Hòa với một kho đạn dược đầy ắp nguyên vẹn.

Từng loạt đạn pháo trên các điểm dự-phòng bắn xối xã trên đầu địch đã kềm chế bớt các cuộc tấn công biển người mà địch thường áp-dụng uy hiếp các tiền đồn, đã không còn hiệu lực, những trái hỏa-châu bắt đầu soi rọi bầu trời lộ dần cảnh chiến trường khét lẹt múi thuốc súng, những tiếng thét rên rỉ hải-hùng trong đêm, cùng tiếng xung phong trong tuyệt vọng cua kẻ thu, làm vững tin hơn trong lòng người chiến-sĩ chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa tự do, một chiến trường địch đã chọn và đã sắp-xếp, để dàn trận địa chiến, thử lửa cấp Sư-đoàn với quân lực ta, VC đã thất bại hoàn-toàn, nhưng rất tiếc một năm sau chúng ta đã bõ ngõ mật trận nầy cho giặc Trung đoàn 42/22BB, hãnh-diện là một trong những trung đoàn chủ lực thiện chiến vào bực nhứt Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hòa, giữ vững miền đất nầy suốt từ Hiệp Định Geneve chia cắt Đất Nước 1954, đã bị bỏ rơi mở ngõ cho Cộng-Sản bắt đầu nhiều cuộc đánh pha, sau đó chia cắt Quân Lực chúng ta ra nhiều mảnh vụn, dẫn tới sự tan rã mau chóng sau nầy.

Những tia nắng ban mai bắt đầu le-lói trên nến trời ửng hồng, từng hàng kẽm gai bị xé toạt, xác dịch nằm vắt vẽo đu đưa theo từng cơn gió nhẹ buổi sang sớm, thế trận địch hoàn toàn tan rã, từng loạt đạn thẳng thi nhau xả vào những bụi rậm nơi có thể còn sức đề kháng của giặc. VC bao giờ cũng rất là ngoan cố, các điều nầy tôi đã học được nơi các thuộc cấp của tôi, những người đã từng trải chiến đấu bảo vệ vùng đất nầy một cách hiệu quả nhứt, những Trung sĩ nhứt Thân, Trung sĩ nhứt Giá, những chiến sỹ can trường và gan dạ nhiều kinh nghiệm chiến đấu, dùng toàn lựu đạn khống chế giặc ngay từ những phút giây đầu của cuộc chiến, từng loạt MK2, rồi từng loạt MK2 đã bẻ gảy hết đợt xung-phong nầy đến đợt xung phong khác. Tiếng nổ không nơi xuất-xứ khiến địch hoàn toàn bỡ-ngỡ và không phát-hiện được chủ lực của ta phát xuất từ đâu, để mà triệt hạ và đành chịu mọt thất-bại nặng-nề.Mặt trời nhô lên cao cũng là cuộc chiến đã tàn, Việt cộng đã chọn nơi đóng quân của Đại đội 3 nằm chận ngay cổng hông, có một yên ngựa nối liền tiền đồn 2 với một trung đội của Đại-đội 2 tăng phái, để mà khoét điểm tấn- công vào phía hông Tiểu- Đoàn địch chắc đã lập sa-bàn tập trận nhiều lần và với quân số áp đảo, địch tưởng rằng sẽ đè bẹp dễ-dàng lực lượng trú phòng, nhưng hoàn-toàn bất-ngờ về sự chống trả mãnh-liệt và hiệu-quả của quân phòng ngự.

Theo lệnh thượng cấp, tôi điều động trung đội chỉ huy ra lục soát chiến trường, sau khi bắt loa kêu gọi đầu hàng của các địch quân còn sống sót. Từng tên một vứt súng ống, cởi hết quần áo nằm xấp tại chỗ, đứng lên từng người, chui ra khỏi kẻm gai, chúng được cho ăn no và băng bó cẩn thận trước khi đưa về hậu cứ thẩm vấn, hầu hết đều vị thành niên và hình như rất thích bị bắt thì phải. Chỉ có vài đứa còn tỏ ra ngoan cố mà thôi. Kết quả sơ-khởi, ta bắt sống 11 tên, 43 xác đếm được chung quanh rào và còn vô số xác khác chưa được kiểm chứng. Trực thăng tiếp tế bổ sung những gì khiếm-khuyết, từng toán binh- sĩ tu sửa lại các hàng dây kẽm phòng-ngự, các giao thông hào bị đạn địch phá sập, còn phải đào một hố lớn chôn tập thể xác các tử thi Việt-cộng. Thật là bất ngờ, chiến thắng quá vẻ-vang, cả một đống võ khí tịch thâu, chất đầy sân bay, đợi di-chuyển về hậu-cứ.

