Thursday, October 8, 2020

 

Dinh Độc Lập - Tiếng Súng Cuối Cùng - Huy Văn Trương

Posted by   March 18, 2019  1953
Dinh Độc Lập - Tiếng Súng Cuối Cùng - Huy Văn Trương
Dinh Độc Lập - Tiếng Súng Cuối Cùng
Huy Văn Trương
 


BBT đánh máy lại từ tập truyện DINH ĐỘC LẬP TIẾNG SÚNG CUỐI CÙNG, với sự đồng ý của tác giả Huy Văn Trương (bút hiệu của Trung úy Trương Văn Hùng, phòng Hành Quân bộ Chỉ Huy trường VBQGVN).

Xin chân thành cám ơn tác giả.


Ba cái ly thủy tinh trong suốt lung lửng rượu vang, chạm nhau kêu lách cách, chúc mừng, chúc mừng ngày bọn mình tái ngộ, tôi nhìn qua khung cửa sổ cảnh ba người đàn ông ngồi bệt dưới đất, bao quanh chai rượu và đĩa mồi, hình ảnh quá quen thuộc. Tôi đoán ngay, ngày xưa họ là lính trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Như để xác nhận sự suy đoán của tôi là đúng, người trẻ tuổi nhất trong bọn cất giọng:
 
- Hai ông có công nhận không? Sư đoàn 18 của bọn mình, lấy một chọi mười, đã đánh một trận oanh oanh liệt liệt. Tôi cho đó là trận đánh cuối cùng, trận đánh để đời của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.

Người bận áo jacket đen, tay nâng ly rượu ậm ự.-Tôi biết chứ, chuyện rõ như ban ngày, mình khen mình có khác gì mẹ hát con khen hay, hãy quên mình tìm những cái hay cái đẹp của người khác. Chẳng hạn sáng ngày ba mươi tháng tư, khoảng sáu giờ sáng tại ngã tư Bảy Hiền, Biệt Kích 81 vẫn còn chiến đấu, tiêu diệt thêm mấy chiếc T54 của vc. Họ chỉ thực sự buông súng khi nghe lịnh kêu gọi đầu hàng trên đài phát thanh Saigon. Biệt Kích 81 bị bức tử và họ đã chết trong hào hùng.

Người già nhất, với gương mặt đầy đặn phúc hậu, cuốn mình trong chiếc áo nỉ dàỵ cộm, uống thêm một hớp rượu rồi mới bắt đầu lên tiếng:

- Mấy anh bạn à, cũng sáng ngày ba mươi tháng tư, nếu tôi nhớ không lầm lực lượng Nhảy Dù đã bắn hạ thêm mấy chiếc T54 tại Lăng Cha Cả trước khi gạt lệ giã từ vũ khí, lột bỏ quân phục để đi vào lịch sử.

Ông ta ngừng nói, lần trong cái bị da nhỏ lấy ra một ít thuốc rời nhồi vô cái tẩu. Ánh lửa của que diêm bùng sáng trong đêm, soi rõ mái tóc dài lấm tấm bạc. Trông ông ta giống như một nghệ sĩ hơn là lính.

Tôi biết rằng ba người nọ, mỗi người nhìn ngày lịch sử ba mươi tháng tư qua góc cạnh của mình. Mỗi người nắm trong tay một mảnh puzzle, vẫn còn hàng trăm, hàng ngàn mảnh như vậy nữa đã thất lạc đâu đó. Nếu như mình có đủ, ráp lại, sẽ có được bức tranh toàn mỹ của ngày Ba Mươi tháng Tư.

Tôi nghĩ đến mảnh puzzle trong tay của mình: Dinh Độc Lập với những tiếng súng cuối cùng.

***

Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức khi vừa hai mươi tuổi, ba lô lên vai, tôi trình diện đơn vị mới: Tiểu Khu Darlac.

