Tuesday, March 20, 2018

Thượng Đức : Trận đánh đầu tiên

Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản mới đây mà đã 30 năm. Đối với lịch sử, 30 năm không là gì cả, nhưng đối với một đời người, 30 năm là một quảng thời gia quan trọng, nó dài hơn một phần ba cuộc đời, nhất là khi đó là một phần ba cuối đời!

Cách đây 10 hay 15 năm về trước, một số chính khách miền Nam lưu vong vẫn còn nuôi mộng trở lại nắm một địa vị hay một chức vụ nào đó trên quê hương, trong đó có cả cựu Quốc Trưởng Nguyễn Khánh và cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng lịch sử chẳng chờ ai. Thay vì quay trở lại quê hương, họ đã lần lượt đi vào lòng đất!


Cho đến hôm nay, nhiều người vẫn đang còn cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi: Tại sao miền Nam đã mất quá nhanh như thế? Thời gian 30 năm cũng đủ để cho mọi xúc cảm lắng xuống và quay nhìn lại lịch sử một cách khách quan và chính xác hơn, từ đó rút ra những bài học cho các thế hệ đang tới, dù là những bài học rất đau đớn.



Để góp phần trả lời câu hỏi nói trên, trước hết chúng tôi xin trình bày qua về trận đánh THƯỜNG ĐỨC, một trận đánh mở màn cho cuộc xâm chiếm miền Nam của Hà Nội. Qua trận đánh này, chúng ta sẽ thấy các chiến sĩ VNCH ngoài mặt trận đã chiến đấu rất kiên cường và rất thiện chiến, sẵng sàng hy sinh tất cả cho tổ quốc, trong khi đó các cấp lãnh đạo lại quá yếu kém về cả quân sự lẫn chính trị, lại còn độc đoán và tham những, nên đã đưa miền Nam vào cảnh tang thương chưa từng có trong lịch sử với những hậu quả còn kéo dài đến ngày nay!

SƠ LƯỢC KẾ HOẠCH CỦA HÀ NỘI
Tháng 10 năm 1973, nghĩa là mới 9 tháng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, hội nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 21 họp tại Hà Nội đã đưa ra nghị quyết như sau: “Con đường thắng lợi của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, bất cứ trong tình hình nào cũng phải giữ vững đường lối chiến lược tiến công, phải nắm vững thời cơ và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng tiến lên.” Nghị quyết nầy mở màn cho những cuộc tấn công mới chiếm miền Nam sau Hiệp Định Paris.

Để có thể kết thúc chiến trường một cách nhanh chóng, kế hoạch của Cộng Quân là đánh thẳng vào đầu não của miền Nam ở Sài Gòn, bỏ qua các tỉnh miền Trung. Muốn vậy, phải đưa quân vào Phước Long và Bình Long. Muốn đưa quân vào hai tỉnh này, công việc đầu tiên mà Bắc Việt phải làm là hoàn thành con đường Đông Trường Sơn, khúc từ Đông Hà
 (Quảng Trị) đến Phước Long. Hà Nội cho biết nếu phải vận chuyển bằng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào, từ Nghệ Tĩnh vào đến Pleiku, quân đội Bắc Việt phải mất ít nhất 6 tháng. Trái lại, nếu vận chuyển bằng đường Đông Trường Sơn trên lãnh thổ miền Nam, chỉ mất có một tháng. Vì thế, Hà Nội phải cho làm con đường Đông Trường Sơn bằng mọi giá. Trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” xuất bản năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng đã viết:”Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công trình xây dựng con đường chiến lược Đông Trường Sơn bắt đầu từ năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975 được xúc tiến với nhịp độ hết sức khẩn trương nối liền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000 kilô mét...

”Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 kilô mét ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, vượt cả sông, suối sâu, núi cao, có ngọn hơn 1000 mét, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục ngàn xe các loại vào, ra trên đường...”

 
KHÁI LƯỢC VỀ ĐÔNG TRƯỜNG SƠN
Ngày xưa, sau khi chiếm Đông Dương, Pháp đã cho thiết lập một quốc lộ đi nép chân phía đông dãy Trường Sơn trên lãnh thổ Việt Nam, gọi là Quốc lộ 14. Quốc lộ này có tổng chiều dài là 1.380km và đi qua 10 tỉnh: Từ Nghệ An qua Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Kon Tum, Pleiku, Ban Mê Thuột và Bình Phước. Khi lập con đường này, Pháp nhắm các mục tiêu sau đây:

(1) Bảo vệ an ninh lãnh thổ,
(2) Hành quân thanh toán các tổ chức buôn lậu,
(3) Khai thác lâm sản
(4) Khai triển và xử dụng các sắc tộc thiểu số.

Trong chiến tranh Việt - Pháp từ 1945 đền 1954, con đường này bị bỏ phế vì Pháp không đủ khả năng bảo vệ. Sau Hiệp Định Genève 1954, khi vừa ổn định xong miền Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nghĩ ngay đến việc làm lại Quốc lộ 14 để bảo vệ lãnh thổ. Công việc này được khởi sự từ năm 1958 và giao cho Liên Đoàn 4 Công Binh phu trách. Liên đoàn này do Trung Tá Trần Văn Kha chỉ huy. Có lần Tổng Thống đã đích thân đến xem xét tại chỗ. Nhưng khi làm đoạn Kontum - Gia Vực, công việc cứ cù nhầy hoài, Trung Tá Kha bị cất chức. Chuyện xây dựng đường 14 chưa hoàn tất thì Tổng Thống Diệm đã bị Mỹ giết.


Khi Mỹ đổ quân vào miền Nam, quân đội Mỹ đã cho thiết lập các đồn bót trên con đường 14, từ Khe Sanh ở Quảng Trị đến Ban Mê Thuột, để ngăn chận sự di chuyển của Cộng quân. Vì không thể xử dụng con đường này, Cộng quân phải làm con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào để chuyển quân. Tiếc thay, sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam, các nhà lãnh đạo quân sự VNCH không nhận ra được tầm quan trọng của con đường 14 và cũng không có đủ phương tiện để bảo vệ, nên Cộng quân đã biến con đường này thành con đường chiến lược xâm chiếm miền Nam!

Đại khái, lộ trình con đường Đông Trường Sơn do Cộng quân làm lại như sau: Khởi đầu từ Khe Cát thuộc huyện Bố Trạch ở Quảng Bình, vượt sông Bến Hải phía trên nguồn đi qua chiến khu Ba Lòng ở Quảng Trị vào Thừa Thiên, qua A Lưới, A Shau rồi đi nép theo biên giới Việt - Lào phía sau đèo Hải Vân vào Quảng Nam, khi đến Khâm Đức thì vòng lên Ngọc Hồi thuộc Kontum. Đến đây, vì khúc đường 14 từ Kontum đến Ban Mê Thuột đang do quân đội VNCH trến giữ nên Cộng quân phải làm con đường thứ hai lấy tên là đường 14A đi sát biên giới Việt - Lào qua các tỉnh Kontum, Pleiku và Ban Mê Thuột. Tại đây, hai đường Trường Sơn Tây và Trường Sơn Đông gặp nhau rồi đổ xuống Lộc Ninh, Chơn Thành, Bình Long và Phước Thành.

Kể từ cuối năm 1973, các không ảnh chụp được cho thấy nhiều khúc đường 14 từ Thừa Thiên đến Ban Mê Thuột đang được Cộng quân sửa chửa hoặc chuyển quân. Cạnh con đường đó, có một hệ thống ống dẫn dầu chằng chịt. Biệt kích đã được thả xuống nhiều nơi để thám sát hoặc phá vỡ. Các phi cơ A.37 được gọi đến để oanh tạc những đoàn xe đang chạy trên đường 14 hoặc các toán nhân công đang làm đường, nhưng phá xong thì chỉ ít lâu sau, Cộng quân đã làm lại. Chỉ có B.52 mới có thể phá sập những hệ thống đường và ống dẫn dầu rộng lớn. Nhưng lúc đó B.52 không còn!

Tuy nhiên, trên con đường 14 có hai cái chốt do Quân lực VNCH trấn giữ, Cộng quân không thể đi qua được, đó là THƯỜNG ĐỨC ở phía tây Đà Nẵng và ĐỨC LẬP ở phía tây Ban Mê Thuột. Vậy muốn thông con đường Đông Trường Sơn, Cộng quân phải thanh toán THƯỜNG ĐỨC và ĐỨC LẬP bằng mọi giá. Điều đáng tiếc và cả Tổng Thống Thiệu lẫn các Tướng Lãnh VNCH đã không nhận ra được chiến lược và chiến thuật của địch, nên không có các biện pháp bảo vệ hữu hiệu.

KHÁI LƯỢC VỀ THƯỜNG ĐỨC
Thường Đức 
(có sách viết là Thượng Đức, nhưng không đúng) thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm ở phía tây Đà Nẵng, cách Đà Nẵng khoảng 60 cây số và cách biên giới Việt - Lào khoảng 50 cây số. Để giúp độc giả dễ nắm vững hơn những trận đánh được mô tả trong bài này, trước tiên chúng tôi xin mô tả qua về địa thế tỉnh Quảng Nam và vị trí quận Thường Đức trong tỉnh này.






Lãnh thổ miền Trung khi đi qua ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên thì thu nhỏ lại, có nơi bề ngang chỉ 50 cây số, nhưng khi qua khỏi đèo Hải Vân đi vào tỉnh Quảng Nam, lãnh thổ bung rộng ra. Vì thế, tỉnh Quảng Nam rất lớn, có diện tích đến 11.043 cây số vuông. Tuy nhiên, 72% lãnh thổ tỉnh này là núi rừng, trong đó có rất nhiều đỉnh núi rất cao như đỉnh Lam Heo 2.045m, đỉnh Tion 2.032m, v.v. Có nhiều khu rừng nguyên sinh chưa khai phá như rừng Phước Sơn. Chỉ khoảng 25% lãnh thổ là đồng bằng. Vì thế, việc bảo vệ Quảng Nam gặp rất nhiều khó khăn.

Năm 1962, để bảo vệ an ninh lãnh thổ và phát triển, chính phủ Ngộ Đình Diệm đã ban hành sắc lệnh chia tỉnh Quảng Nam ra thành hai tỉnh: tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam từ đèo Hải Vân đến sông Rù Rì và tỉnh Quảng Tín là phần đất còn lại.

* Quảng Tín gồm 6 quận: Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Hiệp Đức, Hậu Đức và Lý Tín.
* Quảng Nam được chia ra 9 quận: Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang và Hiếu Nhơn.