Tôi theo trung sĩ nhứt Thân, thường vụ đại-đội, lên sân trực thăng nhận tiếp-tế, đai-đội xin 4 thùng MK2, thứ nầy rất cần cho phòng thủ, địch hay tấn công về đêm mà MK2 lại trị được bịnh đó rất là hữu hiệu, và một trận đánh khó tin như là nói láo mà hoàn toàn thật, bên ta hoàn toàn VÔ SỰ

- Đây, vô uống ly cà phê.

- Đạt, tao mắc bận, lãnh tiếp liệu cho đại đội, chút nữa tao ghé.

- Mầy ghé lại chút đã, đêm rồi nó khoét lổ nơi mầy, mà không thể nào chọc thủng phòng tuyến, tụi mầy cừ quá. TH/U Đạt nói, cà-phê mới pha ngon lắm, vào đây, mau lên.

Tôi còn đang chần chừ chưa quyết-định, chợt T/s nhứt Thân chen vào. Thôi Th/u ở chơi chút, em lên nhận hàng rồi ông lên sau cũng được. Toi theo Đạt xuống hầm bệnh-xá, vì Đạt là Sĩ-quan Trợ-Y của Tiểu-đoàn, dân Sóc Trăng, bạn thân của tôi, hắn học năm thứ 3 Dược, động-viên vào ngành trợ -y, phụ tá có hai hạ sĩ quan và vài y-tá trực, th/uy Đạt về Tiểu Đoàn hơn một năm.

Đang trà nước thuốc-lá khoảng chừng 5 phút, chiếc Chinook vứa cất cánh mang theo tù binh và chiến lợi phẩm, chợt tiếng nổ ầm vang lên và tiếp theo hàng loạt tiếng ầm khác, vang vọng từ phi đạo, vài tiếng thét đau đớn của quân ta, có lẽ đã trúng đạn pháo, địch sau một đêm tấn công bất-ngờ không thành, địch chọn pháo khủng-bố hầu lung-lạc tinh- thần binh sĩ, mà thật vậy, suốt đêm chiến đấu dũng-cảm, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch, hoàn toàn vô sự. Quân ta bắt đầu trả-giá cho sự lơ đểnh đầu tiên, loạt pháo đã gây cho ta môt tử-thương và hai bị thương, trong số hai bị thương có tr/s thường-vụ của tôi, nếu tôi không gặp Đạt uống cà phê hút thuốc thư-giản trong vòng 5 phút, không biết số phận tôi sẽ ra sao? Và bây giờ có ghi lại sự thật nầy không nữa?

