Tuesday, July 29, 2025


TRẬN DAK SEANG 1970

VÀO tuần lễ thứ 2 của tháng 4 1970, tin tình báo cho thấy quân csbv tập trung đông đảo quanh trại LLĐB Dak Seang, 32 km bắc của Dak To. Dak Seang nằm trong 1 thung lũng, với những đường đỉnh núi nằm 2 bên. Địch hoạt động liên tục quanh khu vực này. Một lực lượng csbv có thể cấp sđ lập các vị trí quanh trại vào 14/4, và cuộc tấn công vào trại sắp xảy ra.

Một vị trí nhiều ưu thế từng là 1 vị trí đóng quân đêm của sđ 4 bộ binh Mỹ, có tên là bãi đáp Orange. Bãi đáp là nơi trống trải duy nhất của vùng rừng núi rậm rạp này, và cũng là cao điểm khống chế thung lũng có trại LLĐB. Bãi đáp cũng là 1 đài quan sát  cho trận đánh sắp tới. Sài Gòn quyết định QL VNCH phải làm chủ bãi đáp này.

Một kế hoạch xử dụng đ.đ. 170 trực thăng tấn công của Mỹ, sẽ đổ TĐ 3/42 bộ binh VNCH. TĐ có 2 nhiệm vụ: a/ Chiếm bãi đáp; b/ Nếu Dak Seang bị bao vây, TĐ 3/42 sẽ xuống núi, đánh xuyên các vị trí địch đang bao quanh bãi đáp và hy vọng tiến về trại để yểm trợ lực lượng dồn trú.

Sáng ngày 15/4, lúc 0430 tại sân bay Kontum, các phi công, cơ khí phi hành và xạ thủ bận rộn kiểm tra tiền-phi, nạp đạn và rocket.

Khi mặt trời từ từ hiện lên khỏi núi, biến bầu trời từ màu đen chuyển qua đỏ và cam, và cuối cùng thành màu xanh dương, một hợp đoàn trực thăng chở quân, có biệt danh Bikini, chở đầy lính VNCH, cất cánh, và hướng về bãi đáp Orange. Lúc 0600 giờ, hợp đoàn Bikini, với các gunship hộ tống, vượt qua thung lũng xanh và sắp hàng để đổ quân. Bãi đáp có màu đất đỏ và xám tương phản lẫn nhau dưới buổi sáng sáng chói. Các phi công tập trung vào mục tiêu, còn xạ thủ kiểm tra súng đạn 1 lần nữa để bảo đảm họ sẵn sàng cho bất cứ thứ gì ở bên dưới. 

Chuẩn úy (WO) Alan Hoffman chỉ huy chiếc đi đầu vào bãi đáp mà ko gặp chống trả và đổ quân. Hạ sĩ Herndon Bivens, và trung sĩ Rosendo Montana ngồi ở của hông của trực thăng. Cả hai có nhiệm dò đường của toán An ninh của TĐ 52 Không vận. (Nói thêm: Lính dò đường  (Pathfinder) được huấn luyện để lập và điều hành bãi thả dù và bãi đáp cho trực thăng; họ đóng vai trò quan trọng trong các cuộc HQ -- ND). Trước khi càn chạm đất, Bivens và Montana đã nhảy xuống, theo sau bởi 6 người lính của TĐ 3/42. Montana mang máy truyền tin và chạy khoảng 4.5 mét là tới đường đỉnh (crest) của đồi, và ngừng bên cạnh 1 hố bom lớn. Bivens chạy ngay sau Montana và cả hai bận rộn điều động các trực thăng đang chở TĐ VNCH này... lúc đó là 0615 giờ.