Thường Đức là một quận mới được thành lập năm 1962, tách ra khỏi quận Đức Dục cũ, nằm sâu vào trong núi. Từ quận Điện Bàn nằm trên Quốc lộ 1 có Liên tỉnh lộ 4 chạy nép theo sông Vu Gia dẫn vào Thường Đức dài khoảng 40 cây số, nhưng đường sá rất hiểm trở. Thường Đức nằm ở ngã tư Liên tỉnh lộ 4 và Quốc lộ 14. Sở dĩ chính phủ Ngô Đình Diệm cho thành lập quận này là để cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân di chuyển vào Nam. Vùng chung quanh đường 14 có bộ lạc Katu sinh sống.

Con đường 14, khi qua khỏi phía sau đèo Hải Văn thì gặp Hiên, người Pháp gọi là Prao, nằm cách Đà Nẵng khoảng 90 cây số, sau đó đi xuống thung lũng sông Vu Gia, nơi có bến Giằng nằm trên nhánh sông Cái và quốc lộ 14. Thung lũng này không rộng lắm. Tại đây có một đồn biên giới của Pháp ngày xưa và có một số làng Việt Nam sống bên ngoài thung lũng. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã dùng nơi đây làm quận lỵ Thường Đức.

Qua khỏi Thường Đức, đường 14 đi vào mật khu Hiệp Đức của Cộng quân, chạy dọc phía trên các quận Đức Dục, Tiên Phước, Hiệp Đức và Hậu Đức, vào đến Khâm Đức thuộc Phước Sơn rồi quẹo lên Kontum.


DỨT ĐIỂM THƯỜNG ĐỨC
Tỉnh Quảng Nam là vùng xôi đậu. Dựa trên tài liệu “Việtnam from Cease-Fire to Capitulation” 
(Từ Đình Chiến đến Đầu Hàng) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ do Đại Tá William E. Le Gro biên soạn, và dựa trên sự tường thuật của nhiều nhân chứng, chúng tôi xin tóm lược về trận Thường Đức như sau:Trong thời gian 1973 và 1974, phía Việt Nam Cộng Hòa có Sư Đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ tỉnh Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Tín. Sư đoàn này có ba trung đoàn cơ hữu là Trung Đoàn 2, Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57. Trung Đoàn 2 phụ trách khu vực Gò Nồi và quận Đức Dục. Trung Đoàn 56 chịu trách nhiệm về hai quận Quế Sơn và Thăng Bình. Trung Đoàn 57 là trung đoàn trừ bị.
Hai nơi hiểm yếu và chịu áp lực nặng nhất là Nông Sơn và Thường Đức, được giao cho Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân. Liên đoàn này có 3 tiểu đoàn là 77, 78 và 79. Tiểu Đoàn 78 đóng ở Nông Sơn và Tiểu Đoàn 79 đóng ở Thường Đức. Quận lỵ Thường Đức vốn do một tiểu đoàn Địa Phương Quân bảo vệ. Vào giữa tháng 6 năm 1974, khi được tin Cộng quân có thể tấn công Thường Đức, Tiểu Đoàn 79 mới được đưa từ Quảng Ngãi về trấn giữ vị trí này.

Phía Cộng quân có Sư đoàn 711 và Trung Đoàn 52 biệt lập. Sư đoàn 711 có các trung đoàn 31, 38 và 270. Ngoài ra, Cộng quân còn có Tiểu Đoàn 10 Đặc Công. Sư Đoàn 711 đặt bản doanh tại mật khu Hiệp Đức nằm khoảng giữa Nông Sơn và Hậu Đức thuộc tỉnh Quảng Tín, và khống chế toàn bộ con đường 14 trong lãnh thổ tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, vì kẹt đồn Thường Đức, Cộng quân không thể khai thông đường 14 được. Tháng 6 năm 1974, Hà Nội ra lệnh dứt điểm Thường Đức, trước là để khai thông con đường Đông Trường Sơn, sau là thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ.

Trong năm 1972, Sư Đoàn 711 đã chiếm quận Quế Sơn của tỉnh Quảng Nam và Tiên Phước của tỉnh Quảng Tín. Tháng 7 năm 1972, Sư Đoàn 3 VNCH và Biệt Động Quân đã chiếm lại hai quận này, sau đó mở cuộc hành quân Quang Trung 81 tiến từ Quế Sơn vào mật khu Hiệp Đức. Sư Đoàn 711 bị thiệt hại nặng, Trung Đoàn 270 của sư đoàn này phải bị giải thể. Đến năm 1974, Sư Đoàn 711 được đổi tên thành Sư Đoàn 2 và bắt đầu hoạt động trở lại với ba Trung Đoàn 1, 31 và 38.
 (Xin đừng lầm lẫn Sư Đoàn 2 này với Sư Đoàn 2 Sao Vàng đã bị B-52 tiêu diệt trong trận Kontum năm 1972 và sau đó phải giải thể).

Vào khoảng tháng 6 năm 1974, kẻ viết bài nầy có đi với một phái đoàn báo chí ra Đà Nẵng và được đưa lên Thường Đức bằng trực thăng để quan sát mặt trận. Chúng tôi được nghe thuyết trình về các hoạt động của Cộng quân chung quanh quận Thường Đức và cho biết Cộng quân sắp tấn công Thường Đức. Như vậy Quân Đoàn I đã nắm rất vững kế hoạch tấn công của địch và sau đó đã đưa Tiểu Đoàn 79 BĐQ về trấn giữ ở đây.

Tuy Thường Đức chỉ do Tiểu Đoàn 79 BĐQ và một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân trấn giữ, nhưng các Tướng của Cộng quân đã cho rằng “đánh Thường Đức còn khó hơn đánh Quảng Trị”, vì vị thế của Thường Đức rất hiểm trở. Vì thế, Bắc Việt phải huy động gần 3 sư đoàn để đánh Thường Đức: Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 304, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324B và Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308.

Ở đây chúng tôi cũng xin mở một dấu ngoặc: Sư Đoàn 308 là một sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt, đã từng gây kinh hoàng cho Sư Đoàn 3 VNCH trong Mùa Hè Đỏ Lữa ở Quảng Trị. Nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, Sư Đoàn 308 đã bị B-52 tiêu diệt, chỉ còn lại khoảng một trung đoàn, tập hợp là thành Trung Đoàn 36. Phải chăng trong trận này, Cộng quân muốn dùng cái tên Sư Đoàn 308 để uy hiếp tinh thần của Sư Đoàn 3 VNCH?

Sư Đoàn 2 CQ và Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308 có nhiệm vụ chận các đường tiếp viện. Trung Đoàn 29 thuộc Sư Đoàn 324B và Sư Đoàn 304, một sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt, mở cuộc tấn công thẳng vào Thường Đức. Mặt trận do Tướng Hoàng Đan, Quân Đoàn Phó Quân Đoàn 2 của Cộng Quân làm Tư Lệnh.

Trước khi đánh Thường Đức, ngày 18.7.1974 Cộng quân cho Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308 đánh chiếm Nông Sơn, nơi đang do Tiểu Đoàn 78 BĐQ trấn giữ. Cụm phòng thủ Nông Sơn “ Trung Phước nằm hai bên bờ sông Tỉnh Yên, cách quận lỵ Đại Lộc chỉ 16 cây số. Với sự tăng cường của 2 tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 2 CQ và Tiểu Đoàn 10 Đặc Công, vào trưa 18.7.1974, Cộng quân đã tràn ngập căn cứ Nông Sơn. Sư Đoàn 3 VNCH liền đưa Trung Đoàn 2, một pháo đội 155 ly, một pháo đội 175 ly và một chi đoàn của Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh đánh chiếm lại, nhưng không tái chiếm được và bị thiệt hại nặng. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 VNCH phải huy động Liên Đoàn 12 BĐQ (gồm ba tiểu đoàn 21, 37 và 39) vào thay Trung Đoàn 2 mới tái chiếm được.

Ngày 29.7.1974, Cộng Quân mở cuộc tấn công vào quận Đức Dục do Tiểu Đoàn 21 BĐQ trấn giữ và bắn pháo vào phi trường Đà Nẵng, đồng thời cho Trung Đoàn 29 tấn công vào Chi Khu Thường Đức do Địa Phương Quân trấn giữ. Thông tin với Chi Khu bị mất liên lạc. Từ Đồi 52 gần Đại Lộc, Cộng quân đã pháo kích rất chính xác vào các vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 79 BĐQ. Hai tiền đồn BĐQ ở phía tây bị mất liên lạc.

Sáng 30.7.1974, Chi Khu Phó Chi Khu Thường Đức bị thương do pháo kích, nhưng các cuộc tấn công của Cộng quân đều bị đẩy lui. Sau đó, phi cơ quan sát của Không Quân nhìn thấy một đoàn xe của Cộng quân đang di chuyển trên Liên tỉnh lộ 4 ở phía tây Thường Đức, liền gọi phi cơ đến oanh tạc, phá hủy được 3 chiến xa của Cộng quân và nhiều xe vận tải khác. Cũng trong ngày 30.7.1974, Biệt Động Quân đã bắt được một tù binh của Cộng quân và biết được lực lượng của Cộng quân đang mở cuộc tấn công là Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324B.

Ngày 31.7.1974, Cộng quân bắt đầu cho bộ đội tấn công vào Thường Đức. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 79 BĐQ gọi pháo binh bắn trọng pháo vào ngay Bộ Chĩ Huy của tiểu đoàn. Điều này chứng tỏ Công quân đã tràn ngập Bộ Chỉ Huy của tiểu đoàn. Được tin này, Tướng Nguyễn Duy Hinh quyết định cho Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 3 đang ở phía tây Đại Lộc tiến theo LTL 4 đến giải cứu Thường Đức, nhưng không tiến được. Tướng Hinh phải đưa đại bác 175 ly vào Hiếu Đức để bắn yểm trợ cho Thượng Đức, trong khi đó Không Quân đến oanh tạc vòng đai quanh Thượng Đức, gây tử thương cho 13 Cộng quân và 45 bị thương.

Tiểu đoàn 79 BĐQ có nhiều người bị thương nên đã yêu cầu cho trực thăng đến chuyển thương, nhưng Không Quân trả lời rằng chỉ khi nào diệt xong các ổ súng phòng không của Cộng quân quanh Thường Đức, trực thăng mới có thể hạ cánh được.

Khi thấy tình hình nguy ngập, Tướng Ngô Quang Trưởng đã ra lệnh cho một Chi Đội Thiết Giáp M-48 đang đóng ở Tân Mỹ, Thừa Thiên, di chuyển ngay vào Đà Nẵng để giải cứu Thường Đức. Ngày 1.8.1974, khi Chi Đội M-48 vừa đến Đà Nẵng, Tướng Hinh liền cho thiết lập một lực lượng đặc nhiệm gồm có Trung Đoàn 2 Bộ Binh và Thiết đoàn 11 Kỵ Binh đi tái chiếm Thường Đức, nhưng lực lượng này không tiến lên được.

