Showing posts with label dầu tiếng. Show all posts
Showing posts with label dầu tiếng. Show all posts

Tuesday, July 8, 2025

 T.đoàn 1/8 Bb Vnch, Tđ/28 Mỹ: Trận Chiến Tại Dầu Tiếng 9/69

* Tiểu đoàn 1 trung đoàn 8/Sư đoàn 5 Bộ binh QL/VNCH & Tiểu đoàn 2 trung đoàn 28/ Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ tại mặt trận Dầu Tiếng:
Giữa năm 1969, CSBV đã tung thêm nhiều trung đoàn chủ lực xâm nhập vào miền Đông Nam phần, khu vực trọng điểm là các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương. Để truy lùng địch, vào tháng 7/1969, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH và bộ Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng 3 chiến thuật (Quân khu 3) đã phối hợp tổ chức một chiến dịch hành quân quy mô trên toàn Vùng 3. Đó là chiến dịch Đồng Tiến với phương thức liên quân: các đơn vị QL/VNCH và Hoa Kỳ phối hợp hành quân chung với nhau.
Theo kế hoạch, tại khu vực Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, tiểu đoàn 1 trung đoàn 8 BB được phối trí hoạt động cùng với tiểu đoàn 2 trung đoàn 28 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ. (Sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ là một trong những đơn vị Hoa Kỳ đến Việt Nam vào mùa thu 1965 với biệt danh là Đệ Nhất Đại Hồng). Vào thời gian chiến dịch Đồng Tiến được khai triển, tiểu đoàn 2/28 Bộ binh Hoa Kỳ đặt bộ chỉ huy tại căn cứ hỏa lực Mahone, phía Nam đồn điền Michelin thuộc quận Dầu Tiếng, còn tiểu đoàn 1/8/Sư đoàn 5 Bộ binh hoạt động tiếp cận. Chỉ huy tiểu đoàn 1/8 BB VNCH lúc bấy giờ là thiếu tá Châu Minh Kiến, tiểu đoàn 2/28 Hoa Kỳ là trung tá Richard W. Hobbs.
Trong hai tuần đầu của tháng 9/1969, hai tiểu đoàn Bộ binh Việt-Mỹ nói trên đã tiến hành nhiều cuộc hành quân truy lùng địch với kết quả khả quan, Cộng quân buộc phải rút khỏi vòng đai hoạt động của hai tiểu đoàn này. Riêng với tiểu đoàn 1/8 BB dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Châu Minh Kiến, đã lập nhiều chiến tích trong các cuộc giao tranh với các đơn vị chủ lực Cộng quân. Khả năng chiến đấu của tiểu đoàn 1/8 BB VNCH đã tạo được sự nể phục từ phía đơn vị Hoa Kỳ, nhất là đối với vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/28 BB Hoa Kỳ: trung tá Richard W. Hobbs (thời gian sau được thăng đại tá). Trong một hồi ký chiến trường, cựu đại tá Hobbs đã vinh danh chiến công của tiểu đoàn 1/8 Bộ binh QL/VNCH và tiểu đoàn trưởng Châu Minh Kiến-đã tử trận ngày 14 tháng 9/1969 khi chiến dịch Đồng Tiến đang tiếp diễn. Sau đây là một số ghi nhận của cựu đai tá Hobbs về tiểu đoàn 1/8BB và cố trung tá Châu Minh Kiến tại mặt trận Dầu Tiếng, phần này trích từ bài hồi ký của tác giả, được sắp xếp lại theo diễn tiến và biên tập dựa theo bản dịch của Thái Dương phổ biến trong tạp chí KBC.

* Tiểu đoàn 1/8 BB VNCH nhìn từ một tiểu đoàn trưởng Bộ binh Hoa Kỳ:
Những ngày đầu tiên, tôi (trung tá Hobbs) đã có một cảm nghĩ tốt là được hành quân chung với 1 tiểu đoàn thiện chiến Việt Nam mà người chỉ huy là thiếu tá Châu Minh Kiến, một chiến sỉ nhỏ bé người Việt Nam. Ở tuổi 28, Kiến là một trong những thiếu tá trẻ tuổi của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt vào tháng 11/1964 với cấp bậc thiếu úy, sau đó Kiến đã được thăng cấp một cách mau lẹ vì những chiến công và sự can đảm. Kiến là một người dễ thương và dễ cộng tác trong mọi công việc.
Qua chiến dịch Đồng Tiến tôi có dịp gặp gỡ và biết thiếu tá Châu Minh Kiến, hai tiểu đoàn của chúng tôi đóng tại cùng một vùng hành quân và chúng tôi đã đóng quân chung với nhau không phân biệt ranh giới Việt Mỹ. Đây là một điều trái với quy luật hành quân của các đơn vị Mỹ tại Việt Nam. Nhưng với đơn vị của thiếu tá Kiến, chúng tôi đã làm việc chung, hành quân chung, không đơn vị nào đặt dưới quyền đơn vị nào. Tại căn cứ yểm trợ hỏa lực, chúng tôi sử dụng chung một lều làm trung tâm hành quân và mỗi đơn vị Việt Mỹ tự trách nhiệm một nửa chu vi đóng quân. Cách đóng quân chung này nhiều khi tạo ra nhiều chuyện điên đầu lo sợ vì hàng đêm tôi và Kiến đều đi kiểm soát đơn vị.
Tôi luôn luôn giữ khoảng cách của tôi là không chỉ huy cả hai đơn vị Việt Mỹ. Trước đây tôi đã từng cố vấn cho một tiểu đoàn Nhảy Dù vào năm 1964 nên tôi hiểu được ý nghĩa của các cấp chỉ huy Việt Nam về sự liên hệ của họ với các sĩ quan Mỹ. Vị tiểu đoàn trưởng Dù năm 1964 đã nói với tôi rằng: “Nếu tôi thi hành theo những lời cố vấn của ông hơn 50% thì tôi đã biến ông thành tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn của tôi rồi”. Chính vì thế mà tôi cố gắng đưa ra những đề nghị hơn là cố vấn họ.
Tôi làm kế hoạch hành quân Scarf để kiểm soát vùng đóng quân dọc theo trục lộ trong vùng hành quân dọc theo sông Sài Gòn. Với một hải đoàn khoảng 25 giang thuyền được tăng phái bởi lực lượng Hải quân, đơn vị chúng tôi tổ chức phục kích hàng đêm dọc theo bờ sông Sài Gòn (chảy ngang địa phận Bình Dương) để ngăn chận Cộng quân sử dụng đường thủy để tiếp tế. Khi tôi thuyết trình kế hoạch này với thiếu tá Châu Minh Kiến, ông ta lập tức muốn hành quân chung với chúng tôi và cuộc hành quân Scarf đã trở thành cuộc hành quân phối hợp Việt Mỹ. Những sự phấn khởi như trên là chuyện thường xuyên xảy ra trong các đơn vị QL/VNCH, bất cứ lần nào tôi đề nghị họ cũng tình nguyện tham dự ngay.
Thiếu tá Kiến và tôi thường bay trên chiếc trực thănh Bell UH-1 “Huey” để lập kế hoạch hành quân. Nằm sấp trên sàn trực thăng nhìn xuống những vùng sắp hành quân, chúng tôi bàn về những chỗ nào chúng tôi sẽ tiến quân và cánh quân nào sẽ đi lộ trình nào. Chúng tôi dự tính một cuộc hành quân trực thăng vận với 1 đại đội Việt Nam và 1 đại đội Hoa Kỳ cùng nhảy xuống một lần, hoặc giả sử dụng thiết quân vận M 113 để càn quét.