Khi cả hai tới vị trí của họ, chiếc thứ hai đang chở 8 lính VNCH, chuẩn bị đáp xuống. Trên chiếc này có chuẩn úy Albert Barthelme Jr., 1 phi công nhiều kinh nghiệm, chuẩn úy Roger Miller, copilot, mới sang VN được 2 tuần và đây là phi vụ thứ hai của ông; chuyên viên bậc 4 Vincent Davies là xạ thủ, sắp mãn lính; và chuyên viên bậc 5 Donalds Summers, cơ khí phi hành, một cựu BĐQ, đã nộp đơn xin phục vụ nhiệm kỳ ba. Cũng như chiếc thứ nhất, chiếc này tới bãi đáp mà ko gặp trở ngại. Bivens ra dấu cho phi công, trong khi Montana bận rộn với máy móc.

Chuẩn úy Miller đang điều khiển trực thăng và khi còn cách bãi đáp chưa tới 50 feet hay 15.24 m thì bắc quân nổ súng từ mọi hướng.

Loạt đạn đầu đã hạ gục trung sĩ Montana tại nơi ông đang đứng. Ông quỵ xuống đầu gối, và cố gắng báo cáo rằng bị hỏa lực dữ dội từ trái và phải của bãi đáp; một loạt đạn thứ hai đã khiến ông gập người lại và chết trong tư thế của thai nhi (fetal position). 

Hạ sĩ dò đường Bivens phóng xuống hố bom, để tránh đạn. Dựa vào mép của hố bom, ông bắn vào bìa rừng. Ông đã hết đạn trong vài phút. Sáu người lính VNCH cùng máy bay với ông, chạy xuống sườn đồi để tới 1 hố bom cách đó khoảng 6 mét và tìm chỗ núp. Họ ko bắn trả lại CS.

Trên máy bay, cơ khí phi hành Summers liên tục bị trúng đạn ở vai phải và trái, đập mạnh vào vách ngăn bên phải, rồi bên trái. Ông cố gắng vói tới khẩu M-60 và bắt đầu bắn trả trong khi máy bay chúi đầu xuống bên trái, rồi bên phải, rồi đâm xuống đất, nằm nghiêng bên cạnh bìa rừng. Summers bị các xác lính VNCH đã chết trong loạt đạn đầu đè lên. Ở bên trái máy bay, xạ thủ Vincent Davis nổ súng bắn trả. Máy bay lắc lư (thrash) khiến ông này ngưng bắn và khi máy bay nằm nghiêng 1 bên, ông liền rời máy bay, nhảy xuống đất.

Chuẩn úy Hoffman vừa mới bình phi (level off) máy bay thì máy truyền tin cho biết tình hình xảy ra sau lưng ông. Ông quay máy bay, trở về bãi đáp, đáp kế bên chiếc máy bay rơi. Ông thấy Barthelme đang cố gắng tháo dây an toàn của phi công, và Roger Miller; họ đều còn sống. Hỏa lực địch nhắm vào máy bay của ông, khiến ông phải rời bãi đáp.

Như phép lạ, Miller và Barthelme ko ai bị thương vì máy bay rơi. Barthelme chun qua lổ dưới chỗ ngồi, xem hình, để thoát khỏi máy bay, Roger Miller theo sau.