Ngày 4.8.1954, Biệt Động Quân tìm thấy 53 xác Cộng quân bị máy bay oanh tạc chết ở những ngọn đồi phía tây nam Thường Đức.

Ngày 5.8.1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 bắt được một tù binh. Tù binh này khai thuộc Trung Đoàn 29 và cho biết trung đoàn này đang đóng giữa Thường Đức và Đồi 52. Tướng Hinh liền cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 57 tiến chiếm Đồi 52, nhưng khi còn cách đồi này khoảng 4 cây số thì phải dừng lại vì pháo của Cộng quân quá mạnh.

Trong khi đó, Trung đoàn 66 của Sư Đoàn 304 bắt đầu tấn công vào Thường Đức. Tiểu đoàn 79 BĐQ cho biết đạn dược và lương thực bắt đầu cạn. Máy bay đã đến thả đạn dược và lương thực xuống cho Tiểu Đoàn 79, nhưng không may tất cả đã rơi ngoài vòng rào, vì máy bay không dám bay thấp.

Ngày 6 và đêm 7.8.1974, Cộng quân pháo khoảng 1200 trái pháo vào căn cứ Thường Đức, sau đó cho bộ binh tràn vào. Lúc 8 giờ 30 sáng ngày 7.8.1974, Tiểu Đoàn 79 BĐQ thông báo không còn giữ căn cứ được, phải rút lui và cắt đứt liên lạc. Thường Đức hoàn toàn bị thất thủ.

LỰC LƯỢNG DÙ THAM CHIẾN
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, cuộc chiến Việt Nam tạm ngưng, nhưng hai sư đoàn tổng trừ bị là Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến vẫn còn được Tướng Ngô Quang Trưởng lưu giữ tại Quân khu I.

Ngày 7.8.1974, sau khi Thường Đức bị chiếm và áp lực của Cộng quân đè nặng ở phía tây Đà Nẵng, Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định đưa Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù từ Thừa Thiên vào Đà Nẵng để tái chiếm Thường Đức.

Ngày 8.8.1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm 3 tiểu đoàn trực thuộc đã được vận chuyển đến Đại Lộc ở phía đông Thường Đức. Ngày 11.8.1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm cho Liên Đoàn 15 BĐQ. Sau đó, Tướng Lê Quang Lưởng cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù vào đặt bản doanh gần bờ biển Non Nước, phía đông nam thành phố Đà Nẵng để chỉ huy.

Biết Quân Lực VNCH sẽ tìm cách chiến lại Thường Đức, Cộng quân cho Trung đoàn 29 chiếm giữ những ngọn đồi thấp ở phía nam của dãy núi núi cao chạy dọc theo sông Vu Gia và Liên tỉnh lộ 4, ngăn chận con đường gồ ghề và ngoẳn nghèo đi vào Thường Đức. Điểm cao nhất của dãy núi nầy là đỉnh 1235 cách Liên tỉnh lộ 4 khoảng 6 cây số về phía bắc. Đỉnh thứ hai là đỉnh 1062 nằm ở phía nam cách đỉnh 1235 khoảng 2 cây số. Cộng quân đã chiếm đỉnh 1062 để có thể kiểm soát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức. Cộng quân cũng cho các tiền sát viên điều chỉnh pháo binh bắn chính xác vào các đơn vị của VNCH ở Đại Lộc. Vì thế, nhiệm vụ đầu tiên của hai Lữ Đoàn Dù là phải chiếm đỉnh 1062 bằng mọi giá.

Trước hết, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức. Ngày 18.8.1974, khi ba Tiểu đoàn 1, 8, và 9 Nhảy Dù vừa tiến quân thì đụng đầu ngay với các đơn vị của Trung đoàn 29 ở phía đông đồi 52 gần xã Hà Nha. Sau một tháng đánh nhau, hai bên đều bị thiệt hại nặng. Cộng quân phải điều Trung đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 vào Thường Đức thay thế Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 để Trung Đoàn 66 phụ lực với Trung đoàn 29 chống lại các đơn vị Nhảy Dù.

Vì Cộng quân đã cho làm các hầm hố kiên cố quanh đỉnh 1062 bằng những thân cây rừng to lớn nên pháo binh và không quân của VNCH không thể phá vỡ được. Do đó, Lữ Đoàn Dù đã phải quyết định phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc địch phải chui ra khỏi các hầm trú ẩn rồi xin máy bay thả bom lửa Napalm đốt. Nhưng Lữ Đoàn Dù vừa chiếm được các vị trí quan trọng quanh đỉnh 1062 được ít lâu, Cộng quân đã dùng một lực lượng đông đảo hơn để chiếm lại. Hai bên bị tiêu hao rất nặng.

Vào đầu tháng 9/1974, Cộng quân cho thêm Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 đến trợ chiến với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 66. Nhưng vào chiều ngày 19.9.1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062.

Ngày 2.10.1974, Tiểu đoàn 2 và Thiểu Đoàn 9 Nhảy Dù mở cuộc lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà, khám phá ra khoảng 300 xác địch và bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Đoàn 304. Một tuần sau, Sư Đoàn 304 lại mở cuộc tấn công tái chiếm đỉnh 1062. Nhưng nhờ pháo binh và phi cơ yểm trợ, các đơn vị Dù vẫn giữ vững đồi 1062.

Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 304 của Cộng Quân, Lữ Đoàn 1 Dù gồm 4 tiểu đoàn đã bị tổn thất khoảng 500 chiến sĩ vừa chết vừa bị thương. Phía Cộng quân bị thiệt mất trên 1200 người và 14 người bị bắt làm tù binh.

Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung đoàn 24 của Sư Đoàn 304 đã dùng súng phóng hỏa đốt đồi 1062 khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi. Ngày 1.11.1974 Cộng quân lại chiếm giữ đồi 1062 một lần nữa.

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng liền ra lệnh cho Tướng Lê quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, phải lấy lại đồi 1062 với bất cứ giá nào. Ngày 8.11.1974, lực lượng Dù lại bắt đầu mở cuộc phản công và 3 ngày sau đã chiếm lại được đồi 1062,

Kể từ ngày 11.11.1974, Lực Lượng Dù đã ngự trị trên toàn ngọn đồi máu 1062 ở phía đông Thường Đức và thành lập tuyến phòng thủ trên các triền núi quanh đồi này. Công quân bị tiêu hao quá nhiều, không dám trở lại tấn công nữa. Tuy nhiên, Sư Đoàn 304 và Trung Đoàn 29 của Cộng quân đã thành lập một hệ thống phòng thủ vững chắc quanh Thường Đức để bảo vệ con đường 14, Quân Lực VNCH không thể tái chiếm Thường Đức được.

Vào cuối năm 1974, Lực Lượng Dù chỉ để lại trên đồi 1062 Tiểu Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 7, và đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm cách đồi 1062 khoảng 4 cây số về phía đông, để ngăn chận không cho Cộng quân tái chiếm đồi 1062.

KẾT QUẢ TRẬN CHIẾN THƯỜNG ĐỨC

Những trận đánh ác liệt quanh Thường Đức kéo dài từ ngày 18.7.1974 đến ngày 11.11.1974 đã đem lại những kết quả như sau:

Về nhân mạng: Theo sự ước tính của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, khoảng 2000 Cộng quân đã bị thiệt mạng và 5000 bị thương. Về phía VNCH, Tiểu Đoàn 79 BĐQ không còn nữa. Lực lược Nhảy Dũ cả chết lẫn bị thương gần đến 50%.

Về lãnh thổ: Lực Lượng Nhảy Dù đã chiếm lại được đồi 1062 ở phía đông Thường Đức, nhưng không tái chiếm được Thường Đức.

Năm 1965 cũng đã xẩy ra một trận đánh lớn ở đây. Cộng quân đã tập trung một lực lượng khá lớn để mở cuộc tấn công vào quận Thường Đức. Lực lượng này gồm có Mặt Trận 44 Quảng Đà, Trung Đoàn Q.82 và Nông Trường 2 Sao Vàng. Trận đánh diễn ra tại Ba Khe, Hà Nha và đồi Tétonon (1062). Trung Đoàn 51 Bộ Binh biệt lập của Việt Nam Cộng Hòa phải chiến đấu một cách anh dũng và vất vả mới có thể giữ được phần đất này. Sau trận đánh đó, hầu hết nhà cửa trong quận đều bị thiêu rụi, xác chết trôi đầy sông. Những trận đánh lớn như thế lại tiếp diễn vào tháng 1 năm 1972. Nhưng chưa lần nào Thường Đức bị mất hẵn vào tay Cộng quân như lần này.

KHÔNG TRI BỈ TRI KỶ
Ngày xưa, khi đến cai trị Đông Dương, người Pháp đã nhận ra ngay tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức trên đường 14, nên đã lập một đồn tại đó để kiểm soát. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã nhận ra tầm quan trọng của Thường Đức trên đường tiến quân của Bắc Việt, nên đã biến Thường Đức thành một quận và hình thành Chi Khu Thường Đức để trấn giữ. Mỹ can thiệp vào Đông Dương cũng đã đánh giá cao tầm quan trọng của Thường Đức, nên đã tìm cách khóa chặt chốt này, không cho Cộng quân di chuyển xuống miền Nam. Cộng quân phải xử dụng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vã.

Điều đáng tiếc là sau khi cuộc chiến được “Việt Nam hóa”, các nhà lãnh đạo quân sự của miền Nam đã không nhận ra được tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức, không thấy được chiến lược và chiến thuật của Cộng quân là khai thông đường Đông Trường Sơn để đưa quân xuống đánh thẳng vào Sài Gòn, nên không quan tâm đến Thường Đức.

Nếu các tướng lãnh VNCH nhận ra được tầm quan trọng của Thường Đức, đưa khoảng một Liên Đoàn Biệt Động Quân đến thiết lập những nút chặn quanh Thường Đức, Cộng quân khó có thể khai thông con đường Đông Trường Sơn được.