Suốt thời gian thụ huấn trong quân trường, tôi chỉ mong cho mau đến ngày mãn khóa để xin đi Nhảỵ Dù. Thật lòng mà nói tôi hơi nhát gan, ngại gian khổ và cũng sợ chết, thế nhưng bộ đồ rằn ri, thêm cái mũ nồi màu huyết dụ quá sức hấp dẫn đối với tôi. Lòng ham muốn vẻ đẹp bên ngoài đã thắng được con thỏ chết nhát trong tôi. Tôi lén mua sẵn bộ đồ dù, giấu tận đáy túi quân trang chỉ chờ ngày mãn khoá sẽ tình nguyện đi Nhảy Dù. Bộ đồ như một chứng tích của ước mơ, ước mơ không bao giờ thành sự thật vì khoá của tôi gần hai ngàn sinh viên sĩ quan, Nhảy Dù chỉ chọn mười sáu người. Tôi hơi thấp và nhỏ con, đó có thể là lý do tôi không được chọn.

Tôi đến Ban Mê Thuột trong bộ đồ trận của Bộ Binh với chiếc mũ lưỡi trai trên đầu. Mặc dù Ban Mê Thuột là thủ phủ của cao nguyên, nhưng tôi vẫn thường nghe người ta nói với nhau rằng, thành phố gì mà Buồn Muôn Thuở, mùa nắng Bụi Mù Trời, mùa mưa Bùn Một Tấc. Bước chân xuống phi trường Phụng Dực, tôi được chào đón ngay bằng những cơn gió với cát bụi đỏ trời và cái nóng âm ẩm, oi nồng của tháng tư.

Sau hơn bốn tuần chờ đợi ở Hội quán Sĩ quan, tôi nhận được sự vụ lệnh về chi khu LOK.

Trung sĩ Bé phòng nhân viên của Tiểu khu, đưa sự vụ lệnh cho tôi kèm theo câu nói đầy ái ngại:

- Tôi biết, Chuẩn úy chẳng có gốc gác gì trong quân đội.
- Sao Trung sĩ biết ?
- Chỗ của ông sắp đến là địa ngục trần gian, lưu đày biệt xứ, người có gốc ai mà đến đó.
-Chỗ đó có gì mà ghê vậy?
- À … nó là một quận lỵ nhỏ xíu với vài chục gia đình người Kinh, bị cô lập hoàn toàn, không có đường bộ để vô ra. Con đường duy nhất để đến LOK là trực thăng của cố vấn Mỹ, nhưng đó không phải là chuyện quan trọng, người ta gọi là đi đày vì ở đó tuần nào cũng lãnh hàng chục trận pháo kích.
- Bộ không có hầm chống pháo kích hay sao?
- Có chứ, súng cối tám mươi hai ly của Việt Cộng không phá nổi hầm chống pháo kích ở LOK, nhưng với sơn pháo thì thua, trời kêu ai nấy dạ.
- Sơn pháo là súng gì?
- Tới nơi ông sẽ rõ, mà thôi, tôi có chuyện này muốn nói riêng với chuẩn úy.
- Chuyện gì vậy?

Trung sĩ Bé kê miệng gần tai của tôi:

- Ông đừng trình diện đơn vị liền, ở Ban Mê Thuột chơi năm mười ngày rồi đi, xuống điạ ngục chẳng có gì phải gấp gáp, không ai nỡ la mắng, ký củ khi sĩ quan trình diện trễ. Xa mặt trời cũng có cái lợi đó chuẩn úy.

Ngừng lại một chút như đợi cho tôi hiểu rõ vấn đề sau đó Trung sĩ Bé thong thả tiếp:

- Ở tiểu khu này người ta thường nói: “Mặt trời không bao giờ rọi tới LOK”, cứ từ từ mà đi. Chúc chuẩn úy lên đường bình an.

Theo lời dặn của trung sĩ Bé, tôi lặn một hơi mười ngày, sau đó mới tà tà theo trực thăng của cố vấn Mỹ đến đơn vị.