Và từ đó không còn phút êm-đềm,

Giặc vây kín không còn gì để thở

Thất bại ban đầu đã làm chùn chân giặc cộng, yếu tố bất ngờ không tràn ngập được mục-tiêu như ý định của chúng, các mũi-dùi tấn-công bị bẻ gảy, địch dồn sang pháo hỏa-tập, canh bắn trực thăng tiếp-tế, khóa chặt đường lấy nước sinh-hoạt hằng ngày, binh-sĩ thiếu nước trầm-trọng vì đường dẫn xuống nguồn suối đã bị địch cắt đứt hoàn, trực thăng tiếp tế không thể nào đáp xuống phi-đạo. C47 bay từ trên cao thả dù tiếp-tế có khi rơi vào vùngVC kiểm soát, nhưng may mắn trời còn thương, đêm-đêm vài con mưa nhỏ lất-phất, binh sĩ căng poncho mỗi người hứng được khoãng vài nón sắt đựng trong ống đạn 105ly, cũng không đến nổi chết khát, tuy nhiên các loạt pháo của địch gây cho chúng ta nhiều tổn-thất hơn về nhân mạng, tinh-thần binh sĩ có phần bị giao-động, tuy-nhiên còn nước còn tát. Chiều ngày N+3, từ trên đỉnh núi Yankee, địch nả hàng loạt súng cối 82ly về phía ta, không gây thiệt hại đáng kể, nhưng đã để lại vài luồng khói trên nền trời lúc chúng vừa depart. Được lệnh phản pháo, tôi gọi hạ sĩ nhứt Khanh lại ụ 81ly xoay nòng về hướng Yankee và sau hai loạt đạn tài tình, anh hạ sĩ nhứt của tôi khóa họng ổ 82ly của địch, đợt thử-nghiệm nầy đã làm anh em vững dạ hơn với các chiến-sỹ gan-dạ và quả cãm của chúng ta, đã hò reo vang-dậy và mặc dù không biết số phận nghiệt-ngã sẽ tới đâu?

Rạng ngày N+4, từ trong đêm khuya tịch-mịch, những tiếng gầm thét vang lên của từng loạt đạn, tôi chụp vội ống liên-hợp nghe tiếng của trung úy Lê Văn Thọ, Đại Đội Trưởng.

- Lương-sơn, Anh Đài gọi!

- Lưong-sơn nghe, nói.

- Địch đang tràn ngập chỗ tôi, thẩm-quyền cho hạ nòng hai con gà cồ trực xạ thẳng về phía tôi, tôi phải ra lịnh cho các con tôi vòng ra ngoài rào vì không còn cách nào kiểm-soát được nữa. Xin thẩm-quyền ra lệnh nhanh lên, không còn kịp nữa rồi.

Đến đây ống liên-hợp chỉ còn tiếng sè sè, mặc cho tiếng của Thiếu-Tá Nghĩa gọi Anh-Đài trong tuyệt vọng, hai khẩu 105ly bắt đầu khạc ra những loạt đạn trực-xạ thẳng vào chính đứa con của mình, Thiếu-tá tiểu-đoàn trưởng đau lòng ra lệnh, khi tình-thế phải như vậy, và trong thâm-tâm ông, biết bao điều ray-rức. Pháo từ trung-đoàn nổ chụp trên không, hòa lẫn tiếng đạn-đạo thẳng, xé màn đêm, tiếng bê-ta phá hầm của Việt-công. Lần nầy Cộng quân điều nghiên kỹ hơn, đánh vào mặt Nam của căn cư, nơi đại-đội 1 trấn giữ và chúng đã tràn ngập mục-tiêu, ban chỉ-huy đã mất hẳn liên lạc vô tuyến, bây giờ chỉ biết đợi-chờ trời sáng và cầu nguyện.

Những ánh sáng phát ra từ lớp hỏa-châu soi rọi bãi chiến-trường thâm-u tanh mùi máu và thuốc sung, vài ánh chớp nhoáng lên hòa với tiếng đạn rền vang trong đêm khuya thanh-vắng nó rờn-rợn làm sao? Không thể nói lên đượ bằng lời. Tay tôi ghì chặt cò súng, mắt đăm đăm nhìn về phía tiền đồn đại đội 1 trấn giữ, mà cảm thấy nghèn nghẹn. Quân ta và địch đang quần-thảo dữ dội nơi đó....Trời vừa tờ-mờ, trong cảnh tranh tối, tranh sáng, khung cảnh tiền đồn DD1 thật là thê-lương ảm-đạm, hàng kẽm gai tung tóe, vài cụm khói còn bốc cao, không một bóng người, chẳng lẽ hy-sinh hết rồi sao?- Trung Úy mời Thiếu Úy lên họp.

Tôi vội vã theo hạ sĩ nhứt Thơm truyền tin vào hầm Đại Đội, gặp Trung-úy Đắt đang ngồi trên thùng đại liên, tay cầm ly cà phê.