Tướng Ngô Quang Trưởng chẳng những không nhận ra được tầm quan trọng của việc cắt ngang con đường Đông Trường Sơn ở Thường Đức mà còn muốn mở thông con đường này cho Cộng quân chuyển xuống miền Nam để Vùng I của ông khỏi bị áp lực nặng!

 http://www.maplandia.com/vietnam/quang-nam-da-nang/dai-loc/thuong-duc/

Tân Sơn Hòa chuyển

Thường Đức: Trận đánh quyết định số phận của Miền Nam! Bài của Lữ Giang . 



cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam...”  
Hai ảnh trên lấy từ http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/T-Chien/ThuHung-NB-ThuongDuc_CuoiCung.pdf



Lính VN 2.jpg
Nói đến ngày 30.4.1975 và những ngày cuối cùng của Miến Nam Việt Nam mà không nói đến trận đánh Thường Đức là một thiếu sót rất lớn, vì đây là trận đánh quyến định số phận của Miền Nam Việt Nam.
Người Pháp, chính phủ Ngô Đình Diệm và người Mỹ đều thấy rất rõ rằng nếu không giũ được cái chốt Thường Đức ở phía tây Đà Nẵng, Cộng quân sẽ từ vùng rừng núi cao ở Thừa Thiên đổ xuống Quảng Nam theo con đường 14 do Pháp thành lập dọc theo dãy Trường Sơn, rồi tiến đánh Cao Nguyên Trung Phần và toàn Miền Nam, do đó họ đã thiết lập và duy trì những căn cứ rất vững chắc ở Thường Đức, không cho Cộng quân đi lọt qua. Lúc đó, muốn đi vào Cao Nguyên hay miền Nam, Cộng quân phải làm con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rồi đổ xuống vùng Tam Biên hay Kampuchia. Đây là con đường rất dài, hiểm trở và không thể đặt ống dẫn dầu… nên khó chuyển quân và tiếp liệu nhanh để đánh lớn được.
Nhưng sau khi Mỹ đi rồi, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật, không có tầm nhìn chiến lược nên coi thường cái chốt Thượng Đức. Các tài liệu được tiết lộ sau này còn cho thấy Tướng Ngô Quang Trưởng chẳng những không quyết tâm giữ Thường Đức mà còn muốn bỏ mất cái chốt này để Cộng quân có thể đưa lực lượng xuống miền Nam, làm nhẹ áp lực quân sự tại hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, nơi ông đang có trách nhiệm bảo vệ!

SƠ LƯỢC KẾ HOẠCH CỦA HÀ NỘI
Như chúng tôi đã trình bày nhiều lần, các tài liệu cho biết sau khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội đã lập ngay kế hoạch đánh chiếm Miền Nam, kế hoạch đó có thể được tóm lược như sau: Đưa quân vào Phước Long và Bình Long rồi đánh thẳng vào đầu não của miền Nam là Sài Gòn, bỏ qua các tỉnh miền Trung. Muốn đưa quân vào hai tỉnh này, Hà Nội phải cho khai thông con đường 14 từ Nghệ An đến Phước Long dài khoảng 1.380km. Hà Nội cho biết nếu phải vận chuyển bằng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào, từ Nghệ Tĩnh vào đến Pleiku, quân đội Miền Bắc phải mất ít nhất 6 tháng. Trái lại, nếu vận chuyển bằng đường 14, thường được gọi là đường Đông Trường Sơn, trên lãnh thổ Miền Nam, chỉ mất có một tháng. Trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” xuất bản năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng đã viết:
“Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công trình xây dựng con đường chiến lược Đông Trường Sơn bắt đầu từ năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975 được xúc tiến với nhịp độ hết sức khẩn trương nối liền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000 kilô mét...
“Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 kilô mét ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, vượt cả sông, suối sâu, núi cao, có ngọn hơn 1000 mét, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục ngàn xe các loại vào, ra trên đường...”
Muốn thực hiện kế hoạch này, công việc đầu tiên là phải phá bỏ cái chốt Thường Đức ở phía tây Đà Nẵng, sau đó là cái chốt Đức Lập ở phía tây Ban Mê Thuột.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA THƯỜNG ĐỨC
Khúc đường 14 từ Thừa Thiên vào Quảng Nam – Đà Nẵng rất hiểm trở, phải đi qua hai thung lũng và vực sâu thuộc A Lưới và A Shau (còn gọi là A Sao hay A Sầu) thuộc tỉnh Thừa Thiên, nằm kẹp giữa dãy Động Ngài ở phía đông với độ cao trung bình trên 1.000m và dãy A Bia ở phía tây cao gần 2.000m. Độ cao của hai thung lũng này cách mặt biển khoảng 800m.
Biên giới giữa Thừa Thiên và Quảng Nam - Đà Nẵng dài khoảng 112km tính từ biên giới Lào đến Biển Đông. Phần biên giới giáp với Quảng Nam dài 56,66km, chận ở giữa là hòn Hói cao 1.166m. Phần giáp với Đà Nẵng dài 55,82km có các đỉnh của dãy Bạch Mã ở phía nam quận Phú Lộc cao 1712m và gần Lăng Cô cao 1528m.
Muốn từ Thừa Thiên vào Quảng Nam - Đà Nẵng chỉ có hai con đường: Muốn đi vào Đà Nẵng phải đi theo quốc lộ 1 qua đèo Hãi Vân nằm sát biển. Con đường này đang do Quân Lực VNCH trấn giữ. Muốn xuống Quảng Nam Cộng quân phải đi từ thung lũng A Lưới, A Shau, đến A Đớt thì vòng qua lãnh thổ Lào khoảng 10km rồi quẹo vòng lại và vượt đèo A Yên trên Trường Sơn để vào A Tep (bản đồ Mỹ ghi là Ai Yin Young) thuộc tỉnh Quảng Nam. Qua khỏi A Tep là thung lũng Hiên (người Pháp gọi là Prao) và Giằng. Phía tây Hiên có núi cao đến 1644m. Hiên và Giằng cách nhau khoảng 40km. Nay khúc đường 14 này đã được Hà Nội sửa lại, cho chạy qua hai hầm A Roàng 1 và A Roàng 2 để chui qua Trường Sơn rổi xuống A Tep, không phải đi qua đất Lào như trước nữa. Ngoài hai con đường đó, không còn con đường nào khác.
Hiên và Giằng lúc đầu thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thời Pháp thuộc, khi làm con đường 14 đi sát chân dãy Trường Sơn, Pháp nhận thấy Hiên và Giằng là điểm chiến lược quan trọng để bảo vệ an ninh, nên đã thiết lập liên tỉnh lộ 4 dài khoảng 40km, nối quốc lộ 1, khúc Điện Bàn, với Giằng ở ngã ba quốc lộ 14 để khi hữu sự có thể điều quân một cách nhanh chóng. Năm 1937, Pháp đã lập Căn Cứ số 6 (Poste No 6) tại đây và làm thêm liên tỉnh lộ 13 dài khoảng 50km, vượt qua một con đèo quanh co khoảng 20 km giữa những cánh rừng nguyên sinh, nối liền Giằng với cửa khẩu Dak Ta Ooc nằm giữa biên giới Lào - Việt, ở độ cao 1.200m, để chế ngự cả vùng phía tây và tây bắc của Quảng Nam – Đà Nẵng.
Sau khi Hà Nội thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để đánh chiếm Miền Nam, ngày 31.7.1962, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ký Sắc Lệnh số 162-NV tách tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh là Quảng Nam và Quảng Tín để bảo vệ an ninh. Tỉnh Quảng Nam gồm 9 quận và tỉnh Quảng Tín 6 quận. Tại tỉnh Quảng Nam, chính phủ quan tâm đến vùng Hiên và Giằng thuộc quận Đại Lộc, nên đã tách hai vùng này ra khỏi quận Đại Lộc và thành lập một quận riêng gọi là quận Thường Đức (trong văn kiện chính thức là Thường Đức chứ không phải Thượng Đức). Quận lỵ và Chi Khu quận Thường Đức được đặt tại thôn Hà Tân, xã Đại Lãnh, nơi ngã ba sông Côn gặp sông Vu Gia, cạnh liên tỉnh lộ 4. Sở dĩ chính phủ Ngô Đình Diệm cho thành lập quận này là để cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân di chuyển vào Nam.
Không cần có sự đồng ý của chính phủ Phan Huy Quát, ngày 8.3.1965 Hoa Kỳ bắt đầu đổ 1.500 thủy quân lục chiến vào Đà Nẵng và ngày 7.5.1965 đưa thêm 3 tiểu đoàn nữa đến lập căn cứ Chu Lai. Quân đội Hoa Kỳ và Quân Lực VNCH quan tâm ngay đến việc củng cố căn cứ Thường Đức. Một hệ thống công sự liên hoàn đã được xây tại đây gồm 35 lô cốt lớn và hầm ngầm bằng bê tông cốt sắt hai tầng với hàng chục lô cốt tiền đồn và ụ súng nửa chìm nửa nổi ở chung quanh. Khi cuộc chiến xảy ra, mọi hoạt động đều có thể được vận hành ở dưới mặt đất.
Hoa Kỳ không phải chỉ thành lập những tiền đồn để chận Cộng quân ở Thường Đức, mà còn lập ở nhiều tiền đồn ở thung lũng A Shau, A Lưới trong tỉnh Thừa Thiên, nơi khúc đường 14 đổ xuống Hiên và Giằng. Trước đó, chính phủ Ngô Đình Diệm đã cho mở đường 12 từ Huế lên A- Lưới dài khoảng 40km. Quân lực Mỹ đã chiếm điểm cao 935 ở A Shau, có tên là đồi A Bia, và xây dựng căn cứ hoả lực Ripcord tại đây với 1 đại đội pháo 105mm và 1 đại đội cối 106,7mm. Hai tiểu đoàn 2/502 và 2/506 thuộc Sư đoàn Không vận 101 được đưa tới hợp với quân lực VNCH giữ các cứ điểm này. Hai phi trường quân sự đã được xây dựng, một ở A Lưới và một ở A Shau. Tại đồi 935, thường được người Mỹ gọi là “Hambuager Hill” (Đồi Thịt Băm), đã xảy ra một trận đánh gay cấn giữa quân đội Mỹ và Sư Đoàn 324B của Cộng Quân từ ngày 1 đến 23.7.1970. Cựu Ngoại trưởng Colin Powell của Mỹ, lúc đó là Đại úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 đóng tại A Shau, đã bị sập hầm chông tại đây. Sau khi rãi chất da cam làm trụi lá, B.52 cũng đã được điều động hằng chục lần đến rải thảm phá nát khu rừng hai bên đường 14 từ A Lưới đến Thường Đức.
Một vài nét về địa hình và lịch sử nói trên cũng đủ cho chúng ta thấy khúc đường 14 từ A Lưới, A Shau và cái chốt Thường Đức quan trọng như thế nào đối với chiến tranh Việt Nam. Nhưng sau Hiệp Định Paris, nhất là sau khi quân đội Mỹ rút đi, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Ngô Quang Trưởng không có tấm nhìn chiến lược, đã bỏ ngỏ con đường 14 từ Đồng Hà đến Thường Đức và coi thường cái chốt Thường Đức.