Trước mặt tôi là Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Tôi đi dọc theo dãy nhà tôn vách ván, phòng nào cũng trống không, tôn lợp mái nhà tấm nào cũng vài chục lỗ thủng do miểng pháo kích. Ánh nắng mặt trời xuyên qua những lỗ thủng, chiếu xuống thành muôn ngàn sợi nắng vàng kẻ song song làm tôi hoa cả mắt. Nhìn quanh không một bóng người thêm vào cái im ắng của buổi trưa hè oi bức, khiến tôi có cảm tưởng là mình đang ở trong một vùng đất chết.

Tôi đi hết dãy nhà, vòng sang bên hông. Dưới bóng mát của hai gốc cây rừng, một ông Chuẩn úy (một trăm phần trăm là huynh trưởng của tôi) mặt mày đen sạm, râu ria xồm xoàm, tóc dài quá mang tai nằm đu đưa trên chiêc võng, taỵ cầm lon bia Mỹ, dưới đất thêm vài cái lon không nằm lăn lóc.

- Mới ra trường?

Giọng nói nhừa nhựa đầy men bia, câu hỏi trống không nhưng tôi biết dành cho tôi, vì tôi là người duy nhất đứng trước mặt ông ta.- Vâng, tôi mới ra trường. Xin hỏi Chuẩn úy, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn ở đâu?- Tôi là Hòa, Chuẩn úy Hòa. Hai giờ chiều rồi ai mà làm việc nữa, ngồi xuống đây làm vài lon, bia Mỹ mà không uống, phí cả cuộc đời.

- Ở chốn khỉ ho cò gáy này làm sao Chuẩn úy có bia Mỹ để uống?
- Cái bọn cố vấn Mỹ, khi có việc cần nhờ vả gì mình, bọn nó lại vác qua cho vài thùng bia, gọi là có qua có lại ấy mà.
- Thế bọn mình làm gì ở đây?
- Làm gì tôi cũng chả biết, lính cũng giống như Thiên Lôi, cấp trên sai đâu mình đánh đó, nói vậy chứ Thiên Lôi coi bộ còn sung sướng hơn bọn mình, chỉ làm việc vào những ngày mưa mà thôi. Lính tráng bọn mình bất kể mưa, nắng, đêm, ngày cày đủ.

Đang nói chuyện ngon lành đột nhiên Chuẩn úy Hòa im bặt, ông ta đứng lên lục lọi khắp mọi túi quần như muốn tìm cái gì đó.

Tôi đưa Chuẩn úy Hòa gói thuốc Lucky còn non một nửa.
- Ông giữ lấy mà hút, tôi còn nguyên một cây trong ba lô.

Chuẩn úy Hòa vừa đốt thuốc vừa nói.

- Ngày xưa, đây là căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt với một tiểu đoàn Biệt Kích Biên Phòng trấn giữ. Khi Mỹ rút, họ bàn giao căn cứ này cho Tiểu khu, thế là tiểu đoàn của mình có công ăn việc làm, nằm cố thủ ở đây đợi pháo kích.
- Cho tôi hỏi ông một câu. Ông để tóc dài như vậy không bị phạt sao?
- Ông này chỉ được cái vớ vẩn, nãy giờ ông hỏi tôi bao nhiêu câu rồi? Ở đây có tất cả ba sĩ quan người Kinh, mỗi người một đại đội, nay có thêm ông nữa là bốn, chắc ông sẽ về đại đội một. Tất cả Đại đội Trưởng của bốn đại đội đều là người Thượng, trong đó có một ông là Fulro đầu thú. Họ chấm tọa độ điểm đứng còn chưa xong, hơi đâu mà lo đến quân phong với quân kỷ.

Ngửa cổ nốc cạn lon bia, Chuẩn úy Hòa nói tiếp:

- Chiều rồi, xuống hầm của tôi kiếm chút cơm dằn bụng, xong đâu đấy tôi còn phải đi lo chuyện phòng thủ ban đêm. Ông nên nhớ núi rừng Cao Nguyên đêm xuống rất lẹ, chưa kịp làm gì trời đã tối thui cho mà xem.
- Hầm ở đâu?
- Ngay đây thôi, nguyên tắc căn bản ở đây là, muốn làm gì cũng được nhưng luôn luôn cách miệng hầm không quá mười thước.
- Tại sao vậy?
- Khi nghe tiếng đạn pháo đầu tiên của địch đề pa, mình chỉ có tối đa năm giây là phải ở dưới hầm, trễ hơn là bể gáo.