- Đây, ngồi xuống uống ly cà-phê, hút điếu thuốc Pallmall cho ấm. Đại-đội nhận lệnh sang lục-soát chiến-trường, bắt liên lạc với thằng một, anh dẫn hai trung-đội đi trước, nhớ thật cẩn-thận, tỉ mỹ, lệnh binh sỹ ăn no, đề phòng bất-trắc, không còn hy vọng gì, cố gom các đứa con của thằng một, chiếm mục-tiêu xong, đợi lệnh. Tôi vội-vã mời chuẩn úy Nhi và Chuẩn Úy Hằng lên họp, bàn kế-hoạch tiến chiếm mục tiêu, chúng tôi sẽ di chuyển theo đội hình nấc thang, người sau bảo vệ người trước, từng bước thận trọng tiến về tiền đồn một, với quân số khoảng gần 100, vừa bị địch tràn ngập đêm qua.Đại đội một đóng độc lập như một tiền-đồn, án ngữ mặt trước của tiểu-đoàn, nối liền ban chỉ-huy tiểu đoàn bằng con đường phẳng lỳ khoảng 300 mét, từ bên nầy nhìn sang bên kia rất rõ và vì thế, mặc dù đã tràn ngập mục tiêu, nhưng VC không dám giữ, một phần vì hỏa lực căn cứ rất là hùng hậu, VC chỉ đánh để hù-dọa đơn vị trú-phòng, một mặt lấy lại uy-tín vì thiệt-hại quá nặng-nề trong trận-chiến đầu tiên.

Trung đội của Ch/uy Hằng, chiếm mục tiêu mà không gặp một sức đề kháng nào, Trung-đội của Ch/uy Nhi được lệnh bố trí lục soát chung quanh không chừa bỏ gốc cây bụi rậm nào. Tôi bắt đầu di chuyển đến hầm chỉ huy được báo cáo đã tìm được xác Tr/uy Thọ Đđ Trưởng, nằm úp mặt xuống đất, tôi định nhảy xuống nâng dậy nhưng hạ sĩ Thơm cản lại, coi chừng TH/úy, tụi nó có thể gài lựu đạn, chúng tôi phải xem-xét cẩn thận bọn Vc không từ bỏ một thủ đoạn đê hèn nào nếu có thể tàn-sát được chúng-tôi.

Kiểm điểm lại, chúng tôi hy sinh hơn một nửa đại-đội, binh sĩ tản lạc đã được gom về đầy đủ, đổi lại 29 xác địch đếm được, chưa kể số không đếm được, chứng tỏ anh em đã chiến-dấu rất là anh-dũng. Sau khi dọn-dẹp xong chiến-trường, chúng tôi triệt-hạ căn-cứ tiền-đồn nầy vì không đủ quân-số, tôi cho gài lại một số mìn tự động rồi rút ngay khi trời nhá-nhem tối.

Ngày N+6 và những ngày tiếp theo, VC nả đủ loại sung vào căn cứ, gây cho chúng tôi nhiều thiệt hại, tất cả mọi sanh-hoạt thường ngày bị gián-doạn liên-tục, chúng-tôi phải luôn luôn đề cao cảnh-giác khi nghe tiếng depart của từng loạt đạn VC, ban dêm VC không pháo vì sợ lộ.

Các vị trí súng cộng-đồng và mặc dù VC không còn quân-số tấn công, sau hai lần bất thành.Chúng-tôi cũng không lơ là canh gác cẩn-mật, chúng-tôi chỉ đủ nước cầm hơi cho nhu cầu tối thiểu, ăn và uống, mình mẩy bao ngày không tắm gội không biết có mùi gì? Ai cũng như thế.

Những xác đồng đội quấn poncho lâu ngày bốc rửa thật là ảm đạm, trực thăng không xuống được làm hoàn cảnh chúng tôi bi- đát hơn, sau cùng tiểu đoàn trưởng ra lệnh đem chôn tạm, vì không thể nào sống chung với dòi từ con người chui ra, đen và lông như con sâu rọm, bằng hai lóng ngón tay, bò lúc-nhúc, rồi có thể dịch bệnh tiêu-diệt cả đơn vị.