CHUẨN BỊ ĐÁNH THƯỜNG ĐỨC
Trong hai năm 1969 và 1970 Cộng quân đã hai lần tấn công Thượng Đức nhưng không kết quả, vì lúc đó lực lượng VNCH còn được Mỹ yểm trợ.
Vào tháng 6/1974, lúc đó kẻ viết bài nầy và một số ký giả đang ngồi uống cà phê ở Sài Gòn thì một tùy viên quân sự Mỹ đến và nói họ muốn đưa chúng tôi ra Đà Nẵng để quan sát một mặt trận quan trọng sắp xảy ra. Họ đưa chúng tôi lên máy bay đi Đà Nẵng rồi từ phi trường Đà Nẵng được trực thăng đưa lên Thường Đức. Tại một hầm chỉ huy, chúng tôi được ngồi nghe trình bày về các hoạt động của Cộng quân chung quanh căn cứ Thường Đức. Sau này chúng tôi mới biết đó là hầm của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 79. Tiếp theo, chúng tôi được trực thăng chở bay quanh Thường Đức một vòng để chỉ cho thấy những vùng Cộng quân đang làm đường và đặt ống dẫn dầu... Chúng tôi có hỏi tại sao không phá đi thì được trả lời rằng đã cho phá nhiều lần, nhưng phá xong chúng lại làm lại. Chỉ có B.52 mới phá hủy hết được, nhưng B.52 không còn. Thì ra tùy viên quân sự Mỹ đã dùng các ký giả để báo động cho Quân Đoàn 1 biết Cộng quân sắp đánh Thường Đức, nhưng Tướng Ngô Quang Tưởng hình như chẳng quan tâm gì.
Thượng Đức có địa hình rất hiểm trở, ba bề là núi cao, dốc đứng hay song bao bọc. Phía tây dựa vào dãy Trường Sơn với nhiều vách đá dựng đứng, phía nam và đông bắc được bao bọc bởi hợp lưu của sông Vu Gia và sông Côn. Mỹ đã xây sẵn các tiền đồn ở xa để bảo vệ và phát hiện Cộng quân từ xa.
Lực lượng phòng thủ Thường Đức được đóng trên hai ngọn đồi nằm kế cận với nhau như hình con số 8, bên lớn bên nhỏ, theo trục đông tây. Quận lỵ Thường Đức đóng ở đồi nhỏ phía tây do một các toán quân địa phương bảo vệ. Thiếu Tá Quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng mới 30 tuổi làm Quận Trưởng và Đại úy Vũ Trung Tín làm Phó quận. Tiểu đoàn 79 thuộc Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân đóng ở đồi lớn phía đông, sau lưng quận lỵ. Đây là một căn cứ do quân đội Mỹ thiết lập trước đây để làm nơi xuất phát của những đơn vị Nhảy Toán. Đến ngày 14.11.1970, sau khi Mỹ rút, căn cứ này được chuyển giao cho TĐ79/BĐQ. Vì là hậu cứ nên ít khi quân của tiểu đoàn này có mặt tại đây. Thỉnh thoảng mới thấy các đại đội của tiểu đoàn này về đây nghĩ dưỡng quân vài tuần sau những cuộc hành quân khắp Quân Khu 1. Tiểu đoàn thường chỉ để lại đây một trung đội với khoảng vài chục binh sĩ để quản trị hậu cứ.
Tiểu đoàn 79 BĐQ do Thiếu Tá Hà Văn Lầu 35 tuổi làm Tiểu Đoàn Trưởng, thuộc quyền điều khiển của Trung Tá Chương Thanh Tòng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 14 BĐQ. Khi nghe tin Cộng Quân sắp tấn công Thường Đức, cả 4 đại đội của Tiểu đoàn 79 được lệnh trở về hậu cứ. Nhưng Trung Tá Tòng quyết định giữ lại 50 người của Đại Đôi 1 để bảo vệ an ninh Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đang đóng tại Núi Đất, nên Đại Đôi 1 trở thành đại đội thiếu. Điều này chứng tỏ Tướng Ngô Quan Trưởng chẳng chủ ý gì đến việc bảo vệ Thường Đức.

TRẬN ĐÁNH THƯỜNG ĐỨC
Dựa trên tài liệu “Vietnam from Cease-Fire to Capitulation” (Từ Đình Chiến đến Đầu Hàng) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ do Đại Tá William E. Le Gro biên soạn, và dựa trên sự tường thuật của các nhân chứng của cả hai bên, chúng tôi xin tóm lược về trận đánh chiếm Thường Đức như sau:
Tài liệu của Cộng quân cho biết lực lượng tham chiến ở Thượng Đức chủ yếu là Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 9) do Thượng Tá Lê Công Phê làm Sư đoàn trưởng, được tăng cường bởi Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 324, Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn 219 Công binh, hai Đại đội Tên lửa A72 và B72 của Quân đoàn 2, 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương, một tiểu đoàn đặc công của Quân khu 5, sau đó được tăng cường thêm một đại đội bộ binh có xe tăng và hỏa lực pháo binh. Quân đoàn 2 Cộng quân đã tổ chức một bộ phận tiền phương đi cùng Sư đoàn 304 do Đại tá Hoàng Đan, Phó tư lệnh Quân đoàn phụ trách. Như vậy Đại Tá Hoàng Đan là người chỉ huy mặt trận.
Lực lượng phòng thủ của Quân Lực VNCH gồm có Tiểu đoàn 79 BĐQ, 1 đồn biên phòng, 1 đại đội bảo an, 17 trung đội dân vệ, 1 trung đội pháo binh 105mm, 1 trung đội cảnh sát dã chiến và 1 trung đội thám báo. Toàn bộ lực lượng khoảng 950 người do Thiếu tá Quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng chỉ huy.
Nhìn tương quan lực lượng chúng ta có thể thấy Thường Đức sẽ bị thua, nhưng vì các công sự ở đây được xây rất vững chắc và các binh sĩ quyết tâm chiến đấu nên việc đánh chiếm không dễ. Lực lượng trong hậu cứ của Tiểu đoàn 79 được phối trí như sau: Đại đội 2 đối phó ở hướng tây bắc, Đại đội 3 hướng đông bắc và Đại đội 4 hướng đông nam, nơi giáp lưng với Văn phòng Quận và là Chi khu Thường Đức. Trên ngọn đồi kế cận nhỏ hơn, về hướng tây, là nơi đóng quân của Đại đội 1.
Lúc 5 giờ sáng ngày 28.7.1974 Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội vào Thường Đức. Mặc dầu Cộng quân chuyển quân cấp sư đoàn rất rầm rộ, có cả chiến xa và xe vận tải, không có tin tình báo nào dự báo Cộng quân có thể tấn công Thường Đức vào ngày đó và cũng không có lệnh tăng cường phòng thủ Thường Đức.
Buổi tối trước ngày bị tấn công là ngày Trung đội 1 của Đại đội 1 đến phiên trực có nhiệm vụ đi ra nằm tiền đồn bên ngoài phạm vi phòng thủ, cách nơi Đại đội đóng khoảng 1km. Ở đây chỉ có năm ba cái hầm nổi được bao bọc chung quanh và trên đầu bằng những bao cát. Nhiệm vụ của tiền đồn là quan sát và báo cáo tình hình. Ngay từ cuộc pháo kích đầu tiên, trung đội này bị tấn công nặng, không rút lui được. Phải đợi dứt pháo mới rút dần về.
Sáng 30.7.1974, Đại úy Chi Khu Phó Thường Đức bị thương do pháo kích, nhưng các cuộc tấn công của Cộng quân đều bị đẩy lui. Sau đó, phi cơ quan sát của Không Quân nhìn thấy một đoàn xe của Cộng quân đang di chuyển trên liên tỉnh lộ 4 ở phía tây Thường Đức, liền gọi phi cơ đến oanh tạc, phá hủy được 3 chiến xa và nhiều xe vận tải khác.
Ngày 31.7.1974, Cộng quân bắt đầu cho bộ đội tấn công vào Thường Đức. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 79 gọi pháo binh bắn trọng pháo vào ngay Bộ Chĩ Huy của tiểu đoàn. Điều này chứng tỏ Cộng quân đã tràn ngập căn cứ của tiểu đoàn. Được tin này, Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lệnh Sư Đoàn 3, quyết định cho Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn này đang ở phía tây Đại Lộc tiến theo liên tỉnh lộ 4 đến giải cứu Thường Đức, nhưng không tiến được. Tướng Hinh phải đưa đại bác 175 ly vào Hiếu Đức để bắn yểm trợ cho Thượng Đức, trong khi đó Không Quân cho máy bay đến oanh tạc vòng đai quanh Thượng Đức. Cộng quân đã thất bại nặng trong đợt tấn công này. Chúng ta hãy nghe một đoạn trong bài “Trận Thượng Đức” của tác giả Trần Hoàng Tiến đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân:
“Ta bị thương vong nhiều mà hàng rào vào quận lỵ vẫn chưa mở hết được. Trung tướng Phạm Xuân Thệ, nguyên Tham mưu phó Trung đoàn 66 bồi hồi: “Khi mở cửa, đơn vị bị tổn thất khá nặng nề. Một số thương binh nằm ngay trước cửa mở, có anh em hy sinh, người nằm vắt trên hàng rào của địch. Càng đau xót, càng căm thù địch sâu sắc, quyết tâm chiếm bằng được mục tiêu, trả thù cho đồng đội”.
Sau đó, Cộng quân đã thay đổi chiến thuật bằng cách đưa pháo chống tăng loại 76,2 mm và cao xạ 37 mm lên đồi cao, bắn thẳng vào lỗ châu mai gióng như khi đánh Điện Biên Phủ. Để làm được việc này, Cộng quân đã huy động 300 dân và bộ đội đưa pháo lên điểm cao 500 mét. Đến nửa đêm 5.8.1974, lúc đầu, các khẩu đại pháo và hỏa tiễn đa nòng đã bắn vào căn cứ Tiểu đoàn 79 như mưa. Các binh sĩ trong căn cứ đã lui vào cố thủ trong hầm ngầm, lô cốt… Cộng quân liền ra lệnh cho các pháo trên đồi hạ tầm và bắn thẳng vào các lỗ châu mai. Ngay từ loạt đạn đầu, Thiếu tá Quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng đã bị trúng đạn và bị thương nặng. Chúng ta hãy nghe các chiến binh của Tiểu đoàn 79 kể lại:
“Từ trên cao độ, Cộng quân cho pháo bắn thẳng xối xả vào những hầm hố nào còn nhô ra trên mặt đất. Gồng mình hứng trận đòn thù. Lần này chúng tôi có cảm giác họ muốn chôn sống những ai còn lại. Họ muốn dùng hầm hố và giao thông hào làm mồ chôn chúng tôi.
“Dù có thành đồng cốt sắt cũng không làm sao có thể đứng vững trước sự tàn phá khủng khiếp này. Lần lượt, từng cái hầm bị sụp đổ. Từng đoạn giao thông hào bị san bằng. Một trái pháo nổ ngay trên bờ hầm của Trung Úy Tẩm, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, máu từ đầu ông chảy xuống che khuất một bên mắt...”
Tiểu đoàn 79 có nhiều người bị thương nên đã yêu cầu cho trực thăng đến chuyển thương, nhưng Không Quân trả lời rằng chỉ khi nào diệt xong các ổ súng phòng không của Cộng quân quanh Thường Đức, trực thăng mới có thể hạ cánh được.
Điều đáng ngạc nhiên là trong khi mặt trận đang diễn biến, Quân Đoàn I có một phi đoàn rất lớn ở Đà Nẵng, có những toán thám báo hoạt động rất xuất sắc..., nhưng khi Cộng quân xử dụng trên 300 dân làng và bộ đội kéo pháo lên núi quanh Thường Đức cao 500m để tấn công Tiểu Đoàn 79, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn không hay biết gì hết. Điều này chứng tỏ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 1 ít quan tâm đến trận Thường Đức. Khi thấy tình hình nguy ngập, Tướng Ngô Quang Trưởng mới đưa ra biện pháp đối phó, nhưng quá muộn và không hiệu quả: Ra lệnh cho một Chi Đội Thiết Giáp M-48 đang đóng ở Tân Mỹ, Thừa Thiên, di chuyển ngay vào Đà Nẵng để giải cứu Thường Đức. Ngày 1.8.1974, khi Chi Đội M-48 vừa đến Đà Nẵng, Tướng Hinh liền cho thiết lập một lực lượng đặc nhiệm gồm có Trung Đoàn 2 Bộ Binh và Thiết đoàn 11 Kỵ Binh đi tái chiếm Thường Đức, nhưng lực lượng này không tiến lên được.
Ngày 5.8.1974, Tướng Hinh liền cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 57 tiến chiếm Đồi 52, nhưng khi còn cách đồi này khoảng 4 cây số thì phải dừng lại vì pháo của Cộng quân quá mạnh. Trong khi đó, Trung đoàn 66 thuộc Sư Đoàn 304 của Cộng quân bắt đầu tấn công vào Thường Đức. Tiểu đoàn 79 cho biết đạn dược và lương thực bắt đầu cạn. Một chiếc A.37 đến thả xuống một gói đồ tiếp tế nhưng bị bay ra ngoài. Chiếc máy bay này quay trở lại thì bị bắn rơi.
Ngày 6 và đêm 7.8.1974, Cộng quân pháo khoảng 1200 trái pháo vào căn cứ Thường Đức, sau đó cho bộ đội tràn vào. Lúc 8 giờ 30 sáng ngày 7.8.1974, Tiểu Đoàn 79 thông báo không còn giữ căn cứ được, phải rút lui và cắt đứt liên lạc. Thường Đức hoàn toàn bị thất thủ. Thiếu tá Hà Văn Lầu và Phó quận Vũ Trung Tín bị bắt sống. Thiếu tá Quận Trưởng Nguyễn Quốc Hùng tự sát. Sau đó Đại úy Vũ Trung Tín cũng tự sát.
Một số binh sĩ của Tiểu Đoàn 79, Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Cảnh Sát, Cảnh Sát Dã Chiến, Nhảy Toán... đã chạy thoát được và di chuyển xuống làng, dân chúng thấy liền chạy theo. Đến bờ sông Côn thì không thể di chuyển được nữa. Hai chiếc ghe chở hai nhóm quân nhân qua sông trước làm đầu cầu. Một số nhỏ Cộng quân đang đuổi theo nên phải vừa đi vừa đánh, dân chúng và những người bị thương theo sau… Ba ngày sau mới đến được Hà Nha. Ở đây rất bình yên, gần như không biết đang có chuyện gì xảy ra. Trên đoạn đường từ Hà Nha về tới Đại Lộc, chẳng thấy một sự kiện nào chứng tỏ rằng đang có những toan tính tiếp viện hay giải vây Chi Khu Thường Đức.

