Monday, November 17, 2025


NGUYỄN LONG CHIẾN - ĂN CỦA RỪNG RƯNG RƯNG NƯỚC MẮT.

                        



Xưa ở vùng thượng du, trung du, người ta sống nhờ đồng lúa, nhưng phần khác nhờ núi rừng, các phẩm vật quý như dầu (dầu rái trét ghe), cây (gỗ), mây, lá (làm nón).

Rừng mênh mông, bạt ngàn, cây cối sum suê, nhiều đỉnh núi cao, hằng hà cây như cổ thụ, hai ba người ôm không xuể.

Rừng núi đối với nhiều thế hệ cha ông trở thành một thế giới riêng, có những quy luật riêng. Khi làm dấu 1 cây nào ưng ý dự tính đẻo làm cột, kèo, người đi rừng chỉ lấy rựa, vạt vài dấu theo quy ước, rồi về nhà, và người sau nhỡ có thấy, họ cũng không đốn mất. Ở rừng, không ai được đi tiểu, đi tiêu xuống khe suối. Giống ông thủ tướng nói, đốn một cây rừng phải đốt một cây nhang. Xưa ở Quảng Nam, trước khi hạ những cây có bóng cả, người đi rừng cũng làm như thế, tạ đất, tạ trời, tạ rừng thiêng.

Người ngày càng nhiều, lòng tham ngày càng lớn, quản lý rừng có nơi còn tắc trách, những cây gỗ quý, có cây hàng trăm năm tuổi, đứt ruột rời rừng về xuôi, hóa thân thành ngai, thành "long sàng", thành cửa, thành cổng ở các nhà cự phú, kể cả các ghế ngồi, bàn làm việc, sáng ngời ngời trong công sở.


Văn minh cơ khí khiến những việc nặng nề như xẻ gỗ, hạ đốn cây, vận chuyển chúng từ rừng về xuôi không mấy khó khăn. Ông bà chúng tôi bỏ cả 1 ngày, có khi 2 ngày để hạ một cây to với chiếc rìu tay nhỏ bé. Và cần 1 tuần nhựt mới xẻ xong một lóng gỗ 1 khối thành ván, bằng loại cưa 2 người kéo tay, gọi là cưa đợi (đại). Những cây to trong núi ở vị trí kheo khư, khó tiếp cận, luôn còn lại, có thể mấy trăm năm, và núi có ngọn cao vút, nhiều dốc đứng,  hằng hà sa số cây như thế. Nay, chỉ cần một cái cưa máy, phá rừng nhanh như chớp, năm bảy năm là hoàn thành "công tác".

Hồi xưa (lại hồi xưa!) có nơi chính quyền Pháp, chính quyền ông Diệm, cho phép khai thác gỗ rừng bằng trâu kéo. Các cây lớn chặt đứt bằng rìu từng đoạn dài chừng 3 mét, trâu đực và  "phu rừng", "trai kéo" (giống trai cày) mang về bến sông, từ đó chuyển về làng xóm. Mỗi năm, có lẽ một đôi trâu kéo khai thác chừng 10, 15 cây như thế trong các tháng nắng ráo.

Rừng do vậy vẫn còn bạt ngàn cây cối, cho tới những năm "đổi mới" thập niên 1980, và rừng vẫn còn là nơi trú ẩn của nhiều sinh vật như nai, mang, gấu, heo rừng, kể cả voi và cọp còn thấy sau năm 1975 một thời gian.

Chỉ 30 năm rừng biến dạng hoàn toàn. Ngoại trừ một số rừng đầu nguồn còn giữ khá chặt chẽ, hầu hết rừng thiên nhiên biến thành rừng trồng: cây keo, cây tràm (quý vị để ý trong khu vực tìm kiếm nạn nhân bị đất lở, đất chúi vùi lấp, thấp thoáng loại cây này phía xa trong ảnh).

Đặc điểm rừng trồng cây "ngắn ngày" này (4,5 năm thu hoạch) là cắt tiệt, đốt sạch, trồng lứa cây khác liên tục. Dưới tán cây, người ta dọn sạch cỏ, không cho một bụi chồi dù rất bé mọc chen. Các con đường được ủi lượn theo chân đồi, chân núi, uốn éo như rắn bò để cho xe tải vào chở cây tràm khi thu hoạch.

Khác với rừng thiên nhiên, rừng trồng không có thảm thực vật như cỏ, bụi, dây leo bao phủ. Mưa dù to hay nhỏ cũng lùa bùn đất trộn nước xuống núi tống vào sông suối rất nhanh. Không ngạc nhiên khi quý vị thấy lớp bùn đỏ dày đặc, đọng lại nơi ngập lụt như trong ảnh. Ngày xưa, một lớp phù sa trộn mùn lá rục nát trên mặt đất nơi ngập lụt gọi là bùn non, một dạng phân bón màu mỡ của núi rừng ban tặng. Lớp bùn non quý báu cho người nông dân trồng lúa nay thay bằng lớp bùn đất núi chai sần, nghèo dinh dưỡng.