Đưa tay chỉ vào cuối hầm Chuẩn úy Hòa nói:

- Đêm nay ông ngủ tạm nơi chiếc ghế bố đàng kia.

Nhìn vào góc hầm tối thui như cái hũ nút, tôi chợt hiểu, hóa ra “Mặt trời không bao giờ rọi tới LOK” có nghĩa là ở dưới hầm, chỉ có vậy mà Trung sĩ Bé còn bày đặt chơi chữ. Đang mò mẫm đi vào góc hầm chợt tiếng của Chuẩn úy Hòa nhắc tôi :
- Nếu có pháo kích ông nhớ đội nón sắt, mang súng M16 đứng giữ cửa hầm, bất cứ ai chạy trên mặt đất ông cứ bắn thoải mái.
- Làm sao phân biệt được địch và bạn?
- Lính mình chỉ di chuyển dưới giao thông hào, trên mặt đất là vc. Nói vậy thôi chứ ông đùng lo, đó là trường hợp căn cứ bị tràn ngập.

***

Chuẩn úy Trần văn Đạt, số quân ….. trình diện Đại úy.

- Ông mới ra trường mà đã bày đặt ba gai phải không? Tới đây từ hôm qua sao hôm nay mới trình diện?
- Thưa Đại úy, hôm qua tôi đi qua văn phòng của Bộ chỉ huy không thấy ai làm việc hết.
- Làm việc ở đó để ăn pháo rồi chết à. Tất cả mọi người ở đây đều ăn, ngủ, làm việc dưới hầm ông hiểu chưa?
- Thưa Đại úy tôi có gặp Chuẩn úy Hòa, ông ấy bảo để mai hãy trình diện.

Vung tay đập bàn cái rầm, vị Đại úy gằn giọng:

- Tôi là Tiểu đoàn Trưởng hay Chuẩn úy Hòa là Tiểu đoàn Trưởng?
- Thưa Đại úy, ông là Tiểu đoàn Trưởng.
- Trung sĩ Kim đâu? Đưa ông Chuẩn úy này về Đại đội 1, mà thôi chở ông ấy ra tiền đồn luôn.

Quay qua nhìn tôi, vị Đại úy nói tiếp:

- Ồng ra nằm tiền đồn, một tháng sau tôi sẽ điều ông về đại đội. Ông đi ngay lập tức, tôi không muốn thấy mặt ông ở đây.

Theo chân Trung sĩ Kim, tôi rời hầm chỉ huy mà lòng đầy khoan khoái. Tôi cười thầm trong bụng, lặn một hơi mười ngày không mắng một câu, không ký một củ, không la một tiếng. Trong khi chỉ trễ chút xíu lại đày đi tiền đồn, đã xuống địa ngục rồi tầng đầu hay tầng cuối cũng là địa ngục mà thôi, đang miên man suy nghĩ…

- Chuẩn Úy à, ông làm thằng em kẹt theo rồi.
- Sao vậy?
- Từ đây ra tiền đồn, tám cây số đường rừng quanh co khúc khuỷu với hàng ngàn cái ổ gà, cái nào cái nấy to như cái thúng, không biết mấy ngày qua Việt cộng có chôn mìn không? Nếu bọn họ gài mìn, ông và tôi kể như chết chắc.
- Đại úy Châu vừa mới hù tôi xong, bây giờ đến ông phải không?
- Chuẩn úy mới tới nên không biết đó thôi, trong vòng một năm, bốn chiếc xe, vừa GMC, vừa Jeep của Chi khu bị trúng mìn, thêm hai xe đò dân sự với hơn năm mươi thường dân vừa Kinh, vừa Thượng, vừa đàn bà, vừa trẻ em bị chết. Từ đó đến nay xe cộ không được phép di chuyển, mà dù có cho cũng chẳng ai dám đi. Đường bộ từ Ban Mê Thuột vào bị đắp mô, đóng chốt, rồi bỏ phế, mỗi khi cần chuyển quân hoặc tiếp tế, phải hành quân mở đường và dò mìn trước đã.