CHỦ TƯƠNG CỦA TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG?
Sau khi chiếm được Thường Đức, Cộng quân khai thông đường 14, sửa chữa đường, làm cầu, đặt ống dẫn dầu, chuyển quân và vũ khí vào Cao Nguyên và miền Nam bằng xe. Theo con đường 14, từ Thường Đức đi qua mật khu Hiệp Đức, đến Khâm Đức (Phước Sơn) thì vòng lên Kontum, nhưng đến Ngọc Hồi ở phía bắc Kontun, Cộng quân phải dừng lại. Tại đây Quân Lực VNCH đang đóng trên quốc lộ 14 từ Ngọc Hồi đến Ban Mê Thuột. Cộng quân phải mở con đường khác ở trong rừng được gọi là đường 14B vào gần sát biên giới Lào để chuyển quân xuống Đức Lập ở phía tây Ban Mê Thuột. Lúc đó Cộng quân có thể chuyển quân qua Vùng I Chiến thuật từ Khe Sanh đến Khâm Đức như chỗ không người!
Như chúng tôi đã nói ở trước, Tướng Ngô Quang Trưởng chẳng những không nhận ra được tầm quan trọng của việc giữ chốt Thường Đức mà còn muốn mở thông con đường này cho Cộng quân chuyển xuống miền Nam để Vùng I của ông khỏi bị áp lực nặng!
Một phi công A-37 đã cho chúng tôi biết khi anh đang bay đi oanh kích trên vùng Thường Đức, anh thấy một đoàn xe của Cộng quân đang di chuyển trên đường 14, anh đã cho máy bay lao xuống bắn cháy, nhưng sau đó anh bị Tướng Trưởng ra lệnh phạt trọng cấm. Trong cuốn “Cảnh Sát hóa, quốc-sách yểu tử của Việt Nam Cộng Hòa” xuất bản 2002 (trang 243) và trong bài "Từ Phi Trường Đà-Nẵng ra sân bay Gia-Lâm" ông Lê Xuân Nhuận, Chánh Sở Cảnh Sát Khu I, cũng đã kể lại lời tiết lộ của Đại Tá Hoàng Mạnh Đáng, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 1 như sau:
“Ngồi ở phòng giấy của đại tá Đáng, chúng tôi có dịp nghe + thấy thêm được đôi điều. Tỷ như có lần, đầu năm 1975, nghe điện thoại xong, ông bảo bên kia chờ máy, để ông vào trình Trung Tướng. Ông qua phòng giấy Tướng Ngô Quang Trưởng, trình xong, về trả lời người bên kia:
- Trung tướng chỉ thị anh em Không Quân, khi thấy xe tăng, xe tải, bộ đội của chúng di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, dù ở trong tầm oanh kích của ta thì cũng đừng hành động gì, cứ để cho chúng tiếp tục chuyển quân vào Nam...”
Một vài nhà quân sự đã nhận định rằng Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy từ cấp Trung Đoàn trở xuống rất xuất sắc. Nhưng việc chỉ huy một Quân Đoàn đã vượt khỏi tầm nhìn và khả năng của ông.
Năm 1981 Hà Nội đổi quận Thường Đức thành huyện Giằng và thành lập thị trấn Thạnh Mỹ nằm dọc theo quốc lộ 14, cách Bến Giằng khoảng 10km. Quận lỵ Thường Đức cũ nay thuộc xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc. Năm 1999, Hà Nội biến vùng Hiên – Giằng thành 3 huyện: Hiên thành Đông Giang và Tây Giang, còn Giằng là Nam Giang. Thường Đức không còn nữa.
Ngày 5.4.2015
Lữ Giang

Ghi chú: Xin đón xem: Cuộc tái chiếm Thường Đức thất bại, Sư Đoàn Nhảy Dù bị tổn thất nặng.
 

Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 (17/3/1975) - Phạm Bá Hoa | Lam Sơn 719

ĐÀ LẠT VÀ
NHỮNG KỶ NIỆM
VỀ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA
Lê Đình Cai                                                                                                                                    
vobiquocgia_ldcai1.jpg - 38.74 Kb 
          
