Tuesday, July 29, 2025

 DAK SEANG 15 APR 70


VÀO tuần lễ thứ 2 của tháng 4 1970, tin tình báo cho thấy quân csbv tập trung đông đảo quanh trại LLĐB Dak Seang, 32 km bắc của Dak To. Dak Seang nằm trong 1 thung lũng, với những đường đỉnh núi nằm 2 bên. Địch hoạt động liên tục quanh khu vực này. Một lực lượng csbv có thể cấp sđ lập các vị trí quanh trại vào 14/4, và cuộc tấn công vào trại sắp xảy ra.

Một vị trí nhiều ưu thế từng là 1 vị trí đóng quân đêm của sđ 4 bộ binh Mỹ, có tên là bãi đáp Orange. Bãi đáp là nơi trống trải duy nhất của vùng rừng núi rậm rạp này, và cũng là cao điểm khống chế thung lũng có trại LLĐB. Bãi đáp cũng là 1 đài quan sát  cho trận đánh sắp tới. Sài Gòn quyết định QL VNCH phải làm chủ bãi đáp này.

Một kế hoạch xử dụng đ.đ. 170 trực thăng tấn công của Mỹ, sẽ đổ TĐ 3/42 bộ binh VNCH. TĐ có 2 nhiệm vụ: 1/ Chiếm bãi đáp; 2/ Nếu Dak Seang bị bao vây, TĐ 3/42 sẽ xuống núi, đánh xuyên các vị trí địch đang bao quanh bãi đáp và hy vọng tiến về trại để yểm trợ lực lượng dồn trú.

Sáng ngày 15/4, lúc 0430 tại sân bay Kontum, các phi công, cơ khi phi hành và xạ thủ bận rộn kiểm tra tiền-phi, nạp đạn và rocket.

Khi mặt trời từ từ hiện lên khỏi núi, biến bầu trời từ màu đen chuyển qua đỏ và cam, và cuối cùng thành màu xanh dương, một hợp đoàn trực thăng chở quân, có biệt danh Bikini, chở đầy lính VNCH, cất cánh, và hướng về bãi đáp Orange. Lúc 0600 giờ, hợp đoàn Bikini, với các gunship hộ tống, vượt qua thung lũng xanh và sắp hàng để đổ quân. Bãi đáp có màu đất đỏ và xám tương phản lẫn nhau dưới buổi sáng sáng chói. Các phi công tập trung vào mục tiêu, còn xạ thủ kiểm tra súng đạn 1 lần nữa để bảo đảm họ sẵn sàng cho bất cứ thứ gì ở bên dưới. Chuẩn úy (WO) Alan Hoffman chỉ huy chiếc đi đầu vào bãi đáp mà ko gặp chống trả và đổ quân. Đ.u. Herndon Bivens, và trung sĩ Rosendo Montana ngồi ở của hông của trực thăng. Cả hai có nhiệm Dò đường của toán An ninh của TĐ 52 Không vận. Trước khi càn chạm đất, Bivens và Montana đã nhảy xuống, theo sau bởi 6 người lính của TĐ 3/42. Montana mang máy truyền tin và chạy khoảng 4.5 mét là tới đường đỉnh (crest) của đồi, và ngừng bên cạnh 1 hố bom lớn. Bivens chạy ngay sau Montana và cả hay bận rộn điều động các trực thăng đang chở TĐ VNCH này... lúc đó là 0615 giờ.

Khi cả hai tới vị trí của họ, chiếc thứ hai đang chở 8 lính VNCH, chuẩn bị đáp xuống. Trên chiếc này có chuẩn úy Albert Barthelme, 1 phi công nhiều kinh nghiệm, chuẩn úy Roger Miller, copilot, mới sang VN được 2 tuần và đây là phi vụ thứ hai của ông; chuyên viên bậc 4 Vincent Davies là xạ thủ, sắp mãn lính; và chuyên viên bậc 5 Donalds Summers, cơ khí viên, một cựu BĐQ, đã nộp đơn xin phục vụ nhiệm kỳ ba. Cũng như chiếc thứ nhất, chiếc này tới bãi đáp mà ko gặp trở ngại. Bivens ra dấu cho phi công, trong khi Montana bận rộn với máy móc.