Trong khi đó, hạ sĩ Bivens hết đạn, rời hố bom và chạy nhanh đến nơi máy bay vừa rơi để giúp đỡ kẻ sống sót. Khi ông tới gần, Barthelme bị trúng đạn vài lần ở lưng và ngả xuống. Miller kéo Barthelme rời xa trực thăng tới sườn đồi dưới hố bom. Miller chọn 1 vị trí dọc theo sườn đồi giữa 1 hố bom nơi mà lính VNCH đang núp, và Barthelme. Davis chạy tới nơi Barthelme nằm và cả hai nằm mẹp xuống đất để tránh đạn.
Trong khi đó Bivens trèo lên nóc trực thăng và nhìn vào bên trong. Cơ khí viên Summers vừa trườn mình khỏi các xác chết, vừa khạc nhổ vừa chửi thề (cuss). Trước đó, ông bị các xác lính VNCH nằm vắt ngang ngực và mặt. Xác chết nằm vắt ngang mặt ông với ruột lòi ra và đầy máu, chảy xuống miệng ông. Bivens kéo Summers đến chỗ ngồi của xạ thủ trong lúc đạn tiếp tục nổ. Summers cố gắng bò tới bình điện ở mủi trực thăng thì phát hiện bình điện đã bị bắn nhiều lổ. Sau đó y trở lại chỗ ngồi của xạ thủ với Bivens.
Họ quyết định rằng vị trí phòng thủ tốt nhất là ở mặt sau của ngọn đồi mà Miller, Davies, và Barthelme nằm. Hố bom ở phía trên nơi mà Bivens núp chỉ cách 1 bunker của CS 20 mét và ít nhất là 1 đại liên với 3 xạ thủ. Summers và Bivens duyệt xét tình hình. Họ hoàn toàn bị bao vây bởi những bunker và lính của CSBV. Họ nhận thấy rằng mọi máy bay khi tiếp cận bãi đáp sẽ trúng đạn bắn từ 1 bunker mà Bivens đã thấy và 1 bunker khác dọc theo đường đỉnh núi phía tây của bài đáp.
Barthelme vẫn còn sống với những vết thương sau lưng; Miller ko bị thương tích gì hết; Davis bị thương nhưng còn sức. Summers bị trúng nhiều phát ở vai và hông. Khẩu M-60 trên máy bay vẫn có thể dùng, nhưng súng của lính VNCH, đang ở trên trực thăng, lớp thì văng ra ngoài (throw clear) hay bị đất cát bao phủ và tan nát khi máy bay rơi. Sáu lính VNCH còn súng và nằm trong hố bom khoảng vài mét từ nơi Miller nằm. Bivens cho Summers hai lựu đạn và Summer rời máy bay. Bivens dùng vị trí của xạ thủ để che đạn và bắn trả, trong khi Summers ôm lựu đạn chạy nhanh đến Millers. Summers đi đến vị trí của lính vnch và lấy 1 khẩu M-16 và vài băng đạn của lính và trở lại Millers. Thấy vậy, sáu người lính này đứng dậy và chạy vào rừng, bỏ rơi lính Mỹ.
Hạ sĩ Bivens rời máy bay và chạy nhanh tới xác trung sĩ Montana. (Cả 2 đều là chuyên viên dò đường cho cuộc HQ này -- ND). Ông kiểm tra máy truyền tin thì thấy máy ko thể sửa chữa, và trở lại máy bay để điều khiển khẩu M-60.
Các gunship dùng minigum và rocket để bảo vệ các lính Mỹ trên bãi đáp này. Lúc đó có 2 trực thăng chuẩn bị đáp xuống để đổ quân. Chiếc thứ nhất do chuẩn úy Don Johnson lái, bị bắn ngay lập tức. Đạn xóe toạc kiếng gió đập ba lần vào áo giáp che ngực của Johnson. Viên thứ ba văng ra (ricochet) và trúng 1 lựu đạn khói trên áo cấp cứu của Johnson khiến lựu đạn nổ và khói vàng tràn ngập phòng lái. Máy bay bị trúng nhiều phát vào phần truyền động và lao về phía trái xuống đáy của thung lũng. Trung úy Larry Leonard, ngồi cùng máy bay, ngả xuống sau lưng Johnson, nghĩ rằng máy bay bị cháy. Khi máy bay đụng đất, Johnson đã cho máy bay cất cánh về Dak To để đáp khẩn cấp.