     Tháng 4/1968, sau khi đệ trình luận án Cao học Sử học (*) tại Đại học Văn Khoa Sài gòn cá nhân tôi chính thức được bổ nhiệm vào làm việc tại văn phòng đệ nhất Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện. Cũng vào đầu tháng 10 năm nầy, tôi được Viện Đại học Đà Lạt mời lên giảng dạy tại Phân khoa Sử học kể từ niên khóa 1968-1969. Cũng xin được ghi lại vào thời điểm đó (1968), trong khi các trường Đại học Luật khoa và Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài gòn đều đã mở các lớp tiến sĩ và đã cấp văn bằng Tiến Sĩ cho các sinh viên thuộc các ngành nầy, thì trường Đại học Văn khoa Sài gòn vẫn chưa mở được cấp tiến sĩ. Chúng tôi đã hòan tất chương trình Cao học từ 1968 nhưng mãi đến năm 1972 mới được ghi danh lớp tiến sĩ đầu tiên niên khóa 1972-1975 tại trường Đại học Văn khoa Sài gòn. Riêng vị đàn anh trong ngành của chúng tôi là GS Phạm Cao Dương, người lấy văn bằng Cao học sử đầu tiên tại Đại học Văn khoa Sài gòn đã phải ghi danh học Tiến sĩ tại Đại học Paris (Pháp).
     Vào khỏang giữa tháng 10/1968 tôi giã từ thủ đô Sài gòn, lên xứ hoa đào để khởi sự những ngày đầu trên bục giảng của trường Đại học Văn khoa Đà lạt. Cũng vào dịp nầy tại trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, khóa 22 đã phân ra thành khóa 22A và khóa 22B. Khóa 22B theo học chương trình 4 năm như các sinh viên trường Võ Bị Westpoint của Hoa kỳ vậy.
     Thiếu tướng Lâm Quang Thi vị chỉ huy trưởng của trường Võ Bị Quốc Gia vào thời đó đã có công rất lớn trong việc vận động để văn bằng tốt nghiệp VBQGVN được công nhận tương đương với Cử Nhân Khoa Học Nhân Văn và tương đương với Kỹ sư khoa học kỹ thuật. Tướng Thi đã phải tham gia nhiều cuộc họp với Hội đồng  liên viện Đại học Sài gòn, Huế và Cần thơ để trình bày chương trình học về văn hóa của trường theo hệ thống tín chỉ (credit  system). Người ủng hộ mạnh mẽ nhất trong việc công nhận văn bằng tương đương nầy cho sinh viên trường VBQGVN là Giáo sư Lê Thanh Minh Châu, Viện Trưởng Đại học Huế.
     Kết quả là văn bằng tốt nghiệp của các sinh viên trường VBQGVN (hệ 4 năm) kể từ khóa 22B đã được Bộ Giáo Dục công nhận là tương đương với văn bằng cử nhân và kỹ sư của các đại học quốc gia thuộc lĩnh vực nhân văn và kỹ thuật. Sinh viên Võ Bị QGVN khi tốt nghiệp đựơc công luận trong xã hội đánh giá là văn võ toàn tài.
     Để đáp ứng những điều kiện quy định của Bộ Giáo Dục, Trường Võ Bị QGVN (Đà lạt) đề nghị lên Bộ Quốc Phòng ra thông cáo tuyển dụng các giáo sư dân chính bổ sung vào thành phần giảng huấn đoàn thường trực (permanent teaching staff) cho sinh viên năm thứ tư thuộc khóa 22B khai giảng mùa văn hóa kể từ tháng 12 năm 1968.
     Cá nhân tôi có tên trong một Nhiệm Vụ Lệnh do Bộ Quốc Phòng ký vào giữa tháng 10/1968 để trở thành giáo sư của trường Võ Bị QGVN cùng với hai vị giáo sư dân sự khác là Bùi Đình Rị (Thạc sĩ Vật lý Nguyên tử) và Từ Võ Hào (Kỹ sư Điện lực, tốt nghiệp ở Canada).
Được lên dạy học tại Viện Đại học Đà lạt là điều hết sức vui sướng đối với tôi vì hồi đó khi tốt nghiệp Cao học Sử học tôi mới được 26 tuổi, nhưng phải nói được bổ nhiệm làm giáo sư tại trường Võ Bị QGVN, một trường Võ Bị lớn nhất Đông Nam Á vào thời bấy giờ, là một niềm hãnh diện lớn lao cho tuổi trẻ của tôi khi mới bước vào sự nghiệp đầu đời.
     Vì thế trong phần hồi ức nầy, tôi dành để kể lại những kỷ niệm không thể nào quên, liên hệ về ngôi trường Võ Bị thân yêu nầy.
     Tôi đáp máy bay từ Sài gòn xuống phi trường Liên Khương vào một buổi chiều mùa đông, mưa lất phất và trong cái lạnh tê cóng của vùng Cao nguyên Đà lạt. Tôi đưa mắt nhìn chung quanh núi đồi trùng điệp và những căn nhà sàn của người Thượng nhấp nhô bên vệ đường từ phi trướng về thành phố. Tất cả ẩn hiện trong làn mưa bụi, khiến tôi cảm thấy có một cái gì mất mát trong tâm tư khi đang từ một nơi náo nhiệt của thành đô, lạc bước vào một khung trời yên ắng, với sương mù và buốt giá quanh năm…Bây giờ, trên xứ lạ quê người, khi tóc đã hoa râm, ngồi đếm bóng thời gian chờ ngày trở về với cát bụi, lòng người đôi khi chùng xuống với những hồi ức xa xăm của một thời trai trẻ. Những buồn vui nhiều khi cuồn cuộn trở về… Nhớ nhớ quên quên… Ghi lại những gì trong miền ký ức xa xôi ấy để được tâm sự với người  thân, với bằng hữu, và cũng là một cách nào đó, cho mình được sống lại với những hoài bão không thành của một thời vang bóng…
                                                                             
vobiquocgia_ldcai2.jpg - 75.64 Kb
     Tôi bắt đầu cuộc sống mới tại ngôi nhà số 7 đường Phan Đình Phùng Đà lạt với một vài người bạn, vốn thân quen từ hồi còn học tại trường Nguyễn Hòang Quảng trị. Ngày hôm sau, tôi liên lạc với anh Bùi Đình Rị và anh Từ Võ Hào để cùng vào trình diện tại Văn Hóa Vụ trường Võ Bị.

