Showing posts with label chuyện tâm linh. Show all posts
Showing posts with label chuyện tâm linh. Show all posts

Sunday, February 26, 2023

 CHUYỆN TÂM LINH

Hồn ma đã cứu một căn cứ khỏi bị địch quân tràn ngập.
Của Ngô Bá Lai, khóa 2 CTCT Đà Lạt
Tài Trần: vợ của một đại đội trưởng đến đv thăm chồng, chẳng mai đêm đó đặc công VC tấn công đồn làm chết 4 lính và bà này. Ông này xin phép cấp trên nghỉ vài ngày để chôn cất vợ. Chỉ vài ngày sau, một lực lương VC rất đông tấn công đồn này, vị đại đội phó đã điều động binh sĩ chống trả dữ dội, và có sự giúp đỡ của một HỒN MA (sau này mới biết là vợ của ông đ.đ.t., lúc này ông chưa trở lại đv) đã bảo vệ đồn, gây thiệt hại nặng cho địch mà trong đồn ko ai chết.
======
Thân tặng bè bạn từng chiến đấu tại SĐ22BB.
Khóa 2 ĐH/CTCT ra trường vào đúng thời điểm cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam thân yêu đang hồi bùng sôi mãnh liệt! Đó đây,trên khắp các chiến trường, mức độ thương vong tăng cao. Cuộc chiến không còn trong khuôn khổ du kích lẻ tẻ, nhưng đã bước vào giai đoạn chiến tranh diện địa với những binh đoàn đông đảo tham dự, vũ khí cộng đồng được xử dụng hàng loạt và liên tục...
Tôi và 14 đồng đội bốc thăm về SĐ22 Bộ Binh, một trong những SĐ "hắc ám" nhất của QLVNCH! Vùng hoạt động của SĐ gồm 4 tỉnh "sôi đậu" đúng nghĩa: NAM, NGẢI, BÌNH, PHÚ. Nói đến NNBP, trừ những thành phố chính, an ninh còn tương đối bảo đảm, ngoài ra, dù đi hành quân ở bất cứ địa phương nào, bạn cũng có thể lọt vào trường hợp "chết bất đắc kỳ tử". Vì hầu hết các xã ấp sâu, xa người dân ít nhiều đều có quan hệ với phía "bên kia", phía địch. Phía mà chúng tôi phải đối đầu, phải dành dật giữa sống và chết!!!
* * *
Tình hình chiến sự ở đây đã vào giai đoạn căng thẳng, chẳng thế mà khi vào trình diện, Vị Tư Lệnh Sư Đoàn đã hỏi chúng tôi:
- Các anh từ đâu đến?
- Chúng tôi vừa tốt nghiệp K.2/ ĐH/CTCT/Đàlạt.
Ông trả lời không úp mở:
- Ở đây, ở Sư Đoàn này, không cần SQ/CTCT, chúng tôi chỉ cần những SQ biết cầm súng và chiến đấu.
Thế là, chúng tôi được chia đều cho các Trung Đoàn, rồi Tiểu Đoàn, rồi Đại Đội, rồi Trung Đội. Tất cả được phát M.16 như một binh sĩ, một tay súng của Đơn Vị! Tôi về Trung Đoàn 41. Tiểu Đoàn2, Đại Đội 3. Đại Đội Trưởng là một SQ tốt nghiệp Khóa 23 Võ Bị, ra trường trước tôi mấy tháng. Vậy cũng hay, ít ra, chúng tôi cũng có những niềm vui chung khi nói về Đalat, tháng ngày quân trường, những cuộc thi đấu thể thao chung, những kỷ niệm đẹp trên thành phố sương mù mộng mơ ngày nào.
Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 41BB đóng tại Phù Mỹ, một Quận Lỵ nằm dọc theo Quốc Lộ số 1, cách Thành Phố Qui Nhơn khoảng 40Km về hướng Bắc. Vì thế, vùng trách nhiệm gồm: Phù Cát, Phù Mỹ, Trung Thứ, Trung Thuận, chiến khu An Lão, Hoài Ân.
Căn Cứ SALEM nằm ở ngay Ngã Ba Quốc Lộ 1 và đường vào Ấp Trung Thứ. Nó nằm trên một ngọn đồi không cao lắm (khoảng 100m) nhưng vì chung quanh là đồng ruộng, nên đây cũng là vị trí tốt để quan sát khắp vùng. Căn Cứ tương đối rộng, có đủ chỗ cho một pháo đội 105 hoạt động và hầm hố đủ cho một Đại Đội trú đóng. Tôi không rõ tên SALEM đã có tự bao giờ. Nhân một lần Đơn Vị tôi đến tăng phái cho Căn Cứ, vì muốn hiểu rõ nguồn gốc cái tên là lạ này: Có phải nó là Căn Cứ cũ của Quân Đội Mỹ hay do một sự cố nào mà cái tên SALEM đã xuất hiện? Do tò mò và muốn phá tan thắc mắc cứ quẩn quanh trong đầu, tôi quyết tâm tìm hiểu cho ra lẽ. Sau vài ngày làm quen, tôi đã kết thân được với ông Thượng Sĩ Thường Vụ Đại Đội. Tôi nghĩ ông này chắc sẽ giải đáp được những thắc mắc của tôi. Qủa thật, vào một đêm tương đối yên tĩnh, bên ly cà phê, ông đã kể cho tôi nghe câu chuyện đầy vẻ huyền bí sau:
Đơn Vị tôi đóng tại ngọn đồi này cũng đã mấy năm. Trước đây, tình hình nói chung rất tốt, lính tráng đi đêm về hôm thoải mái. Trước cổng, thường chỉ có một con ngựa chắn bằng kẽm gai sơ sài. Chỉ có một lính gác thường trực, nhưng đôi khi, thằng lính canh cũng ngủ gà ngủ gật, bỏ đi đây đó một vài giờ mới trở về. Chung quanh căn cứ cũng chỉ rào sơ sài bằng 2 lớp kẽm gai cao độ 2m. Về sinh hoạt bên trong, nhiều khi, tôi cũng làm ngơ cho anh em để vợ ở lại qua đêm hay mấy cậu trẻ dẫn gái vào chơi đến khuya mới về. Tính ra, an ninh như vậy là lỏng lẻo, nhưng thấy chẳng có gì bất trắc, nên tôi cũng không lo lắng bao nhiêu. Cho đến một hôm, vào khoảng 2 giờ sáng, tôi bật dậy vì một tiếng nổ rất lớn gần hầm tôi nằm. Tiếng nổ lớn hơn tiếng lựu đạn, nên linh tính cho tôi biết có chuyện bất thường. Tôi vội nai nịt cẩn thận, nhìn qua lỗ châu mai xem động tĩnh. Tất cả vẫn yên lặng không có dấu hiệu bất thường. Tôi bò ra khỏi hầm, mắt láo liên quan sát.... Thì... từ phía cổng vào, những bóng đen vượt qua con ngựa kẽm gai, rồi tách ra 2 phía. Tôi hốt hoảng, biết ngay chuyện gì đã xẩy ra. tôi bò sang hầm Chỉ Huy, trung uý Đại Đội Trưởng cũng đã sẵn sàng. Tôi nói nhỏ:
- Việt Cộng tấn công đồn, Trung Úy. Chúng vào từ hướng cổng.