Một Con Người, khi chết là thế sao? Nếu ai đã từng sống qua những ngày đen tối nầy thì mới biết một ngày được sống trên cõi đời nầy thật là đáng được Trân-Quý.

Tất cả đồng đội đã được nằm yên dưới lòng đất lạnh, đã hiển-linh phù-hộ anh em chúng tôi. Một cơn mưa mềm đất mẹ để các bạn bè chiến-hữu còn đủ sức đào 53 ngôi mộ trong ngày, có nước tắm rủa giặt-giũ, ăn-uống và ngăn không cho Vẹm pháo ngày hôm đó, một ngày âm-u anh linh, nhưng an-bình cho chúng tôi còn sức chiến-đấu một cuộc-chiến dai-dẵng sống còn. Bọn VC đã bị cột chặt vào thân súng chỉ có thể bóp cò và gục ngã, một kẻ thù vô-thần man-rợ.

Những ngày tiếp theo và tiếp theo, sức ta đã mòn, mà địch cũng đã cạn kiệt, những diểm đóng quân lộ dần vị trí, VC không còn yếu tố bất-ngờ, các cánh quân bị viện-binh kèm chặt, VC bị dồn vào thế tử chiến với quân ta, khả năng tiếp tế cạn kiệt, và để tiêu diệt Bộ Tổng-Tham-Mưu tung Lữ Đoàn 1 Nhảy-Dù do Đại Tá Lê Quang Lưỡng làm Lữ-Đoàn Trưởng vào cuộc chiến.

Tôi về Tân Cảnh một ngày Xuân,

Mai vàng rộ nỡ theo bước hành-quân,

Đạn cối thay pháo hoa mừng lính mới,

Đơn vị vào vùng đất địch thâm u.

Căn cứ 5 ẩn hiện lớp sương mù...

Ngày thứ N+25 đã đến, Việt cộng bây giờ trong tình trạng hoàn toàn bị động, tiến thối lưỡng nan quân số hao hụt, đói khát và bệnh tật, quân Bắc cộng toàn là con nít khoảng 13, hoặc 14, 15. Các chốt đóng quân lộ dần, các phi tuần khu trục, phản lực Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ phối hợp cùng pháo binh, thay phiên tác xạ ngày đêm, tụi Vẹm ẩn náu sâu dưới hầm hố cá nhơn chiến đấu trong tuyệt vọng, các trung đoan chủ lực chận đánh viện binh ta đã không còn yếu tố bất ngờ nữa. Mặc dù vậy khi đã vào bước đường cùng, Vẹm có thể liều mạng hơn, vì bọn chánh trị viên VC luôn luôn xem mạng người nhu là cỏ rác, không hơn gì súc vật.

Hàng loạt pháo cộng với các phi tuần lần lượt thay nhau oanh kích vào các chốt đóng quân VC, tiểu-đoàn 8 nhảy dù do trung tá Văn Đức Ninh làm tiểu đoàn trưởng, được điều động nhảy ngay xuống căn cứ hỏa lực 5, họp cùng tiểu đoàn 2/42BB bung rộng ra chung quanh giải tỏa bớt áp lực VC, Tiểu đoàn 3 nhảy dù đánh vào mặt hông của VC, tạo thành thế gọng kềm xiết chặt, các chốt VC lần lượt bị triệt hạ dần-dần. Tôi đã gặp lại Vương Thế Sung nơi đây trong bộ áo hoa dù của Tiểu đoàn 8, thật không ngờ trong giờ phút thập tử nầy còn gặp bạn hiền. Khóa 2 ĐH CTCT với 386 tân Thiếu Úy đã được phân phối đều cho tất cả các sư đoàn chủ lực, Bộ Binh, Thiết Giáp, Nhảy Dù, Biệt Động Quân và tất cả các tiểu khu Việt Nam cộng Hòa, chúng tôi bắt tay rạng rỡ. Sung chúc mừng chiến công của tôi, mầy tao tâm sự bên ly cà phê điếu thuốc và nhứt là tôi còn sống sót sau 40 ngày đêm TỮ-THỦ thành công Căn cứ Hõa Lực Số 5 đồi 1338.