Theo kế hoạch phối hợp, thông thường thì trong căn cứ lúc nào cũng có 1 đại đội Mỹ, 1 đại đội Việt Nam để làm lực lượng trừ bị, trong khi các đại đội khác thì đóng quân hoặc hành quân bên ngoài căn cứ. Những chi tiết về cuộc hành quân được trình bày rất rõ ràng: điểm tập trung, giờ trực thăng bốc quân hoặc giờ M 113 khởi hành.
Nhiều lần, cuộc xuất quân bắt đầu, tôi phải về trung đoàn, tôi thường nói với thiếu tá Kiến chỉ huy cả hai đơn vị Việt Mỹ. Quả thực đây là một kinh nghiệm mới mẻ cho một sĩ quan Việt Nam chỉ huy một đơn vị Hoa Kỳ. Các sĩ quan Mỹ của tôi đều hiểu rõ những gì tôi dự định và những gì tôi làm. Thiếu tá Kiến cũng vậy, đã tạo được rất nhiều sự kính nể đối với các sĩ quan Mỹ. Do đó không có một trở ngại nào xảy ra.
Tôi rất gần gũi với các anh em thuộc trung đội quân báo của tiểu đoàn, do đó nhiều khi họ rất bực mình khi tôi và sĩ quan Ban 3 (Hành quân) đi bộ đến thăm các đơn vị đóng quân hoặc hành quân. Tại chiến trường Việt Nam, các vị tiểu đoàn trưởng Mỹ thường sử dụng trực thăng để điều khiển cuộc hành quân, riêng tôi, tôi muốn có cảm thức thật sự về tình hình hành quân, nên trung đội quân báo thuộc tiểu đoàn của tôi lúc nào cũng sẵn sàng một toán nhỏ để bảo vệ tôi khi tôi bất thường đến thăm đơn vị. Họ nói là để bảo vệ “Ông Già”. Tôi nhớ rất rõ, nhiều lần, một vài quân nhân thuộc trung đội quân báo của tiểu đoàn đến nói với tôi là họ muốn đi hành quân chung với trung đội quân báo Việt Nam. Tôi rất mến phục vị sĩ quan trung đội trưởng trung đội quân báo Việt Nam, vì tôi biết anh là một sĩ quan rất giỏi, ngay cả các quân nhân của tôi cũng biết như vậy nên họ mới xin đi hành quân chung như thế. Tôi cũng thường nhấn mệnh với các quân nhân của tôi điều sau đây: tất cả các chiến binh trong trung đội quân báo Việt Nam cũng đều giỏi như sĩ quan trung đội của họ với nhiều năm kinh nghiệm chiến đấu.
Cuộc hành quân Scarf và những cuộc hành quân khác mà chúng tôi phối hợp làm chung đều mang lại kết quả tốt đẹp. Việt Cộng bắt đầu rút khỏi vùng hành quân của chúng tôi. Hai đơn vị chúng tôi tung ra nhiều hơn những toán phục kích nhỏ để lùng địch, và những lần như vậy đều có kết quả.
Nhưng rồi tai họa đã đến vào ngày 14 tháng 9/1969. Vào lúc 1 giờ sáng, máy truyền tin từ một đại đội Việt Nam báo về trung tâm Hành quân cho biết rằng 1 trong những tiền đồn của đại đội này bị tấn công. Như thường lệ, thiếu tá Châu Minh Kiến đi tiếp cứu đơn vị chạm địch. Thiếu tá Kiến và một thành phần nhỏ đi theo ông tới bộ chỉ huy đại đội, chỉ khoảng 3 km. Trên lộ trình, cánh quân tiếp ứng của thiếu tá Kiến bị Việt Cộng chận đánh và ông bị thương. Những chiến binh cùng đi với thiếu tá Kiến đưa ông ra khỏi vùng hỏa lực và gọi trực thăng tản thương. Trực thăng đã đến tức thì và chính tôi hướng dẫn trực thăng này đến vùng chạm địch. Tuy nhiên khi trực thăng vừa đáp xuống mặt đường ngay giữa ấp Cổ Trác thì hai trái phóng lựu của Việt Cộng đã phóng trúng trực thăng. Một trái gây tử thương thiếu tá Kiến, hai quân nhân khác và người cận vệ của ông. Trái phóng lựu thứ hai làm tử thương hai quân nhân Mỹ thuộc nhóm tiền sát viên Pháo binh. Phi công trực thăng bị thương và chiếc trực thăng bị hư hại nặng nề. Chúng tôi liền cấp tốc gọi một chiếc trực thăng khác, nhưng chiếc này cũng bị trúng đạn Việt Cộng. Suốt đêm đó, chúng tôi đã dùng lực lượng tiếp viện khác để di tản những người chết và bị thương, đồng thời bảo vệ chiếc trực thăng bị trúng đạn. Đêm đó, Việt Nam đã mất một anh hùng và tôi mất một người bạn chí thiết.

* Câu chuyện về việc đổi tên Căn cứ Mahone thành căn cứ Châu Minh Kiến:
Ngày hôm sau, tôi tự động đổi tên căn cứ Yểm trợ Hỏa lực Mahone thành căn cứ Châu Minh Kiến (Mahone là tên của một người lính Công binh Mỹ bị tử thương khi thi hành nhiệm vụ gỡ mìn dọc theo trục lộ thuộc quận Dầu Tiếng). Đây là một căn cứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam mang tên người Việt Nam. Tin này về đến cơ quan MACV (bộ chỉ huy Yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ tại VN, còn được gọi là Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ) và tôi được lệnh không được phép đổi tên căn cứ Mahone vì làm như vậy MACV sẽ đổi hết cả bản đồ. Nhưng câu trả lời của tôi là: Rất tiếc đã quá trễ. Một vài tuần sau đó, khi đại tướng Creighton W Abrams, tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam (đồng thời là chỉ huy trưởng MACV), đến thăm căn cứ Châu Minh Kiến, ông đã thân mật gọi tôi là “đồ chó đẻ” vì đã tạo cho ông nhiều trở ngại. Tôi hỏi lại tướng Abrams những điều ông nói hàm ý gì và ông đã trả lời rằng việc đổi tên này đã lên tới văn phòng ông. Nhiều người đã hỏi ông về việc này, ông tướng đã trả lời rằng: Việc đổi tên căn cứ là việc của người trực tiếp chỉ huy căn cứ đó.

* Vài nét về tiểu đoàn 1/8 Bộ binh VNCH:
Thành lập từ năm 1954 với danh hiệu đầu tiên là tiểu đoàn 72. Ngày 1 tháng 7/1955 trở thành tiểu đoàn cơ hữu của trung đoàn Bộ binh số 35 (tiểu đoàn số 72, 75, 88) thuộc Sư đoàn 41 Dã chiến. Ngày 17 tháng 9/1955, theo SVVT số 3975/TTM/1/1/SC, Sư đoàn 41 Dã chiến được cải danh thành sư đoàn Dã chiến số 3, trung đoàn số 35 thành trung đoàn Bộ binh số 8 và tiểu đoàn 72 được đổi thành tiểu đoàn 1 của trung đoàn này. Cuối năm 1958, theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu, Sư đoàn dã chiến số 3 đổi thành Sư đoàn 5 Bộ binh, trung đoàn Bộ binh số 8 đổi thành trung đoàn 8 Bộ binh và tiểu đoàn này được đổi thành tiểu đoàn 1/8.

Kỳ sau: Trận kịch chiến tại Đức Cơ tháng 7/1965 của lực lượng đặc nhiệm Nhảy Dù-Biệt động quân VNCH.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)

Sunday, July 6, 2025

 Battle of Xom Bo II 17 June 1967

                          

VÙNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG ĐOÀN 16
SĐ 1 BỘ BINH MỸ.




Operation BILLINGS was planned and conducted by the 1st Infantry Division to destroy elements of the 9th PLAF Division which appeared to have moved back into a suspected base camp areas north of Phuoc Vinh. The operation called for two brigades to conduct S&D missions north of the Phuoc Vinh Base Camp. On 12 June, three battalions, under 1st Brigade control, inserted into two LZs about seven to ten kilometers north of the city. Concurrently, the 3rd Brigade inserted the 2nd Battalion, 28th Infantry, Black Lions, into a LZ at Chi Linh to secure a FSB there. The following day, the 1-16 IN inserted into LZ RUFE, seventeen kilometers due north of Phuoc Vinh. Later that day, the 2-28 Infantry moved from Chi Linh into LZ RUFE as well. The two battalions secured the area around RUFE and dug in for the night.


On the morning of 14 June, B and C Companies of 1-16 IN moved out to the west of RUFE to seek out the enemy. Just after noon, troops from C Company spotted five VC soldiers about two kilometers southwest of the LZ, but was not able to engage them. Two hours later, B Company received sporadic small arms fire about one kilometer north of C Company. The firing was brief, then tapered off, seeming to indicate that the enemy had broken contact. Fifteen minutes later, however, B Company was struck in full force, in the front and flanks, by a VC battalion. The company commander frantically brought artillery and air strikes to bear, as the battalion commander, LTC Lazzell, ordered C Company to move to B Company’s aid. The fighting was desperate as B Company repulsed the VC assaults. By the time C Company arrived at the battle site about 1800, the B Company had beat back the VC attack but had suffered six killed and fifteen wounded. A search of the area before dark revealed sixty-two enemy dead.