- Ông sang Đội Súng Nặng, bảo nó bắn trái sáng và coi anh em bên đó. Tôi điều động anh em bên này.
Trong lúc tôi trườn mình đến Đội Súng Nặng, tôi nghe một tràng M16 nổ vang và tiếng Đại Đội Trưởng hét:
- Báo động! Báo động! Việt Cộng tấn công đồn. Hãy cẩn thận, chúng đã lọt vào Căn Cứ.
Tôi hài lòng những lời bạch hóa của Vị Chỉ Huy. Đây là cách tốt nhất, nhanh nhất để các chiến hữu của tôi biết hiện trạng và tìm hướng giải quyết cho phù hợp. Khi trái sáng đầu tiên bừng nổ giữa trời đen, hàng loạt M16 đồng thời được khai hỏa ở mọi hướng, song song, nhiều tiếng lựu đạn nổ rải rắc xa gần. Tôi hiểu tụi đặc công đang tung hoành trong Căn Cứ. Tôi hét lớn:
- Tất cả nằm tại chỗ, quan sát kỹ, thấy ai di chuyển cứ bắn bỏ.
Sau tiếng hét của tôi. Căn Cứ trở lại vẻ yên lặng ngột ngạt, đợi chờ...
Tôi nhận thấy: Tiếng súng chỉ ầm vang khi bầu trời hết ánh hỏa châu. Hiện tượng này cứ diễn đi diễn lại nhiều lần. Tôi biết tiếng hét của tôi đã có hiệu qủa, tụi đặc công chỉ dám di chuyển khi hết ánh hỏa châu nhưng ngay lúc đó chúng đã bị hỏa lực của binh sĩ đồn trú chờ sẵn chặn đứng lại. Chính vì thế, tiếng lựu đạn mỗi lúc một thưa dần, rồi tắt hẳn. Để kiểm chứng một ý nghĩ vừa hiện ra trong đầu xem nó đúng hay sai. Tôi cho tạm ngưng bắn trái sáng và nghe động tĩnh trong Căn Cứ. Thinh lặng. Hoàn toàn thinh lặng...
Tôi hiểu, cuộc tấn công bằng đặc công đã chấm dứt, một là chúng đã bị tiêu diệt, hai là chúng đã rút lui. Đang suy nghĩ thì ông Đại Đội Trưởng đã đến bên tôi. Sau vài câu trao đổi. ông ra lệnh bắn tiếp hỏa châu để kiểm soát và nắm vững tình hình của Đơn Vị.
Kết qủa sơ khởi :
- Phía ta: 4 chết, 4 bị thương.
- Phía địch: 8 chết, thu 2 AK47, một số beta bị tịt ngòi, một số chưa mở kích hỏa.
Thấy câu chuyện ông kể đã gần hết mà chưa có tia sáng nào về cái tên SALEM, nên tôi chen vào:
- Chuyện đặc công đánh nào có liên quan gì đến cái tên của Căn Cứ đâu?
Ông lộ vẽ không hài lòng:
- Từ từ, trung úy. Câu chuyện còn dài mà.
Tôi nhẫn nại, lấy thuốc mời ông cùng hút. Ông vui vẻ, rồi tiếp tục:
- Cái đau nhất và thương tâm nhất là cô vợ mới cưới của Ông Đại Đội Trưởng bị chết banh thây trong hầm Chỉ Huy!
Tôi ngạc nhiên:
- Sao lại có vợ ông ta ở đó?
- Vâng, đúng vậy. Ông ta mới xin được 15 ngày phép về cưới vợ. Hết phép, ông phải về Đơn Vị. Vợ ổng mới đến thăm lúc sáng. Cô này dễ thương lắm, ai cũng quý cô ta. Đặc biệt, bao giờ đến đây, tôi cũng thấy cô mặc đồ trắng. Khi thì áo dài, khi thì đồ đầm... Nhưng luôn luôn là màu trắng. Mầu của một tâm hồn ngay chính.
- Rồi sao nữa?
- Vì quá thương vợ, ông ta giao Căn Cứ cho ông Đại Đội Phó, rồi gọi tôi đến căn dặn: Ông cố gắng giúp tôi. Tôi phải đưa nhà tôi về gia đình, lo tang ma cho trọn tình, trọn nghĩa và cũng một phần để an ủi gia đình. Ông cố gắng lo cho anh em mọi sự tốt đẹp. Tôi chỉ lo một điều, trong khi tôi vắng mặt chúng sẽ trở lại phục thù mà không có tôi... Tôi không sợ mất chức, nhưng tôi lo Đơn Vị thiệt hại nặng hơn thì tôi ân hận lắm. Ông đốc thúc anh em tu bổ lại hầm hố, hàng rào, canh gác cẩn mật, kiểm soát người ra vào, đặt mìn bẫy những trọng điểm. Tôi đã dặn kỹ ông Phó rồi. Vài ngày tôi sẽ trở về. Hãy hết sức bảo vệ Căn Cứ. Tôi không quên ơn ông đâu.
Tôi chỉ biết cúi đầu, nước mắt lưng tròng:
- Trung Uý yên tâm. Tôi hứa chu toàn tất cả. Tôi sẽ làm hết sức mình. Tôi xin thành thật chia buồn với Trung Uý và gia đình.
Ông bơ phờ, nước mắt chan hòa rời Căn Cứ với người vợ xinh đẹp, vắn số của Ông.
Thấy ông dừng câu chuyện, tôi lại thắc mắc:
- Tôi hỏi ông cho tôi biết nguồn gốc cái tên SALEM kia mà?
Ông cố ngăn xúc động, đáp:
- Chưa, chưa hết mà Trung Úy.
Tôi lại một lần nữa mời ông cùng hút thuốc chờ cơn xúc động của ông lắng xuống. Thế rồi ông kể tiếp:
* * *
Sau khi Ông Xếp rời Căn Cứ được 4 ngày. Sáng ngày thứ 5, vâng, đúng thế. Tôi không hiểu tụi nó điều động lực lượng từ đâu về mà đông quá sức. Chúng không chỉ đánh đặc công mà còn tấn công bằng bộ binh nữa. Ngay những giây phút đầu tiên: Mìn bẫy, lựu đạn, mìn phá hàng rào, súng ống đủ loại nổ ran, ầm ầm như muốn nuốt chửng Căn Cứ! Rất may, qua kinh nghiện lần trước cũng như những lời dặn dò của Ông Xếp, chúng tôi đã tổ chức phòng thủ rất chặt chẽ và đã sẵn sàng chờ đợi cuộc trả thù đêm nay.
Khi trái sáng đầu tiên xuất hiện trên bầu trời, qua lỗ châu mai, tôi hoa cả mắt. Ôi trời đất! Sao chúng nó đông thế, đông nhất là chỗ hàng rào đã bị phá vỡ bằng chất nổ. Chúng nối đuôi nhau, bò lổm ngổm như đàn cua... Tôi hét lớn:
- Dồn hỏa lực vào chỗ hàng rào bị phá.á.á...
Tôi nghe tiếng Ông Đại Đội Phó tiếp theo:
- Các khẩu đại liên, súng cối, M.79 dồn vào khu hàng rào hướng Đông-Bắc.
Trận chiến sôi sục đã kéo dài nửa giờ nhưng tụi nó không sao vượt qua được vòng đai phòng thủ. Đã có nhiều xác của chúng nằm rải rắc đó đây, trên hàng rào, trên mắt đất. Tiếng la hét, tiếng hô xung phong ầm vang , nhưng, như có một sức mạnh vô hình nào, thần bí nào đó níu chặt chân chúng lại, chúng không thể nhúc nhích, chúng cứ nằm đó để ăn đủ mọi thứ đạn!!!! ????
Lúc tiếng súng đã dịu lại, quá mệt mỏi, tôi nằm ngả người nhìn lên bầu trời. Trong ánh hỏa châu đang lừng lững giữa không trung, tôi thấy rõ ràng hình bóng một người thiếu nữ, mặc bộ đồ trắng như tuyết, bay qua , bay lại, chập chờn, lúc ẩn, lúc hiện, tà áo phất phơ lấp loáng lên xuống theo âm vang của trận địa. Tôi nghĩ mình bị hoa mắt? Không, tôi véo vào tai, tát vào mặt, xem mình mơ hay tỉnh. Tôi lấy tay che mắt rồi bỏ ra để thử thị giác của mình. Không, qủa thật tôi còn sống, tôi vẫn tỉnh???!!!
Một ý nghĩ chợt đến trong đầu: Biết đâu, vợ Ông Trung Úy linh thiêng về giúp Căn Cứ? Một cảm giác vừa vui, vừa sợ chạy ran khắp người. Tôi cố nhìn thật kỹ. Đúng rồi! Tôi không thấy rõ mặt, nhưng đúng là Nàng rồi. Cái vóc dáng ấy, mái tóc ấy, cử chỉ ấy thì không thể sai được. Tôi buột miệng, lòng rất thành khẩn:
- Cô là ai? Có phải vợ Ông Xếp tôi không?
Lạ lùng thay, tôi nghe tiếng đáp trả văng vẳng trong gió nhưng rất rõ ràng:
- Vâng, em là SA đây, SA LÀ EM đây... Em là SA... SA LÀ EM...m...m... đây.
Tôi thẫn thờ như người trong mộng. Tất cả mọi tiếng nổ đã im bặt. cuộc tấn công đã chấm dứt. Bóng dáng người thiếu nữ lạ lùng kia cũng đã biến vào không gian. Và tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Mãi sáng hôm sau tôi mới tỉnh dậy. Thu dọn chiến trường. Thật lạ lùng! Cả Căn Cứ không một ai bị hề hấn, dù là bị thương nhẹ? Một đoạn lớn hàng rào bị phá tung và 60 xác chết nằm ngổn ngang ngay đó, với đủ mọi thứ vũ khí, chỗ mà không còn một chướng ngại vật nào ngăn cản chúng tiến vào!!! Đúng là cái ranh giới của thần thánh, cái điểm của tử thần?! Đúng cái nơi mà tối hôm qua tôi thấy người thiếu nữ bay qua, bay lại, ngăn chặn kẻ thù.
Nhìn khuôn mặt ông Thường Vụ, tôi cảm nhận được sự tôn kính, thành khẩn trong từng lời nói.
* * *
Một ngày sau khi Căn Cứ bị tấn công lần 2, Trung Úy Đại Đội Trưởng trở về giữa lúc Đơn Vị đạt một chiến thắng vang dội đầy huyền bí. Tôi kể lại cho Ông nghe trận đánh lạ lùng. Tôi cũng kể cho Ông biết tất cả những gì tôi đã chứng kiến, tai nghe, mắt thấy về hình bóng người con gái thần tiên, xưng tên là SA. Ông không ngạc nhiên nhiều, rồi Ông trầm ngâm nói:
- Tôi cũng kể cho ông nghe chuyện này: Đúng vào đêm Căn Cứ bị tấn công lần 2. Sau khi chôn cất nàng xong, đêm đó tôi mệt qúa, thiếp đi lúc nào không hay. Khoảng 2:00 sáng, có người đến gọi tôi dậy và tôi nghe rõ tiếng nàng, vợ tôi, nói với tôi: "Em đi cứu Căn Cứ của anh đây. Việt Cộng đang tấn công dữ lắm! ".
Tôi vội chen vào:
- Dạ đúng. Tụi nó bắt đầu nổ súng lúc 2 giờ sáng, thưa Trung Úy.
Ông tiếp tục:
- Tôi còn chưa hoàn hồn và ngỡ ngàng, tôi hỏi bâng quơ: "Có phải SA đấy không ? Có phải em không? " Tôi chỉ nghe văng vẳng bên tai: “Vâng, em đây, em là SA đây, SA LÀ EM ... em là SA...SA LÀ EM đây..." Rồi tất cả chìm vào im lặng!!! Tôi không thể nào ngủ lại được . Sáng sớm, tôi tạm biệt gia đình và vội vã về đây xem hư thực ra sao? Nay nghe ông kể, tôi tin là chính nàng đã đến cứu Căn Cứ, cứu chúng ta.
Chúng tôi bàn nhau, vì Nàng linh thiêng như vậy, mình nên đặt một Bàn Thờ ở Căn Cứ này để tưởng nhớ, nhang khói và bầy tỏ lòng tri ân với Nàng. Ông Thượng Sỹ kết thúc rồi hỏi tôi:
- Chuyện thật đấy. Trung Úy có tin không? Thôi tùy, nhưng chuyện có thật đấy, trung úy ạ.
Sáng hôm sau, ông Thượng Sỹ đã dẫn tôi ra trước cổng Căn Cứ chỉ cho tôi một Miếu nhỏ, ngay bên cạnh bức tường thấp có hàng chữ: CĂN CỨ SALEM.
Trong cái Miếu nhỏ, tôi đọc được dòng chữ mạ vàng rất đẹp:
Tưởng nhớ
CÔNG TẰNG TÔN NỮ HOÀNG TUYẾT SA
THẦN NỮ BẢO HỘ CĂN CỨ SALEM
(SA là EM, viết gọn lại thành SALEM)
Câu chuyện làm lòng tôi cứ hoang mang mãi, đầu óc thì cứ suy nghĩ hoài. Đã rất nhiều người cũng đã từng kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện lạ lùng, tưởng như hoang đường, về những cái chết bất đắc kỳ tử, những cái chết anh hùng tại những Căn Cứ địa, tại những Đơn Vị, rồi sau đó, những anh hồn đó đã trở về giúp đỡ Đơn Vị mình thoát khỏi những tình huống khó khăn, sức người không thể vượt qua!!!
Rất nhiều Đơn Vị đã đạt những chiến thắng vang dội. Rất nhiều Căn Cứ đã đứng vững một cách lạ lùng trước sự tấn công vũ bão của địch quân đông gấp 5, 10 lần. Qủa thật, đã có những câu chuyện khó tin, nhưng có thật. Có những sự việc không thể xẩy ra, nhưng đã xẩy ra. Có những sự huyền bí mà đến nay con người vẫn không thể hay chưa thể giải thích, khám phá. Suốt chặng đường dài, Quân Dân Miền Nam chiến đấu bảo vệ Nền Tự Do, Nhân Quyền, chống lại Tà Thuyết Cộng Sản, đã có biết bao Qúy Nhân phù trợ, biết bao Anh Linh Chiến Sĩ Anh Hùng chung vai nâng đỡ. Nhưng, thật bất hạnh! Miền Nam đã thất thủ, biết bao đồng đội tôi đã vào tù, kể cả tôi. Có phải Số Phận Miền Nam đã được Trời-Đất định đoạt, sắp xếp, theo đúng Chu Kỳ Tạo Hóa ấn định và cũng lạ lùng như câu chuyện huyền bí này???
Dù huyền bí, nhưng câu chuyện CĂN CỨ SALEM, tôi nghĩ là có thật.
NT2 Ngô Bá Lai
Web Page updated: 12/01/2010 - WEB NT2

Thursday, August 18, 2022

 Attack and Counter-Attack on Highway 19

In 1965 the North Vietnamese communists launched a campaign designed to cut Vietnam in two and to defeat the Army of Vietnam (ARVN) in open warfare.

During the winter-spring offensive of 1964-65 the Viet Cong turned to the highlands of central Vietnam. The strength of the VC attack at An Lao in northern Binh Dinh Province in December indicated that the VC were prepared to quicken the tempo of activities from small-scale guerrilla actions to mobile warfare. In this action they operated at regiment or task force strength of at least three or four battalions. The VC held their ground and withdrew only under strong pressure by the Army of Vietnam. This was a change from their previous policy of raiding and ambushing, withdrawing as ARVN troops approached.

Then in February, concurrently with attacks on the II Corps advisory group billets and the 52d Aviation Battalion airfield in Pleiku, the VC launched a series of large-scale assaults in northern Binh Dinh Province. These were designed to seize control of the entire northern section of the province, and were successful. They overran several ARVN and regimental force positions and seized the northern portion of Binh Dinh Province, driving the remaining ARVN forces into isolated enclaves at Bong Son and Phu My which had to be supplied by air. This action was quickly followed by an operation in central Binh Dinh to cut Highway 19, the main supply route between the major port in the area (Qui Nhon) and the highlands. If successful, this attack would have isolated the highland provinces of Kontum and Pleiku. Cut off from supplies by road, they would have then depended only on air for resupply. This would have further weakened morale and put the VC in an excellent position for a later offensive, during the rainy season, against Kontum and Pleiku.

It is interesting to see how the Viet Cong retain the ability of their masters and predecessors, the communist Viet Minh, to shift their attacks rapidly from sector to sector in support of an overall plan. It is also significant to note how the foot mobility, while good enough to match that of French tanks and trucks, is having difficulty in coping with the helicopter mobility and firepower of today's ARVN forces.

The first serious attempt by the VC during 1965 to harass Highway 19 was launched on 14 February. This strategy had been anticipated by the II Corps commander (Brigadier General Nguyen Huu Co) in December 1964, after the An Lao battle. The II Corps commander is an experienced field commander with an intuitive grasp of the communist tactics resulting from extensive filed and command duty during the past 20 years of war in Vietnam. In December, when the attacks were made against An Lao and increased VC movements pointed to future activity in the northern Binh Dinh areas, he began to strengthen positions along the main supply route between Qui Nhon and Pleiku. As he explained: "This is just like the Viet Minh winter-spring campaign of 1954. They will strike in the plains of northern Binh Dinh to force us to rush our reserves over to the seacoast. Once this is done, they will then try to cut Highway 19 and isolate the highlands. This time we will be ready for them."

To strengthen his forces, already stretched thin over the II Corps area - the largest corps area in Vietnam, comprising nearly 50 per cent of the country's land - he took this action: Several companies of the Civilian Irregular Defense Group were deployed into two camps along Highway 19. (CIDG companies are formed from among the local populace and trained by Special Forces. In the plateau region CIGD companies are formed from among the various Montagnard tribes.) Next, several infantry battalions that had been on static security missions were freed from that mission and reassigned as mobile reserves. He also had his staff prepare plans for this contingency. Helicopter landing zones and airstrips were resurveyed and ammunition, POL, and other supplies stocked in key areas. Concurrently with these preparations, the mobile reserves were trained in the techniques of movement by helicopter and fixed-wing transport, Caribous as well as C-123s. These preparations completed, the stage was set for the next phase of the VC winter-spring offensive.

The first blow by the Viet Cong, directed against Highway 19, fell on an under-strength Regional Force company moving from Pleiku to positions in Mang Yang Pass. This company was ambushed west of Mang Yang Pass and suffered several losses. In this attack the enemy was armed with Chinese copies of the latest Soviet family of infantry weapons: SKS rifle, AK assault rifle, and RPD light machine gun, as well as a copy of the new Soviet RPG-2 antitank rocket launcher. Here was the first concrete evidence that a new unit was operating in this area. Orders were given to intensify friendly activity along Highway 19, and the CIDG units in the area increased their combat patrols and began operation in company-sized units.

On 20 February the VC launched their all-out effort to seize Highway 19 and cut off the highlands. First they struck at the CIDG outpost, Forward Operational Base No.1 (FOB1) east of Mang Yang Pass. (Sketch 1). The Civilian Irregular Defense Group forces at An Khe replied immediately and dispatched a CIDG company as a reaction force. As this company approached the outpost, it ran into an ambush which it routed by a head-on assault which caused the VC to break and run, leaving weapons and bodies on the site. The CIDG company then proceeded to the outpost where it gathered up the scattered friendly forces and remained overnight. Next day, as the company was returning to base camp, it was ambushed again, and its vehicles knocked out by the RPG antitank rockets. This time the Viet Cong succeeded and the CIDG company suffered heavy losses. On learning of this ambush, the CIDG company on alert at An Khe was dispatched to its relief. As the alert company approached the ambush site it was stopped by a roadblock and met heavy 82 mm mortar fire which destroyed the lead vehicle and caused several casualties. Threatened by encirclement and under mortar fire, the company withdrew to An Khe.

Plans were then made by the C Detachment at Pleiku for a CIDG company from Soui Doi, a camp to the west of Mang Yang Pass, to move to the east down Highway 19 while the forces in An Khe would work to the west (Sketch 2). These operations were designed to press the VC from two directions. Arrangements were made to have a helicopter-borne Eagle Flight of one CIDG platoon on standby to be lifted in to support the company from Soui Doi. Also alerted as further backup in case it was needed was the Corps reserve, a ranger battalion.

As the Soui Doi CIDG company approached the site where the French Groupe Mobile was ambushed and destroyed in 1954, their trucks were also hit by RPG antitank rockets which literally blew the trucks apart. This was followed by a furious VC assault. The company was overrun, but the survivors finally fought their way out of the ambush and back to Mang Yang Pass. They were supported by helicopter gunships and A-1E fighters which had been on column cover for such a contingency. The CIDG survivors reported that they had been assaulted by waves of Viet Cong who threw grenades and were armed with new weapons. They reported that after their ammunition had run out they used knives, bayonets and grenades in the hand-to-hand combat which followed the ambush. An indication of the ferocity of the melee was the nature of the wounds. One CIDG trooper had the calf of his leg bitten through.

On hearing of the ambush, the Eagle Flight platoon was immediately launched and landed to the east of the site in an effort to put pressure on the VC rear and rout the ambush. This attempt failed because the VC were too strong and their fire pinned down the Eagle Flight.

The Eagle Flight was soon reinforced by a helicopter lift of a ranger company which joined up with the Eagle Flight. They came under heavy fire and after suffering several casualties established a defensive perimeter for the night. By this time it was dark and the rest of the ranger battalion could not be lifted by helicopter into this area, but was airlanded by Caribous at the An Khe airfield. Next morning the Eagle Flight and the ranger company seized the ambush site and called in helicopters to evacuate the wounded. Among the wounded was a nine-month-old baby, sole survivor of a busload of civilians headed from Qui Nhon to Pleiku who had been massacred by the Viet Cong at the ambush site. The ranger company and Eagle Flight at the ambush site began moving east along Highway 19, but due to strong VC forces in the area, were ordered to join up with a nearby CIDG outpost (FOB2) and to defend the area until a relief force arrived.

The ranger battalion at the An Khe airfield was ordered to launch a battalion attack down Highway 19 to the west and link up with the ARVN troops now isolated at FOB2.

The ranger battalion assaulted to the west down Highway 19 on the morning of 23 February with the mission of clearing the road and linking up with the isolated ARVN troops at FOB2. Initially the rangers advanced rapidly against light resistance, uncovering the destroyed trucks at the site where the An Khe CIDG company was ambushed. Soon thereafter, however, they ran into a strong, dug-in VC position. They then organized and launched a coordinated attack but were stopped cold with heavy casualties.

The Viet Cong in turn counterattacked, supported by heavy mortar fire, so the ranger battalion withdrew slowly back toward An Khe.

At this time the Corps chief of staff (Colonel Hieu) and the Corps senior advisor reconnoitered the area to clarify the situation for the Corps commander. They found that the VC troops were in battalion strength, well equipped, and had used conventional infantry tactics of fire-and-movement. In addition, the VC had been well trained in the techniques of antiaircraft fire against helicopter gunships. Those being fired at directly would seek cover, but those in the flanks would continue firing at the chopper. The reconnaissance determined that the VC effort to seize the An Khe Valley was sparked by large numbers of hard-core Viet Cong troops. After learning this General Co, II Corps commander, immediately called for reinforcements from units of the general reserve at Saigon and ordered his troops to defend An Khe.

The major immediate problem was the 220 troops surrounded at the Civilian Irregular Defense Group's FOB2. It was felt that if they were not relieved they would soon be overrun. General Co immediately approved the scheme for removing them by helicopter, and planning was expedited. This was a ticklish operation since the trapped units were completely surrounded by VC and the choppers would be extremely vulnerable to small-arms fire while landing and taking off. In addition, if the landing zone itself came under heavy mortar fire, it could well result in serious losses and chaos. A plan was drawn up and approved by General Westmoreland for the first use of jet aircraft in support of operations in Vietnam.

The plan called for use of U.S. jets on the flanks of the helicopters to provide suppressive fires by strafing and bombing while the helicopter gunships flew shotgun on the immediate flanks of the "slick" choppers. This scheme - trying to match helicopters, F-100s and A-1E fighters and B-57 bombers, all of different speeds and characteristics, in a single integrated operation - required careful planning and split-second execution. Fortunately it went off like a charm. Almost without incident, 220 ARVN and CIDG troops were taken out in three lifts on the afternoon of 24 February. On the last lift the choppers began meeting mortar fire and sporadic small-arms fire near the landing zone, but fortunately only one chopper was hit and one man wounded. The Army Aviation choppers, supported by Air Force jets, proved their versatility by adding a new type of operation to their already impressive list of accomplishments in Vietnam. Had this action happened in 1954, the men isolated in the valley would have been lost as was the Groupe Mobile when it was surrounded in the same area. This time, however, the choppers and jet aircraft proved to be the additional factor which turned the table on the Viet Cong. By this time reinforcements from the general reserve airborne brigade were pouring into the An Khe airfield. The airborne task force quickly reconnoitered and launched an attack against the VC battalion which had pushed back the ranger battalion, and mauled it severely. It was estimated the VC lost more than 200 in this engagement. They were punished so badly they left many weapons and bodies on the battlefield.

Defeated along Highway 19, the VC next tried to overrun the Special Forces camp at Kannak. This camp north of Highway 19, and its sister camp south of Highway 19 at Plei Ta Nangh, had been placed in the An Khe Valley as outposts for Highway 19. While unable to stop infiltration of units to attack Highway 19, they threatened the rear of the Viet Cong units operating along the highway. They were a particularly dangerous threat to VC resupply and evacuation of wounded from these engagements along the highways.

The VC launched their attack on the Special Forces camp at Kannak at 0150 hours on 8 March. Captured documents indicate that elements of two battalions participated. They attacked in a bloody action reminiscent of the bitter outpost fighting in Korea at Pork Chop, T-Bone and Old Baldy in the spring of 1953. The two smaller outposts of the camp were initially overrun. One was later retaken by a counterattack by the CIDG. The central part of the camp held firm and the VC were driven off in complete disorder. They left 126 dead in the barbed wire and inside the outpost positions they penetrated. In addition to many new weapons including machine guns, 57 mm recoilless rifles, bipods of two 82 mm mortars and many grenades, bangalore torpedoes and demolition charges were abandoned by the defeated and disorganized VC. This action finally broke the back of the first phase of the Viet Cong's winter-spring offensive.

The VC offensive blunted, the II Corps commander next launched a phased counteroffensive. These operations were designed to reopen first Highway 19 and then Highway 1. The first phase of the Corps attack cleared the VC from highway approaches in the An Khe Valley and soon Highway 19 was opened to civilian trucks carrying the much needed supplies for the highland plateau.

The next phase, an offensive to reopen Highway 1, was launched by the 22d Division. Its objective was to clear the Viet Cong from the northern portion of Binh Dinh Province which they had seized during their February offensive. The first task was to link up with the isolated garrison at Phu My and repair the road and bridges which had been severely damaged by the VC. The highway repaired to Phu My, an attack was launched north from Phu My and south from Bong Son, designed to clear the VC from Highway 1 and relieve the garrison at Bong Son which had also been surrounded and had to be supplied by air since the VC attack in early February. These two attacks were mounted in coordination with a third force, lifted by helicopter to secure an air-head midway between Bong Son and Phu My. This attack progressed rapidly against only light enemy resistance, and the road to Bong Son was soon reopened. When Highway 1 was opened between Bong Son and Qui Nhon, civilian traffic soon started moving and refugees began returning to the hamlets and to government control.

Bong Son having been secured, planning began for the last and most difficult step of the operation. The Hoai Nhon District of 125,000 people was vital to the VC plan for securing Binh Dinh Province. It was felt that the VC would react strongly to prevent the ARVN from recovering the district. The Viet Cong 2d Regiment of at least four battalions had withdrawn in face of the 22d Division's attack to the mountains west of Highway 1. Since this attack was designed to clear the Viet Cong from Highway 1 all the way to the Corps boundary, General Co (II Corps commander) and the Corps senior advisor visited Danang (I Corps headquarters) and coordinated this phase of the attack with the I Corps commander and his staff. Detailed plans were also prepared for artillery and close air support.

This last phase of the Highway 1 offensive was begun on 10 April with a two-battalion helicopter assault to secure an airhead at Vinh Thuy, near the I Corps boundary. This was coordinated with a ground attack north from Bong Son and also supported by an operation by I Corps which secured the high ground dominating Highway 1 on the boundary of the two corps. This helicopter assault landing and the attack from Bong Son (north) at first met only scattered resistance.

After clearing the landing zone against light opposition the two Marine Corps battalions separated and began clearing the hamlets along Highway 1. This was what the VC had been waiting for. On the night of 21 April, five days after the helicopter assault, the Viet Cong 2d Regiment launched an attack by a force estimated at three to four battalions, designed to destroy the southernmost Marine battalion. If successful, the attack would have destroyed the battalion, cut Highway 1, and isolated the northern Marine battalion and its artillery. Fortunately, the marines were alert, well dug in, and stood their ground. Supported by artillery, they completely crushed the VC attack, the enemy withdrawing and leaving more than 200 bodies on the battlefield along with some 100 weapons, including machine guns, recoilless rifles, and mortars. As the VC withdrew to the west, they were hit by fighters and suffered still more casualties. The next night the VC launched a battalion-sized attack designed to cover the general withdrawal into their base area of their badly mauled force along with their many dead and wounded. This successful action broke the back of resistance by the Viet Cong main force in this area, and the 22d Division and marines continued mopping up against the local VC and guerilla forces that remained behind.

In preparation for the next round, the Army of Vietnam forces expedited their reconsolidation of the area. They repaired the road, reorganized the village government cadres, and began retraining and reorganizing their Popular and Regional Force units in an effort to reestablish civilian control in the area. The initial phase of the Viet Cong offensive had been defeated. However, the rainy season approaching, the VC were capable of reinforcing their units with new battalions and regiments of the People's Army of (North) Vietnam from North Vietnam and attacking once again, this time in much greater numbers.

The most impressive lesson learned during this period was the importance of the factor of morale - that imponderable in military operations too often ignored by today's computer-oriented operations research analysts in their wargames and studies. Initially defeated and driven back by the VC offensive which was spearheaded by new units infiltrated from the North, the morale of the ARVN troops sank to a critically low point by mid-February 1965. At this time U. S. air strikes on North Vietnam and the release of jet aircraft to support local engagements - noted in the successful recovery of 220 trapped ARVN troops on Highway 19 - gave a shot in the arm to the morale of the South Vietnamese armed forces. President Johnson's dispatch of U.S. marines to Danang was viewed as the final evidence of our firm determination to stand with the South Vietnamese government in its fight to retain its freedom. The Army of Vietnam's successful counteroffensive that followed and the reopening of Highways 19 and 1 have still further raised morale.

Dispersed and driven back into their mountain and jungle bases, the next move was up to the VC. With the approach of the monsoon season they had the capability for massive reinforcement with more troops from the North. Once prepared they could strike again, under cover of the rain storms due in late May or early June in the high plateau. However they move, the VC will be facing ARVN units whose morale has been raised by recent victories and a belief that the VC can be stopped on the battlefield. As General Co said, "The next move is up to the VC. We have defeated them in open warfare. They must now make the choice of going back to guerrilla warfare or introducing new PAVN forces in order to regain a superiority in numbers. If they do this, the war will enter a new phase."

Colonel Theodore C. Mataxis
Army, October 1965

(Vietnam Center Archive)

generalhieu

Saturday, February 26, 2022

 CHUYỆN TÂM LINH

Hồn ma đã cứu một căn cứ khỏi bị địch quân tràn ngập.
Của Ngô Bá Lai, khóa 2 CTCT Đà Lạt
Tài Trần: vợ của một đại đội trưởng đến đv thăm chồng, chẳng mai đêm đó đặc công VC tấn công đồn làm chết 4 lính và bà này. Ông này xin phép cấp trên nghỉ vài ngày để chôn cất vợ. Chỉ vài ngày sau, một lực lương VC rất đông tấn công đồn này, vị đại đội phó đã điều động binh sĩ chống trả dữ dội, và có sự giúp đỡ của một HỒN MA (sau này mới biết là vợ của ông đ.đ.t., lúc này ông chưa trở lại đv) đã bảo vệ đồn, gây thiệt hại nặng cho địch mà trong đồn ko ai chết.
======
Thân tặng bè bạn từng chiến đấu tại SĐ22BB.
Khóa 2 ĐH/CTCT ra trường vào đúng thời điểm cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam thân yêu đang hồi bùng sôi mãnh liệt! Đó đây,trên khắp các chiến trường, mức độ thương vong tăng cao. Cuộc chiến không còn trong khuôn khổ du kích lẻ tẻ, nhưng đã bước vào giai đoạn chiến tranh diện địa với những binh đoàn đông đảo tham dự, vũ khí cộng đồng được xử dụng hàng loạt và liên tục...
Tôi và 14 đồng đội bốc thăm về SĐ22 Bộ Binh, một trong những SĐ "hắc ám" nhất của QLVNCH! Vùng hoạt động của SĐ gồm 4 tỉnh "sôi đậu" đúng nghĩa: NAM, NGẢI, BÌNH, PHÚ. Nói đến NNBP, trừ những thành phố chính, an ninh còn tương đối bảo đảm, ngoài ra, dù đi hành quân ở bất cứ địa phương nào, bạn cũng có thể lọt vào trường hợp "chết bất đắc kỳ tử". Vì hầu hết các xã ấp sâu, xa người dân ít nhiều đều có quan hệ với phía "bên kia", phía địch. Phía mà chúng tôi phải đối đầu, phải dành dật giữa sống và chết!!!
* * *
Tình hình chiến sự ở đây đã vào giai đoạn căng thẳng, chẳng thế mà khi vào trình diện, Vị Tư Lệnh Sư Đoàn đã hỏi chúng tôi:
- Các anh từ đâu đến?
- Chúng tôi vừa tốt nghiệp K.2/ ĐH/CTCT/Đàlạt.
Ông trả lời không úp mở:
- Ở đây, ở Sư Đoàn này, không cần SQ/CTCT, chúng tôi chỉ cần những SQ biết cầm súng và chiến đấu.
Thế là, chúng tôi được chia đều cho các Trung Đoàn, rồi Tiểu Đoàn, rồi Đại Đội, rồi Trung Đội. Tất cả được phát M.16 như một binh sĩ, một tay súng của Đơn Vị! Tôi về Trung Đoàn 41. Tiểu Đoàn2, Đại Đội 3. Đại Đội Trưởng là một SQ tốt nghiệp Khóa 23 Võ Bị, ra trường trước tôi mấy tháng. Vậy cũng hay, ít ra, chúng tôi cũng có những niềm vui chung khi nói về Đalat, tháng ngày quân trường, những cuộc thi đấu thể thao chung, những kỷ niệm đẹp trên thành phố sương mù mộng mơ ngày nào.
Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 41BB đóng tại Phù Mỹ, một Quận Lỵ nằm dọc theo Quốc Lộ số 1, cách Thành Phố Qui Nhơn khoảng 40Km về hướng Bắc. Vì thế, vùng trách nhiệm gồm: Phù Cát, Phù Mỹ, Trung Thứ, Trung Thuận, chiến khu An Lão, Hoài Ân.
Căn Cứ SALEM nằm ở ngay Ngã Ba Quốc Lộ 1 và đường vào Ấp Trung Thứ. Nó nằm trên một ngọn đồi không cao lắm (khoảng 100m) nhưng vì chung quanh là đồng ruộng, nên đây cũng là vị trí tốt để quan sát khắp vùng. Căn Cứ tương đối rộng, có đủ chỗ cho một pháo đội 105 hoạt động và hầm hố đủ cho một Đại Đội trú đóng. Tôi không rõ tên SALEM đã có tự bao giờ. Nhân một lần Đơn Vị tôi đến tăng phái cho Căn Cứ, vì muốn hiểu rõ nguồn gốc cái tên là lạ này: Có phải nó là Căn Cứ cũ của Quân Đội Mỹ hay do một sự cố nào mà cái tên SALEM đã xuất hiện? Do tò mò và muốn phá tan thắc mắc cứ quẩn quanh trong đầu, tôi quyết tâm tìm hiểu cho ra lẽ. Sau vài ngày làm quen, tôi đã kết thân được với ông Thượng Sĩ Thường Vụ Đại Đội. Tôi nghĩ ông này chắc sẽ giải đáp được những thắc mắc của tôi. Qủa thật, vào một đêm tương đối yên tĩnh, bên ly cà phê, ông đã kể cho tôi nghe câu chuyện đầy vẻ huyền bí sau:
Đơn Vị tôi đóng tại ngọn đồi này cũng đã mấy năm. Trước đây, tình hình nói chung rất tốt, lính tráng đi đêm về hôm thoải mái. Trước cổng, thường chỉ có một con ngựa chắn bằng kẽm gai sơ sài. Chỉ có một lính gác thường trực, nhưng đôi khi, thằng lính canh cũng ngủ gà ngủ gật, bỏ đi đây đó một vài giờ mới trở về. Chung quanh căn cứ cũng chỉ rào sơ sài bằng 2 lớp kẽm gai cao độ 2m. Về sinh hoạt bên trong, nhiều khi, tôi cũng làm ngơ cho anh em để vợ ở lại qua đêm hay mấy cậu trẻ dẫn gái vào chơi đến khuya mới về. Tính ra, an ninh như vậy là lỏng lẻo, nhưng thấy chẳng có gì bất trắc, nên tôi cũng không lo lắng bao nhiêu. Cho đến một hôm, vào khoảng 2 giờ sáng, tôi bật dậy vì một tiếng nổ rất lớn gần hầm tôi nằm. Tiếng nổ lớn hơn tiếng lựu đạn, nên linh tính cho tôi biết có chuyện bất thường. Tôi vội nai nịt cẩn thận, nhìn qua lỗ châu mai xem động tĩnh. Tất cả vẫn yên lặng không có dấu hiệu bất thường. Tôi bò ra khỏi hầm, mắt láo liên quan sát.... Thì... từ phía cổng vào, những bóng đen vượt qua con ngựa kẽm gai, rồi tách ra 2 phía. Tôi hốt hoảng, biết ngay chuyện gì đã xẩy ra. tôi bò sang hầm Chỉ Huy, trung uý Đại Đội Trưởng cũng đã sẵn sàng. Tôi nói nhỏ:
- Việt Cộng tấn công đồn, Trung Úy. Chúng vào từ hướng cổng.
- Ông sang Đội Súng Nặng, bảo nó bắn trái sáng và coi anh em bên đó. Tôi điều động anh em bên này.
Trong lúc tôi trườn mình đến Đội Súng Nặng, tôi nghe một tràng M16 nổ vang và tiếng Đại Đội Trưởng hét:
- Báo động! Báo động! Việt Cộng tấn công đồn. Hãy cẩn thận, chúng đã lọt vào Căn Cứ.
Tôi hài lòng những lời bạch hóa của Vị Chỉ Huy. Đây là cách tốt nhất, nhanh nhất để các chiến hữu của tôi biết hiện trạng và tìm hướng giải quyết cho phù hợp. Khi trái sáng đầu tiên bừng nổ giữa trời đen, hàng loạt M16 đồng thời được khai hỏa ở mọi hướng, song song, nhiều tiếng lựu đạn nổ rải rắc xa gần. Tôi hiểu tụi đặc công đang tung hoành trong Căn Cứ. Tôi hét lớn:
- Tất cả nằm tại chỗ, quan sát kỹ, thấy ai di chuyển cứ bắn bỏ.
Sau tiếng hét của tôi. Căn Cứ trở lại vẻ yên lặng ngột ngạt, đợi chờ...
Tôi nhận thấy: Tiếng súng chỉ ầm vang khi bầu trời hết ánh hỏa châu. Hiện tượng này cứ diễn đi diễn lại nhiều lần. Tôi biết tiếng hét của tôi đã có hiệu qủa, tụi đặc công chỉ dám di chuyển khi hết ánh hỏa châu nhưng ngay lúc đó chúng đã bị hỏa lực của binh sĩ đồn trú chờ sẵn chặn đứng lại. Chính vì thế, tiếng lựu đạn mỗi lúc một thưa dần, rồi tắt hẳn. Để kiểm chứng một ý nghĩ vừa hiện ra trong đầu xem nó đúng hay sai. Tôi cho tạm ngưng bắn trái sáng và nghe động tĩnh trong Căn Cứ. Thinh lặng. Hoàn toàn thinh lặng...
Tôi hiểu, cuộc tấn công bằng đặc công đã chấm dứt, một là chúng đã bị tiêu diệt, hai là chúng đã rút lui. Đang suy nghĩ thì ông Đại Đội Trưởng đã đến bên tôi. Sau vài câu trao đổi. ông ra lệnh bắn tiếp hỏa châu để kiểm soát và nắm vững tình hình của Đơn Vị.
Kết qủa sơ khởi :
- Phía ta: 4 chết, 4 bị thương.
- Phía địch: 8 chết, thu 2 AK47, một số beta bị tịt ngòi, một số chưa mở kích hỏa.
Thấy câu chuyện ông kể đã gần hết mà chưa có tia sáng nào về cái tên SALEM, nên tôi chen vào:
- Chuyện đặc công đánh nào có liên quan gì đến cái tên của Căn Cứ đâu?
Ông lộ vẽ không hài lòng:
- Từ từ, trung úy. Câu chuyện còn dài mà.
Tôi nhẫn nại, lấy thuốc mời ông cùng hút. Ông vui vẻ, rồi tiếp tục:
- Cái đau nhất và thương tâm nhất là cô vợ mới cưới của Ông Đại Đội Trưởng bị chết banh thây trong hầm Chỉ Huy!
Tôi ngạc nhiên:
- Sao lại có vợ ông ta ở đó?
- Vâng, đúng vậy. Ông ta mới xin được 15 ngày phép về cưới vợ. Hết phép, ông phải về Đơn Vị. Vợ ổng mới đến thăm lúc sáng. Cô này dễ thương lắm, ai cũng quý cô ta. Đặc biệt, bao giờ đến đây, tôi cũng thấy cô mặc đồ trắng. Khi thì áo dài, khi thì đồ đầm... Nhưng luôn luôn là màu trắng. Mầu của một tâm hồn ngay chính.
- Rồi sao nữa?
- Vì quá thương vợ, ông ta giao Căn Cứ cho ông Đại Đội Phó, rồi gọi tôi đến căn dặn: Ông cố gắng giúp tôi. Tôi phải đưa nhà tôi về gia đình, lo tang ma cho trọn tình, trọn nghĩa và cũng một phần để an ủi gia đình. Ông cố gắng lo cho anh em mọi sự tốt đẹp. Tôi chỉ lo một điều, trong khi tôi vắng mặt chúng sẽ trở lại phục thù mà không có tôi... Tôi không sợ mất chức, nhưng tôi lo Đơn Vị thiệt hại nặng hơn thì tôi ân hận lắm. Ông đốc thúc anh em tu bổ lại hầm hố, hàng rào, canh gác cẩn mật, kiểm soát người ra vào, đặt mìn bẫy những trọng điểm. Tôi đã dặn kỹ ông Phó rồi. Vài ngày tôi sẽ trở về. Hãy hết sức bảo vệ Căn Cứ. Tôi không quên ơn ông đâu.
Tôi chỉ biết cúi đầu, nước mắt lưng tròng:
- Trung Uý yên tâm. Tôi hứa chu toàn tất cả. Tôi sẽ làm hết sức mình. Tôi xin thành thật chia buồn với Trung Uý và gia đình.
Ông bơ phờ, nước mắt chan hòa rời Căn Cứ với người vợ xinh đẹp, vắn số của Ông.
Thấy ông dừng câu chuyện, tôi lại thắc mắc:
- Tôi hỏi ông cho tôi biết nguồn gốc cái tên SALEM kia mà?
Ông cố ngăn xúc động, đáp:
- Chưa, chưa hết mà Trung Úy.
Tôi lại một lần nữa mời ông cùng hút thuốc chờ cơn xúc động của ông lắng xuống. Thế rồi ông kể tiếp:
* * *
Sau khi Ông Xếp rời Căn Cứ được 4 ngày. Sáng ngày thứ 5, vâng, đúng thế. Tôi không hiểu tụi nó điều động lực lượng từ đâu về mà đông quá sức. Chúng không chỉ đánh đặc công mà còn tấn công bằng bộ binh nữa. Ngay những giây phút đầu tiên: Mìn bẫy, lựu đạn, mìn phá hàng rào, súng ống đủ loại nổ ran, ầm ầm như muốn nuốt chửng Căn Cứ! Rất may, qua kinh nghiện lần trước cũng như những lời dặn dò của Ông Xếp, chúng tôi đã tổ chức phòng thủ rất chặt chẽ và đã sẵn sàng chờ đợi cuộc trả thù đêm nay.
Khi trái sáng đầu tiên xuất hiện trên bầu trời, qua lỗ châu mai, tôi hoa cả mắt. Ôi trời đất! Sao chúng nó đông thế, đông nhất là chỗ hàng rào đã bị phá vỡ bằng chất nổ. Chúng nối đuôi nhau, bò lổm ngổm như đàn cua... Tôi hét lớn:
- Dồn hỏa lực vào chỗ hàng rào bị phá.á.á...
Tôi nghe tiếng Ông Đại Đội Phó tiếp theo:
- Các khẩu đại liên, súng cối, M.79 dồn vào khu hàng rào hướng Đông-Bắc.
Trận chiến sôi sục đã kéo dài nửa giờ nhưng tụi nó không sao vượt qua được vòng đai phòng thủ. Đã có nhiều xác của chúng nằm rải rắc đó đây, trên hàng rào, trên mắt đất. Tiếng la hét, tiếng hô xung phong ầm vang , nhưng, như có một sức mạnh vô hình nào, thần bí nào đó níu chặt chân chúng lại, chúng không thể nhúc nhích, chúng cứ nằm đó để ăn đủ mọi thứ đạn!!!! ????
Lúc tiếng súng đã dịu lại, quá mệt mỏi, tôi nằm ngả người nhìn lên bầu trời. Trong ánh hỏa châu đang lừng lững giữa không trung, tôi thấy rõ ràng hình bóng một người thiếu nữ, mặc bộ đồ trắng như tuyết, bay qua , bay lại, chập chờn, lúc ẩn, lúc hiện, tà áo phất phơ lấp loáng lên xuống theo âm vang của trận địa. Tôi nghĩ mình bị hoa mắt? Không, tôi véo vào tai, tát vào mặt, xem mình mơ hay tỉnh. Tôi lấy tay che mắt rồi bỏ ra để thử thị giác của mình. Không, qủa thật tôi còn sống, tôi vẫn tỉnh???!!!
Một ý nghĩ chợt đến trong đầu: Biết đâu, vợ Ông Trung Úy linh thiêng về giúp Căn Cứ? Một cảm giác vừa vui, vừa sợ chạy ran khắp người. Tôi cố nhìn thật kỹ. Đúng rồi! Tôi không thấy rõ mặt, nhưng đúng là Nàng rồi. Cái vóc dáng ấy, mái tóc ấy, cử chỉ ấy thì không thể sai được. Tôi buột miệng, lòng rất thành khẩn:
- Cô là ai? Có phải vợ Ông Xếp tôi không?
Lạ lùng thay, tôi nghe tiếng đáp trả văng vẳng trong gió nhưng rất rõ ràng:
- Vâng, em là SA đây, SA LÀ EM đây... Em là SA... SA LÀ EM...m...m... đây.
Tôi thẫn thờ như người trong mộng. Tất cả mọi tiếng nổ đã im bặt. cuộc tấn công đã chấm dứt. Bóng dáng người thiếu nữ lạ lùng kia cũng đã biến vào không gian. Và tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Mãi sáng hôm sau tôi mới tỉnh dậy. Thu dọn chiến trường. Thật lạ lùng! Cả Căn Cứ không một ai bị hề hấn, dù là bị thương nhẹ? Một đoạn lớn hàng rào bị phá tung và 60 xác chết nằm ngổn ngang ngay đó, với đủ mọi thứ vũ khí, chỗ mà không còn một chướng ngại vật nào ngăn cản chúng tiến vào!!! Đúng là cái ranh giới của thần thánh, cái điểm của tử thần?! Đúng cái nơi mà tối hôm qua tôi thấy người thiếu nữ bay qua, bay lại, ngăn chặn kẻ thù.
Nhìn khuôn mặt ông Thường Vụ, tôi cảm nhận được sự tôn kính, thành khẩn trong từng lời nói.
* * *
Một ngày sau khi Căn Cứ bị tấn công lần 2, Trung Úy Đại Đội Trưởng trở về giữa lúc Đơn Vị đạt một chiến thắng vang dội đầy huyền bí. Tôi kể lại cho Ông nghe trận đánh lạ lùng. Tôi cũng kể cho Ông biết tất cả những gì tôi đã chứng kiến, tai nghe, mắt thấy về hình bóng người con gái thần tiên, xưng tên là SA. Ông không ngạc nhiên nhiều, rồi Ông trầm ngâm nói:
- Tôi cũng kể cho ông nghe chuyện này: Đúng vào đêm Căn Cứ bị tấn công lần 2. Sau khi chôn cất nàng xong, đêm đó tôi mệt qúa, thiếp đi lúc nào không hay. Khoảng 2:00 sáng, có người đến gọi tôi dậy và tôi nghe rõ tiếng nàng, vợ tôi, nói với tôi: "Em đi cứu Căn Cứ của anh đây. Việt Cộng đang tấn công dữ lắm! ".
Tôi vội chen vào:
- Dạ đúng. Tụi nó bắt đầu nổ súng lúc 2 giờ sáng, thưa Trung Úy.
Ông tiếp tục:
- Tôi còn chưa hoàn hồn và ngỡ ngàng, tôi hỏi bâng quơ: "Có phải SA đấy không ? Có phải em không? " Tôi chỉ nghe văng vẳng bên tai: “Vâng, em đây, em là SA đây, SA LÀ EM ... em là SA...SA LÀ EM đây..." Rồi tất cả chìm vào im lặng!!! Tôi không thể nào ngủ lại được . Sáng sớm, tôi tạm biệt gia đình và vội vã về đây xem hư thực ra sao? Nay nghe ông kể, tôi tin là chính nàng đã đến cứu Căn Cứ, cứu chúng ta.
Chúng tôi bàn nhau, vì Nàng linh thiêng như vậy, mình nên đặt một Bàn Thờ ở Căn Cứ này để tưởng nhớ, nhang khói và bầy tỏ lòng tri ân với Nàng. Ông Thượng Sỹ kết thúc rồi hỏi tôi:
- Chuyện thật đấy. Trung Úy có tin không? Thôi tùy, nhưng chuyện có thật đấy, trung úy ạ.
Sáng hôm sau, ông Thượng Sỹ đã dẫn tôi ra trước cổng Căn Cứ chỉ cho tôi một Miếu nhỏ, ngay bên cạnh bức tường thấp có hàng chữ: CĂN CỨ SALEM.
Trong cái Miếu nhỏ, tôi đọc được dòng chữ mạ vàng rất đẹp:
Tưởng nhớ
CÔNG TẰNG TÔN NỮ HOÀNG TUYẾT SA
THẦN NỮ BẢO HỘ CĂN CỨ SALEM
(SA là EM, viết gọn lại thành SALEM)
Câu chuyện làm lòng tôi cứ hoang mang mãi, đầu óc thì cứ suy nghĩ hoài. Đã rất nhiều người cũng đã từng kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện lạ lùng, tưởng như hoang đường, về những cái chết bất đắc kỳ tử, những cái chết anh hùng tại những Căn Cứ địa, tại những Đơn Vị, rồi sau đó, những anh hồn đó đã trở về giúp đỡ Đơn Vị mình thoát khỏi những tình huống khó khăn, sức người không thể vượt qua!!!
Rất nhiều Đơn Vị đã đạt những chiến thắng vang dội. Rất nhiều Căn Cứ đã đứng vững một cách lạ lùng trước sự tấn công vũ bão của địch quân đông gấp 5, 10 lần. Qủa thật, đã có những câu chuyện khó tin, nhưng có thật. Có những sự việc không thể xẩy ra, nhưng đã xẩy ra. Có những sự huyền bí mà đến nay con người vẫn không thể hay chưa thể giải thích, khám phá. Suốt chặng đường dài, Quân Dân Miền Nam chiến đấu bảo vệ Nền Tự Do, Nhân Quyền, chống lại Tà Thuyết Cộng Sản, đã có biết bao Qúy Nhân phù trợ, biết bao Anh Linh Chiến Sĩ Anh Hùng chung vai nâng đỡ. Nhưng, thật bất hạnh! Miền Nam đã thất thủ, biết bao đồng đội tôi đã vào tù, kể cả tôi. Có phải Số Phận Miền Nam đã được Trời-Đất định đoạt, sắp xếp, theo đúng Chu Kỳ Tạo Hóa ấn định và cũng lạ lùng như câu chuyện huyền bí này???
Dù huyền bí, nhưng câu chuyện CĂN CỨ SALEM, tôi nghĩ là có thật.
NT2 Ngô Bá Lai