Với lực lựong hùng hậu gần 2 sư đoàn chánh qui, với đủ loại pháo hạng nặng được khối cộng bơm vào chiến trường, với hủ trương bành trướng nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á, với kinh nghiệm xương máu từ trận chiến căn cứ hỏa lực 6 vừa xảy ra trước nửa tháng, VC tin rằng chúng ta lơ là canh phòng và chúng sẽ tiêu diệt dễ dàng miếng mồi ngon căn cứ hỏa-lực 5, để làm bàn đạp đánh chiếm Tây-Nguyên và sau đó chia cắt Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ra nhiều mãnh vụn, để thôn tính nốt phần còn lại. Nhưng chúng không ngờ sức chiến đấu rất dũng cảm và quyết liệt đã tiêu diệt hầu hết chủ lực quân của Cộng sản, đến nổi quân số hao hụt trầm trọng không còn để bổ sung và phải dùng toàn con nít, ngày đó nếu hậu phương ổn định chánh trị, không có bọn ăn cơm Quốc-Gia thờ Ma cộng sản, đâm sau lưngchiến sĩ, đám ký-giả cá chớn, đám ca nhạc sỹ tào-lao xúi giục biểu tình, hát nhạc phản chiến và một chánh quyền biết vận dụng sức mạnh của mình, thì chắc chúng-ta không phải tủi-nhục như ngày hôm nay.

Thay lời kết, QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA, một quân-lực hùng-mạnh theo đúng nghĩa của nó, TRÍ về Chiến tranh du kích, NHƠN về long Quả cảm, DŨNG về Chiến Tranh Quy Ước, nhưng mộng Không THÀNH, vì những thế lực đen tối Chánh trị, tham lam cá nhơn không đặt quyền lợi TỔ-QUỐC trên hết, các đơn vị diện địa ngăn chận tiêu hao truy tìm dấn vết địch, để các đơn vị Tổng trừ Bị Tiêu-Diệt Địch, mỗi Đơn vị nhận nhiệm vụ khác nhau, đừng để địch lợi dụng sơ hở nầy để mà xuyên-tạc, bôi nhọ. Nên nhớ rằng Trung-đoàn 42BB lính toàn tân binh, bị đày và lao công mà sức chịu đựng còn QUẢ CẢM Và DŨNG MẢNH như thế.

Tôi Viết bài nầy là một người Chiến sĩ Tiểu đoan 2/42BB, vừa ra trường đã may mắn tham dự hai trận chiến lớn CĂN CỪ HỎA LỰC 6 và CĂN CỨ HỎA LỰC 5 và đã chiến thắng, làm rạng danh chiến sử Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời nêu cao Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị Dà-lạt với các đơn vị bạn, đồng thời cũng nêu cao gương chiến đấu, cũng như sự Phối Hợp Nhịp Nhàng Đồng Bộ Của Các Đơn vị Pháo Binh, Không Quân, Thiết Giáp, cùng Đơn vị Tổng Trừ Bị Nhảy Dù, Biệt Động, đã ứng phó Kịp thời Tiêu-Diệt Chủ lực Cộng Sản Bắc Việt.

Và sau cùng Là Lời TRI ÂN sâu xa đến các Bạn Bè Đồng Môn, Chiến Hữu đã nằm xuống, Hy sinh để Bảo Vệ Chính Nghĩa TỰ DO, dù Mộng Ước Chưa Thành.

Georgia kỷ-niệm Ngày Quân Lực 19/6/2010

NT2 Nguyễn Văn Đây - Tây Nhà Đèn 

Để TRI-ÂN Trần Văn NGÀN, Mai Viết PHÁT, Huỳnh HÀ,Vĩnh TƯỜNG, Nguyễn thiện ĐỨC, Lê Đình ANH, Hà văn THÀNH và còn nữa, những bạn bè Đồng Môn, Chiến Hữu Của Tôi.