Nước còn nghèo nên phải tàn phá thiên nhiên để sống? Không phải. Bhutan đâu có giàu. Họ còn rất nhiều rừng nguyên sinh. Nhưng chắc chắn, nước còn nghèo nên không đủ sức, đủ tiền, để khôi phục lại rừng thiên nhiên. Con đường đi lại trên núi có tên đèo Kiền Kiền lại không có cây kiền kiền nhưng bạt ngàn cây tràm keo. Ai là người chủ bạt ngàn rừng keo? Không khó để có câu trả lời. Người nghèo chắc chắn là kẻ chặt tràm, vác tràm, trồng tràm thuê, chứ không thể làm ông chủ rừng tràm: họ ăn của rừng, rưng rưng nước mắt.

Rừng thiên nhiên biến thành rừng trồng không chỉ kẻ nghèo làm thuê của rừng rưng rưng nước mắt. Những người nghèo sống gần đồi núi có tràm, keo, một số bị chôn vùi trong đất chùi, đất lở; một số công nhân thủy điện Rào Trăng không bao giờ về lại với vợ con, cha mẹ. Những chiến sĩ đi cứu nạn trở thành người bị nạn ra đi vĩnh viễn. Có mưa là có lụt, có lũ: rừng thiên nhiên còm cõi, ốm o, đâu còn sức mà điều tiết dòng chảy của thiên nhiên?

Người không ăn của rừng cũng rưng rưng nước mắt. Kẻ ăn của rừng, nước mắt họ đâu có mà rưng rưng?

 

NGUYỄN LONG CHIẾN - LẠI CHUYỆN CHIẾC CẦU

Nhân chuyện chiếc cầu, tản mạn về lịch sử.

Ở đời, cái gì mất mát thì được chú ý nhiều hơn còn nguyên vẹn. Chẳng hạn, chiếc cầu Hà Tân quê tôi, Thường Đức, Quảng Nam. Cơn lũ bất ngờ mùa hạ từ đầu nguồn đổ  xuống, giật sập một vày cầu. Và may mắn là dầm cầu (hộp) lại còn nguyên vẹn. Chính quyền xã (mới) Thượng Đức đã cho xe trục vớt dầm cầu đặt lại vị trí cũ sau khi gia cố mố cầu. Khi có người tìm hiểu cầu xây lúc nào mà vật liệu bao năm tháng vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” thì chẳng có tư liệu nào hay vị trưởng lão nào nhớ chắc chắn thời gian cầu được xây.

Đối với quê tôi, chiếc cầu Hà Tân rất là quan trọng. Nó giúp cho sự đi lại dễ dàng của dân chúng sinh sống ở hai lưu vực sông chảy qua những vũng bồi màu mỡ. Chiếc cầu nối đôi bờ chia cách của con sông Kôn. (Khi làm bản đồ, nghe dân địa phương gọi sông con để phân biệt với sông cái, người Pháp bèn ghi thành sông Kôn, chứ không phải sông Côn, sông Con như nhiều người lầm tưởng).

Sau năm 1954, người ta qua lại con sông chỗ cầu bắc qua ngày nay bằng đò, đò bà Lại (còn gọi theo tên con là Hường). Vẫn còn dấu năm bảy chiếc trụ cầu bằng gỗ lim. Như vậy, để đi xe cam nhông lên đồn Hiên (huyện Đông Giang cũ) lính Pháp phải có cầu để đến đó. Và cầu Hà Tân bằng gỗ được làm từ thời Pháp thuộc, thời gian phải là trước 1945. Lý do suy đoán, năm 1945, lính Nhật đi xe nhà binh chở quân qua cầu này để lên đồn Hiên giải giáp quân Pháp đóng tại đây.

Có thể là chiếc cầu tạm bằng gỗ nên cấu trúc không bền bỉ như cầu sắt hay cầu bê tông. Thời gian xuất hiện và hư hỏng của chiếc cầu không có dấu ấn gì đối với những cư dân sống hai bên bờ sông, có lẽ, cầu chỉ dùng cho mục đích quân sự mà không phải dân sự; và rất ít xe như thế trước 1954 ở khu vực hẻo lánh này nên chiếc cầu gỗ chỉ làm tạm bợ, theo suy đoán của tôi.

Năm 1957 quận Thường Đức được thành lập gồm ba xã Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Ninh và một vùng rộng lớn thuộc huyện Hiên và Giằng (huyện Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang ngày nay). Hai huyện này thật ra bị “bỏ ngỏ” chẳng ai làm chủ. Thời Pháp có đồn Hiên, thời Mỹ có đồn An Điềm, hai căn cứ quân sự này phụ trách an ninh vùng rừng núi bạt ngàn, giáp giới với Lào.

