Showing posts with label đỗ cao trí. Show all posts
Showing posts with label đỗ cao trí. Show all posts

Thursday, August 18, 2022

 Tướng Đỗ Cao Trí, sau Tướng Trần Văn Đôn, là người biết nhận diện và trọng dụng tài ba quân sự xuất chúng của Tướng Hiếu. Khi Thiếu Tá Hiếu tốt nghiệp US Army Command and General Staff vào tháng 5 năm 1963, Tướng Trí bổ nhiệm Trung Tá Hiếu vào chức Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 1 Bộ Binh, rồi Tư Lệnh của Sư Đoàn này khi ông được cử thay thế Tướng Lê Văn Nghiêm trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I. Chính trong tư cách Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Trung Tá Hiếu đã chỉ huy toán quân của Sư Đoàn 1 đến vây hãm dinh thự Cậu Cẩn và vào gặp riêng Cậu Cẩn. Tướng Hiếu đã thành công trong việc thuyết phục ông ra lệnh cho đơn vị phòng vệ dinh thự buông súng đầu hàng mà không phải tốn phí một viên đạn nào. Sau cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963, Đại Tá Hiếu được Tướng Trí đưa về Đà Nẵng làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I; rồi khi Tướng Trí và Tướng Khánh hoán chuyển Quân Đoàn I và II với nhau, Đại Tá Hiếu theo Tướng Trí lên Pleiku giữ chức Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II. Ngày 10/9/1964, Tướng Trí bổ nhiệm Đại Tá Hiếu Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, nhưng rồi ông bị Tướng Khánh cách chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, vì bị nghi dính líu vào vụ chính biến do Tướng Dương Văn Đức cầm đầu xảy ra vài ngày sau đó, 15/9/1964. Chỉ trong vòng 5 tuần lễ sau, ngày 24/10/1964, Đại Tá Hiếu được Tướng Nguyễn Hữu Có, người thay Tướng Trí trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, đưa trở lại chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II. Không đầy một năm sau, ngày 20/6/1965, Tướng Vĩnh Lộc thay Tướng Có, và Đại Tá Hiếu tiếp tục giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II cho đến khi được Tướng Vĩnh Lộc bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 thay Tướng Nguyễn Thanh Sằng ngày 23/6/1966.

Ba năm sau, ngày 14/8/1969, Tướng Hiếu được Tướng Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, triệu về nắm Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trong ba Tư Lệnh Sư Đoàn 5, 18 và 25 thuộc Quân Đoàn III, theo nhận xét của Đại Tá Nguyễn Khuyến, Chánh Sở An Ninh Quân Đội Quân Đoàn III, Tướng Trí "tỏ vẻ trọng dụng Tướng Hiếu nhất". Tướng Trí đã đặc biệt nhờ vào tài chỉ huy của Tướng Hiếu với Sư Đoàn 5 để cày nát chiến khu Dương Minh Châu và mật khu Hố Bò, khiến cho các đơn vị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trung Ương Cục Miền Nam không còn chốn nương thân phải bỏ chạy qua ẩn nấu bên lãnh thổ Cam Bốt. Đầu năm 1971, khi Tổng Thống Thiệu muốn cử Tướng Trí thay Tướng Hoàng Xuân Lãm để cứu vãn tình trạng lún bùn bi đát của Hành Quân Lam Sơn 719, Tướng Trí muốn Tướng Hiếu thay mình trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III, nhưng ông Thiệu không chịu và khi Tướng Trí thình lình bị tử nạn trực thăng vào tháng 2/1971, ông Thiệu cử Tướng Nguyễn Văn Minh thay Tướng Trí.

Ai cũng biết Tướng Trí là một tướng giỏi; nhưng chỉ có ít người, trong số đó có Tướng Trí, biết Tướng Hiếu cũng là một tướng giỏi. Sau đây xin chứng minh điều đó qua một số chiến công do Tướng Hiếu đã thực hiện.

Hành Quân Đỗ Xá


 


General Nguyen Van Hieu, Hành Quân Đỗ Xá


 


Tướng Trí đã ủy thác cho Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, điều nghiên và thi hành Hành Quân Quyết Thắng 202 đánh thẳng vào mật khu bất khả xâm phạm Đỗ Xá của Việt Cộng, nằm sâu trong dãy núi Trường Sơn tại giáp giới ba tỉnh Kontum, Quảng Ngãi và Quảng Tín, từ 27 tháng 4 đến 27 tháng 5 năm 1964.

Tham dự cuộc hành quân này gồm có các đơn vị của Trung Đoàn 50 thuộc Sư Đoàn 25 dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Phan Trọng Trinh, bốn tiểu đoàn Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Sơn Thương và một tiểu đoàn Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Ngô Quang Trưởng.

Các toán quân được trực thăng vận tới hai địa điểm đổ bộ do ba phi đội trực thăng yểm trợ: phi đội HMM-364 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, phi đội 117 và phi đội 119 thuộc Phi Đoàn 52 Không Lực Lục Quân Hoa Kỳ.

Cộng Quân tấn công mãnh liệt các phi vụ đổ bộ trong hai ngày đầu, sau đó chúng lủi chốn tránh né đụng độ. Tuy vậy, Hành Quân Đỗ Xá đạt được thành quả sau đây: phá hủy hệ thống truyền tin của bộ chỉ huy Việt Cộng gồm năm trạm phát thanh, một trạm dùng để liên lạc với Bắc Việt, và bốn trạm dùng để liên lạc với các đơn vị Việt Cộng hoạt động tại các tỉnh lỵ; địch tổn thất 62 chết, 17 bị bắt, hai súng phòng không 52 ly, một súng liên thanh 30 ly, 69 súng cá nhân, và một số lượng lớn mìn và lựu đạn, các dụng cụ công binh, chất nổ, thuốc men và tài liệu; phá hủy 185 căn nhà, 17 tấn lương thực và 292 mẫu mùa màng.

Hành Quân Thần Phong


Map of Than Phong Operation Battle


 


Năm 1965, Cộng Quân tấn công ồ ạt khắp vùng Cao Nguyên thuộc Quân Khu II. Vào đầu tháng 7 năm 1965, ba trung đoàn BV (32, 33, và 66) đã hoàn toàn cô lập hóa vùng Cao Nguyên. Các đơn vị bạn không còn xử dụng được các Quốc Lộ 1, 11, 14, 19 và 21, và mọi tiếp tế cho vùng Cao Nguyên chỉ có thể thực hiện qua đường hàng không.

Ngày 8 tháng 7 năm 1965, Tướng Vĩnh Lộc ủy thác cho Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, điều nghiên kế hoạch khai thông Quốc Lộ 19.


Trái ngược với thông lệ khi hành quân khai lộ là tập trung một lực lượng quân lính to lớn để tuần tự dẹp các ổ phục kích và nút chận của địch quân dọc trên quốc lộ, Đại Tá Hiếu đã nghĩ ra kế cấm cản địch quân thiết lập các ổ phục kích và nút chận bằng cách dùng chiến thuật dương đông kích tây. Từ ngày N-6 đến N+2, Đại Tá Hiếu cho Sư Đoàn 22 và Thiết Vận 3 đánh thốc từ Qui Nhơn xuống Tuy Hòa trên Quốc Lộ 1; cho Chiến Đoàn 2 Dù cùng Địa Phương Quân và Nhóm Dân Sự Chiến Đấu tấn công tái chiếm Quận Lệ Thanh; cho Chiến Đoàn Alpha TQLC và Trung Đoàn 42 đánh từ Pleiku lên Bắc Dak Sut trên Quốc Lộ 14; và cho Tiểu Đoàn Công Binh Chiến Đấu đánh từ Phú Bổn đến Tuy Hòa để sửa chữa Liên Tỉnh Lộ 7.


 


Map of Than Phong Operation Battle


 


Sau khi gây hoang mang cho địch quân với đồng loạt các cuộc hành quân qui mô đó, Đại Tá Hiếu "dồn ép Việt Cộng từ ba hướng với các cuộc tiến quân phát xuất từ Pleiku và Qui Nhơn và một bủa vây thẳng góc từ bắc An Khê tung xuống. Những động tác này được thi hành bởi một chiến đoàn của tiểu khu Pleiku phát xuất từ Pleiku, hai chiến đoàn của Sư Đoàn 22 Bộ Binh phát xuất từ Qui Nhơn, và một chiến đoàn của hai tiểu đoàn Dù được trực thăng vận vào mạn bắc An Khê và tấn công xuống hướng nam với Chiến Đoàn Alpha của Lữ Đoàn TQLC thực hiện việc kết nối," đồng thời "đặt để một lực lượng trừ bị lớn mạnh gồm ba tiểu đoàn (một biệt động quân, một thủy quân lục chiến, và một dù) và hai đơn vị thiết giáp tại các địa điểm chiến thuật: Pleiku, Suối Đồi, An Khê và Đèo Mang." Nhờ vậy, các đoàn xe vận tải có hộ tống có thể di chuyển ngày đêm trên Quốc Lộ 19 trong 5 ngày từ N+3 đến N+7, "gầy dựng được một tồn trữ tiên khởi tiếp tế lên tới 5,365 tấn tại Pleiku". Tiếp đó các đơn vị hành quân rút về các căn cứ trong hai ngày N+8 và N+9.

Kết quả của Hành Quân Thần Phong là “các đoàn xe được hộ tống tạo một sinh khí mới trên Vùng Cao Nguyên. Vật giá thực phẩm và hành hóa thuyên giảm từ 25 đến 30 phần trăm, đồng thời dân chúng hồi phục cảm nghiệm an ninh, tin tưởng và hy vọng. Các học sinh tại Pleiku tình nguyện giúp quân lính gỡ hàng xuống, và dân chúng trước đây di tản nay trở về làng xã.”

Trận Đánh Pleime


 


Map of Pleimer Ia Drang Valley Operation Battle


 


Sau khi thất bại đánh chiếm trại Lực Lượng Đặc Biệt Đức Cơ tháng 8/1965, vào tháng 10/1965 Tướng Võ Nguyên Giáp phát động Chiến Dịch Đông Xuân nhằm cắt Nam Việt Nam làm đôi, từ Pleiku thuộc vùng cao nguyên xuống đến Qui Nhơn thuộc vùng duyên hải. Kế hoạch của Tướng mặt trận VC Chu Huy Mân như sau: 1. Trung Đoàn 33 BV vây hãm tiền đồn Pleime để nhử Quân Đoàn 2 đem viện binh từ Pleiku kéo xuống; 2. Trung Đoàn 32 BV nằm phục kích đón chờ quân viện binh (một con mồi ngon khi không được yểm trợ bởi hỏa lực của các căn cứ pháo binh đặt gần bên); 3. sau khi triệt hạ viện binh, Trung Đoàn 32 BV trở đầu tiếp sức Trung Đoàn 33 BV thanh toán trại Pleime; 4. đồng thời một khi tuyến phòng thủ của tỉnh Pleiku bị suy yếu vì phải đưa quân tiếp cứu trại Pleime, Trung Đoàn 66 BV sẽ khởi sự tấn kích cầm chừng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, chờ cho Trung Đoàn 32 và 33 BV thanh toán xong trại Pleime lên tiếp sức tấn chiếm tỉnh Pleiku.