===

NG BÙI ĐỨC LẠC ƠI - HƠN 40 NĂM SAU MÀ ÔNG KHÔNG THÈM PHỐI KIỂM CỨ VIẾT BỪA THẬT TỘI NGHIỆP

Cựu Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy Đồi 31 Hạ Lào đã bị VC bắt và Ông Thọ đang sống tỵ nạn tại SYDNEY- bên AUSTRALIA./-TCL/Mv.

TRUNG TA BUI DUC LAC :Chuyện Một Thời Khói Lửa Chiến Chinh!

Kính quý vị ,

Làm sao không đau lòng rơi nước mắt khi đọc những dòng bút ký này cuả Trung Tá Bùi Đức Lạc kể về cái chết cuả Đại úy Nguyễn văn Đương và Đại tá Nguyễn văn Thọ tại mặt trận Hạ Lào sau cái chết cuả Đại tướng Đỗ Cao Trí :

Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 gọi cho tôi nói: ‘11 làm ơn bắn ngay trên đầu tao đi’

và :

Trước khi chết, Đương cho tôi biết, anh chỉ còn có hai viên đạn cuối cùng trên nòng súng mà thôi! 

Trung tá Bùi Đức Lạc

Trong khi đạn dược , súng ống cuả miền Nam đang bị chiết giảm , viện trợ bị cắt dần , nên chỗ thì có đạn mà không có súng , chỗ thì có súng nhưng không có đạn . Trong tình trạng kiệt quệ đó , QL/VNCH vẫn phải chiến đấu với một hoả lực hùng hậu cuả giặc cộng được Liên Xô và Tàu cộng viện trợ ồ ạt , phủ phê . TC còn gởi cả binh sĩ và cố vấn sang nữa . Nhưng trong cái bi đát đau thương đó , tôi bỗng nhận ra một điều khôi hài là các dép râu nón cối , dưới sự lãnh đạo tài tình cuả đảng csVN , lâu nay vẫn xưng hùng xưng bá là thắng miền Nam bằng một chiến thắng thần thánh , nhưng sự thật thì các " ông thần ông thánh vc " ấy mặc dù đạn dược dư thừa , mặc dù có cả hoả tiễn 6 nòng thay vì 2 nòng như khi đánh trên chiến trường miền Nam , mặc dù được phép tha hồ bắn , nên mới pháo 2000 trái trong một ngày mà ... trật lất ! 

Chính nhờ mấy chú pháo thủ vc giỏi ghê nên bây giờ nhân chứng sống ở chiến trường khốc liệt Hạ Lào ngày nào là Trung tá Bùi Đức Lạc mới có thể kể cho chúng ta và nhứt là cho thế hệ trẻ nghe QL/VNCH đã chiến đấu trong những điều kiện khó khăn do đồng minh bắt tay với kẻ thù bán đứng miền Nam như thế nào , và cái chết anh dũng cuả các chiến sĩ Mũ Đỏ nói riêng và toàn thể chiến sĩ VNCH nói chung trong suốt hơn 20 năm xả thân giữ gìn một nửa giang sơn thoát tay cộng phỉ như thế nào . Tiếc thay , Mãnh Hổ Nan Địch Quần Hồ ! Thiên Nga đã gãy cánh !!!

Trung tá Bùi Đức Lạc viết tiếp :

Khai hỏa vào khoảng 4 giờ 15, thì tất cả 4 pháo đội đồng khai hỏa bắn vào căn cứ 31 và bắn giết cả bạn lẫn thù, lần đầu tiên trong đời pháo thủ của tôi! Khi tôi vừa ra lệnh bắn, thì Đại Tá Lưỡng và tôi cùng cả phi hành đoàn đều bật khóc. Đó là cái chết của Đại Úy Nguyễn Văn Đương và Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại mặt trận Hạ Lào!

18/03/2016

Trung tá Bùi Đức Lạc

Xin kính cẩn thắp nén tâm hương với lòng tiếc thương vô hạn , dâng lên Anh Linh chư vị Anh Hùng Tử Sĩ VNCH . 

Xin dâng lên bàn thờ Tổ Quốc Việt Nam lòng mong ước một ngày mai không cộng sản trên khắp non sông . 

Thân kính ,

Hoàng Yến .