Chuẩn úy Miller đang điều khiển trực thăng và khi còn cách bãi đáp chưa tới 50 feet hay 15.24 m thì bắc quân nổ súng từ mọi hướng.

Loạt đạn đầu đã hạ gục trung sĩ Montana tại nơi ông đang đứng. Ông quỵ xuống đầu gối, và cố gắng báo cáo rằng bị hỏa lực dữ dội từ trái và phải của bãi đáp; một loạt đạn thứ hai đã khiến ông gập người lại và chết trong tư thế của thai nhi (fetal position). 

Bivens phóng xuống hố bom, để tránh đạn. Dựa vào mép của hố bom, ông bắn vào bìa rừng. Ông đã hết đạn trong vài phút. Sáu người lính VNCH cùng máy bay với ông, chạy xuống sườn đồi để tới 1 hố bom cách đó khoảng 6 mét và tìm chỗ núp. Họ ko bắn trả lại CS.

Trên máy bay, cơ khí phi hành Summers liên tục bị trúng đạn ở vai phải và trái, đập mạnh vào vách ngăn bên phải, rồi bên trái. Ông cố gắng vói tới khẩu M-60 và bắt đầu bắn trả trong khi máy bay chúi đầu xuống bên trái, rồi bên phải, rồi đâm xuống đất, nằm nghiêng bên cạnh bìa rừng. Summers bị các xác lính VNCH đã chết trong loạt đạn đầu đè lên. Ở bên trái máy bay, xạ thủ Vincent Davis nổ súng bắn trả. Máy bay lắc lư (thrash) khiến ông này ngưng bắn và khi máy bay nằm nghiêng 1 bên, ông liền rời máy bay, nhảy xuống đất.

Chuẩn úy Hoffman vừa mới bình phi (level off) máy bay thì máy truyền tin cho biết tình hình xảy ra sau lưng ông. Ông xoay máy bay, trở về bãi đáp, đáp kế bên chiếc máy bay rơi. Ông thấy Barthelme đang cố gắng tháo dây an toàn của phi công, và Roger Miller; họ đều còn sống. Hỏa lực địch nhắm vào máy bay của ông, khiến ông phải rời bãi đáp.

Như phép lạ, Miller và Barthelme ko ai bị thương vì máy bay rơi. Barthelme chun qua phần trong suốt vở nát dưới chỗ ngồi của phi công, xem hình, để thoát khỏi máy bay, Roger Miller theo sau.


Trong khi đó, Bivens hết đạn, rời hố bom và chạy nhanh đến nơi máy bay rơi để giúp đỡ kẻ sống sót. Khi ông tới gần, Barthelme bị trúng đạn vài lần ở lưng và ngả xuống. Miller kéo Barthelme rời xa trực thăng tới sườn đồi dưới hố bom. Miller chọn 1 vị trí dọc theo sườn đồi giữa 1 hố bom nơi mà lính VNCH đang núp, và Barthelme. Davis chạy tới nơi Barthelme nằm và cả hai nằm mẹp xuống đất để tránh đạn.
Trong khi đó Bivens trèo lên nóc trực thăng và nhìn vào bên trong. Cơ khí viên Summers vừa trườn mình khỏi các xác chết, vừa khạc nhổ vừa chửi thề (cuss). Trước đó, ông bị các xác lính VNCH nằm vắt ngang ngực và mặt. Xác chết nằm vắt ngang mặt ông với ruột lòi ra và đầy máu, chảy xuống miệng ông. Bivens kéo Summers đến chỗ ngồi của xạ thủ trong lúc đạn tiếp tục nổ. Summers cố gắng bò tới bình điện ở mủi trực thăng thì phát hiện bình điện đã bị bắn nhiều lổ. Sau đó y trở lại chỗ ngồi của xạ thủ với Bivens.
Họ quyết định rằng vị trí phòng thủ tốt nhất là ở mặt sau của ngọn đồi mà Miller, Davies, và Barthelme nằm. Hố bom ở phía trên nơi mà Bivens núp chỉ cách 1 bunker của CS 20 mét và ít nhất là 1 đại liên với 3 xạ thủ. Summers và bivens duyệt xét tình hình. họ hoàn toàn bị bao vây bởi những bunker và lính của CSBV. Họ nhận thấy rằng mọi máy bay khi tiếp cận bãi đáp sẽ trúng đạn bắn từ 1 bunker mà bivens đã thấy và 1 bunker khác dọc theo đường đỉnh núi phía tây của bài đáp.
barthelme vẫn còn sống với những vết thương sau lưng; miller ko bị thương tích gì hết; davis bị thương nhưng còn sức. Summers bị trúng nhiều phát ở vai và hông. khẩu m-60 trên máy bay vẫn có thể dùng, nhưng súng của lính vnch, đang ở trên trực thăng, lớp thì văng ra ngoài (throw clear) hay bị đất cát bao phủ và tan nát khi máy bay rơi. sau lính vnch còn súng và nằm trong hố bom khoảng vài mét từ nơi miller nằm.