Để hóa giải chiêu độc địa của Tướng Chu Huy Mân, Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II bàn định kế hoạch với Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ như sau: 1. Quân Đoàn II làm bộ mắc mưu địch phái một đơn vị Biệt Kích hỗn hợp Mỹ Việt tới trại Pleime trước để tiếp sức với quân đồn trú bảo vệ trại; 2. gửi một Chiến Đoàn từ Pleiku xuống tiếp cứu trại Pleime; 3. Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ sẽ gửi một Lữ Đoàn thay thế số quân đi tiếp ứng bảo vệ tỉnh Pleiku; 4. đồng thời Sư Đoàn 1 Không Kỵ sẽ trực thăng vận nhiều pháo đội rải rác tại các vị trí gần địa điểm phục kích dùng thế "tiền pháo hậu xe" yểm trợ cho Chiến Đoàn tiếp cứu khi hữu sự.

Nhờ vậy mà Trung Đoàn 66 BV bị vô hiệu hóa nằm bất động ở rặng núi Chu Prong, Trung Đoàn 33 BV bị đánh tan tành ở điểm phục kích, và Trung Đoàn 32 BV phải bỏ vây hãm căn cứ Pleime và tiu nghỉu tháo lui vào rừng rậm.

Hành Quân Đại Bàng 800

Tháng 6 năm 1966, Tướng Vĩnh Lộc bổ nhiệm Đại Tá Hiếu làm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Đầu tháng 2 năm 1967, Đại Tá Hiếu phát động Hành Quân Đại Bàng 800. Trước đó ròng rã ba ngày, các đơn vị của Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Hoa Kỳ, ráo riết truy lùng địch quân, nhưng thất bại không phát hiện được một mống du kích quân nào. Thay vì đi lùng kiếm địch, Đại Tá Hiếu khôn khéo hơn xoay qua kế dụ địch, bằng cách phái một trung đoàn trừ vào vùng Phù Mỹ đóng quân qua đêm, biết chắc là các điệp viên địch quân trà trộn trong dân chúng sẽ báo cáo quân số yếu kém của đơn vị bạn. Trong khi đó, Đại Tá Hiếu ếm sẵn một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và một thiết đoàn kỵ binh cách địa điểm đóng quân 10 cây số, ngoài mọi tầm quan sát của địch. Thế là địch tưởng bở ngỡ là có một con mồi ngon, tung ra một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 3 Sao Vàng BV, định xơi tái trung đoàn trừ vào lúc 2 giờ sáng. Được báo động, Đại Tá Hiếu ra lệnh cho đơn vị trừ bị phóng tới cắt đường tháo lui của địch và đồng thời hợp lực với quân trú phòng tạo thế gọng kìm làm thịt địch quân. Kết quả là sau ba tiếng đồng hồ giao tranh, địch quân bỏ lại hơn 300 xác chết và vô số súng ống ngổn ngang trên bãi chiến trường.

Hành Quân Vượt Biên Snoul


Map Of Snoul Operation Battle


 


Tháng 8 năm 1969, Tướng Hiếu được Tướng Trí giao cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Cuối năm 1970, Tướng Hiếu bàn định với Tướng Trí phải dụ địch bằng cách đặt một trung đoàn ở Snoul sâu trong lãnh thổ Căm Bốt, phía bắc Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Bắc Quân có 3 Sư Đoàn (5, 7 và 9) hoạt động quanh vùng đó. Quân Đoàn III sẵn sàng dốc toàn bộ 3 Sư Đoàn 5, 18 và 25 nếu Cộng Quân dám tung quân vào trận chiến một, hai hay cả ba sư đoàn. Rủi ro thay, Tướng Trí bị tử nạn trực thăng cuối tháng 2 năm 1971, và Tướng Minh, người thay thế Tướng Trí, không chịu thi hành đến cùng kế hoạch dụ địch vào phút chót, khi Chiến Đoàn 8 thành công dụ địch bu quanh Snoul với hai Sư Đoàn 5 và 7 BV. Quân lính phòng thủ của Chiến Đoàn 8, khi không thấy viện binh tới mà cũng không có B-52 đến yểm trợ, sắp phải toan phất cờ trắng đầu hàng. Tuy nhiên, Tướng Hiếu đã trở tay kịp để rút quân an toàn về tới Lộc Ninh. Cuộc lui binh được thực hiện cách trật tự qua ba giai đoạn: (1) ngày 29/5/1971, Tiểu Đoàn 1/8 phá vỡ vòng vây rút từ tiền đồn nằm ở phía bắc Snoul về chợ Snoul, nơi đóng quân của Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 8; (2) ngày 30/5/1971, Chiến Đoàn 8 dùng Tiểu Đoàn 1/8 làm mũi giáo chọc thủng vòng vây địch, kéo theo các Tiểu Đoàn 2/8, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, Thiết Đoàn 1 với Tiểu Đoàn 2/7 bọc hậu, rút từ Snoul tới địa điểm đóng quân của Tiểu Đoàn 3/8, cách Snoul 3 cây số trên Quốc Lộ 13; (3) ngày 31/5/1971, Tiểu Đoàn 3/8 thay Tiểu Đoàn 1/8 làm mũi giáo chọc thủng vòng vây, kéo theo sau Tiểu Đoàn 3/9, Tiểu Đoàn 2/7, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, Thiết Đoàn 1 với Tiểu Đoàn 1/8 bọc hậu, rút từ địa điểm 3 cây số cách biên giới Việt Miên này về tới Lộc Ninh.

Trong chiến sử QLVNCH, thử hỏi mấy ai thực hiện được một cuộc lui binh tài tình như vậy?

Hành Quân Svay Riêng


Năm 1974, trong tư cách Tư Lệnh Phó Hành Quân Quân Đoàn III, phụ tá cho Tướng Phạm Quốc Thuần, Tướng Hiếu đã áp dụng chiến thuật Blitzkrieg (chiến trận thần tốc) để giải tỏa áp lực của Sư Đoàn 5 BV từ tỉnh lỵ Svay Riêng trong vùng Mỏ Vẹt thuộc lãnh thổ Cam Bốt nhằm vào căn cứ Đức Huệ. Trước hết, Tướng Hiếu dùng hai mươi tiểu đoàn di động bao quanh vùng Mỏ Vẹt. Tiếp đến, ngày 27 tháng 4, Tướng Hiếu tung Trung Đoàn 49 Bộ Binh và Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân qua vùng đồng lầy quanh Đức Huệ tiến tới biên giới Cam Bốt, và cho Không Quân bắn phá dội bom các vị trí đóng quân của Sư Đoàn 5 BV. Đồng thời, Tướng Hiếu cậy nhờ hai tiểu đoàn ĐPQ của Quân Đoàn IV từ Mộc Hóa tấn lên phía Bắc, thiết lập những nút chận mạn Đông Nam của vùng tập trung quân và khu tiếp vận của Sư Đoàn 5 BV.

Vào ngày 28 tháng 4, Tướng Hiếu tung mười một tiểu đoàn vào trận địa để thực hiện những cuộc hành quân tiên khởi chuẩn bị cho cuộc tấn công chính.

Vào sáng ngày 29 tháng 4, ba chi đoàn thiết giáp của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III chọc thủng qua biên giới Cam Bốt từ phía Tây Gò Dầu Hạ, nhắm hướng bản doanh bộ tư lệnh của Sư Đoàn 5 BV mà xông tới.

Trong khi đó, Chiến Đoàn Bộ Binh và Thiết Giáp của Quân Đoàn IV được điều động xuất phát từ Mộc Hóa tiến qua biên giới đi vào vùng Cẳng Chân Voi, đe dọa đường rút lui của Trung Đoàn 275 BV. Trong khi các chi đoàn Thiết Giáp tiếp tục xông tới, tiến sâu đến mười sáu cây số vào lãnh thổ Cam Bốt trước khi chuyển bánh lái về phía Nam hướng về tỉnh lỵ Hậu Nghĩa, và trong khi các trực thăng đổ quân bất ngờ xuống các vị trí địch quân, các đơn vị khác của QLVNCH phát động những cuộc hành quân đánh chớp nhoáng vào vùng giữa Đức Huệ và Gò Dầu Hạ.

Ngày 10 tháng 5, khi đơn vị cuối cùng của QLVNCH trở về căn cứ, các hệ thống truyền tin và tiếp vận của Cộng quân trong vùng bị phá vỡ trầm trọng. Cộng quân thiệt hại hơn 1,200 chết, 65 bị bắt, và hàng trăm khí giới bị tịch thu. Mặt khác, nhờ vào các yếu tố vận tốc, bí mật, và phối trí của một hành quân đa diện, QLVNCH chỉ bị chết có dưới 100 quân lính.

Trận Svay Riêng này là trận đánh lớn nhất và thành công nhất sau cùng QLVNCH thực hiện trước ngày mất nước với sự tham dự đồng loạt và qui mô của một lực lượng tương đương với ba sư đoàn thuộc Quân Đoàn III và IV

Trong 6 trận đánh kể trên, ngoại trừ Đại Bàng 800 và Snoul, công lao của các trận kia đều được gán cho các tướng lãnh khác: Đỗ Xá, Đỗ Cao Trí; Thần Phong và Pleime, Vĩnh Lộc; và Svay Riêng, Phạm Quốc Thuần.

Kết Luận

Tướng Hoàng Xuân Lãm viết trong thư đề ngày 01/03/1999: "Chúng tôi anh em khóa Trần Hưng Đạo rất hãnh diện có một người bạn trung trực và hiên ngang như Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu."

Và Tướng Lữ Lan viết trong thư đề ngày 27/09/1999: "Năm kia, Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn 2, đã từ trần ở California, để lại mấy bài viết về cuộc đời phụng sự QLVNCH có đoạn nhắc tới Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, với lòng kính mến tuyệt đối, một Cấp Chỉ Huy ưu tú, thanh liêm và khả kính nhất".

Nguyễn Văn Tín

Ngày 12/12/2004

(Viết riêng cho đặc san Đa Hiệu)


Về Thư Ngỏ Của Tướng Trần Quang Khôi liên quan đến bài Tướng Nguyễn Văn Hiếu – SVSQ Khoá 3 Trần Hưng Đạo

Bài Tướng Nguyễn Văn Hiếu, SVSQ Khóa 3 Trần Hưng Đạo được đăng trên Đa Hiệu số 74 tháng 6 năm 2005 tại trang 44-60. Đồng thời bài Cuộc Phản Công Chớp Nhoáng của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh tại Đức Huệ của Tướng Trần Quang Khôi cũng được đăng trong số tạp chí này tại trang 171-197. Bài này của Tướng Khôi cũng được đăng trong cuốn sách Thép và Máu (2005) của Đại Tá Hà Mai Việt tại trang 320-331.