Chiếc thứ hai cũng ko hơn, vì chỉ bay được 1/4 dặm, đã buộc quay về do hư hộp số chánh; nên quay về Dak To. Đ.u. Gary Knight, chỉ huy các gunship, khi thấy 2 chiếc chở quân bị tai nạn, nghĩ rằng bãi đáp quá nguy hiểm, nên bay ra xa. Các chiếc chở quân còn lại, bay về Pleiku để tiếp xăng. Trong khi đó các chiếc chở quân khác đã đến nhằm cứu những kẻ ở bãi đáp.
Khoảng 0900 giờ, hai chiếc chở quân và chiếc Cobra, sau 1 phi vụ thả viễn thám, trở về Dak To. Khi nghe các chiếc chở quân bị nạn ở Dak Seang, chuẩn úy James Lake và chuẩn úy William MacDonald đáp xuống Dak To và đến BCH của SOG (phụ trách bốc và thả biệt kích) để đi giúp đỡ phi hành đoàn lâm nạn.
MacDonald từng học trung học với Barthelme, cùng vào quân đội, cùng học bay. Ngoài ra Ông cũng cùng phi hành đoàn với Summers trong các phi vụ thả toán biệt kích. BCH của SOG cho phép hai chiếc Cobra của Lake và MacDonald, cùng với 2 chiếc Cobra khác, cũng muốn đi tiếp cứu phi cơ lâm nạn. Lake và MacDonald cũng yêu cầu 1 toán Bright-Light, và BCH của SOG gọi Kontum. MacDonald và Lake rời Dak To đi Kontum để bốc 1 toán Bright Light Team lúc 1000 giờ. (Nói thêm: Trong chiến tranh bí mật tại VN, khi một Toán Hatchet Force, 1 Toán viễn thám hay 1 phi công bị bắn rơi gặp nguy hiểm, một toán Bright Light được thành lập và đưa vào khu vực mục tiêu để tìm kiếm, định vị, giúp đỡ và triệt xuất họ. Đây là công việc nguy hiểm nhất trong binh chủng SOG -- ND).
Tại Pleiku, đ.u. Knight và phi hành đoàn được lịnh ở lại căn cứ. Không Quân đã gửi phản lực cơ (fast movers) và máy bay tìm kiếm và cấp cứu (SAR) bao gồm trực thăng khổng lồ HH-3C tới khu vực.
Nhiều chiếc chở quân tiếp xăng và bay đi, cũng như tất cả các máy bay tới Dak To để tiếp xăng. Vào lúc này, mọi cố gắng cấp cứu, trừ các cố gắng của SAR của không quân, đều là tự nguyện của phi công. BCH đã quyết định rằng việc cấp cứu 1 phi hành đoàn lâm nạn ko thể thực hiện mà ko bị tổn thất về người và máy bay.
Chuẩn úy Hoffman trở lại vị trí và đang bay vòng quanh bãi đáp ở phía tây khi một chiếc C-123 lao vọt qua anh ta ở độ cao thấp trên đường đỉnh của núi. Cửa của chiếc này mở, và một nhân viên tải hàng đứng ở cửa. Khi chiếc này bay trên bãi đáp, Hoffman thấy nhân viên đạp 1 thùng lớn chứa 1 máy truyền tin, súng và đạn xuống bãi đáp, nhưng thùng đồ cần thiết này lại rơi xuống triền đồi xa bãi đáp và người Mỹ.
Một chiếc tải quân khác định đáp xuống bãi đáp, lần này bay rất thấp với 2 gunship bay bên hông. Bay được nửa đường, cả ba bị hỏa lực dữ dội khiến họ bỏ đi.
Ba chiếc OH-6 Loach xuất hiện bãi đáp hay LZ. Một chiếc bay rất thấp trên thung lũng và hướng về LZ. Máy bay bị trúng đạn và thiệt hại nặng.
Một chiếc chở quân đã tới với 1 trung sĩ thuộc MIKE Force mang theo máy. Họ định thả ông này xuống LZ để tái lập truyền tin. Khi cách LZ 1/4 dặm, vì máy bay trúng đạn, trung sĩ bị thương nặng, hai phi hành đoàn bị thương, nên bay trở lại Tại LZ, tình hình cũng ko kém gì các toán cấp cứu.
Summers chỉ còn vài lựu đạn và một M-16 với 4 băng đạn, và Bivens với M-60 từ chỗ ngồi của xạ thủ. Mỗi lần có máy bay ngang LZ, các người Mỹ đều vẩy tay, kể cả Barthelme. Gần 1200 giờ, Barthelme ko còn vẩy tay vì đã chết. Bắc quân liên tục bắn về vị trí của Bivens và Summers. Chúng thăm dò vài lần, đều bị đẩy lui. Vào lúc trưa, Summers ko còn lựu đạn và đạn cho M-16. Giờ họ chỉ bảo vệ bởi Bivens và khẩu M-60. Vị trí địch từ ba phía và cách họ chưa tới 20 mét và lính VNCH bỏ rơi họ.
Trừ những lúc chạm súng với toán cấp cứu, tình hình yên tỉnh ở đồi núi này. Sau vài lúc yên tỉnh, bắc quân lại bắn vào xác của Montana và máy truyền tin. Vài lần đạn làm văng đất cát giữa Summers và Miller, hay tập trung vào Berthelme.
Tại BCH của SOG tại Kontum. trung sĩ Dennis Neal, trưởng Toán Viễn thám (RT) Montana, và trung sĩ Michael Kuropas, trưởng Toán Viễn thám Vermont, đã tình nguyện để lập một toán toàn người Thượng để xâm nhập LZ này và cứu cấp người lâm nạn. Trong lúc thuyết trình, họ được biết LZ này rất "nóng" và bây giờ là BTL của 1 sđ CSBV, bao quanh bởi hầm hố vững chắc. Cả hai người này và lính Thượng quyết định chiến đấu, và chẳng bao lâu sau trưa họ lên máy bay của chuẩn úy MacDonald và hướng về Dak Seang.
Hợp đoàn gồm 2 chiếc này, đã tới vị trí vừa lúc 2 chiếc Phantom từ Pleiku bắn phá đồi núi chung quanh và 4 chiếc Skyraiders thả bom xăng-đặc.
Hai chiếc trực thăng khổng lồ HH-3C của phi đội 37 ARRS, từ Đà Nẳng đang có mặt và sẵn sàng xuống LZ. Chiếc chở quân có mặt nhiều giờ tại đây cảnh cáo chiếc HH-3C rằng tiếp cận LZ này rất nguy hiểm, nhưng 2 chiếc này coi thường. (Chiếc này trang bị ba đại liên M60, với thùng đạn 500 viên hay 650 viên - 1 khẩu ở phía trước, 1 khẩu bên hông và 1 khẩu ở đuôi -- ND)
Chiếc HH-3C có danh hiệu Jolly 27 đi đầu, chỉ huy bởi đ.u. Travis Scott. Copilot là thiếu tá Travis Wofford, cơ khí phi hành Jerold và nhân viên cấp cứu L. Davis. Chiếc này báo cáo bị bắn hướng 11 giờ khi cách lz 1/4 dặm, kế đó bị bắn hướng 2 giờ, và sau đó từ mọi phía. Họ báo cáo hư hệ thống thủy lực, và lao xuống sườn núi và bốc cháy. Chiếc có danh hiệu Jolly 29 đáp xuống để cứu phi hành đoàn của Jolly 27 nhưng cũng bị trúng đạn. Họ lấy xác của đ.u. Scott, và 3 người còn lại (đều bị phỏng). Hartzel sau này chết ở bv 71 vì vết thương. Họ trở về Pleiku nhưng máy bay ko thể sửa chữa.
Chuẩn úy MacDonald và chuẩn úy James Lake với toán Bright Team, bay vòng trên LZ ở độ cao để quan sát công việc của HH-3C. Một chiếc chỡ quân định đáp xuống. Mọi người đều mặt áo giáp và lót áo giáp dưới chỗ ngồi và ở chỗ phần trong suốt (bubble chin) dưới chỗ ngồi. Họ tới gần LZ nhưng phải bỏ cuộc vì động cơ bốc cháy. Họ đáp khẩn cấp xuống 1 rừng thưa ở đông nam của lz. Một chiếc khác đáp xuống cứu họ.
Liên lạc giữa các máy bay rất tệ. Ko ai nghĩ ra cách trị được hỏa lực địch để xuống LZ. Mây xám xuất hiện. Chẳng bao mọi ý định cấp cứu đều khó khăn do thời tiết xấu.
Tuy nhiên MacDonald quyết định thử thời vận. Copilot là chuẩn úy Tom Bennie. MacDonald đột ngột hạ thấp cao độ và hướng về mặt thung lũng. Theo sau họ là 1 chiếc Huey của c.u. Jim Lake và c.u. John Kenny. MacDonald bay rất thấp trên mặt thung lũng, tăng tốc theo sườn núi để tới LZ. Ngay lập tức, đạn bắn từ tứ hướng. Khi y tới LZ, đạn súng nhỏ và RPD tập trung bắn vào máy bay. Neal, Kuropas, và toàn toán người Thượng đều gục chết.
Khi máy bay rơi vào LZ, Summers, Miller, và Davis chạy tới tàu của MacDonald. Đằng sau họ 1 tiểu đội bắc quân rời khỏi bìa rừng, vừa bắn vừa đuổi theo họ. Phía bên kia, Bivens từ chiếc bị rơi, dùng M-60 bắn vào 1 tiểu đội khác của csbv cũng chạy nhanh về chiếc chở quân thứ hai bị rơi. Trên đường tới máy bay cấp cứu, ý nói của MacDonald, Summers bị trúng đạn 2 lần, 1 ở dưới lưng và 1 ở chân trái. Davies bị trúng nhiều phát trên đường tới tàu của MacDonald, và gục ngả bên trong tàu với đạn trúng cầm, tay và lưng.
Trong lúc đó Miller vô sự. ông giúp Davies lên máy bay, và trở lại xác của Barthelme, nắm tay trái của y và kéo xác y về máy bay. Miller đang kêu ai đó để giúp và Summers khởi động máy bay, nhưng bật ngửa về sau khi cơ khí phi hành tiếp tục bắn quân csbv đang tiến tới. Summers chụp 1 súng từ xác 1 lính Thượng và bắn vào bắc quân.
Đạn của địch xuyên qua kính buồng lái, trúng trần, sàn tàu và bản phi cụ. Tom Bernie trúng đạn ở 2 chân.
Khi MacDonalds đáp đất, ông còn 1100 cân xăng, nhưng 45 giây sau, ông chỉ còn 400 cân và đang cất cánh. Xăng đang phun ra từ 1 lổ to trong bình xăng, và hỏa lực địch khiến ông khó cất cánh. Ông cất cánh. Ông lập tức báo cáo Lake rằng ông ko thể điều khiển cánh quạt đuôi (tailrotor). Một quả b-40 ko nổ đã trúng vào phần đuôi của thân và khiến cánh quạt đuôi ngừng. Macdonald cố gắng lái máy bay rơi vào trại.
Trong khi đó, Bivens đang ngồi ở chỗ xạ thủ của máy bay rơi, bắn để cản đường bắc quân.
trong khi máy bay của Macdonalds, theo sau bởi Lake, bay ngang thung lũng để tới trại, các xạ thủ liên tục nổ súng. Davies nằm phía sau ghế trái ko thể di chuyển, trong khi Summers ở bên phải kế trung sĩ Dennis Neal ngồi sụp xuống (slump) dựa vào LƯng ghế phi công. Summers cố gắng cấp cứu Neal nhưng quá trễ. Ông chụp 1 khẩu súng và bắn xuống đất trong khi Macdonalds tới gần trại. Để đánh lừa địch, hai máy bay đến trại theo 2 hướng khác nhau. Lake thấy xác từ máy bay của Macdonald rơi xuống đất. Họ thấy rằng cách họ khoảng 100 m hàng trăm lính csbv.
Summers nhảy khỏi máy bay Macdonald và vấp ngả (stumble) giữa 2 máy bay và thấy bắc quân đang bắn họ. John Kemper, nhảy khỏi máy bay Lake và kéo Summers về máy bay Lake, và Summers vấp lần nữa trước khi lên máy bay. Kemper chạy đến máy bay Macdonald, mang Davies về máy bay Lake.
Quân csbv bắn vào máy bay Lake, đậu giữa chúng và trại. Trong khi phi hành đoàn đưa thương binh lên, ông thấy đất đá văng khắp nơi.


 

Pacific Stars and Stripes information
for CIDG

For date 700412


CIDG was a Vietnamese Army unit
Primary service involved, US Army
Kontum Province, II Corps, South Vietnam
Location, Dak Seang
Description: The following is an edited version of an article titled "Dak Seang View: Kaleidoscope of a Siege" by SP4 Jack Fuller. (Editor's Note: Stars & Stripes correspondent Spec. 4 Jack Fuller is the first American newsman to see the battle of Dak Seang. He flew over the besieged camp Friday. This is his report.) 
Tan Canh (S&S Vietnam Bureau) - The Dak Seang Valley Friday was a gash of desolation where the only things living were moving for cover. Just south of the Special Forces camp, besieged for 10 days, Vietnamese Mobile Strike Force battalions and entrenched North Vietnamese Army soldiers were fighting a pitched battle. From the air, the combat showed itself in puffs of smoke as the contestants traded mortar fire and in a burst of purple smoke signaling helicopters coming in for the wounded. This Pacific Stars and Stripes reporter flew over the valley at about 2,000 feet Friday with Col. Nguyen Ba Tin, commander of the 24th Special Tactical Zone who is running the battle, and Col. Phillip Day, his American senior advisor. During four days covering the desperate battle, Dak Seang Valley was to the reporter only a patchwork of images, pieced together from reports of pilots who flew over it and soldiers who were down in it. "Over there, see, the mortars are coming in. Those are the good guys," Day said, pointing down at a small wooded patch. The he pointed a short distance away to the northeast. "Those are the bad guys. There, we got him back," he said, pointing to a puff of smoke in a flat, lifeless plain near the southeast corner of the camp. "Those guys," Day said, "are so close to linking up with the camp now. But they're stopped by that mortar fire." Two battalions of Montagnards - the Mike Force soldiers - followed their American and Australians advisors on a bitter assault through the valley down toward the flattened camp. But from 2,000 feet, it was only puffs of smoke. "That looks like artillery from Tango (Fire Support Base Tango about four miles south at the other end of the valley)," Day said. "It's bigger than the mortars. "They've taken casualties down there, but they're still up to fighting strength and fighting." The prize for the Mike Forces was the barren patch just north of the battle - an area surrounded by NVA in trenches and bunkers, burned around the edges and littered with the tin roofs of fallen buildings. The tin shined in the sun. Nothing was moving but the thin, white and camouflage-green parachutes used to drop in supplies. As the officers reconnoitered the area, the command helicopter made three passes around the camp - past Tango to the south, along a river that could have been out of a travel brochure if it was just mist that hung over it instead of gunsmoke, and past besieged Dak Seang where hundreds of civilians and soldiers have huddled since the first of the month. Coming out of the valley and back toward Tan Canh, Day pointed southwest from the battle area. "There's Ben Het," he said. "That's where we fought this battle last year."
Comments: COL Day, Phillip; ; ;

The source for this information was 7004pss.avn supplied by Les Hines 02/02/2000