The next two days of patrolling and sweeps were uneventful. Intelligence indicated that the 271st Regiment had moved toward a vast area of bamboo stands farther north. One location, designated LZ X-RAY on operations maps, looked like a good place to search for the evasive prey. Lazzell’s 1-16 was only about two kilometers south of that location so on the morning of 17 June, the battalion moved from RUFE toward LZ X-RAY. The 2-28 Infantry was to follow later but its A and B Companies traveled along with the 1-16. Concurrently, 1-16 IN’s C Company remained behind to come up with the 2-28 IN.


By noon, the 1st Rangers had arrived at the LZ and as the lead elements of the battalion entered the area, a number of troops noticed that there appeared to be many freshly dug pits and trenches as if the VC had previously prepared ambush positions in case the Americans tried to conduct an insertion there. The battalion formed a perimeter around the entire LZ to wait for the Black Lions to come up for the follow-on S&D mission. Just after the lead elements B Company, 2-28 IN began to take positions, Lazzell received reports of groups of VC troops moving toward the perimeter from the northwest. At about 1245, the enemy initially attacked into the positions held by the Black Lions’ B Company. The initial attacks against B Company, 2-28, were designed to fix that unit while other assault elements moved into position to attack elsewhere.


About 1300, fierce assaults were launched against A Company, 1-16 IN from the northeast. Soon pressed hard in the sectors held by A and B Companies, Lazzell called for heavy artillery concentrations and gunship support. The combined effects of the indirect fire and airpower successfully defeated those attacks. The victory was short-lived. The VC then attacked into the Rangers’ recon platoon from the southeast. The Rangers in that sector responded with a withering fire that killed scores of enemy troops, but this second attack succeeded in overrunning part of the Recon platoon’s line. Only a few of the scouts escaped to link up with other units on the flanks.


Initially, the contact appeared to be a chance encounter with VC local forces. Before long, however, the enemy effort took on the hallmarks of a well-planned and rehearsed ambush by a veteran force estimated to be at least two battalions. These troops were well-uniformed in khaki, wore steel helmets, and were equipped with the latest AK-47 assault rifles, which indicated they were main-force unit. It was later discovered that their attack routes had been carefully marked and they had moved quickly to try and engage the Rangers before the US troops were able to fully dig in. Post-battle analysis revealed that the unit was the 271st PLAF Regiment.


Soon, the situation grew serious and Ranger casualties mounted. For a time, it seemed that the enemy might break through to the center of the LZ, but air strikes by F-100 fighter-bombers had stabilized the situation by 1500. Due to the heavy concentrations of small arms fire and air support, the VC commander decided that he had had enough and began to break contact under the cover of a two-hour mortar barrage. About 1900, the division RRF arrived, but the battle was long over, and the Rangers had been bloodied. The battalion had lost twenty-six men killed and the Black Lions lost another eleven. An additional 150 men were wounded between the two battalions. The 271st Regiment had not gotten away unscathed, however. A search of the area immediately after the fight revealed seventy-two bodies and a sweep deeper into the AO the next day found twenty-six additional enemy KIA.

Battle of Xom Bo II 17 June 1967 | 16th Infantry Regiment Association


Image


Monday, June 16, 2025

NGÀY GIỔ CỦA TRUNG ĐOÀN 7 SƯ ĐOÀN 4NGÀY ĐỊNH MẠNG CỦA TRUNG ĐOÀN 7 SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH VNCH.  

HÌNH 1

HÌNH 2 
HÌNH 3
HÌNH 4
Hình 5
HÌNH 6
HÌNH 7
HÌNH 8
 HÌNH 9. Bản đồ các CCHL của Mỹ:  BIG722400X2400FSBS.jpg (2400×2400)

Tôi viết bài này với đam mê về khảo cổ vì ko muốn trận đánh hay cuộc thảm sát này chìm vào quên lãng, dù chỉ xảy ra chưa tới 60 năm. Ngày 27/11/1965 là ngày giỗ của trung đoàn 7 sđ 5 bộ binh VNCH. Tôi có nhiều bạn thuộc sđ 5, có người từng là đại đội trưởng trinh sát, nhưng vì nặng trĩu buồn phiền nên họ ko muốn viết hồi ký. 

- Ngày hôm đó, BCH của trung đoàn 7 và TĐ 1/7, bao gồm tất cả bảy cố vấn Mỹ đi kèm, bị tiêu diệt hoàn toàn chỉ trong tám giờ tại một nơi trong đồn điền Michelin và cách Dầu Tiếng vài dặm về phía đông bắc, xem bản đồ. Thiệt hại của quân bạn ngày đó là 249 chết, 213 bị thương và 140 mất tích. 

Theo Thiếu úy Nguyễn văn Khôi (tiền sát viên của TĐ 5 pháo binh, đi theo TĐ 2/7): ngoài trung đoàn trưởng (trung tá Nguyễn văn Tư) còn có trung đoàn phó, sĩ quan ban 2 và ban 3, trung úy y sĩ trưởng Nguyễn văn Nhứt, đại úy Giỏi sq liên lạc pháo binh làm việc tại BCH trung đoàn và nhiều sq, hạ sq, và binh sĩ tử trận -- ND.

Cũng theo thiếu úy Khôi, ước tính trong trận có khoảng 800 quân nhân tử trận. Lý do: có nội tuyến - tên này là trung sĩ ở ban truyền tin sđ, do đó bao nhiêu lệnh lạc đều bị VC biết trước. Theo thiếu úy Khôi, trung đoàn 7 với TĐ 2/7 đi đầu, đã tiến từ Bến Cát đến Dầu Tiếng, sau đó  TĐ 2 ở lại Dầu Tiếng nghỉ ngơi làm trừ bị vì đã đi đầu, còn bao nhiêu tiến về Làng 13 bis thuộc đồn điền Michelin -- ND.

Nói thêm về TĐ 1/7: Trước trận này, trong trận Đồng Xoài tháng 6/1965, TĐ đã bị thiệt hại nặng ngay sau khi đổ quân vì VC giả dạng thường dân chờ họ ở bãi đổ quân. Tháng 12/1974, TĐ lại bị thiệt nặng khi bảo vệ tỉnh lỵ Phước Long và sau đó tan hàng tại Truông Mít gần Dầu Tiếng tháng 3/1975 -- ND)       

Sau đây là phần chuyển ngữ.

PHẦN I 

LỜI NÓI ĐẦU: Ngày thứ bảy 27/11/1965, một trung đoàn tăng cường (quân số nhiều hơn 1 trung đoàn bình thường) của quân CSBV đã tấn công và tiêu diệt trung đoàn 7 sđ 5 bộ binh VNCH trong đồn điền cao su Michelin cách Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương) của nam VN vài dặm về phía đông bắc. Trước đó, trung đoàn VNCH này đã cố gắng tìm và diệt các thành phần của sđ 9 tân lập của CSBV đang hoạt động trong khu vực. Sư đoàn này gồm các trung đoàn 271, 272, và 273 của Lực lượng Võ trang Giải phóng miền Nam, viết tắt theo tiếng Anh là PLAF, lấy từ các lực lượng VC địa phương. (Nói thêm: Trong trận Bình Giả cuối năm 1964 và đầu năm 1965, trung đoàn 271 và 272 đã dự trận, như đã kể trong bài mới đây. Sau này do quân giải phóng miền Nam chết nhiều, họ được thay thế bởi quân CSBV, viết tắt theo tiếng Anh là PAVN, dù danh xưng vẫn là Lực lượng Võ trang Giải phóng miền Nam -- ND).  

Trận đánh bắt đầu vào sáng sớm và kéo dài 8 tiếng đẫm máu. Bảy cố vấn Mỹ tử trận và trung đoàn VNCH này đã hoàn toàn bị quét sạch

NỘI DUNG CHÍNH: Đồn điền Michelin này là đồn điền cao su lớn nhứt nam VN. Nó bao phủ 31.000 acre (mỗi acre bằng 4.046,86 mét vuông) hay 125 km2 của tỉnh Bình Dương và nơi ở của hàng trăm công nhân, sống rải rác trong 22 ấp của đồn điền. CS đã duy trì một hiện diện mạnh mẻ ở đây. Đồn điền là một nguồn thuế lợi tức đáng kể cho chính quyền nam VN, nhưng cũng chịu thuế của VC. Vào tháng 10/1965, Ban Giám đốc của đồn điền đã ko chịu đựng nỗi đòi hỏi tài chánh của VC địa phương, và nghĩ rằng ko còn lợi nhuận khi khai thác đồn điền. Do đó họ ko trả thuế cho VC.

Để trả đũa, VC dùng súng ko giựt (SKZ) 57-ly bắn vào nhà của viên quản lý. BGĐ và quản lý ngừng mọi hoạt động, bay về SG và yêu cầu chính phủ can thiệp. Họ cũng lo lắng khi để hàng trăm công nhân thất nghiệp và lợi tức cạn kiệt.

Chánh phủ VNCH, trợ giúp bởi BTL quân viện Mỹ tại VN, viết tắt là MACV, đã giao trách nhiệm cho trung đoàn 7 của sđ 5 VCNCH và sđ 1 bộ binh Mỹ phải mở đường vào đồn điền, quét sạch VC và tái lập trật tự và an ninh.

Tháng 11 1965, QL/VNCH và lục quân Mỹ đã lần lượt tiến hành các nỗ lực bình định có tên là XÂY DỰNG 10 và 11, và cuộc hành quân (HQ) BUSHMASTER 1. Các HQ này đã thành công và chánh phủ đã quyết tâm tận dụng (capitalize) những thành tựu và mở rộng những nỗ lực này vào khu vực xung quanh, đặc biệt vùng đất cao dọc theo sông SG. 

Ngày 26/11, các TĐ 1, 3, và 4 của trung đoàn 7 VNCH bắt đầu rời quận lỵ Dầu Tiếng, hướng về núi Cầu Cống, ở phía tây của đồn điền. Họ định sẽ khai thác kết quả ném bom của B-52, dự trù diễn ra sáng ngày kế. TĐ 2 của trung đoàn, cùng với một TĐ BĐQ, một pháo đội, và một chi đoàn thiết vận xa M-113 được dùng làm trừ bị. Chiều hôm đó, trung đoàn trưởng, chia cắt lực lượng, bằng cách gửi TĐ 3 đi trước trung đoàn. Các TĐ đã nghỉ qua đêm trong vị trí phòng thủ ở Ấp Nhà Mát, và chuẩn bị sẽ di chuyển khi trời sáng. Nhưng kế hoạch của họ đã bị gián đoạn lúc bình minh, khi 1 trung đoàn tăng cường của CS đã mở các cuộc xung phong riêng lẻ nhưng phối hợp vào BCH của trung đoàn, hai TĐ chánh quy và TĐ 3. 

Hỏa lực dữ dội của cối, súng đại liên và các xung phong biển người đã gây tác hại lớn lao. VC đã rút kinh nghiệm cay đắng rằng họ phải bám sát đối phương để giảm thiểu tối đa tác động của phi pháo Việt-Mỹ. Chiến thuật này có hiệu quả. TĐ 4 đã bị cắt làm hai: khoảng phân nửa bị giết và phân nửa kia, bao gồm cố vấn Mỹ, bị thương. Riêng TĐ 3, theo kế hoạch sẽ dụ đối phương vào bẫy, cũng bị thiệt hại khủng khiếp. Ba trong số bốn cố vấn bị thương. Chỉ có 45 người của TĐ 3 vô sự, bao gồm cố vấn thứ 4. BCH trung đoàn và TĐ 1, bao gồm bảy cố vấn đi kèm, đã hoàn toàn bị tiêu diệt (annihilate). Thiệt hại quân bạn ngày đó là 249 chết, 213 bị thương và 140 mất tích. (Để so sánh, trong 10 ngày từ 28/12/64 đến 6/1/65 tại mặt trận Bình Giả mà chiến tuyến kéo dài hàng chục km, quân VNCH chỉ chết 201, 192 bị thương, 68 mất tích. Mỹ có 5 chết, 8 bị thương, 3 mất tích hay bị bắt -- ND).

Tiểu sử của 7 cố vấn Mỹ tử trận:

1/ Thiếu tá Guy McCarey, Jr, toán cố vấn 70 của MACV. 

2/ Đại úy James McNeely, cũng thuộc toán 70, từng là trung đội trưởng thiết giáp và phục vụ nhiệm kỳ thứ 2 ở VN. Khi chết để lại ngoài 6 con; vợ đang có bầu sanh đôi. 

3/ Thiếu úy Carl Gray, toán 79, từng học tiếng Lào trước khi tình nguyện sang VN phục vụ Lực lượng Đặc biệt (LLĐB). 

4/ Thượng sĩ (sergeant first class) Phillip Vander Weg, cùng toán 70, từng ở Toán Nhảy dù biểu diễn Golden Knights của lục quân; để lại 1 vợ 3 con. (Thượng sĩ trên trung sĩ nhất (staff sergeant) nhưng dưới thượng sĩ nhứt (master sergeant) -- ND. 

5/ Trung sĩ William Crisman, cùng toán 70, vào lính 4 năm. Đến VN chỉ 5 tuần trước khi chết; để lại 1 vợ và 1 con trai.

6/ Binh nhất John Grasso, thuộc phòng giao tế dân sự hay thông tin báo chí của MACV, cũng là âm thoại viên. 

7/ Binh nhất Lester Kersten, cùng toán 70, là âm thoại viên.

Sau này được biết, quân tấn công là 1 trung đoàn tăng cường thiện chiến của CSBV. Dù quân số chủ yếu là VC, trung đoàn này cũng bao gồm những cựu chiến binh dày dạn (seasoned) với vũ khí mới nhứt của LX

Trong khi đó, quân nam VN, được đào tạo để chiến đấu chống lại một đội quân nghèo nàn với những người lính ko chính quy, huấn luyện sơ sài và quân nam VN được trang bị vũ khí cũ của quân Mỹ thời đệ nhị thế chiến. Do vậy những ai nghĩ rằng trung đoàn CS này không là đối thủ của quân đội Việt-Mỹ là nói ko đúng với thực tế.  (understatement). 

Chuyển ngữ từ: Week of November 27, 2022 | Vietnam War Commemoration

PHẦN II

Nhiếp ảnh gia Horst Faas tháp tùng quân tiếp viện Nam VN tới nơi trung đoàn VNCH bị tàn sát tại 1 đồn điền cao su 45 dặm bắc của SG. Sau đây là bài của ông.

"DẦU TIẾNG, Việt Nam-(AP) Trung đoàn 7 của Nam VN đã bị xóa sổ lúc 8 g ngày thứ bảy.

Cố vấn trưởng của trung đoàn đã chết tại đồn điền cao su Michelin mênh mông này sau khi cố gắng trong vô vọng để đẩy lui các đợt xung phong của lính CS xuyên qua rừng cao su.

Phần lớn các người lính VN, cùng với cố vấn Mỹ, đã chết đấu tới viên đạn cuối cùng.

Ông này đã được tìm thấy vào ngày chủ nhật, chết sóng soài bên cạnh 1 hố chiến đấu. Vị trung đoàn trưởng cũng nằm chết gần đó. Lúc 7 g sáng thứ bảy định mạng, ông đã nói qua máy truyền tin với 1 cố vấn của TĐ BĐQ gần đó: "Âm thoại viên (ATV) của tôi vừa chết, và chúng tôi ko thể cầm cự lâu hơn nếu ko có không yểm ngay bây giờ. Hãy ném bom xuống đầu chúng tôi, vì CS đang tràn ngập."

Vài phút sau, vị cố vấn này, giọng ông vẫn bình tỉnh, gọi, "Tôi phải rút khỏi đây. Gấp lắm (fold up)."

Nhưng ông đã ko thể làm điều ấy.

Một xạ thủ đại liên, nằm sóng soài trong hố cá nhân, vỏ đạn ngập đến đầu gối. VC đã bắn bể (shoot off) nòng súng, rồi giết ông bằng 1 viên đạn xuyên óc. (Có lẽ là súng đại liên 30, số hiệu M1919A4 Browning, xem hình, nặng 14 kí, bắn đạn 7.62. Băng đạn 250 viên. Trước 1968, là súng liên thanh của các đv VNCH. Sau năm 1968, vì quá nặng, nên được thay thế bởi M-60 -- ND).

Trung liên BAR, xem hình, nặng khoảng 9 kí, bắn đạn 7.62, hộp đạn 20 viên hay 40 viên. Súng này được dùng trong giai đoạn đầu của chiến tranh VN bởi quân VNCH và đồng minh, kể cả DSCĐ. Theo 1 cố vấn LLĐB, họ nói súng này rất tốt, ko bị kẹt đạn như M-16.           



Một số lính đã định rút chạy, nhưng đã bị bao vây và tàn sát bởi VC, 1 cố vấn bị thương kể lại.

Người chết nằm rải rác ở giữa những nhánh cây rơi và trong những hố chiến đấu khá sâu mà họ đã đào trong 4 ngày đóng tại khu vực này

Phần lớn chết vì trúng đạn ở đầu và cổ.

Không thấy xác VC. Họ đã mang theo xác chết và thương binh.

Lính BĐQ vừa được tăng viện ko còn tìm thấy kẻ thù. Họ đang tìm các đồng đội. Ngay sau buổi chiều, họ đã thu nhặt cả trăm xác. Còn nhiều nữa.

PHẦN 3 - LÁ THƯ CỦA MẸ NÓI VỀ LỄ GIÁNG SINH

Đồn điền cao su Michelin, Việt Nam - (AP)

Những trang của lá thư này bay đu đưa (flutter) giữa những mảnh vụn của trận đánh.

Gần đó, nằm nửa trong nửa ngoài của 1 hố chiến đấu, là xác của 1 trung sĩ trẻ của lục quân Mỹ. Thân xác to lớn của y đã co rúm (crumple) trong bóng của cây rừng, tay y vung ra (fling out).

Lá thư này đã được tung ra (scatter) bởi những tên VC giết ông và nhiều người lính VN vào ngày thứ Bảy trong hai giờ đẫm máu trên đồn điền này. Chúng đã lục lọi (go through) các ví của người chết và lấy đi tiền và những gì quý giá.

Chúng đã để lại thơ này.

Đó là thơ của mẹ trung sĩ.

"Trung sĩ thân yêu," bà đã viết 1 cách trìu mến. Bà nói về những dự định bà làm cho lễ Giáng Sinh. Bà đã ko trông đợi y về nhà vì y còn vài tháng phải phục vụ tại VN. (Mỗi lính Mỹ trong 12 tháng tại VN, kể cả sĩ quan -- ND).

Nhưng bà biết y sẽ quan tâm đến lễ Giáng Sinh tại quê nhà.

Nhưng bà quay sang những vấn đề quan trọng hơn,

"Gia đình đã đọc thư con, và gia đình hiểu những khó khăn ở đó.

"Rất nhiều bà mẹ và vợ và con tại Mỹ năm nay không muốn người thân của họ trở về trong ngày Giáng Sinh."

Mẹ của y đã viết những cuộc biểu tình tại Mỹ phản đối sự can thiệp của Mỹ tại VN.

"Nhiều người ở Mỹ có vẻ chống lại những gì con đang làm, nhưng gia đình biết con làm điều đúng. 

"Gia đình cầu nguyện cho con sẽ đạt những gì con nghĩ là đúng ở đó. Mẹ muốn bảo đảm với con rằng trong mùa Giáng Sinh này, mẹ và gia đình hoàn toàn và luôn luôn (all the way) đứng sau con.

"Nhưng gia đình ko cần phải nói cho con điều ấy. Con đã biết tất cả."

Phần này chuyển ngữ từ: https://www.virtualwall.org/dv/VanderwegPJ01a.htm

CẬP NHẬT NGÀY July 3 2025.

1/ Hai TĐ Mỹ có pháo binh đã tiếp viện trung đoàn 7.

Trích từ trang 88 của 'Stemming the Tide, May 1965 - 0ctober 1966'. Tạm dịch: "Trong những giờ đầu của ngày 27/11, trung đoàn 271 và 273 đã tấn công các thành phần của trung đoàn 7 của sư đoàn 5 gần đồn điền. Quân tấn công VC, theo tướng Seaman, "thực tế đã quét sạch trung đoàn 7". Để trả đũa, Seaman đã ra lịnh cho lữ đoàn 3 của ĐT Brodbeck, với hai TĐ và pháo binh, tiến vào và bảo vệ trung đoàn này trong lúc họ đã tập họp lại. Trong ngày thứ ba của cuộc hành quân, Seaman đã thay đổi nhiệm vụ của Brodbeck." NHẬN XÉT: Như bạn đã thấy, 1 trận đánh lớn như vậy mà quân sử chính thống của Mỹ chỉ GHI VÀI GIÒNG NGẮN NGỦI. Họ chỉ cho biết, sau khi tấn công trung đoàn 7, VC đã rút nhanh vì sợ trả đũa. Do vậy trong hai ngày đầu, các đv Mỹ trên đây đã ko gặp VC./.

2/ - Theo ông Triệu Vũ, thuộc đại đội quân nhu của sđ 5 bộ binh, trong 1 hồi ký đã viết: dù đã mang lên bãi chiến trường ở làng 13 bis Dầu Tiếng300 túi đựng xác và 100 poncho nhưng do ko đủ túi đựng xác chết hay poncho, nên cuối ngày 28/11, vì là ngày cuối để lấy xác, các quân nhân thu dọn chiến trường phải khiêng xác chết đã sình thối vì phơi nắng 2 ngày (chết từ sáng sớm ngày 27/11), xem hình, bỏ lên máy bay C-47 ở sân bay đồn điền Dầu Tiếng để chở về SG. Như vậy số người chết phải trên 400. Sau đó họ được đưa về nghĩa trang Gò Vấp (lúc đó chưa có NT Biên Hòa), có phòng máy lạnh để chứa xác và tắm rửa xác chết trước khi cho thân nhân gặp mặt để khâm liệm.

SJ ngày July 3 2025, cập nhật ngày 22/7/25.

Tài Trần




Wednesday, April 7, 2021

ĐPQ/NQ TRỊ TÂM VÀ BẾN CẦU THÁNG 3/75 ĐÃ ANH DŨNG ĐÁNH TRẬN CUỐI CÙNG 

            


Trong tinh thần “luôn luôn nhớ ơn những người lính đã ngả xuống để bảo vệ cho chế độ VNCH”, hôm nay tôi xin giới thiệu chiến công anh dũng của ĐPQ và NQ của quận lỵ Trị Tâm và Bến Cầu thuộc tỉnh Tây Ninh. Hai chiến công này dễ đi vào quên lãng vì nó xảy ra vào lúc Ban Mê Thuột đã bị tấn công và thất thủ—đã thu hút dư luận trong nước và quốc tế. Hai chiến công này đáng ghi nhớ khi ở BMT, sau hơn một ngày, mọi chống cự có tổ chức đều chấm dứt dù vẫn có những ổ kháng cự lẻ tẻ; trong khi đó tại hai quận lỵ này cuộc kháng cự của người lính ĐPQ và NQ kéo dài BA NGÀY.

Sau đây là phần chuyển ngữ từ trang 243-252 của quyển Black April.

 . . . 

“Ở phía Bắc, sđ 9 CSBV với ba trung đoàn cơ hữu sẽ tấn công quận lỵ Trị Tâm, tên cũ là Dầu Tiếng, nằm trên TL-239 ở rìa của đồn điền cao su Michelin rộng mênh mông. Sau đó họ sẽ quét sạch các vị trí của ĐPQ ở đông quận lỵ này cho tới sông Sài Gòn. CSBV đã chọn Trị Tâm thay vì An Lộc hay Chơn Thành vì nơi đây phòng thủ bởi ĐPQ, trong khi An Lộc và Chơn Thành được bảo vệ bởi các đv thiện chiến BĐQ. Họ cũng hy vọng nếu chiếm Trị Tâm (Dầu Tiếng) sẽ cô lập hai TP kể trên và sau cùng VNCH sẽ bỏ hai TP này. Ở phía nam, sđ 303 CSBV sẽ chiếm quận lỵ Bến Cầu và sẽ quét sạch mọi tiền đồn ĐPQ từ sông Vàm Cỏ Đông tới biên giới Cambodia. Ba tiểu đoàn du kích tỉnh Tây Ninh sẽ cắt đứt (sever) TL-22, chạy từ QL-1 vào tỉnh lỵ Tây Ninh, để ngăn quân VNCH dùng đường này để tăng viện hay rút lui. Nếu thành công, phần lớn của tỉnh này sẽ lọt vào tay CSBV. Tỉnh lỵ Tây Ninh, một địa điểm có tính biểu tượng cao của VNCH sẽ bị bao vây. 

Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) có những lý do rõ ràng để chọn những mục tiêu này. Trị Tâm (Dầu Tiếng) ở một vị trí quan trọng gần TL-22. Nếu ai chiếm nó sẽ ngăn việc chuyển quân từ Tây Ninh đến tỉnh Bình Dương hay chuyển quân về nam dọc sông Sài Gòn xuống vùng Tam Giác Sắt ở bắc của Củ Chi. Bến Cầu khống chế con đường đi vào khu vực đầm lầy. Các tiểu đoàn ĐPQ và trung đội NQ đã phòng thủ kỹ lưỡng hai quận lỵ này với xạ trường thuận lợi và nhiều lớp hàng rào phòng thủ. Do vị trí, Trị Tâm đã được phòng thủ mạnh mẻ nhứt. Trị Tâm đã có ba tiểu đoàn ĐPQ và chín trung đội NQ với hàng chục tiền đồn và nút chận trên các lộ và rải rác chung quanh. Tóm lại cả hai là những cứ điểm quan trọng của Nam VN.

Theo kế hoạch của tướng Trà, một lực lượng hùng hậu gồm sđ 9 csbv tăng cường bởi trung đoàn 16 biệt lập, vài đại đội xe tăng, hai tiểu đoàn phòng không, và hàng chục đại bác, bao gồm ba khẫu 130 ly, chẳng bao lâu đã bắt đầu tập trung ở Bắc Trị Tâm. Ngày 10/3, cùng ngày nổ súng vào Ban Mê Thuột, ba tiểu đoàn quân du kích Tây Ninh mở màn trận đánh. Họ đã tấn công suốt chiều dài của TL-22 từ giao điểm ở Gò Dầu Hạ, nơi QL-1 và TL-22 gặp nhau ở nam tỉnh lỵ tới gần Tây Ninh. Trong khi ĐPQ đẩy lui quân CS ở nhiều chỗ, một đoạn của TL này gần tỉnh lỵ bị chiếm giữ trong vài ngày.

Sau đó là tới Trị Tâm. Lúc 5:00 sáng ngày 11/3, hai trung đoàn của sđ 9 CSBV mở cuộc tấn công chính. Với ba xe tăng dẫn đầu, dù bắc quân đã xuyên thủng hàng rào ngoài cùng, nhưng với yểm trợ của pháo binh, ĐPQ đã chống trả dữ dội. ĐPQ đã mở các cống nước gần đó để gây lụt lội, tạo khó khăn cho xe tăng. 

Bị chống trả dữ dội, sđ 9 đã rút lui và tấn công mạnh hơn vào ngày 12/3. Quân sử của sđ này đã viết: “Các chiến sĩ đã chiến đấu giành giựt từng nhà và từng bờ mương. Sđ đã gửi thêm xe tăng ... và súng 85 ly để yểm trợ trực tiếp cho bộ binh. Cùng lúc sđ đã dùng pháo binh do quân đoàn tăng phái để trấn áp các vị trí pháo của địch. Lúc 9 giờ sáng chúng ta đã chiếm hầm truyền tin, và đã dùng chất nổ để phá hủy hầm ngầm ở đó, vị trí cố thủ cuối cùng của địch. Chiến sĩ trung đoàn 2 đã treo cờ trên BCH chi khu lúc 9:40 sáng. Trong khu vực của đồn hình tam giác, địch quân yểm trợ bởi M-113 và pháo đã tiếp tục chống cự. Vào sáng ngày 13/3, sau khi nhận thêm viện binh, trung đoàn 2 mở cuộc tấn công mới đã tràn ngập phòng tuyến cuối cùng của địch...Mọi lính tráng trong khu vực, trên 2.000 người, đã bị tiêu diệt hay tan rả tại chỗ. Chúng ta bắt 929 tù binh.”

Dù quân CSBV khoe khoang (boast), tổn thất cả hai phía đều cao. Theo nam VN, họ đã bắn cháy 10 tăng và hàng trăm Bắc quân chết hay bị thương. Tuy nhiên 1/2 lính phòng thủ bị chết, bắt sống hay mất tích. 1.000 người khác thoát được. Trị Tâm là quận lỵ THỨ NĂM bị mất trong năm ngày. Nằm ở 43.5 km tây bắc của Sài Gòn, đây cũng là quận lỵ gần SG nhứt bị mất.

Chẳng bao lâu sau Trị Tâm, quận lỵ Bến Cầu bị tấn công bởi sđ 303 gồm các trung đoàn 201, 205, và 271 và tăng cường bởi trung đoàn 3 của sđ 5 CSBV, một tiểu đoàn phòng không và bảy xe M-113 mới chiếm được. Khác với Trị Tâm, địa thế ở Bến Cầu bằng phẳng trống trải, với nhiều kinh mương ngang dọc, lợi thế cho phòng thủ. Tại quận lỵ có 600 lính ĐPQ, trong khi 500 quân bảo vệ vòng ngoài của quận. 

Lúc hừng đông của ngày 12/3, pháo của quân CSBV đã bắn tập trung vào Bến Cầu. Sau đó bộ binh xung phong. Tuy nhiên các người lính ĐPQ đã chống trả với yểm trợ của pháo binh và không quân, và Bắc quân đã ko thể xuyên thủng phòng tuyến. Họ đã rút lui để tập trung vào việc quét sạch mọi vị trí ở vòng ngoài và mang súng 85 ly về phía trước để chống bộ binh. Lúc 2 giờ chiều, vài trung đội NQ của nam VN  đã buộc phải rút lui, và thòng lọng đã thắt chặt quanh Bến Cầu. Lúc 5 giờ chiều, bắc quân đã mở đợt pháo mới nặng nề vào quận lỵ này, và lần nữa Bắc quân xung phong.Lần nữa họ đã ko đẩy lui ĐPQ anh dũng. Quân sử của sđ 303 sau này viết: “ Địch đã chống trả điên cuồng (insane). Pháo địch đã bắn dữ dội vào đội hình chúng ta, và bộ binh địch đã tung ra những đợt phản công quyết tử (deaf-defying). Khi trời hoàn toàn tối, các đv đã buộc phải tạm thời ngừng tấn công.” Những cuộc tấn công của sđ 303 vào ngày 13/3 đã ngừng do hỏa lực yểm trợ và chống trả ngoan cường của ĐPQ. 

Đối diện với những trở ngại (setback) này, trong tối 13/3, tư lịnh của sđ 303 đã buộc phải suy nghĩ lại về chiến lược của ông: “ Trong tất cả các khu vực được chỉ định, các đv của chúng ta đã chiếm một số tiền đồn và giết và bắt sống nhiều lính địch, nhưng chúng ta đã ko thể chiếm các mục tiêu chánh. Đối diện với thực tế của tình hình này, ban lãnh đạo sđ đã gặp các trung đoàn trưởng. . . và đã quyết định rằng mỗi khu vực nên để lại một lực lượng đủ để bao vây và tạo áp lực lên địch quân còn chủ lực của sđ sẽ rút về phía sau để học tập kinh nghiệm và chỉnh trang quân số và nhận tiếp liệu cho trận tấn công tới.”

Vào sáng ngày 14/3, sđ 303 đã tung ra đợt tấn công thứ tư vào Bến Cầu và các tiền đồn trên QL-1. Vượt trội về quân số và hỏa lực cuối cùng đã làm suy yếu (wear down) lực lượng phòng thủ, và vào xế chiều sđ 303 đã kiểm soát Bến Cầu. Chiến đấu suốt đêm đó, Bắc quân đã quét sạch những tiền đồn cuối cùng của ĐPQ trong khu vực. Sau ba ngày chiến đấu ác liệt (brutal), “Nhiệm vụ này của sđ trong giai đoạn một của chiến dịch đã hoàn tất. Các căn cứ địch từ bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông tới biên giới Việt-Miên đã bị nghiền nát. Một vùng đất bao la từ Tây Ninh xuống châu thổ sông Cửu Long đã được giải phóng.”