Vì hai bài trên cùng đăng trong số 74 Đa Hiệu, nên Tướng Khôi không thể không để ý tới bài Tướng Nguyễn Văn Hiếu, SVSQ Khóa 3 Trần Hưng Đạo, nhất là khi trong bài này cũng đề cập tới hành quân Svay Riêng mà ông gọi là Cuộc Phản Công Chớp Nhoáng của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh tại Đức Huệ. Tướng Khôi đã có một phản ứng mạnh mẽ biểu lộ qua thư ngỏ ông gửi Ông Chủ Nhiệm và Chủ Bút Đa Hiệu ngày 22 tháng 7 năm 2005:


 


Open letter from General Tran Quang Khoi


 


Open letter from General Tran Quang Khoi


 


Tướng Khôi nói là “trong 5 cuộc HQ mà Ô. Nguyễn V. Tín kể ra, tôi có trực tiếp tham dự 3 cuộc HQ. Những gì ông viết ra trong 3 cuộc HQ này là không đúng với sự thật: HQ Đỗ Xá, HQ vượt biên Snoul và HQ Svay Riêng.” Tướng Khôi viết tiếp là “ông [Tín] không hiểu về tổ chức chỉ huy, về tổ chức đơn vị nên viết lung tung dựa vào sự suy diễn và tưởng tượng.”

Tôi xin thưa với Tướng Khôi là bài Tướng Nguyễn Văn Hiếu, SVSQ Khóa 3 Trần Hưng Đạo được viết riêng cho Đa Hiệu là tóm tắt của những bài viết về các cuộc hành quân và trận đánh của Tướng Hiếu đăng trên mạng lưới nơi Trang Nhà Tướng Hiếu. Vì viết cho độc giả đại chúng của Đa Hiệu gồm cả thế hệ trẻ của đại gia đình Võ Bị Đà Lạt, nên không ghi chú các xuất xứ. Xin mời Tướng Khôi vào trang nhà Tướng Hiếu sẽ nhận thức tôi viết theo “suy diễn và tưởng tượng” hay “viết có sách mách có chứng”.

Trong khi chờ đợi Tướng Khôi mở máy điện toán, để tranh thủ thời gian, tôi xin liệt kê các nguồn xuất xứ của ba đoạn viết về ba cuộc HQ Tướng Khôi nêu lên.

HQ Đỗ Xá được viết dựa vào chứng từ của Tướng Lữ Lan, ba bản tường trình tình báo hằng tuần của CIA, bài Yểm Trợ Chiến Dịch Đỗ Xá (Do Xa Strike Mission) của Thiếu Tá Franklin A. Gulledge, TQLCHK, bài Phi Ðoàn 52 LQHK Yểm Trợ Chiến Dịch Đỗ Xá (US 52nd Aviation Battalion Supporting Do Xa Operation) của William E. McGee, và tường thuật của nhật báo New York Times The New York Times Tường Thuật Hành Quân Đỗ Xá (Do Xa Operation in New York Times).

HQ Snoul được viết dựa vào ba lá thư của Tướng Hiếu, ba tiêu lệnh hành quân (Toàn Thắng 8/B/5, Đặt Máy Dò Thám, Lộc Ninh), công điện mật số 3685/BCH/HQ/SĐ5/P3/, mật điện số mã 1652 ngày 062330H/05/71, Công Văn số 639/SD5BB/CL/ADHT của Bộ Tổng Tham Mưu, bài Trận Snoul Và Những Hậu Quả của Trần Văn Thưởng, TĐ1/8, bài Một Chuyến Chui Qua Cửa Ải Hỏa Ngục (A Trip Through the Gates of Hell) của Dan Sutherland, hai bài viết của Việt Cộng ghi trong bài Trận Snoul Dưới Mắt VC, và tường thuật của nhật báo New York Times The New York Times Tường Thuật Hành Quân Snoul (Snoul Operation in New York Times).

HQ Svay Riêng được viết dựa theo bài Hành Quân Svay Riêng (Svay Rieng Operation) của Samuel Lipsman và Stephen Weiss, The False Peace, The Vietnam Experience, Boston Publishing Company)

Tướng Khôi minh họa trí tưởng tượng của tôi như sau: “Ví dụ HQ Svay Riêng: không có cuộc HQ nào gọi là HQ Svay Riêng, chỉ có cuộc HQ phản công của LLXKQĐIII ở căn cứ Đức Huệ (xem Đa Hiệu 74 trang 171-197). Ông Tín (trang 58) viết: “…tướng Hiếu áp dụng chiến thuật Blitzkrieg (chiến trận thần tốc) để giải tỏa áp lực của SĐ5BV, tướng Hiếu dùng 20 tiểu đoàn di động … Ngày 28 tháng 4, tướng Hiếu tung 11 tiểu đoàn v.v…” Và Tướng Khôi khẳng định: “Tất cả những điều này là do óc tưởng tượng của Ô. Tín.”

Để đáp lại lời cáo buộc hàm hồ của Tướng Khôi, tôi xin trích dẫn nguyên văn lời của hai nhà sử gia Samuel Lipsman và Stephen Weiss để đối chiếu với các trích dẫn trên của Tướng Khôi: “That threat had materialized on March 27 when units of the 5th [NVA] Division attacked and invested the ARVN base at Duc Hue. As April wore on, and Communist forays out of Svay Rieng Province in Cambodia increased, III Corps commander Lieutenant General Pham Quoc Thuan collected twenty South Vietnamese maneuver battalions around the Parrot's Beak, determined to neutralize the North Vietnamese before the onset of the heavy rains of the summer monsoon. […] On April 28, with eleven ARVN battalions already in the field mounting a variety of operations preliminary to the major assault Thuan had readied for the following day. […] On the other hand, the speed, secrecy, and coordination of the multifaceted operation had limited ARVN KIA to fewer than 100.”

Nếu Tướng Khôi cho là hai nhà sử gia Samuel Lipsman và Stephen Weiss dùng trí tưởng tượng để dựng tạo cuộc HQ Svay Riêng, thì tôi xin đầu hàng chịu thua.

Thật ra thì bài viết của Lipsman và Weiss về cuộc hành quân Svay Riêng được gần như sao chép lại đoạn viết Cẳng Chân Voi và Cánh Thiên Thần về cuộc hành quân này của Đại Tá William Le Gro, sĩ quan tình báo Mỹ. Đại Tá Le Gro ghi rõ các nguồn tham khảo của đoạn viết này: Các dữ kiện hành quân về Trị Pháp và các trận đánh bên Căm Bốt được tham khảo từ các bàn tình hình, các báo cáo, và các tổng lược tình báo hàng tuần của DAO Sài Gòn, cũng như từ các bản tổng lược hàng tuần của Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu. Các kẽ hở trong thông tin được khỏa lấp bởi các tham khảo ghi chép riêng của tác giả và các bản tường trình từ các văn phòng của Sư Quán Hoa Kỳ, Sài Gòn.

Nếu 30 năm trước, khi nắm sinh mạng của các chiến binh thuộc LLXKQDIII, mà Tướng Khôi hành xử như ông hành xử trong vụ này khi ông hớ hêng nhận định sai lầm là tôi hoàn toàn dựa vào óc tưởng tượng, rồi đả kích tôi một cách quyết liệt không chút nương tay, thì thử hỏi khi ông xua quân và thiết giáp tấn công địch sau khi ông nhận định sai lầm về ý đồ và khả năng địch, sự tổn hại đến đạo quân của ông sẽ tai hại đến mức độ nào.

Bây giờ, tôi xin bàn tới lời khẳng định của Tướng Khôi: “Không có cuộc HQ nào gọi là HQ Svay Riêng, chỉ có cuộc HQ phản công của LLXKQĐIII ở căn cứ Đức Huệ”.

Sở dĩ Tướng Khôi nhất quyết như vậy là ông không biết là cuộc phản công do ông chỉ huy chỉ là một thành phần trong toàn bộ HQ Svay Riêng, vì trong tư cách một Tư Lệnh của một đơn vị tăng phái ông chỉ có cái nhìn hạn hẹp của vai trò của mình mà không có được cái nhìn bao quát của toàn cuộc Hành Quân Svay Riêng như hai sử gia Samuel Lipsman và Stephen Weìss mô tả. Nói tán rộng ra, khi một người kể lại một trận đánh mình có tham dự, thì sự mô tả đó thường chỉ hạn hẹp tùy theo vai trò của người đó trong trận đánh: binh sĩ, tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng, tham mưu trưởng hay chỉ huy trưởng của đơn vị tăng phái, v.v…

Trong trường hợp HQ Đỗ Xá, không biết lúc đó Tướng Khôi mang cấp bậc gì, trung úy hay đại úy (Tướng Ngô Quang Trưởng tham dự HQ Đỗ Xá với tư cách Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5 Dù), và đóng vai trò gì. Còn trong trường hợp HQ Snoul, vào thời đó Tướng Khôi là Tư Lệnh LLXKQĐIII được tăng phái cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào ngày cuối của cuộc lui binh, tức ngày 31/5/1971, khi mà cuộc lui binh khởi sự từ ngày 25/5; và LLXKQĐIII chỉ tiến sâu vào nội địa Cam Bốt 3 cây số trên đường tiếp cứu Chiến Đoàn 8. Do đó, tất cả những điều xảy ra trên chiến trường từ ngày 25 tới ngày 30, ông đâu có am tường, cho dù ông "có trực tiếp tham dự" cuộc HQ Snoul, để mà ông dám quả quyết là những điều tôi kể ra "không đúng với sự thật".

Xin mời Tướng Khôi đọc đoạn trích Cẳng Chân Voi và Cánh Thiên Thần lấy từ cuốn sách Vietnam: Cease Fire To Capitulation của Đại Tá William Le Gro, sĩ quan tình báo Mỹ. Đoạn này mô tả chiến dịch Svay Riêng và nêu rõ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III do Tướng Khôi chỉ huy chỉ được Bộ Tư Lệnh cho tham chiến vào Giai Đoạn II của chiến dịch.

Tôi không đồng ý với Tướng Khôi nói là “Nếu tướng Hiếu còn sống, mà đọc bài của Ô Tín viết về ông, tôi nghĩ tướng Hiếu sẽ rất bất mãn”. Tướng Hiếu chỉ bất mãn trong trường hợp tôi “viết các cuộc HQ một cách méo mó, sai sự thật, không dựa vào những sự kiện lịch sử”. Đàng này tôi hết sức cố gắng thu thập càng nhiều tài liệu và chứng từ càng tốt, kể cả của Việt Cộng, vì vốn tự biết mình là giới dân sự “không hiểu về tổ chức chỉ huy, về tổ chức đơn vị”. Tôi thiết nghĩ anh tôi, dù đã chết, phải lấy làm hãnh diện khi thấy tôi trả lại các công trạng chiến trận cho ảnh, những công trạng mà khi anh tôi còn sống được gán cho các thượng cấp của anh tôi, như tôi nhận xét trong bài này (Trong 6 trận đánh kể trên, ngoại trừ Đại Bàng 800 và Snoul, công lao của các trận kia đều được gán cho các tướng lãnh khác: Đỗ Xá, Đỗ Cao Trí; Thần Phong và Pleime, Vĩnh Lộc; và Svay Riêng, Phạm Quốc Thuần)- và bây giờ lại thêm Trần Quang Khôi (?!).