     Trước mắt tôi, ngôi trường Võ Bị uy nghi, đồ sộ, tọa lạc trên một ngọn đồi cao (ngọn đồi mang số 1515), giữa núi Lapbé Sub và hồ Than thở, được xây cất kể từ 1960. Đây là nơi tụ hội của bao chàng trai khôi ngô tuấn tú, chọn nghiệp kiếm cung để thoả mộng sông hồ. Vào những năm giữa thập niên 1950, khi tôi đang theo học các lớp đệ Thất, đệ Lục… hình ảnh oai phong, lẫm liệt của các sinh viên Võ Bị gốc ở Quảng trị, được phép về thăm quê nhà, xuất hiện trong bộ lễ phục uy nghi màu trắng, cổ cao, có sọc xanh, tua vai vàng, với thanh gươm bên cạnh… trong các dip lễ  tại địa phưong đã gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn trẻ con của chúng tôi hồi đó. Lớn lên khi đỗ tú tài, tôi đã nộp đơn xin thi vào khóa 18 trường Võ Bị Đà lạt (cùng lúc với Lê Cung Vịnh, Lê Thí, bạn cùng lớp ở Nguyễn Hòang. Vịnh sau lên trung tá thiết giáp, nghe nói mất tích trong khi di tản ở Ban Mê Thuột; Lê Thi sau lên thiếu tá, nghe đâu đã qua Mỹ theo diện HO). Nhưng vào thời gian đó, anh ruột của tôi là Lê Đình Đàn lại vào học khóa 12 trường Sĩ quan Bộ Binh Thủ Đức nên ông thân sinh tôi khuyên tôi bỏ ý định nầy đi. Mộng ước trở thành SVSQ Võ Bị của tôi đành gác lại. Thế rồi, gần 8 năm sau tôi lại trở về ngôi trường nầy trong cương vị của một giáo sư Văn Hóa Vụ. Nghĩ lại, định mệnh của một đời người có những trùng phùng thật thú vị…
     Trở lại buổi trình diện với Thiếu Tướng Lâm Quang Thi, chỉ huy trưởng trường VBQGVN vào thời đó là kỷ niệm mà tôi không thể nào quên được. Ba anh em chúng tôi (Bùi Đình Rị, Từ Võ Hào, Lê Đình Cai) vào một buổi sáng trong tháng 10 năm 1968 đến trình diện Chỉ Huy Trưởng. Chúng tôi ăn mặc chỉnh tề, veston, cà vạt hẳn hoi, được đưa vào văn phòng của Thiếu Tướng. Riêng cá nhân tôi có mang theo hai bức thư, một của Nghị sĩ đệ I Phó Chủ Tịch Thượng Nghi Viện, Hoàng Xuân Tửu gởi gắm cho Thiếu Tướng Thi; một của Nghị sĩ Nguyễn Văn Ngải (sau là Bộ Trưởng Bộ Xây Dựng Nông Thôn) gởi gắm cho Đại Tá Nguyễn Vân, Văn Hóa Vụ Trưởng. Cả hai bức thư nầy tôi đều giữ lại để làm kỷ niệm.
     Khi vị sĩ quan tùy viên giới thiệu chúng tôi với Thiếu Tướng Lâm Quang Thi, chúng tôi thấy sắc mặt ông lạnh như tiền, với cái nhìn hết sức xa cách, ông lên tiếng “xin chào quý vị”. Rồi ông vẫn ngồi ở chiếc bàn có tấm biển khắc hai sao bạc và tên của ông, để bên cạnh một lá cờ đuôi nheo. Ông không đứng dậy để bắt tay chúng tôi. Ông cứ ngồi tại chỗ nói về một số điều liên quan đến kỷ luật của nhà trường, đến nhiệm vụ của các giáo sư văn hóa vụ… Tôi nhìn kỹ thấy ông có cái uy của một vị tướng chỉ huy. Chúng tôi, cả ba anh em, đứng im nghe ông chỉ thị khỏang gần 20 phút. Tự nhiên tôi đưa tay xin phát biểu: “Thưa Thiếu Tướng, xin Thiếu tướng cho chúng tôi ngồi xuống kẻo chúng tôi đứng lâu qúa rồi.” Khi đó Tướng Thi mới lên tiếng: “À, xin lỗi, mời qúy vị ngồi” và ông rời ghế qua ngồi cùng chúng tôi ở bàn salon tiếp khách
     Sau khi trình diện, chúng tôi trở lại khu Văn Hóa Vụ, bắt đầu nhận lãnh giáo trình để chuẩn bị giảng dạy.  
     Với phản ứng của mình vừa rồi với Tướng Thi, tôi nghĩ là chắc ông sẽ có ác cảm với tôi, Nhưng hồi ấy tôi còn trẻ, chưa lập gia đình nên trong lòng tôi nghĩ sao thì làm vậy, không lường đến hậu qủa.
     Sau vài tháng chuẩn bị, tôi chính thức giảng dạy môn quân sử học (military history) cho các khóa 22B, 23, 24, 25…
     Tôi nhớ lại thêm một kỷ niệm nữa… Vào một buổi sáng khỏang 10 giờ, một cuộc họp tòan thể giáo sư Văn Hóa Vụ được tổ chức tại hội trường với sự chủ tọa của Thiếu Tướng Lâm Quang Thi. Hồi đó giáo sư văn hóa vụ ngòai một số dân sự như chúng tôi ra, đa số là các giáo sư bị động viên rồi được biệt phái lên giảng dạy tại trường và họ phải mặc quân phục, theo kỷ luật quân đội như trong một quân trường. Còn chúng tôi vẫn mặc thường phục và chỉ có mặt ở trường khi có giờ dạy mà thôi.
     Tướng Lâm Quang Thi, sau khi trình bày một số vấn đề liên quan đến việc dạy dỗ sinh viên, ông nhìn qua mấy anh em dân sự và nói: “Tôi muốn kể từ tuần tới, các vị giáo sư dân sự nầy phải hớt tóc ngắn như các vị sĩ quan, chứ không thể để tóc dài chải tém như thế nầy được."
     Tôi cảm thấy đây là một mệnh lệnh không hữu lý nên xin phát biểu. “Thưa Thiếu Tướng, chúng tôi là các giáo sư dân sự, hiện đang dạy tại Đại học Đà lạt, được Bộ Quốc Phòng điều qua dạy văn hóa tại Trường Võ Bị nầy. Xin Thiếu Tướng cho phép chúng tôi được hớt tóc theo kiểu dân sự. Thiếu tướng nghĩ sao khi chúng tôi mặc veston, cà vạt mà lại hớt tóc qúa ngắn theo kiểu các sĩ quan thì coi sao được”. Nghe xong,Thiếu Tướng Thi im lặng… 
     Sau khi cuộc họp giải tán, Bùi Đình Rị đến nói với tôi; “Sao cậu liều vậy, ông Tướng sẽ đì cậu sói trán.” Những ngày sau đó tôi cũng lo lắng không biết rồi ông Tướng sẽ có biện pháp gì với mình đây? Với quyền uy sinh sát trong tay, vị Tứơng chỉ huy của ngôi trường nầy có thể đẩy đưa định mệnh của đời tôi vào ngõ tối… Tôi lo lắng chờ đợi. Nhiều lần tôi định mang bức thư của Nghị sĩ đệ I Phó Chủ Tịch Thượng Viện gởi gắm để trình lên ông. Nhưng mỗi lần như thế lương tâm tôi lại chống đối.
     Nhiều bạn giáo sư đang khoác áo sĩ quan trong Văn Hóa Vụ cũng nói với tôi là cậu liều quá, chống lại lệnh của vị tướng chỉ huy trưởng như vậy là sẽ lãnh đủ… Tôi chờ đợi… Một tuần, rồi hai, ba tuần… Không có gì xẩy ra cả. Tôi vẫn lên bục giảng và tiếp tục trách nhiệm giảng huấn của mình.
     Vào giữa năm 1971, tôi đổi về dạy tại trường Đại học Văn khoa Huế và tại đây trong một dịp đón tiếp Trung Tướng Lâm Quang Thi, bấy giờ là Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đòan I, đến thăm viếng Đại học Huế, chúng tôi lại được dịp găp nhau và Tướng Thi rất vui vẻ: “Lại gặp ông giáo sư ở đây nữa rồi…”
     Khi qua Hoa kỳ vào cuối năm 1994, tôi có dịp gặp lại Tướng Lâm Quang Thi nhiều lần trong các cuộc họp mặt gia đình Võ Bị Đà lạt tại San Jose . Và trong một dịp ra mắt sách năm ngoái tại Trung tâm Vivo về cuốn “Hell in An loc” của ông, tôi đã kể lại câu chuyện trên đây và hướng về ông Tướng, nguyên chi huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia, tôi phát biểu: “Thưa Trung Tướng, trong lòng tôi luôn giữ mãi niềm cảm phục đối với vị Tướng mà đã có lần trong đời mình làm việc dưới quyền. Lòng cao thượng và sự độ lượng của Trung Tướng mà tôi được cảm nghiệm, sống mãi trong tâm tư mình từ ngày ấy cho đến nay, dù biết bao đổi thay đi qua trong một đời người. Đằng sau khuôn mặt lạnh lùng của một vị Tướng với quyền uy sinh sát trong tay là một con người vị tha, đầy nhân bản. hình ảnh nầy của Tướng Lâm Quang Thi đã theo tôi từ tuổi thanh xuân cho đến bây giờ… ”
     Những ngày tháng ở Đà Lạt thật là tuyệt diệu. Thời khắc biểu hàng tuần của tôi vào những ngày thứ hai, tư, sáu là dạy tại Trường Võ Bị về môn quân sử học cho năm thứ 3 và 4  thuộc khóa 22B, khóa 23, 24.... Thứ ba và thứ năm, phụ trách giảng dạy môn "34 năm cầm quyền của Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725 )" cho sinh viên năm cuối ngành Cử Nhân Sử Học, và môn Phương Pháp Sử cho sinh viên năm thứ nhất. Tôi luôn luôn mặc veston, thắt cà vạt, khuôn mặt lúc nào cũng cố giữ nghiêm nghị vì nhiều sinh viên lúc đó lớn tuổi hơn tôi, (một số vị là linh mục, là đại đức, và có các vị đã là giáo sư của các trường trung học …), điều nầy khiến một số bạn bè thường đùa là tôi đã già trước tuổi.
     Mỗi buổi sáng, trường Võ Bị đều có xe búyt đưa rước các giáo sư và nhân viên hành chánh từ thành phố đến trường vào lúc 7:00 trước chợ Hòa Bình và trở lại thành phố khỏang 4:30 chiều. Đi xe búyt thì ấm áp vô cùng vì trời Đà lạt rất lạnh vào sáng sớm nhưng cũng có điều bất tiện là phải đúng giờ và phải đến chiều khi tan sở mới trở về. Trong khi chúng tôi, có những lúc chấm dứt giờ dạy rất sớm. Vì thế, sau đó tôi đã sử dụng xe Honda để đến trường, nhưng phải trùm đầu, nai nịt thật ấm, hai tay phải mang găng mới dám vượt đọan đường khá xa từ Phan Đình Phùng (đọan gần Bệnh Viện thành phố), vòng quanh bờ hồ Xuân Hương, vượt qua nhà ga Đà Lạt, qua hồ Than Thở, rồi mới tới khu đồi của trường Võ Bị… Lạnh ơi là lạnh, nhưng cảm giác vô cùng thú vị
     Tôi đã dạy học ở đây gần hết một niên khóa. Mùa hè năm 1969, tôi quyết định về Huế cưới vợ. Nhà tôi là một nữ sinh trường Đồng Khánh, tôi quen trước đó ba năm, và đang là sinh viên năm thứ nhất trường Đại Học Khoa Học Huế. Lễ cưới của chúng tôi được cử hành vào tháng 5 tại tư gia và buổi tiếp tân vào buổi chiều được tổ chức tại Câu Lạc Bộ Thể Thao Huế bên cạnh dòng Hương giang thơ mộng.
     Vài hôm sau, nhà tôi theo tôi lên Đà Lạt. Một kỷ niệm đáng nhớ, bạn bè chúng tôi đã tổ chức một bửa tiệc ra mắt cô dâu, hiền thê của tôi. Tham dự gồm quý bằng hữu, các sinh viên Sử học mà tôi đang dạy tại trường Văn Khoa, cùng sinh viên đại diện các khóa của trường Võ Bị Đà Lạt. Ấn tượng sâu sắc mà tôi  và nhà tôi không thể nào quên là khi phái đoàn đại diện của trường Võ Bị đến tham dự, do SVSQ Lê Viết Đắc khóa 22B hướng dẫn (anh Đắc hồi đó là Trung đoàn phó trung đòan SVSQ), trong bộ dạ phục màu rêu nhạt với gù vai alpha màu đỏ rất đẹp. Mọi người tham dự lúc đó đều tự động đứng lên vỗ tay chào đón nồng nhiệt khi các anh em  SVSQ bước vào phòng hội (một điều rất tình cờ là anh Đắc trước đây khi còn ở Huế là thầy dạy toán cho nhà tôi trong một lớp luyện thi). Chiều ngày hôm sau, tại quán cà phê Thủy Tạ trên bờ hồ Xuân Hương, các sinh viên ban Sử Học lại dành cho nhà tôi một buổi đón tiếp rất thân tình mà chúng tôi không thể nào quên dù đã hơn bốn mươi năm trôi qua kể từ ngày ấy.
     Có lần vào dịp cuối tuần, tôi dẫn nhà tôi vào thăm ngôi trường Võ Bị. Từ nhà khách ở ngay trước cổng trường, tôi chỉ cho nhà tôi ngọn núi cao nhất được gọi là đỉnh Lâm Viên đang ẩn hiện trong sương chiều mà tất cả khóa sinh Võ Bị đều phải chinh phục được trước khi làm lễ gắn alpha để thực thụ trở thành SVSQ của một trường Võ Bị danh tiếng nhất Đông Nam Á nầy.
     Cuối năm 1969, sinh viên sĩ quan khóa 22B làm lễ ra trường. Đó là khóa đầu tiên cho chuơng trình 4 năm để nhận lãnh văn bằng tốt nghiệp, được Hội Đồng Liên Viện Đại Học Quốc Gia công nhận tương đương với Cử Nhân Khoa Học Nhân Văn và văn bằng Kỹ Sư Tạo Tác. Ngày lễ tốt nghiệp chính thức là ngày 12 tháng 12 năm 1969. Đêm trước đó là lễ truy điệu những anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân… Không khí vô cùng trang nghiêm, uy nghi và hết sức cảm động. Lễ tốt nghiệp chính thức được tổ chức dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Vũ Đình Trường. Sau khi Quốc Kỳ và Quân Kỳ được rước qua lễ đài, cuộc diễn binh hùng tráng với những bước chân oai phong và lẫm liệt của các chàng trai Võ Bị trong bộ lễ phục màu trắng, giây biểu chương màu vàng, gù vai alpha và rua màu đỏ rực, đã khiến bao người tham dự hết sức xúc động và vô cùng hãnh diện. Những chàng trai nầy quả là niềm hy vọng của Tổ Quốc ngày mai. Họ là những cán bộ lãnh đạo tương lai của đất nước với kiến thức vững chải về quân sự, cùng với trình độ học vấn của bậc đại học. Khi Tổng Thống gắn cấp bậc Thiếu Úy cho sinh viên Nguyễn Đức Phống, anh đã nhận cung tên để bắn đi bốn phương trời tượng trưng cho chí nam nhi tang bồng hồ thỉ. Các SVSQ khóa 22B quỳ xuống để nhận lãnh cấp bậc Thiếu Úy và đứng lên để trở thành tân sĩ quan hiện dịch của QLVNCH.
     Ngồi trên lễ đài dành cho gíao sư Văn Hóa Vụ, nhà tôi và tôi chăm chú theo dõi diễn tiến buổi lễ với niềm cảm xúc dâng trào… (Sau này, khi nghe tin anh Nguyễn Đức Phống, sinh viên tốt nghiệp thủ khoa, đã tử trận  trong  khi tham dự trận đánh ở biên giới Việt Miên vào khỏang tháng 7 năm 1970, tôi hết sức bàng hòang và đau đớn, thương tiếc một cựu sinh viên, thông minh tài ba mà mệnh bạc…).
                                                                                                               
***
    
San Jose, những tháng ngày đi qua…                                                                                               
Lê Đình Ca               
(*)  Văn bằng Cao học nầy, hiện nay trong nước gọi là văn bằng Thạc sĩ.
(**) Giáo sư Lê Đình Cai là giảng sư dạy môn sử học tại Đại học Đà Lạt, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và Trường Đại Học Văn Khoa Huế (1968-1975). Hiện ông cũng là Giáo sư Sử học tại một số trường Đại học tại Hoa Kỳ (từ 1996 đến nay).
LTS: Nguyễn đức Phống, tốt nghiệp thủ khoa 22B là Trần Hưng Đạo 1963
hoadaodalat_20.jpg - 50.96 Kb
BẠN ĐANG THEO DÕI TRANG: VĂN  HỒI KÝ  ĐÀ LẠT VÀ NHỮNG KỶ NIỆM VỀ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA