Monday, August 24, 2015

LÒNG THAM VÔ ĐÁY CỦA SUSAN - VỢ KẾ CỦA TÀI TỬ ROBIN WILLIAMS .
(Robin chết ngày 11/8/14 vì hậu quả của trầm cảm , bịnh Parkinson và hoang tưởng gia tăng tại nhà ở Tiburon , Cali .-- Tài) 


Vào tháng 12 , vợ góa của Robin , bà Susan , nộp đơn ko thừa nhận (challenge) những điều khoản của di chúc của ông , khiến các con ông là Zak , Zelda và Cody , rất đau khổ (heartbroken) , họ nói trong đơn của họ . Các con của Williams nói rằng bà Susan  - mà Robin để di chúc gồm ngôi nhà trị giá 4 triệu cộng tiền để bảo trì căn nhà - đã hành động ''đi ngược mong ước của ông" khi tranh dành với họ những đồ vật vừa quí giá (valuable) vừa tình cảm như kỷ vật (memorabilia) , nữ trang và vật lưu niệm (keepsake) mà họ tin rằng chúc thư sẽ truyền lại (bequeath) cho họ , đặc biệt vì phần lớn đã đc sưu tầm bởi cha họ trước khi gặp bà Susan * . 
NGÔI NHÀ 4 TRIỆU ĐÔ ĐỂ LẠI CHO VỢ KẾ + TIỀN ĐỂ BẢO HÀNH (KEEPUP) NGÔI NHÀ .
Vào ngày 14/8 , các con của Robin đã nộp các phản đối phụ (supplemental objection) chống lại đơn thỉnh cầu của bà Susan , (các phản đối này)  nói rằng bà âm mưu "nâng cao địa vị tài chánh của mình bằng cách gây phương hại cho các con của Robin . " Họ cũng nói bà Susan đang kéo dài (drag out) cuộc chiến về luật pháp này và nhấn mạnh Robin ko bao giờ muốn như vậy . LS của 2 bên sẽ gặp nhau vào ngày 28/8 .
* Robin đã cưới bà Susan Schneider 51 t , một nhà thiết kế đồ họa , vào năm 2011 . 

H1 : Sau khi bà Susan ko thừa nhận chúc thư của Robin , các con của Robin , (từ trái gồm Zak , Zelda và Cody) , nói rỏ trong thông báo chung rằng từ đó họ đã "bị cấm vào nhà cha họ".
H2 : Dù chúc thư của Robin qui định (stipulate) rằng bộ sưu tầm về nữ trang của ông thuộc về con ông nhưng đơn thỉnh cầu tại tòa của bà Susan đặt câu hỏi liệu nó có bao gồm bộ sưu tập đồng hồ đắc tiền của ông ko . 

Nguồn : InTouch ngày 31.8.15 , trang 30-33 . 
Của cải vật chất , gđ êm ấm và sức khỏe , nếu bạn có được , là do chúng tìm đến với bạn !
Nhiều lần , mỗi khi tôi cần một  sách gì thì mấy ngày sau tôi lại thấy nó bày bán ở gian hàng bán sách cũ của thư viện Martin Luther King của  San Jose . Như quyển như English Grammar của George Curme , rất hiếm vì cả cái thư viện khổng lồ này cũng không có . . .  quyển này , tôi đã có ở Việt nam . Qua mỷ , tôi đã tìm kiếm ở nhiều hiệu sách cũ nhưng không thấy . Thế mà cuối cùng nó lại "chờ đợi" tôi ở cái bookstore này . Do vậy tôi có nhận xét rằng của cải vật chất , vợ đẹp con thơ  hay sức khỏe ; nếu mình có được là do chúng tìm đến mình chứ mình không thể tìm chúng được . Như tôi chỉ "mát tay" về phương diện chữ nghĩa hay sách vở chứ những thứ khác thì có nằm mơ củng không thấy .
Có một anh bạn đeo đuổi một con số và từ từ gia tăng tiền cược/bet . Tôi nói : "có tiền cho homeless còn được lời cám ơn ; nếu mình ko có số trúng độc đắc thì mua cả đời cũng ko trúng . Còn khó hơn mò kim đáy biển vì nếu mình biết được khu vực làm rớt kim , mình chịu khó tìm có ngày cũng gặp . "
TỜ VÉ SỐ TỰ CHỌN CỦA MEGA-MILLIONS .

Một ông láng giềng trên 80 thì thỉnh thoảng mua vé số cầu may , nhất là những lần mà lô độc đắc trên 100 triệu đô ; tôi mỉm cười cho sự ngây thơ của ông này .
Có lần , ở mỹ có một ông trên 60 tuổi chỉ bỏ ra 5 đô mua năm vé mà trúng độc đắc . Ông kể lại , gia đình ông 5 người mỗi tuần nhờ ông đi mua 5 tờ vé số . Lần đó thì chủ tiệm đưa cho ông vé số và nói có người đã chọn nhưng cuối cùng ko mua . Ông lấy những vé này và đã trúng độc đắc . Như vậy , ta thấy của tìm người chứ người không tìm của .
Những người trúng số độc đắc , bằng nhãn quan nhà Phật ta có thể giải thích rằng KIẾP TRƯỚC họ đã bố thí , giúp đở rất nhiều người cho nên kiếp này họ đã nhận được số tiền khổng lồ này - như là phần thưởng - vì tiền này chính là tiền mua vé số của hàng triệu người từ nhiều bang gộp lại , gọi là Mega-Millions ; còn nếu trong kiếp trước mình ko bố thí , ko giúp đở ai hết thì đừng bao giờ mong trúng vé số .
Chuyện xưa có kể 1 anh nông dân ra đồng cuốc đất đào được hủ vàng nhưng để nguyên ngoài đồng . Tối đến , anh khoe với vợ ; có tên trộm đang rình nghe thấy , vội chạy ra đồng thì thấy hủ vàng ; nhưng lúc mở thì thấy toàn là rắn lúc nhúc . Tối hôm sau , anh lại khoe với vợ rằng hủ vàng vẫn còn . Chị vợ nói : "sao mình ko mang nó về nhà ? " , anh trả lời : " ko phải là của tao . " Tên trộm nghe vậy lại chạy ra đồng , mở hủ thì thấy toàn là rắn . Tối hôm sau , anh khoe với vợ ràng hủ vàng vẫn còn ; chị vợ lại nói sao ko mang về nhà , anh trả lời khi nào nó nằm trước của nhà , nó mới là của tao . Tên trộm nghe vậy , nhủ thầm : " tao sẽ mang hủ rắn để trước cửa nhà để nó cắn chết vc mày" . Hắn chạy vội ra đồng , mở hủ vàng vẫn thấy toàn là rắn lúc nhúc ; hắn vội vàng đậy nắp và mang để trước cửa nhà anh nông dân này . Sáng hôm sau , anh nông dân thấy nó trước nhà .
Đúng là của đi tìm người chứ người ko tìm của : tên trộm ko xứng đáng làm chủ hủ vàng thì chỉ thấy rắn bò lúc nhúc ; còn anh nông dân , xứng đáng làm chủ thì ko làm gì hết mà hủ vàng từ ngoài đồng đả "bò về" trước cửa nhà .
Đây là quyển văn phạm tiếng Anh , mà tôi đã tìm kiếm khá lâu , trước khi thấy nó bày bán ở bookstore của thư viện M.L.King của San Jose . Tôi đã mua năm 2001 , cách đây gần 10 năm .