Anh tôi, tuy không thích khoe khoang, nhưng không khỏi cảm thấy khoái, như mọi người phàm, khi được người khác khen ngợi công việc mình làm. Trong vụ phơi bày lạm dụng Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội, Tướng Hiếu đã khoe với viên chức Sứ Quán Mỹ:

6. Tướng Hiếu nói là tiếp sau màn trình diễn trên đài truyền hình ông được một số sĩ quan QLVNCH khen ngợi ông về bản tường trình. Một tướng lãnh bạn chú thích là cảm tưởng thoạt tiên cho là Phó Tổng Thống Hương chỉ là một "Con Cọp Giấy" trong vấn đề tham nhũng nay đã biến cải sau khi bản tường trình được công bố.

Đối với lời "đề nghị Tòa Soạn Đa Hiệu nên rất thận trọng khi xét đăng những bài do những người dân sự viết về quân sự" của Tướng Khôi, tôi xin có hai ý kiến. Một là: dù trường hợp người dân sự hay người quân sự viết về quân sự thì cũng phải có thái độ thận trọng như nhau; điều quan trọng không phải là dân sự hay quân sự, mà là giá trị của nguồn tin và tài liệu tham khảo; mà có lẽ nên thận trọng hơn khi là người quân sự viết, vì biết một tí có bề dễ thêm bớt (chẳng hạn chỉ tiến sâu tới cây số 3 thì lại nói cương lên là thọc sâu tới tận cây số 9), hơn là người dân sự không biết gì hết khi viết mà không dựa vào nguồn tin hay tài liệu thì dễ bị lật tẩy ngay là đồ tưởng tượng (thử hỏi, thường các sử gia viết về quân sử là người dân sự hay người quân sự?). Hai là: khi cho đăng bài của tôi, Ông Chủ Nhiệm và Chủ Bút Đa Hiệu đã biết thừa đến mức độ sưu tầm dồi dào và giá trị của các tài liệu tham khảo trong Trang Nhà Tướng Hiếu và cuốn sách Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một Viên Ngọc Ẩn Tàng được giới thiệu cùng trong số Đa Hiệu 74 nơi trang 304; chẳng hóa người mù lại muốn dạy khôn người sáng mắt sao?

Thêm một điểm chót. Tướng Khôi viết: "Ô. Tín có quyền vinh danh tướng Nguyễn Văn Hiếu về tài năng và đức độ nhưng không được viết các cuộc HQ một cách méo mó, sai sự thật, không dựa vào những sự kiện lịch sử". Tôi thiết nghĩ chắc Tướng Khôi ngụ ý không nên viết ? Vì ở nước tôn trọng tự do ngôn luận này, đâu có ai lại cấm đoán người khác như vậy.

Nguyễn Văn Tín

Ngày 04 tháng 09 năm 2005

- Tái bút ngày 10/12/2005 - Nhân dịp tiếp xúc với Đại Tá Lê Tất Biên, BĐQ, về sự tham dự của Lực Lượng Đặc Biệt trong Chiến Dịch Đỗ Xá năm 1964, tôi hỏi ông về trận Đức Huệ. Ông cho biết là Tướng Khôi có hỏi ông rất nhiều về các chi tiết trận đánh liên quan đến vai trò của Biệt Động Quân. Trong trận đó, coi như Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Tướng Khôi được tăng phái cho Liên Đoàn 33 BĐQ. Trên nguyên tắc, khi xử dụng nhị thức bộ binh thiết giáp, chỉ huy trưởng bộ binh nắm quyền chỉ huy chiến đoàn. Nhưng vì ông là trung tá, còn ông Khôi là chuẩn tướng, nên Tướng Khôi được nhường phần chỉ huy trận đánh. Tuy nhiên, lực lượng chủ động vẫn là các đơn vị bộ binh. Ngoài ra, ông cho biết thêm đáng lẽ ra ông được thăng lên cấp đại tá sau trận đánh, nhưng Tướng Khôi đã dành lấy phần thưởng đó cho tư lệnh phó thiết giáp của ông. Quả là Tướng Khôi đã không vô tư trong bài tường thuật về trận đánh Đức Huệ; trái lại, ông có vẻ nói cương lên hơi nhiều.

- Tái bút ngày 24/10/2008 - Xin mời Chuẩn Tướng Khôi vào xem bài Mặt Trận Đức Huệ để có tầm nhìn chính xác hơn về trận đánh. Trong buổi trình diễn bản nhạc hòa tấu Mặt trận Đức Huệ, Chuẩn Tướng Khôi là nhạc công chơi nhạc cụ thiết giáp, Tướng Hiếu là nhạc trưởng điều khiển toàn ban nhạc gồm nhiều nhạc cụ khác nhau.

- Tái bút ngày 13/12/2008 - Trong bài viết Từ Trị Pháp Đến Svây Riêng, tác giả Mê Kông đề cập tới vai trò của Tướng Hiếu và Tướng Khôi trong Mặt Trận Đức Huệ.

- Tái bút ngày 19/08/2009 - Tôi nhận được điện thư sau đây có người tìm cách liên lạc với Tướng Khôi để xin một đính chính liên quan tới tên của Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 46/SĐ25BB bị tử thương trong trận đánh Đức Huệ:

Chúng tôi đọc bài viết của Tướng Trần Quang Khôi Chân dung người chiến sĩ thiết giáp kỵ binh và biệt động quân trong hai năm cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam (1974-1975) - Trận Đức Huệ. Sau bao nhiêu tìm kiếm địa chỉ để có thể liên lạc với ông Khôi, nhưng không được, chúng tôi chỉ thấy có một chút liên lạc đến với "generalhieu.com" với địa chỉ email này.

Chúng tôi là bạn của con ông Trung tá Cao Hữu Nhuận, Trung đoàn trưởng trung đoàn 46, sư đoàn 25 của QLVNCH. Chúng tôi có thấy được những bằng chứng để chứng minh rằng tên của ông Trung đoàn trưởng mà Tướng Khôi viết trong bài trên là không chính xác. Tướng Khôi viế̀t rằng: "Sau đó quân địch pháo kích tập trung hỏa lực thẳng vào căn cứ Phước Chỉ bằng hỏa tiễn 107 ly và 122 ly, khiến Trung Tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng Trung đoàn 46/SĐ25BB bị tử thương." Thật sự ông tên là Cao Hữu Nhuận. Chúng tôi có đủ bằng chứng để yêu cầu quý vị đính chính lại: giấy báo tử của Sư đoàn 25, những mẩu báo phân ưu còn lưu giữ, ông được truy thăng Đại tá và truy tặng đệ tam Bảo quốc huân chương, Anh dũng bội tinh cùng nhành dương liễu. Tất cả những dữ kiện trên, hiện vật đó vẫn còn được cất giữ cẩn thận. Mộ phần của ông vẫn còn ở Nghĩa trang quân đội Biên hòa.

Mục đích chúng tôi viết thư này gởi cho Quý vị là mong rằng tên cha của bạn chúng tôi được viết lại cho đúng vì đó là lịch sử. Nếu không phải trong quyền hạn của quý vị, xin vui lòng chuyển giúp cho chúng tôi lá thư này đến Tướng Trần Quang Khôi. Xin chân thành cảm ơn. (Vương Nhàn)


Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?

Các Tướng Lãnh QLVNCH

Thursday, March 4, 2021

Cuộc đời của đại tướng Đỗ Cao Trí qua lăng kính LTS. Ông sanh ngày 20/11/1929 - chết 23/2/1971. 



Tướng Trí nói chuyện với tướng Nguyễn văn Minh, TL của Biệt khu Thủ đô.

Đỗ Cao Trí (ko rõ cấp bậc) và quốc trưởng Bảo Đại.





1/ Dựa vào tên:  

ĐỖ = 4 7 = 11 = giữ nguyên.

CAO = 3 1 7 = 11 = giữ nguyên. 

TRÍ = 421 = 7 

Cộng lại: 11 11 7 = 29 = rất xấu. 

Hưởng hồng ân Chúa dưới áp lực (Grace under Pressure)
Số 29 có lẽ là SỐ XẤU NHỨT trong các số. Số này thử thách con nguời hay thực thể - mà nó đại diện - về sức mạnh tâm linh, thông qua những thử thách và nỗi đau khổ, nhắc nhớ (chúng ta) câu chuyện về ông Job trong Kinh Cựu Uớc (trials and tribulations echoing the Old Testament story of Job). Cuộc đời của họ thì đầy rẫy những bất trắc, sự phản bội và lừa gạt (the life is filled with uncertainties, treachery and deception) từ những nguời khác, bạn bè không đáng tin cậy, những nguy hiểm không ngờ (unexpected dangers) - và nhiều nỗi đau buồn và lo âu (and considerable grief and anxiety) tạo ra bởi nguời khác phái. Đó là số của cảnh báo nghiêm trọng (grave warning) trong mọi lãnh vực của đời sống cá nhân và nghề nghiệp. Nếu tên bằng 29, điều tất nhiên là phải đổi tên để bỏ đi tác động xấu nầy, trừ khi nguời đó là kẻ khổ dâm (it’s obvious that the spelling of the name should be changed to lift this difficult vibration, unless one is a masochist).
Nếu 29 là ngày sanh, và do đó không thể tránh đuợc, phải ý thức rằng mình phải cố gắng để giảm bớt và cuối cùng sẽ hủy bỏ, làm vô hiệu/mất tác dụng, hoặc xóa đi nghiệp quả này (conscious effort must be made to dilute and eventually to negate, neutralize, or erase this karmic burden). Nghiệp quả này, trong một chừng mực nào đó (to a great extent), có thể giảm nhẹ bằng cách chọn một cái tên mới có độ tích cực cao (be eased by choosing a new name with a strongly positive compound key number). Xa hơn nữa, nguời nào sinh vào ngày 29 nên làm mọi điều đã chỉ dẫn ở Chuơng 4 liên quan đến Nhân quả và luân hồi.
Trong truờng hợp đặc thù của số 29, cùng đến với nó là tác động thứ cấp của số 11; (số 11) cũng nên đuợc đọc hay xem xét để tìm cách giảm nhẹ nghiệp quả này - hãy nhớ rằng sự phát triển của niềm tin tuyệt đối vào đức hạnh và sức mạnh của Bản ngã (development of absolute faith in goodness and the power of the Self). . . liên tục và mạnh mẽ trau dồi/nuôi duỡng sự lạc quan (the constant and energetic cultivation of optimism). . . sẽ tác động như là một liều thuốc kỳ diệu đối với những vấn đề của số 29.
Cuối cùng, những gánh nặng hay món nợ của ông Job sẽ đuợc lấy đi, một khi ông ta đã học cách chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những khó khăn hay khốn khổ của ông, mà không đổ lỗi cho kẻ khác hoặc tìm cách trả thù cho những đau khổ mà ông đã hứng chịu (after all, Job’s burdens were finally lifted, when he had learned to accept full responsibility for his troubles, and not to blame others or seek revenge for the hurts he suffered). Cuối cùng, chẳng những vận số xui xẻo dài lâu của ông đã chấm dứt, ông còn nhận lại đuợc mọi thứ mà ông đã mất (not only did his long bad-luck streak end at last, he was given back everything he’d lost , several times over). Do đó, nếu bạn sanh vào ngày 29, hãy thay đổi tác động của tên bạn bằng một số đầy quyền lực, như số 19; hãy theo guơng ông Job, và chẳng bao lâu bạn sẽ hạnh phúc như - hoặc hạnh phúc hơn - bất cứ ai khác ( change the vibration of your name to a powerful number, such as 19, follow Job’s exemple, and soon you’ll be as happy as - or happier than - anyone else). Thật là thú vị, tên “Job” lại bằng số 10 đầy quyền lực - một tác động khó mà đánh bại (interestingly, the name “Job” equals the powerful compound number 10 - a difficult vibration to defeat)./.
Dịch từ trang 262-263 trong quyển Linda Goodman’s Star Signs.

2/ Vì tướng Trí sanh ngày 20 nên ông chịu thêm tác động của số này.

Sự tỉnh thức (awakening)
Ngoài việc được gọi là "sự tỉnh thức", số kép này được mô tả (is pictured) bởi người cổ Can-Đê (Chaldean) là "Sự Phán Xét". Đó là một giải thích kỳ lạ (peculiar), và được tượng trưng bởi "một thiên thần có cánh, thổi kèn, trong khi từ bên dưới, một đàn ông, một đàn bà, và một đứa nhỏ sống lại/nổi lên (arise) từ một nấm mộ, với tay chấp lại cầu nguyện (hands clasped in prayer). Ở một lúc nào đó (at some time) trong kinh nghiệm/thử thách của người hay thực thể thay mặt bởi số 20, có một sự tỉnh thức mạnh mẻ, mang lại một mục tiêu mới, các kế hoạch mới, các tham vọng mới - (đó là) lời kêu gọi hành động cho đại nghĩa hay ý tưởng nào đó (some great cause or ideal). Thỉnh thoảng có thể có những trì hoãn hay chướng ngại cho kế hoạch cho y, nhưng những điều này có thể chinh phục hay vượt qua bằng cách phát triển kiên nhẩn (cũng là thách thức của số 20) và bằng cách tiếp tục trau dồi (cultivate) niềm tin vào các khả năng tự biến đổi của y (in one's own powers to transform). Số 20 đem lại phước lành (blessing) qua những giấc mơ sống động về nhận thức (vivid precognitive dream), cộng thêm khả năng bày tỏ những giấc mơ may mắn và triệt tiêu những giấc mơ tiêu cực (negative). Số 20 không phải là số vật chất (material), vì thế ko chắc có được thành công về tài chánh (doubtful regarding financial success). Nếu cần thiết có số tiền lớn để hỗ trợ thực tế cho một đại nghĩa hay ý tưởng mới, sau đó y có thể chọn một con số nặng về vật chất tích cực hơn (a more positive materialistic number) bằng cách đổi chánh tả của tên, với giả dụ rằng 20 là ngày sanh. Nếu tên cộng lại bằng 20, vậy, hy vọng rằng, ngày sanh này sẽ ban cho (bestow) một tác động tài chánh may mắn hơn (the birth number will bestow a more fortunate financial vibration). Tuy nhiên, những ai hợp với sự tác động/rung động của số 20 ít khi để ý vấn đề tài chánh. Tiền bạc không quan trọng với họ -- và số 20 sẽ, như một luật phổ quát, cung cấp đủ cho những nhu cầu căn bản".
Dịch từ trang 257-8 của sách Linda Goodman's Star Signs.


Friday, September 18, 2020

 Xin đọc từ trang 156 trở đi để thấy rằng nếu trung tướng ĐỖ CAO TRÍ ko tử trận, cục diện chiến tranh VN có thể đổi khác!

Ông được báo Mỹ gọi là Patton của VN khi luôn xông pha nơi tuyến đầu và thề sống chết cùng binh lính - như ông đã tuyên bố lúc sinh tiền, ko như trung tướng NGUYỄN VĂN MINH, người thay thế ông, luôn luôn chỉ huy từ hầm sâu dưới mấy thước bao cát!

Monday, January 28, 2019

Thần tướng Đỗ Cao Trí

 on 
Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần
Sinh ra là Tướng chết đi thành thần
Thế, Ân, Thanh, Trí, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam
Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/99/Lieutenant_General_Do_Cao_Tri_photo_1.jpg
Trung tướng Đỗ Cao Trí 1929-1971
Cái chết đột ngột của Tướng Đỗ Cao Trí vì tai nạn trực thăng ở phía Bắc Tây Ninh trên đường ra mặt trận sáng ngày 23-2-1971 là bước ngoặt của cuộc chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam.
Đại Tướng Đỗ Cao Trí là một tài năng kiệt xuất của Quân Lực VNCH. Thật hiếm có một tướng lãnh nào của chúng ta vừa có mưu lược vừa có dũng khí như Tướng Trí. Ông luôn chủ động đánh trúng địch vào chỗ bất ngờ nhứt và luôn xuất hiện ở điểm nóng nhứt trên chiến trường. Nếu Pháp có De Lattre De Tassigny, Mỹ có Patton, Đức có Rommel, thì VNCH chúng ta có Đỗ Cao Trí.
Là Đại Sứ VNCH ở Nam Triều Tiên, Ông tình nguyện xin trở về nước sau Tết Mậu Thân để ra trận ngày 5-8-68, Ông thay Trung Tướng Lê Nguyên Khang làm Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Lúc bấy giờ quân địch ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn. Quân chánh quy cộng sản Bắc Việt xuất hiện ngay trong các trung tâm thành phố lớn như Sài-Gòn, Chợ Lớn, Biên Hòa v.v… và Quân Đội Mỹ phải rút quân từng phần theo Kế Hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh của Tổng Thống Richard Nixon vì áp lực chống chiến tranh của nhân dân Mỹ.
Đại Tướng Đỗ Cao Trí với tài thao lược xuất chúng, chỉ trong một thời gian ngắn, vừa bình định xong lãnh thổ đem lại an ninh ở nông thôn, vừa mở các cuộc hành quân tấn công liên tục các Sư Đoàn Cộng Sản Bắc Việt: Công Trường 5, 7, 9, và các Trung Đoàn Địa Phương Việt Cộng ở các tỉnh Biên Hòa, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Tây Ninh, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Long và Phước Long, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề buộc chúng phải rút chạy qua trú ẩn trên lãnh thổ Campuchia.
https://c2.staticflickr.com/4/3489/3770762223_bbf2b598f4_z.jpg?zz=1
Kể từ tháng 3-1970, Ông đưa chiến tranh ra khỏi lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật. Ngay sau đó, Ông mở cuộc “Hành Quân Toàn Thắng 42”, phối hợp với Lực Lượng II Dã Chiến Hoa Kỳ, lần lượt bứng tận gốc các căn cứ của Quân Cộng Bắc Việt dọc theo bên kia biên giới Việt-Campuchia ở khu Mỏ Vẹt và Lưỡi Câu, đồng thời đẩy Cục “R” và các Sư Đoàn Cộng Sản Bắc Việt lên tận Đông Bắc Campuchia ở Dambe và Chlong.
Thừa thắng xông lên, ngày 18-2-1971, Ông trực thăng vận Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân cùng Ông xuống Chlong, đồng thời điều động LLXKQĐIII và Chiến Đoàn 333 Biệt Động Quân tấn công, chiếm và càn quét Dambe, buộc quân địch phải co về thế thủ.
Nhưng mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất trong cuộc “Hành Quân Toàn Thắng 1/71” này là Kratié, căn cứ chiến lược chủ yếu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Ông nói nếu ta chiếm Kratié, chúng ta sẽ cắt đứt con đường tiếp vận huyết mạch chính từ Miền Bắc xuống tận vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông dự định sử dụng Sư Đoàn Nhảy Dù trực thăng vận xuống Kratié, đồng thời LLXKQĐIII sẽ tấn công từ Chlong lên phía Bắc giao tiếp với Dù ở Kratié. Liên Đoàn 30 Công Binh được lệnh của Ông đã đưa đơn vị cầu vào Dambe chuẩn bị bắc cầu ở Chlong yểm trợ LLXKQĐIII vượt sông.
Ngày 20-2-1971: Ông gặp tôi ở Chlong. Ông lắc đầu, mặt có vẻ buồn rầu lo lắng. Ông cho tôi hay là Sư Đoàn Nhảy Dù đã được Bộ Tổng Tham Mưu điều động ra Đông Hà (tham dự cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào), làm đảo lộn kế hoạch hành quân của Ông. Mặc dù vậy, Ông không bỏ ý định đánh Kratié. Ông ra lệnh cho tôi sẵn sàng. Ông định sẽ sắp xếp và điều động 1 trong 3 Sư Đoàn của Quân Đoàn III để thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù trong giai đoạn tấn công tới này.
Chiều ngày 22-2-1971: Vào khoảng 18:00 giờ, Ông còn bay trên bầu trời Dambe-Chlong gọi tôi trên máy truyền tin hẹn gặp ngày mai tại căn cứ hành quân của tôi — Dambe. LLXKQDIII đã được không vận thả dù tái tiếp tế xong xuôi, hàng ngũ sắp xếp chỉnh tề chuẩn bị lên đường. Tôi biết sắp tới là những ngày chiến đấu quyết liệt nhất.
Sáng ngày 23-2-1971: Tôi và Đại Tá Lê Văn Nghĩa, Liên Đoàn Trưởng LĐ 30 Công Binh chờ đón Ông ở Dambe. Sau khi dự buổi thuyết trình sáng ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân QĐ III tại Tây Ninh, như thường lệ, Ông lên trực thăng chỉ huy bay sang Campuchia. Trực thăng vừa cất cánh bay lên hướng Bắc được vài phút thì phát nổ. Tất cả đều tử vong. Ngoài đoàn tùy tùng gồm có Trung Tá Châu, Truyền Tin, Trung Tá Sỹ, Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn, Đại Úy Tuấn, Sĩ Quan Tùy Viên, còn có nhà báo Mỹ gốc Pháp nổi tiếng Francois Sully và Đại Úy Thành Pilot.
Tin Đại Tướng Đỗ Cao Trí tử trận làm xúc động dư luận trong nước và thế giới. Báo Times và Newsweek loan tin ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của Ông. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu truy thăng Ông lên Đại Tướng. Đại Tướng Creighton Abrams nghiêng mình trước linh cửu Ông.
Đại Tướng Đỗ Cao Trí sinh ngày 20-11-1929, ở Biên Hòa, tốt nghiệp Trường Võ Bị Coetquidan, Trường Nhảy Dù Pau ở Pháp năm 1949 và tốt nhiệp Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ ở Fort Leavenworth năm 1959. Ông sống được 42 tuổi. Ông là vị Tư Lệnh Nhảy Dù đầu tiên của QLVNCH. Lúc 34 tuổi, Ông là trung tướng trẻ nhất của Quân Lực chúng ta. Ông đã từng là Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Đoàn II kiêm Đại Biểu Chính Phủ ở Miền Trung và Cao Nguyên trong 2 năm 1963-64 khi còn rất trẻ, và nổi tiếng điều quân khiển tướng nghiêm minh tài giỏi. Ông vận dụng nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy một cách tuyệt vời. Những đơn vị nào do Ông chỉ huy cũng đều có kỷ luật, thiện chiến và lập nhiều chiến công to lớn. Quân cộng sản rất sợ Ông. Chúng tìm cách cho tay sai len lỏi trong hàng ngũ Quốc Gia dèm pha hạ bệ Ông, nhưng vô ích, Quân Lực chúng ta vẫn kính trọng Ông. Ông vẫn cùng với ba quân xông pha trận mạc bảo vệ Tổ Quốc.
Trong buổi lễ xuất quân đánh sang Campuchia của LĐ3KB tháng 1-1971, Đại Tướng tuyên bố là Ông sẽ sống và chết với ba quân trên chiến trường. Ông đã giữ đúng lời hứa. Ông đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Quân Đội và Tổ Quốc.
Đại Tướng Đỗ Cao Trí là tấm gương chiến đấu sống động nhất cho tuổi trẻ Việt Nam. Ngày nay, sách báo thế giới tự do vẫn ca ngợi Ông là một Anh Hùng Dân Tộc của VNCH. Đại Tướng sống, chiến đấu và hy sinh đúng với danh ngôn của người xưa:
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu.
Dân tộc Việt Nam mất đi một Lãnh Tụ Quân Sự vĩ đại, Quân Lực VNCH mất đi một Tướng Lãnh kiệt xuất. Còn tôi, tôi mất đi vị chỉ huy lỗi lạc chưa từng thấy và người bạn chiến đấu tâm đầu hợp ý nhất. (tác giả Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi Virginia, 1/11/1995)
Khi ông Thiệu đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ đầu thì đưa Tướng Trí về Quân Đoàn 3 thay Trung tướng Khang, do sự tiến cử của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Trước đó, Tướng Trí đang giữ chức Đại Sứ ở Đại Hàn.
Khi tướng Trí về nắm chức Tư Lịnh Quân Đoàn 3 thì tình cờ cả 3 vị Tư Lịnh Sư Đoàn của Quân Đoàn 3 đều xuất thân từ Khóa 3 Đà Lạt. Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh giữ chức Tư Lịnh Sư Đoàn 25, Thiếu Tướng Hiếu, Sư Đoàn 5 và Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, Sư Đoàn 18. Trong 3 vị Tư Lịnh vừa kể thì Tướng Trí tỏ vẻ trọng dụng Tướng Hiếu nhứt vì Tướng Hiếu đã từng làm tham Mưu Trưởng cho Tướng Trí trước kia ở Quân Đoàn 1 và Quân Đoàn 2 vào năm 1963.
Thời gian Tướng Trí nắm chức Tư Lịnh quân Đoàn 3 là thời gian làm cho các Công Trường 5, 7, 9 của Việt Cộng điêu đứng nhứt. Tướng Trí đã chuyển từ thế thủ sang thế công, đẩy các đơn vị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam qua bên kia biên giới. Các chiến khu Dương Minh Châu, mật khu Hố Bò bị cày nát, không còn là nơi ẩn an toàn cho Trung Ương Cục Miền Nam nữa.
Tôi có dịp theo Tướng Trí lên họp với Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội Cao Miên ở Nam Vang mấy lần để phối hợp hành quân. Lúc đó, Tướng In Tam của Cao Miên làm Thủ Tướng. Nghe nói Tướng In Tam xưa kia từng làm việc dưới quyền của Tướng Trí khi hai người còn ở trong Tiểu Đoàn Dù của Quân Đội Liên Hiệp Pháp. Có nhìn thấy thái độ nể nang của tướng lãnh Cao Miên đối với Tướng Trí mình mới thấy quả thật Tướng Trí là một tướng lãnh có nhiều uy tín. Mọi việc lớn nhỏ gì, Quân Đội Cao Miên đều phải hỏi qua ý kiến của Tướng Trí. Ngoài ra, không riêng gì Quân Đội Cao Miên mà cả đến các cố vấn Mỹ của Quân Đoàn 3 cũng đều tỏ vẻ thán phục khả năng điều binh khiển tướng của Tướng Trí. Tiếc thay, tướng tài thường yểu mạng. Âu cũng là vận nước mình gặp lúc không may! (tác giả Đại Tá Nguyễn Khuyến San Jose, 16-10-98 )
Tướng Tác Chiến Giỏi
… Cơ Quan Viện Trợ Mỹ MACV đã đưa ra bản tường trình có tính cách phê bình các vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Điều nghịch lý ở đây là một vị Tướng nổi danh về tài hành binh bố trận, được binh sĩ trung thành, lại bị đe dọa chính trị, trong một nước đầy cuộc đảo chánh quân sự. Một nhà quan sát Mỹ ở Sài Gòn hồi đó đã giải thích: “Đây là một quốc gia không cho phép ai được làm anh hùng quá lâu. Nhưng người ta vẫn xài anh hùng nhất thời.”https://i0.wp.com/nguyentin.tripod.com/DoCaoTri.jpg
Lúc đó QLVNCH có hai anh hùng tài ba trên chiến trường (không phải anh hùng chính trị), đã vượt trội và lãnh trọng trách chỉ huy Quân Đoàn III và IV ngay sau vụ Tổng Phản Công Tết Mậu Thân 1968. Đó là Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí và Cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Hai ông đã chứng tỏ là những vị Tướng có tầm nhìn chiến lược sắc bén và có tài điều quân trận địa chiến. Trong lần chấn chỉnh sau vụ Tết Mậu Thân 1968, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã loại những sĩ quan trung thành với PTT Nguyễn Cao Kỳ, và giao cho Tướng Trí và Tướng Thanh đảm nhận chức Tư Lệnh hai Vùng Chiến Thuật đông dân và nhiều yếu tố tế nhị chính trị nhất.

Tại Quân Đoàn III, Tướng Đỗ Cao Trí đã chỉnh đốn lại khả năng tác chiến của ba Sư Đoàn 5, 18 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Ông có bản lãnh hoàn thành những việc dù khó khăn cách mấy. Thoát chết ba lần ám sát. Không ai dám làm phật lòng chính phủ và Bộ TTM Sài Gòn, nhưng Tướng Trí đã dám thay thế hai vị Tư Lệnh bất tài và là tay chân thân tín của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng ông không gặp phản ứng nào của dinh Độc Lập. Tướng Trí hứa sẽ biến ba sư đoàn bộ binh yếu kém thành tinh nhuệ trong vòng 2 năm, và ông đã giữ đúng lời hứa.
Tổng Thống đã cử Tướng Trí làm Tư Lệnh cuộc hành quân càn quét cục R, căn cứ an toàn của VC ở vùng Mỏ Vẹt.
Tướng Đỗ Cao Trí được ca ngợi như vị anh hùng của Quốc Gia, ông làm việc không mệt mỏi, kế hoạch hành quân được chuẩn bị rất kỹ càng, chu đáo, và linh động, cùng sự có mặt thường xuyên ở chiến trường khích động lòng quân là những yếu tố đem lại chiến thắng cho đơn vị thuộc quyền của ông. Tướng Trí đã dùng chiến thuật “Diều hâu” và “Nhị thức chiến xa bộ binh” phối hợp một cách thần kỳ nên đã gặt hái kết quả không thể ngờ được. Không ai can đảm và xông xáo như vị Tướng ba sao này, mặc đồ rằn ri, đội mũ lưỡi trai, tay cầm cây gậy chỉ huy, nhảy theo toán quân đổ trực thăng đầu tiên; hoặc đứng trên pháo tháp xe tăng hô to: “Nhanh lên! Tiến nhanh lên các em!”
Trước ngày thực sự đổ quân qua Campuchia, có lần khi đang tới thị sát BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tướng Trí nghe báo cáo lính Miên đang “Cáp Duồn” chặt đầu thả trôi sông đồng bào Việt Nam ở vùng đồn điền Michelin bên kia biên giới. Ông vội điều động một tiểu đoàn Nhảy Dù cấp tốc đổ bộ bằng trực thăng Việt Nam (vì trực thăng Mỹ chưa có lệnh Tổng Thống Nixon nên không dám vượt biên) xuống sân banh trong đồn điền cao su. Khi hai đại đội vừa xuống thì chiếc trực thăng của ông cũng đáp xuống theo, ông lấy tay cầm “Can” chỉ về phía trước hô xung phong. Khiến anh Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó giật mình vội báo cáo về xin đổ quân xuống bảo vệ an toàn cho ông. Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng cấp tốc bay đến hiện trường. Binh sĩ thấy hai vị Tướng cùng có mặt tại trận địa, nên ai nấy đều hăng hái xung phong đánh đuổi giặc ác ôn và giải thoát hằng ngàn đồng bào chở về bên nây biên giới (sau này dân chúng địa phương đã tạc tượng Tướng Trí thờ cúng ơn cứu mạng).
Đối với một người tài ba và khát khao chỉ huy lập chiến tích oai hùng như Tướng Trí, xá gì chiếc trực thăng an toàn hay không, xá gì chiến trường hung hiểm ra sao, Tướng Westmoreland đã cảm phục tài ba và lòng can đảm này nên ông đã viết: “Tướng Trí là một con cọp của chiến trường, một Tướng Patton của Việt Nam.” Tuy nhiên, cái tài của Tướng Trí đã làm nhiều Tướng Lãnh khác ghen tị, họ đã nêu ra những hành động của ông trong trận đánh đồn điền cao su Chup ở Cam Bốt; bắt bẻ ông đã nhảy xuống hồ bơi tắm chơi trong lúc cuộc giao trang đang hồi dữ dội nhất. Họ rêu rao rằng: “Tướng Trí chỉ muốn tạo tiếng tăm anh hùng cho riêng mình, chứ không đếm xỉa đến lợi ích quân sự.” Ngoài ra lối sống xa hoa ngang tàng và giàu có của ông đã gây ganh ghét và nghi ngờ ở Sài Gòn. Hai Thượng Nghị Sĩ Nam Việt Nam đã gọi là “vụ tham nhũng trắng trợn”, khi tố cáo ông có chân trong đường giây buôn lậu tiền. Vụ tham nhũng này tung ra cùng lúc với những tin chiến thắng của Tướng Trí bay về thủ đô Sài Gòn. Mặc dù đời sống cá nhân bị tai tiếng, Tướng Trí vẫn nổi danh như cồn, ông là vị Tướng Lãnh chiến trường tài giỏi nhất QLVNCH. Ngay cả sau cuộc hành quân Campuchia kết thúc. Dưới sự chỉ huy của ông, QLVNCH đã liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân vượt biên triệt hạ sào huyệt an toàn của địch, khiến chúng chạy xất bất sang bang.
Trong lúc Tướng Trí hăng hái với kế hoạch tấn công của QLVNCH, ông có ý định đưa quân sĩ QĐ III lên Kratie để bắt tay với cánh quân ở đây thì bị tử nạn phi cơ trực thăng cuối tháng 2/1971. Trên máy bay còn có ký giả Pháp nổi tiếng là Francois Sully.
Chuẩn Tướng Mỹ George Wear đã ghi lại: “Khi quân sĩ VNCH được cấp chỉ huy giỏi sẽ chiến đấu xuất sắc không thua bất cứ quân đội nào khác. Họ chỉ cần những vị chỉ huy hết lòng với họ, chiếm được lòng tin của họ, và làm cho họ dám chết vì chính nghĩa.” Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh là hai vị chỉ huy có được tư cách và tài ba đó. (David Fulghum, Terrence Mailand South Vietnam on Trial – The Vietnam Experience.
Tướng Đỗ Cao Trí Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại Quốc.
Cuộc chiến đấu gian khổ chống lại làn sóng xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm nỗ lực chính thường không được báo chí ngoại quốc coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Báo chí Pháp thì vẫn cay cú vì cú đá “Điện Biên Phủ” của người Mỹ, hất cẳng đám con cháu của ông già mũi lõ De Gaulle ra khỏi Đông Dương, đâm ra giận lây đất nước non trẻ Việt Nam Cộng Hòa, cho nên thường lái ngọn bút hướng dẫn sai dư luận quần chúng, coi thường tư thế quốc tế và ý nghĩa chiến đấu của miền Nam. Báo chí Pháp không nói làm gì, đến báo chí Mỹ “phe ta” mà cũng kiếm chuyện bôi nhọ quân lực VNCH mới là chuyện ly kỳ. Có nhiều kẻ đoán già đoán non cho rằng có lẽ lũ chúng nó ngậm miệng ăn tiền của Việt cộng và mấy “ông thày ” vĩ đại như Liên Xô, Trung cộng đến bạc tỉ nên chúng nó cứ chửi bới ba họ nhà miền Nam, bóp méo sự thật làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoảng kinh hồn vía dậy lên những làn sóng phản chiến ồn ào vui vẻ đếch chịu nổi.
Tuy nhiên không phải lúc nào quân lực VNCH cũng chiến đấu trong cô đơn thầm lặng và trong nỗi đắng cay cơ cực không ai biết đến. Cũng vẫn còn những cái đầu sáng suốt và tỉnh táo, những lương tâm trong sáng và những tấm lòng trân trọng với Việt Nam Cộng Hòa. Thí dụ như nhóm của đại tài tử Charlton Heston, ông từng thủ diễn trong nhiều bộ phim vĩ đại như Ben Hur, Mười Điều Luật Chúa, Con Thuyền Noé,v.v…Charlton Heston đã cất công sản xuất một cuốn phim tài liệu bênh vực quân lực VNCH và đích thân Charlton Heston đứng thuyết trình để tăng thêm liều lượng thuyết phục quảng đại quần chúng. Công việc hoàn toàn vô vị lợi và không thu vô được một xu nhỏ nào, vì VNCH nghèo lắm không có tiền lo lót. Charlton Heston chỉ thấy “ngứa mắt” vì thiên hạ bất công với VNCH cho nên ông nổi máu người hùng miền viễn Tây lên bênh vực kẻ cô thế. Một khuôn mặt khác từ giới báo chí Mỹ, ông David Fulghum, cựu sĩ quan hải quân Mỹ, tốt nghiệp ngành “Lịch Sử Quân Sự và Ngoại Giao” tại đại học danh tiếng Georgetown, làm việc cho tổ chức U.S. News & World Report Book Division; và ông Terrence Mailand viết cho báo Newsweek và Boston Globe. Hai ông này có một bài viết chung trong quyển “South Vietnam On Trial” (Miền Nam Trên Đà Thử Nghiệm), nhận định “sơ khởi” về tình hình khan hiếm chỉ huy chiến trường cấp sư đoàn và cấp quân đoàn trong cuối thập niên 60. Hai ông đã đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu và kiệt xuất nhất của quân lực VNCH trong thời điểm đó là Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh mà chúng tôi xin được tóm lược nội dung bài viết như sau. Dĩ nhiên dưới cái nhìn của những người ngoại quốc dù là có thiện cảm rất nhiều nhưng có thể cũng có một số điểm phê bình đụng chạm một cách phiến diện đến tình hình chung của tướng lãnh thời ấy. Chưa chắc họ đã nhận đúng và chúng ta cứ tự an ủi là hết thảy tướng tá của ta đều số dzách, cho vui vẻ cả làng.
Theo hai me sừ như đã giới thiệu ở trên, hai ông cho rằng hễ một khi có tướng lãnh lừng lẫy thì sẽ có quân đội anh dũng, lịch sử giữ nước của Việt Nam đã chứng tỏ điều đó. Cho nên để chận đứng đà tiến công mạnh mẽ của Bắc quân, Nam quân cần có những tướng lãnh giỏi có thể thổi bùng lên niềm hùng khí chiến đấu của quân sĩ và tư cách của những vị ấy có thể thay thế được chỗ trống to tổ bố một khi quân Mỹ rút hết về nước. Nhưng theo một bản tường trình dài dằng dặc và đáng buồn của cơ quan MACV (Military Assistance Command in Vietnam), tức Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam, về tình hình chỉ huy chiến trường trong cuối những năm 1960, thì hầu hết những tướng lãnh Việt Nam nằm trong bảng phong thần đều được cho điểm…rớt lạch bạch như những chiếc lá mùa thu. Đại khái MACV dám cả gan phê bình giới tướng lãnh là “hết sức thụ động”, nào là “yếu kém”, nào là “thầy chạy” (coward). Tuy vậy để bào chữa cho những yếu kém ấy, bản tường trình đã cho thêm một câu thòng là có thể những cái đó xuất phát từ thái độ thận trọng, không muốn bộc lộ tài năng chăng. Vì thực trạng miền Nam lúc đó bất cứ một tướng lãnh nào cùng với một đội quân thiện chiến và trung thành với ông ta cũng đều bị những cặp mắt nhòm ngó nghi kỵ từ cấp cao nhất. Kinh nghiệm của những cuộc đảo chánh năm 1960 và 1963 đã chứng minh điều đó, một xứ sở không cho phép bất cứ một ai trở thành người hùng dài lâu.
Rà tới rà lui mãi mới đề ra được hai khuôn mặt sáng giá nhất, có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng không có tham vọng chính trị. Đó là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật (năm 1972 tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh chuyển những vùng chiến thuật thành quân khu) với các sư đoàn thuộc quyền là Sư Đoàn 5 Bộ Binh, SĐ18BB và SĐ25BB. Vị thứ hai là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật với các SĐ7BB, SĐ9BB và SĐ12BB. Cả hai vị tướng đều trẻ, tự tin và vô cùng năng động, chỉ mới nổi lên sau Tết Mậu Thân, chứng tỏ được là những vị tướng có thực tài, có khả năng kích thích tinh thần chiến đấu quân sĩ và có tầm nhìn chiến lược…
Cũng trong thời điểm ấy Trung Tướng Đỗ Cao Trí mới vừa nhiệm chức đã hăng hái bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn những sư đoàn nghiêng ngả và rách nát của ông, mà theo lượng giá của các cố vấn quân sự Mỹ thì SĐ5BB là “sư đoàn bết bát nhất chưa từng thấy”, còn SĐ25BB thì là “sư đoàn dở nhất trong tất cả các sư đoàn”, trong khi SĐ18BB cũng không khá hơn và đã được cải đổi từ sư đoàn “bù mười nút”, tức SĐ10BB ra thành sư đoàn “hên chín nút”, tức SĐ18BB cho mãi đến ngày nay. Công việc của Tướng Trí hết sức vất vả, nhưng chẳng mấy chốc phần thưởng xứng đáng đã hiện ra rõ nét. Trong cuộc tấn công của Quân Đoàn 3 vào đất Kampuchea, SĐ5BB đã không phụ lòng trông cậy của ông và đã đánh những trận để đời. Sau này Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng cũng đã cùng với SĐ5BB tử thủ anh dũng ở An Lộc, viết nên trang sử hào hùng trong chương sử hoàng tráng của Việt Nam Cộng Hòa. SĐ18BB trong những giờ phút hấp lối của VNCH đã vượt trội lên thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH dưới quyền của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo đã làm cho Văn Tiến Dũng, vị tướng “hay không bằng hên”, phải ngừng ngay tiếng hót và ngậm bồ hòn ngay tại ngưỡng cửa Sàigòn. Việt Cộng đã cay đắng quá đối và đã hèn hạ trả thù vị tướng anh dũng ấy sau năm 75 bằng cách giam ông hơn 20 năm và có lẽ ông là vị tướng ra về chót hết trong số những vị tướng VNCH. SĐ25BB của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trấn thủ vững vàng ở mặt Tây Bắc Sàigòn và chỉ chịu rã ngũ vào những giờ phút cuối cùng nhất của cuộc chiến. Riêng viên tướng trẻ từng nổi danh thế giới trong mùa hè binh lửa 72 ở mặt trận Kontum, chỉ với một mảnh rách nát của SĐ23BB đã chuyển bại thành thắng, góp phần tống tiễn tướng “hên” trong trận Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp cay đắng lui về vườn đuổi gà, nằm gậm nhấm nỗi buồn bại tướng.
Đánh giá của bảng tường trình thì Tướng Trí là mẫu người ngoại hạng, có thể hoàn thành những công việc hầu như là vượt quá sức người. Ngôi sao Đỗ Cao Trí sáng chói quá đỗi cho nên cấp chỉ huy cao nhất cũng không thích ông và có tin đồn rằng cả 2 cuộc mưu toan ám sát ông bất thành đều có sự nhúng tay từ trên tận chóp đỉnh quyền lực. Tướng Trí cũng bị tung hỏa mù là một tay tham nhũng gộc, có lẽ muốn hạ uy tín quá lớn của ông. Những tờ báo lá cải thì tung tin Tướng Trí đào địch lăng nhăng trong giới thượng lưu. Bỏ qua hết thảy những tin tức giật gân và tào lao đó, Tướng Trí đúng là một con người cứng đầu cứng cổ, khi ông dám đương nhiên thay thế hai viên tư lệnh sư đoàn cục cưng của Tonton bằng hai viên tướng có thực tài khác. Một vị tướng tài năng về nắm SĐ5BB, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từng 2 lần làm Tư Lệnh SĐ22BB ngoài Quân Khu 2 và đã tạo được nhiều chiến công vang dội, ông đã bỏ nhiều công sức nhào nặn sư đoàn “Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà” 22 Bộ Binh thành một lá chắn thép không thể nào Bắc quân có thể đánh thủng nổi để cắt Việt Nam Cộng Hòa ra làm hai khúc. Giờ đây, Thiếu Tướng Hiếu về làm tư lệnh SĐ5BB, ông đã dẫn dắt sư đoàn làm nỗ lực chính, mũi đột phá của Quân Đoàn 3 trong chiến dịch tấn công sang lãnh thổ Kampuchea trong năm 1970. Để xoa dịu tự ái Tonton, Tướng Trí đã hứa chỉ đến cuối năm 1970 là ông sẽ nhào nặn 3 sư đoàn của Vùng 3 Chiến Thuật thành những sư đoàn thiện chiến nhất.
Cả hai viên tướng ấy và 6 sư đoàn thiện chiến đã sẵn sàng cho cuộc thử lửa trong chiến dịch tấn công sâu vào đất Kampuchea vào tháng 5, 1970 mà chúng ta quen gọi là chiến dịch KPC70. Tướng Trí được chỉ định làm tư lệnh quân đoàn VNCH làm cỏ các căn cứ Bắc quân trong khu vực Mỏ Vẹt (Parrot’s Beak)…
Tướng Trí đã tạo ấn tượng rất mạnh lên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Nhìn tới nhìn lui, nếu Tướng Trí không ở trên trực thăng gọi máy chỉ huy thì đã thấy ông ngồi ngất ngưởng trên thiết vận xa M113 cùng tiến lên với binh sĩ. Lúc nào ông cũng mặc chiếc áo rằn Nhảy Dù, binh chủng hào hoa ông xuất thân, không đội nón sắt, chỉ tà tà chiếc mũ lưỡi trai đính 3 sao, dưới nữa là cặp kính đen quen thuộc nằm thường trực trên khuôn mặt đẹp hùng dũng, tay cầm cây “ba toong” vung vẩy về phía trước gào to: “Tiến lên! Nhanh Lên!”. Westmoreland đã phải viết trong bản báo cáo: “Trí đúng là một con hổ trong chiến đấu, một George Patton (tướng thiết giáp lừng danh của Mỹ) của Việt Nam.” Tuy vậy nhiều vị tư lệnh sư đoàn thuộc quyền cũng không khoái mấy cung cách chỉ huy quá lả lướt ấy, họ cho rằng Tướng Trí muốn chơi trội, ông ta chỉ chú ý đến việc tạo ánh hào quang anh hùng cho riêng mình hơn là những quyết định quân sự thích ứng. Có ít nhất hai vị thượng nghị sĩ đã lên tiếng tố giác Tướng Trí có dính líu tới đường dây buôn lậu tiền tệ ở Sàigòn. Và nhiều cáo giác khác nữa, nhưng không làm lu mờ được những chiến công hiển hách và rõ ràng của ông.
Mặt trận Hạ Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719 khởi diễn hồi đầu tháng 2.1972 do Quân Đoàn 1 cùng với các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị khựng lại bất lợi trong khoảng trung tuần cùng tháng. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi Tướng Trí từ mặt trận KPC về để trao cho ông quyền tư lệnh mặt trận Hạ Lào thay thế cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Trí như thường lệ đứng nghiêm chào vui vẻ nhận nhiệm vụ mới, to lớn hơn, khó khăn hơn. Tuy nhiên công vụ bề bộn ở Quân Đoàn 3 và diễn biến của chiến dịch KPC còn cần đến sự hiện diện của Trung Tướng Trí. Trong một phi vụ quan sát hành quân, Trung Tướng Trí bay trên một chiếc UH1 về hướng biên giới Miên-Việt. Nhưng ông không biết rằng đó là chuyến phi hành cuối cùng. Khi chiếc UH1 bay ra khỏi không phận Biên Hòa và đang tiến vào không phận tỉnh Tây Ninh thì thình lình nó lảo đảo nghiêng ngửa, mất cao độ và đâm sầm xuống đất nổ tung lên. Một số các vị trí dưới đất các chiến sĩ Mũ Nâu nhìn thấy một chiếc trực thăng bao bọc bởi khói và lửa mất cao độ và rơi chúi đầu xuống cực nhanh. Không ai có thể ngờ đó chính là chiếc trực thăng đang chở vị tướng lừng danh nhất của Nam quân. Trung Tướng Trí, giờ đây là Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã tuẫn nạn phi cơ cùng với toàn bộ phi hành đoàn. Lại thêm một mất mát quá lớn khác cho quân lực VNCH. Có nguồn tin cho rằng Tướng Trí bị mưu sát vì thanh danh quá lừng lẫy của ông. Nhưng theo bản phúc trình của phái bộ MACV thì chính là do tình trạng thiếu kinh nghiệm bảo trì phi cơ của các chuyên viên Việt Nam, Nếu Đại Tướng Trí không bất ngờ bị tử nạn và ông ra Vùng 1 làm tư lệnh chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719, biết đâu lịch sử chiến đấu bảo quốc của người miền Nam và Vùng 1 Chiến Thuật sẽ được viết bằng những trang chữ vàng chói lọi hơn. Nam quân dưới sự điều động thần sầu của vị tướng tài sẽ đánh những trận lừng lẫy, đập nát các căn cứ tiếp liệu quân sự quan trọng của Bắc quân nằm trên trục đường Hồ Chí Minh, từ đó Bắc quân không còn tiềm lực để mở trận tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa hè năm 1972.
Hai viên đại tướng cùng hy sinh vì tổ quốc đã để lại một khoảng trống lớn trong cấp chỉ huy chiến trường trong một thời gian dài và phần nào làm khựng lại đà tiến của hai Quân Đoàn 3 và 4 QLVNCH. Viên Thiếu Tướng Mỹ George Wear đã đưa ra nhận xét như sau để thay cho lời kết thúc một chương sử u ám của QLVNCH: “Một khi mà QLVNCH được chỉ huy tốt thì họ chiến đấu dũng mãnh như bất cứ quân đội nào. Họ cần những vị chỉ huy biết cách hỗ trợ một cách thích đáng và lấy được lòng tin của lính tráng thì với giá nào binh sĩ cũng sẵn sàng dâng hiến đời họ cho những giá trị tuyệt đối của chiến thắng. Trung Tướng Thanh và Đại Tướng Trí chính là những mẫu người ấy.” (Phạm Phong Dinh phỏng theo David Fulghum, Terrence Mailand South Vietnam on Trial – The Vietnam Experience. Boston Publishing Company )
Cái Chết của một Chiến Tướng.
Quan ngại bởi bước tiến chậm chạp xâm nhập vào Hạ Lào, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lấy một quyết định nan giải đầu tuần trước. Ông phải đặt để một người chỉ huy mới. Vào 7 giờ sáng, ông triệu Trung Tướng Đỗ Cao Trí, 41 tuổi, một quân nhân mang nhiều huy chương nhất và danh tiếng nhất nước, đến dinh tổng thống tại Sài Gòn. Và ông ủy thác cho Tướng Trí công việc này. Hai người thảo luận ngắn ngủi thể thức và lúc nào Tướng Trí sẽ nắm quyền chỉ huy Lam Sơn 719 thay tư lệnh Quân Đoàn I Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Sau buổi đàm thoại, Tướng Trí đáp trực thăng đi thị sát quân lính của ông đang hành quân vượt biên trong một cuộc săn đuổi địch quân ngay tại các mật khu nằm trong vùng đông nam Căm Bốt. Không đầy 2 tiếng rưỡi sau, xác Tướng Đỗ Cao Trí được lôi ra khỏi thân xác tan tành của trực thăng trong tỉnh lỵ Tây Ninh.
Cả thảy mười người tử nạn trong chuyến bay, gồm có một vài cộng sự viên của Tướng Trí và phóng viên Newsweek François Sully. Theo lời thuật chính thức của phát ngôn nhân chính phủ, một bộ phận trực thăng bị hư hỏng khiến cho máy bay bị phát nổ trong khi đang bay cao 100 feet. Lẽ đương nhiên là lời đồn đãi thì đưa ra một giả thuyết khác: Tướng Trí là nạn nhân của một cuộc âm mưu tinh vi – theo thói thông thường và là một lời giải thích không chính xác cho bất cứ biến cố nào xảy ra tại Nam Việt Nam. Theo lập luận này, ông bị bắn hạ bởi các kẻ thù cá nhân hay chính trị. Các sĩ quan tình báo Mỹ nghi là trực thăng Tướng Trí bị hỏa lự̣c súng phòng không ̣địch bắn hạ; giới chức chính quyền tung tin trục trặc máy móc để ngăn ngừa địch lấy công là đã hạ thủ được một trong những anh hùng tài ba nhất của Nam Việt Nam.
Tướng Trí thường được đánh giá là chiến tướng cừ khôi nhất của QLVNCH, và các thành tích dũng cảm của ông đã được thần thoại hóa. Trong chiến dịch vượt biên Căm Bốt trong tháng 5 vừa qua, Tướng Trí thường đáp trực thăng xuống đất để nắm lấy quyền chỉ huy một đơn vị đang lâm nguy. Một lần nọ, sau khi người đứng cạnh ông bị mảnh pháo kích đốn hạ, Tướng Trí can trường nhảy lên một thiết vận xa và thôi thúc chiến xa tiến thẳng vào nơi phát xuất hỏa lực, “Tiến tới, tiến tới!”
Y phục chiến trường thông thường của Tướng Trí là một bộ đồ ngụy trang cây lá rừng, một chiếc mũ baseball với ba ngôi sao và một cây gậy, mà ông nói bông đùa luôn cầm trên tay để “phát đít Việt Cộng.” Ông say sưa với địa vị nổi bật và đơn sơ đủ để nhìn nhận điều đó. “Tôi thích trở nên một anh hùng,” ông nói một cách thật là thẳng thừng trong cuộc xâm chiếm Căm Bốt năm ngoái. Điều ít biết đến hơn là sự kiện “Tướng Patton của Vùng Mỏ Vẹt”, danh xưng được gán cho ông, cũng còn là một nhân vật hành chánh khôn khéo chỉ huy ba trong bốn vùng chiến thuật và có lúc được nhắm bổ nhiệm cho vùng chiến thuật thứ bốn. Ông hỗ trợ việt nam hóa chiến tranh lâu trước khi điều này trở thành quốc sách.
Sinh trưởng trong một gia đình điền chủ giàu có trong tỉnh Tây Ninh, Tướng Trí bay trực thăng hằng ngày giữa chiến trường và ngôi biệt thự sang trọng của ông, gồm có một hồ bơi, bên cạnh một con sông tại Biên Hòa. Tại đây, Tướng Trí ham thích đóng vai trò chủ khách, nhậu nhẹt và chuyện vãn tán gẫu. Ông cũng còn làm chủ một vườn thú gồm vịt, ngỗng, chim bồ câu, một con nai, một con bò và một con heo chạy quanh trong vườn. Tướng Trí chăm lo vợ và sáu người con; ông dạy kinh tế cho mấy đứa nhỏ bằng cách dùng tiền túi của chúng để mua thực phẩm cho heo, rồi chia phần lời với chúng khi bán được con heo. Nhưng cách lối sống của ông quá xa xỉ khiến cho người đời luôn nghi ngờ ông tham nhũng, và năm 1965, trong một vụ chính phủ điều tra tài sản ông, ông toan tính quyên sinh. Một trong số người bảo lãnh cho cuộc điều tra là Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó cầm đầu Không Quân. Hai người trở nên thù địch không đợi trời chung, và tuy là họ thường thấy mặt nhau tại các công vụ sau khi Tướng Trí trở lại nắm quyền chỉ huy quân sự năm 1967, họ không bao giờ bắt tay nhau.
Tướng Trí thường nói ông sung sướng nhất khi ông ở cạnh bên các chiến binh của ông ngoài mặt trận. Tuần qua, trong khi một quân nhân cầm trên tay một bó hoa hồng với một dải ruy băng có ghi hàng chữ VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC, quan tài Tướng Trí được hạ huyệt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Y phục, mũ, găng tay, cây kiếm và cây gậy của ông được cài đặt trên mặt quan tài.( Time Magazine Monday, Mar. 08, 1971)
From: quansuvn.inform