Sau khi phân tách những tấn công ban đầu này, trung tướng Toàn đã kết luận rằng CS đã có ý chiếm thị xã Tây Ninh hay bao vây TP này bằng cách chiếm Gò Dầu Hạ để ngăn chận viện quân hay tiếp tế. Toàn đã buộc phải chọn một trong hai giải pháp: rút sđ 25 bộ binh khỏi thị xã Tây Ninh để tái chiếm các quận lỵ đã mất —có thể khiến TP ko được bảo vệ và nguy cơ bị mất—hay tập trung quân để bảo vệ TP này. 

Toàn đã chọn giải pháp 2: ông triển khai ba trung đoàn 46, 49, và 50 của sđ 25 chung quanh TP. Ông cũng tăng cường một đại đội của liên đoàn 81 biệt cách dù cho thị xã này. Toàn đã ko hoàn toàn bị trói tay (not totally boxed in). Việc điều quân trước đây của ông đã giúp ông có được một số linh hoạt. Ông đã ko ngồi yên (sit idly by) và nhìn Bắc quân tiêu diệt hai phòng tuyến quan trọng. Việc yểm trợ hỏa lực cho Trị Tâm và Bến Cầu rất lớn lao, theo báo cáo của cơ quan DAO. Trong tuần lễ từ 8-14/3, pháo binh VNCH đã bắn 26.000 đạn đại bác và không quân thực hiện 320 phi xuất trong quân khu III, bị rơi một A-37 vì SA-7 ngày 12/3. Toàn cũng dùng trừ bị của quân đoàn để đối phó đe dọa ở Tây Ninh. Ngày 11/3, Toàn đã ra lịnh cho lữ đoàn 3 thiết kỵ và liên đoàn 33 BĐQ lập tức tới Gò Dầu Hạ để giữ giao điểm huyết mạch này. Ông cũng chỉ định một tiểu đoàn của trung đoàn 7 sđ 5 bộ binh  tăng cường cho Thiết kỵ 3. Lực lượng kết hợp của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi gồm thiết giáp, BĐQ và bộ binh sẽ phản công, với mục tiêu tối hậu là tái chiếm quận lỵ Trị Tâm. Toàn cũng cho trực thăng bốc trung đoàn 48 của sđ 18 xuống Gò Dầu Hạ với nhiệm vụ thông thương QL-1 tới biên giới Việt-Miên.

Cách điều quân này là điển hình (typical) của Toàn: ông dùng trừ bị của quân đoàn, rút những đv ít đụng độ để đối phó với đe dọa bất ngờ, và tăng phái lẫn nhau (cross-attached) khi cần. Khi những động thái này là một đáp ứng quyết định cho một tấn công gồm nhiều sđ của Bắc quân trên sườn phía Tây của quân khu III, những động thái này đã làm suy yếu trầm trọng khu vực phía đông của quân khu III, vì giai đoạn thứ hai, có lẽ quan trọng hơn của các cuộc tấn công của quân đoàn 4 CSBV đã bắt đầu. Mặt khác, Toàn đã có ít chọn lựa: Nam VN hầu như ko còn lực lượng trừ bị, và Tây Ninh đã luôn luôn được xem là bàn đạp chánh cho mọi tấn công vào Sài Gòn. Hậu quả là, Toàn đã quyết định dùng trừ bị tại khu vực Tây Ninh và hy vọng điều tốt đẹp cho khu vực đông bắc của quân khu 3. 

Trong khu vực này, tướng Trà đã tìm cách sói mòn kiểm soát của VNCH tại tỉnh Long Khánh, chiếm QL-20 từ SG đi Đà Lạt, và cầm chân (pin down) sđ 18 để ngăn ko cho sđ này triển khai nơi khác trong quân khu 3. Mục tiêu của y là lập một “hành lang giải phóng” dọc biên giới của quân khu 2 và 3. Nhiệm vụ khó khăn nhứt là chiếm QL-20 chạy từ QL-1 trong tỉnh Long Khánh về phía Bắc xuyên qua tỉnh Lâm Đồng tới Đà Lạt. Trong đầu tháng 2, sđ 7 gồm các trung đoàn 141, 165, và 209 được lịnh thám sát làng Định Quán trên QL này. Quận lỵ này cách Xuân Lộc 22.5 km về phía Tây Bắc là một vị trí quan trọng trong phòng tuyến bảo vệ đường này. Một khi chiếm được quận lỵ, sđ 7 CSBV có thể đồng thời tấn công hai hướng khác nhau trên QL-20: về Tây nam chiếm cây cầu quan trọng trên sông La Ngà gần đó, và về đông Bắc chiếm Đà Lạt. Cắt đường này sẽ cắt Cao Nguyên khỏi quân khu 3, cũng như chiếm Ban Mê Thuột và Quảng Đức sẽ cô lập Cao Nguyên với phần phía Tây của quân đoàn 3.

Khi sđ 7 tấn công QL-20, sđ 6 CSBV, đang ở phía đông của tỉnh Long Khánh, sẽ chiếm tỉnh lộ 2, đi từ nam Xuân Lộc tới QL-15--con đường SG đi Vũng Tàu. (Sđ 18 khi di tản, đã theo TL-2 này để về Bà Rịa). Sđ 6 csbv sau đó quay về phía Bắc và tấn công từ Xuân Lộc về phía đông dọc QL-1 tới tỉnh Bình Tuy. Trung đoàn 812 của quân khu 6 sẽ chiếm quận lỵ Hoài Đức và quét sạch phía đông bắc của tỉnh Long Khánh và bắt tay với sđ 6, do đó cô lập các tỉnh ven biển với phía đông của quân đoàn 3 VNCH. Với các phần phía Tây, ở giữa, và giờ đây là phía đông của biên giới giữa quân đoàn 2 và 3 bị mất, các lực lượng nam VN ở quân đoàn 2 ko thể rút về phía nam. Đất nước này sẽ bị cắt làm hai. 

Cuối tháng 2, các đv trưởng của sđ 7 CSBV trở về sau khi thám sát khu vực. Ngày 5/3, phó của tướng Trà, trung tướng tân thăng Lê Đức Anh, đã ra lịnh sđ này đi xuyên rừng từ Phước Long tới những tiền đồn VNCH dọc QL-20 với nhiệm vụ mở màn chiến dịch bằng cách tấn công quận lỵ Định Quán. Dù CS cố gắng che đậy việc chuyển quân, tình báo Mỹ-Việt lại lần nữa khám phá kế hoạch của họ khi bắt được hai lính của sđ 7 CSBV hồi chánh khai báo ý định của Bắc quân. 

Biết được tin này, ngày 16/3 Toàn ra lịnh cho tướng Đảo của sđ 18 gửi hai TĐ của trung đoàn 43 tới Định Quán. TĐ 2/43 tới trong ngày và triển khai ở tây Bắc của TP. TĐ 1/43 và BCH trung đoàn đóng ở  cầu La Ngà. Đảo để TĐ 3/43 gần quận lỵ Hoài Đức để giúp ĐPQ trong khu vực này chống lại tấn công có thể từ trung đoàn 812. Trung đoàn 52 giữ Xuân Lộc và Dầu Giây—giao điểm huyết mạch của QL-1 và QL-20. Với trung đoàn 48 đã tăng phái cho Tây Ninh, Đảo giờ đây ko còn quân, như phần còn lại của quân đoàn 3. Các lực lượng ĐPQ và NQ đóng trên đường số 2 nam Xuân Lộc dẫn tới Bà Rịa và phía đông dọc QL1— là các mục tiêu của sđ 6 và trung đoàn 812–phải tự lo lấy thân.”


Định Quán và cầu La Ngà thất thủ.

Ngày 6/3, sđ 7 CSBV đã xuất phát từ Phước Long để hành quân xa tới QL-20. Tuy nhiên, sông Đồng Nai, nằm giữa Phước Long và QL này lại ko có chỗ nào cạn (ford) hay cầu có thể dùng để vượt sông. TĐ công binh của sđ đã làm việc ngày đêm (diligently) để dựng một cầu cho phép bộ binh và cơ giới nặng có thể vượt qua. Đây là một công việc khó khăn. “Nhiều vấn đề và khó khăn ko thể kể hết mà chúng tôi đã gặp khi di chuyển. . . qua sông này, nhưng. . . chỉ trong ba đêm, toàn sđ và những đv tăng phái đã vượt thành công sông Đồng Nai trong hoàn toàn bí mật.” 