Như vậy, với một đơn vị cấp quận thành lập thì việc xây cầu là cần thiết. Quốc lộ 14B thời Pháp do đó được củng cố. Lúc này xuất hiện cầu đúc Hà Tân và cầu sắt Lộc Ninh ( bắc qua sông Cái- sông Vu Gia chảy về Ái Nghĩa nhập với sông Thu Bồn, gọi là Giao Thủy, nay có cầu Giao Thủy). Thời điểm xây cầu Hà Tân chắc chắn là vào những năm trước 1958 vì năm 1959, tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý qua cầu này, từ Kon Tum, theo quốc lộ 14 B về Hội An (tỉnh lỵ Quảng Nam).

Người Việt chúng ta không có văn hóa bảo tồn. Chính vì vậy, lịch sử thường bị chắp vá theo ghi chép phi chính thống. Không có bộ phận lưu trữ quốc gia ngoại trừ của triều đình. Có quá nhiều thay đổi tầng lớp cai trị qua mỗi thời đại. Thời đại sau thường phá hủy những gì là “cơ  ngơi” của thời đại trước. Năm 1945, sự phá hủy “tàn tích phong kiến” như đình, chùa, miếu mạo, đền đài... là một ví dụ.

Quê tôi ở vùng heo hút sát với núi rừng không thoát khỏi thảm trạng chiến tranh. Chiến tranh tàn phá nhà cửa lẫn những kiến trúc tiền nhân, khi tổ tiên chúng tôi theo chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp. Lịch sử ngày nay nổi trội  là lịch sử chống Pháp, chống Mỹ tức lịch sử chiến tranh. Không có lịch sử xây dựng đất nước, quê hương, làng mạc. Những sắc phong của các vị vua triều Nguyễn lưu giữ ở những ngôi đình làng bị tiêu hủy trong thời gian “tiêu thổ kháng chiến”.  Lịch sử làng mạc do đó chỉ còn trong ký ức. Và ký ức sẽ đi theo những người chứng kiến lịch sử khi họ không còn sống.

Tôi chắc ít ai còn nhớ nhà thờ Trúc Hà (thật ra là Trước Hà) thuộc xã Thượng Đức (mới) xây dựng năm 1926, sau nhà thờ Ngọc Kinh (Lộc Vĩnh cũ) vài chục năm (bị đốt cháy bởi phong trào Cần Vương – bình Tây sát Tả). Chiếc cầu Trúc Hà xây cùng năm 1926 với một ngôi trường "sơ học" đầu tiên của vùng Lộc Thượng (có lẽ là thượng nguồn huyện Đại Lộc?). Sau đó, năm 1940, người Pháp lập trường Ecole de Đức Thượng một trường tiểu học đầu tiên vùng Thường Đức. Chiếc cầu Trúc Hà hiện vẫn còn nguyên cả dầm cầu đúc bị mìn giật sập trong chiến tranh. Chiếc cầu gãy nằm ẩn sâu dưới dòng khe cỏ cây bao phủ. Điều ngạc nhiên là không ai có thể đập nó ra để lấy sắt như những kiến trúc bê tông khác. Vì sắt Tây quá tốt?

Lịch sử chỉ còn trong ký ức và chỉ có trong ký ức. Đây là điều may mắn nhưng cũng là điều đáng buồn. Những người chứng kiến các sự kiện lịch sử của quê nhà tôi ngày một vắng bóng. Tôi ao ước chính quyền địa phương nên quan tâm về quá khứ của một vùng quê- Thượng Đức ngày nay- như đã quan tâm khôi phục chiếc cầu "quá khứ" vừa bị gãy.

Cũng ít ai nhớ vùng Lộc Thượng (Thường Đức- Thượng Đức) là căn cứ của Việt Minh nơi tướng Đàm Quang Trung từng cưỡi ngựa duyệt binh. Và cũng ít ai biết tại vùng này ông Phạm Văn Đồng đã từng đi qua đây để ra khu Tư (Huế). Cũng chẳng ai viết lịch sử vùng đất người Chiêm Thành từng sinh sống tại nơi này. Những ngôi mộ chứa những hạt mã não quý hiếm từng được dân đào lên đêm bán cho người dân tộc (Thượng) để đổi gạo ăn trong những năm đói khổ hợp tác xã.

Cần có một ghi chép lịch sử hình thành bên cạnh lịch sử chiến tranh. Đánh Pháp, đánh Mỹ chỉ là lát cắt của lịch sử. HÌnh thành và phát triển mới là lịch sử dài lâu của một vùng quê từng dẫy đầy máu lửa và ngút ngàn đau thương: Thường Đức.  Mong thay.