 

Pacific Stars and Stripes information
for CIDG

For date 700412


CIDG was a Vietnamese Army unit
Primary service involved, US Army
Kontum Province, II Corps, South Vietnam
Location, Dak Seang
Description: The following is an edited version of an article titled "Dak Seang View: Kaleidoscope of a Siege" by SP4 Jack Fuller. (Editor's Note: Stars & Stripes correspondent Spec. 4 Jack Fuller is the first American newsman to see the battle of Dak Seang. He flew over the besieged camp Friday. This is his report.) 
Tan Canh (S&S Vietnam Bureau) - The Dak Seang Valley Friday was a gash of desolation where the only things living were moving for cover. Just south of the Special Forces camp, besieged for 10 days, Vietnamese Mobile Strike Force battalions and entrenched North Vietnamese Army soldiers were fighting a pitched battle. From the air, the combat showed itself in puffs of smoke as the contestants traded mortar fire and in a burst of purple smoke signaling helicopters coming in for the wounded. This Pacific Stars and Stripes reporter flew over the valley at about 2,000 feet Friday with Col. Nguyen Ba Tin, commander of the 24th Special Tactical Zone who is running the battle, and Col. Phillip Day, his American senior advisor. During four days covering the desperate battle, Dak Seang Valley was to the reporter only a patchwork of images, pieced together from reports of pilots who flew over it and soldiers who were down in it. "Over there, see, the mortars are coming in. Those are the good guys," Day said, pointing down at a small wooded patch. The he pointed a short distance away to the northeast. "Those are the bad guys. There, we got him back," he said, pointing to a puff of smoke in a flat, lifeless plain near the southeast corner of the camp. "Those guys," Day said, "are so close to linking up with the camp now. But they're stopped by that mortar fire." Two battalions of Montagnards - the Mike Force soldiers - followed their American and Australians advisors on a bitter assault through the valley down toward the flattened camp. But from 2,000 feet, it was only puffs of smoke. "That looks like artillery from Tango (Fire Support Base Tango about four miles south at the other end of the valley)," Day said. "It's bigger than the mortars. "They've taken casualties down there, but they're still up to fighting strength and fighting." The prize for the Mike Forces was the barren patch just north of the battle - an area surrounded by NVA in trenches and bunkers, burned around the edges and littered with the tin roofs of fallen buildings. The tin shined in the sun. Nothing was moving but the thin, white and camouflage-green parachutes used to drop in supplies. As the officers reconnoitered the area, the command helicopter made three passes around the camp - past Tango to the south, along a river that could have been out of a travel brochure if it was just mist that hung over it instead of gunsmoke, and past besieged Dak Seang where hundreds of civilians and soldiers have huddled since the first of the month. Coming out of the valley and back toward Tan Canh, Day pointed southwest from the battle area. "There's Ben Het," he said. "That's where we fought this battle last year."
Comments: COL Day, Phillip; ; ;

The source for this information was 7004pss.avn supplied by Les Hines 02/02/2000