Tuy nhiên, sự chậm trể này khi vượt sông, đã làm thay đổi kế hoạch của tướng Trà là tấn công Trị Tâm và QL-20 cùng lúc. Ngày 12/3, tư lịnh quân đoàn 4 CSBV, thiếu tướng Hoàng Cầm đã gửi mật điện ra lịnh cho Bùi Cát Vũ, tư lịnh phó người lãnh đạo cuộc tấn công QL-20, hãy tấn công càng sớm càng tốt. Mặt dù yếu tố bất ngờ ko còn, sau khi nhận lịnh này, Vũ đã ra lịnh cho sđ 7 tấn công lập tức. Vào sáng sớm của ngày 17/3, trung đoàn 141 đã tấn công Định Quán. Những trận đánh ác liệt đã nổ trên đỉnh đồi (ridgeline) mà TĐ 2/43 chiếm giữ. Sau hơn 24 giờ, cuối cùng bắc quân đã làm chủ cao điểm này--từ đó dễ dàng khống chế quận lỵ. TĐ 2/43 rút về phía nam đến Núi Tran gần đó và lập công sự trên một cao điểm gần cầu La Ngà. Trung đoàn 141 đã nhanh chóng tấn công Định quán và TP này đã mất vào ngày 18/3.

Mục tiêu tới là cầu La Ngà. Do sông chảy theo chiều đông tây nên TĐ 1 và 2 của 43 đóng ở bờ bắc và nam của sông. Cây cầu được bảo vệ bởi một đại đội ĐPQ. Theo kế hoạch ban đầu, chẳng bao lâu bắc quân đã tiến quân theo QL-20. Trong buổi sáng 20/3, các chỉ huy của họ đã tung ra hai TĐ mới tinh từ trung đoàn 209 chống lại TĐ này trên núi Tran. Trung đoàn 141 vẫn ở Định Quán để dưỡng quân. Bắc quân đã tấn công các vị trí của TĐ này vài lần, nhưng bị đẩy lui. Ở đợt xung phong thứ ba, chỉ huy của TĐ 2 này, thiếu tá Nguyễn hữu Chế, đã ra lịnh hai khẫu 105-ly nạp đạn chống biển người và bắn thẳng vào địch quân. Những phát đạn này đã khiến bắc quân ngừng tấn công.

Bất chấp thiệt hại này,  vào xế chiều csbv đã tấn công lần nữa. Để đối phó với đe doạ mới mày, thiếu tá Chế gọi không quân. Bất hạnh thay, một máy bay F-5 đã thả bom lầm các vị trí của TĐ này, gây nhiều thương vong. Sau vụ bom lầm, tình trạng của TĐ này ngày càng mong manh (tenuous). Trong vòng BỐN NGÀY chiến đấu chống HAI TRUNG ĐOÀN CSBV này, TĐ 2/43 của thiếu tá đã thương vong trên 80 người. Do các cuộc tấn công khác của CSBV trong tỉnh Long Khánh, chuẩn tướng Đảo ko thể tiếp viện TĐ này. Không còn chọn lựa nào khác là rút lui hay bị tràn ngập, vào giữa đêm Đảo đã ra lịnh cho TĐ rút về Xuân Lộc. Vào lúc hừng đông, trung đoàn này đã tiến về cầu La Ngà. Vì ko thể giữ được trước bước tiến của địch, vị đại đội trưởng ĐPQ đã gọi pháo binh bắn trực tiếp lên vị trí của ông ở kế đầu cầu (abutment). Trong một cố gắng để ngăn bắc quân chiếm cầu, ông đã anh dũng hy sinh—dù vô ích: mặc dù đã giết hàng chục bắc quân, cầu vẫn lọt vào tay bắc quân. Giờ đây cạnh sườn bị hở (unhinged), TĐ 1/43 cũng rút lui. Sư đoàn 7 đã thành công trong nhiệm vụ đầu tiên. 

Trong khi đó, cuối tháng hai, sđ 341 CSBV từ Bắc VN đã bí mật xâm nhập vào Mặt trận B-2 và đã chính thức đặt dưới quyền của quân đoàn 4 CSBV. Ngày 2/3, sau khi tăng phái trung đoàn 273 cho sđ 9, trung ương cục miền nam đã ra lịnh cho tư lịnh cho sđ 341 “Nghiên cứu khu vực QL-20 từ cầu La Ngà tới Dầu Giây—giao điểm của QL-20 và QL-1. Hãy thực hiện mọi chuẩn bị cần thiết để tiến hành một trận đánh qui mô lớn khi có lệnh.” Tư lịnh của sđ và bộ tham mưu đã đích thân thám sát khu vực này. Vào cuối tháng ba, quân đoàn 4 CSBV đã ra lịnh cho hai trung đoàn mới tới, 266 và 270, của sđ 341 nhận trách nhiệm cho khu vực Định Quán từ sđ 7 CSBV. Trung đoàn 270 sẽ bảo vệ khu vực mới chiếm, trong khi trung đoàn 266 sẽ tấn công theo QL-20 về phía tây nam để chiếm quận lỵ kế, Kiệm Tân.

Đảo đã biết rõ nhu cầu ngăn ko cho bắc quân tiến thêm trên QL-20. Ngày 28/3, ông gửi TĐ 2/53 tái chiếm lãnh thổ đã mất. Trong khi TĐ này chậm chạp tiến về phía bắc, họ đã tiến vào phòng tuyến của trung đoàn 207. Đây là trận đánh đầu tiên của trung đoàn này vì mới xâm nhập từ bắc. Trận chiến đã ác liệt từ sáng sớm 29/3 tới cuối ngày kế, và bất phân thắng bại (stalemate). 

mặt trận thứ hai của Đảo, sđ 6 CSBV đã chọn thời điểm (timed) cho cuộc hành quân quét sạch mọi tiền đồn của VNCH để trùng hợp với tấn công của sđ 7 CSBV. Giữa 15 và 18/3, sđ 6 tấn công về phía bắc dọc tỉnh lộ 2 (đường từ Xuân Lộc đi Bà Rịa, mà sau này cũng là đường lui quân của sđ 18 ra khỏi Xuân Lộc—người dịch). Kế đó sđ 6 sẽ đánh phía đông của Xuân Lộc, chiếm núi Chứa Chan, cao điểm quan trọng khống chế phía đông của TP này. Ngày 28/3, sđ 6 CSBV kiểm soát một đoạn dài 48 km từ núi Chứa Chan tới Bình Tuy. QL huyết mạch từ SG đến miền trung đã bị cắt, khiến nam quân ko thể dùng Ql-1 để trợ giúp QĐ-2.

Vài giờ trước khi sđ 7 csbv tấn công Định Quán, trung đoàn 812 đã nổ súng vào mặt trận thứ ba của Đảo, bằng cách tấn công Võ Đắc, quận lỵ của quận Hoài Đức. Các chiến sĩ ĐPQ kiên cường của Võ Đắc, đã sống sót sau cuộc vây hãm 30 ngày của các cuộc tấn công của Giai Đoạn Một, đã liên tục chống trả trong ba ngày. Mất kiên nhẩn khi không thể chiếm quận lỵ này, Trà đã yêu cầu trong đêm 19/3 rằng 812 phải nhanh chóng dứt điểm quận lỵ này. Trong những giờ của sáng sớm 20/3, sau khi pháo binh ồ ạt dọn đường, trung đoàn đã tấn công Võ Đắc. Sau khi chiếm làng này, trung đoàn 812 quay sang tấn công đv cuối cùng của vnch trong khu vực, đó là tđ 3/43 đang bảo vệ vài cao điểm gần đó. Sau hai ngày chiến đấu, Đảo ra lịnh cho tđ này rút về Xuân Lộc. Thời gian ngắn sau đó, trung đoàn 812 đã bắt tay với một đv trinh sát của sđ 6. Trung đoàn 812 hoàn thành nhiệm vụ, và Hoài Đức đã được "giải phóng" như Tánh Linh. Dù chậm so với kế hoạch, trung đoàn 812 nay tiếp tục hoàn thành phần hai của nhiệm vụ: giúp sđ 7 csbv dọn sạch QL-20 và chiếm tỉnh Lâm đồng và Tuyên đức. 

Dịch từ 243-252 của Black April 

San Jose ngày 7 tháng 4 năm 2021, cập nhật ngày 22/7/25.

Tài Trần