Tôi quẳng cái ba lô lên xe Dodge 4×4 trèo lên ghế Trưởng xa mà lòng đầy ngao ngán, than thầm cho cái số con rệp của mình. Những gì Trung sĩ Bé ở phòng Nhân Viên Tiểu khu nói với tôi hầu như là đúng hết, chỉ thiếu một điều ông ta không nói đến là: mìn.

Tiếng động cơ của xe Dodge nổ giòn, xe lăn bánh chầm chậm ra cổng của căn cứ rồi đột nhiên ngừng lại.

- Chuẩn úy, tôi có chuyện muốn đề nghị với ông.
- Chuyện gì?
- Tôi nghi quá, linh tính báo cho tôi biết có sự chẳng lành. Không dò mìn mà đi ra tiền đồn thế nào cũng dính mìn, mà mìn chống chiến xa chứ chẳng phải chơi đâu. Xe tăng còn nát bét huống hồ gì cái xe Dodge nhỏ xíu này.
- Làm như có một mình Trung sĩ biết sợ chết, tôi cũng sợ thấy mẹ.
- Hay là để tôi mượn xe Honda chở ông ra tiền đồn, đi xe hai bánh là an toàn trên xa lộ, mình có thể lách được không sợ ổ gà, vì ổ gà chính là chỗ VC chôn mìn.
- Sao mày không nói sớm? – Vì mừng quá tôi kêu Trung sĩ Kim bằng mày, quên giữ gìn cách ăn nói lịch sự, xưng hô theo cấp bậc.

***

Tiền đồn nằm trên đỉnh đồi sót, khá cao với hàng chục lớp kẽm gai bao bọc, một con đường mòn nhỏ cong quẹo, uốn lượn theo sườn đồi dần lên đỉnh.

Đón tôi dưới chân đồi là hai binh sĩ, súng đạn đầy người, họ đứng nghiêm chào tôi rồi nói:

- Bọn em được lịnh xuống đón Chuẩn úy.

Theo chân hai người lính, tôi cứ từ từ vừa đi vừa ngắm cảnh, tiện thể quan sát cách phòng thủ của đồn. Những vỏ lon bia, vỏ lon thịt hộp treo lửng lơ trên những lớp hàng rào kẽm gai, thỉnh thoảng chạm vào nhau kêu lẻng kẻng khi có cơn gió nhẹ thoáng qua, tiếng kêu như nhắc nhở cho tôi biết là mình đang ở trong một tiền đồn nơi biên giới, xa thật là xa, xa lắc xa lơ, xa hẳn xã hội loài người.

Khi lên tới nơi tôi mới giật mình hoảng hốt, mồ hôi ướt như tắm không biết tại leo núi hay vì sợ. Chỉ có hai binh sĩ đón tôi là người Kinh còn tất cả là người Thượng. Quân trường có bao giờ dạy tôi cách chỉ huy người Thượng đâu. Những binh sĩ này trước kia là Biệt Kích Biên Phòng, lính không có số quân, lãnh lương của Mỹ. Khi các trại Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, đổi thành Biệt Động Quân Biên Phòng, họ đào ngũ gia nhập Địa Phương Quân.

Tôi đang đứng ngay trên đỉnh đồi, nhìn quanh môt vòng cả một thung lũng bao la bát ngát, xung quanh là núi rừng bao bọc, cây liền cây, núi liền núi, cao ngút từng mây. Bề ngang thung lũng ước chừng năm cây số, bề dài khoảng hai mươi cây số khiến tôi nhớ đến kích thước của thung lũng Điện Biên Phủ. Ngày xưa quân đội Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ với khoảng vài chục ngàn quân, cộng thêm phi cơ, chiến xa và đại bác, đã bị thất thủ. Giờ đây, tôi phòng thủ cái tiền đồn bé tí ti với độ hơn chục người lính, coi bộ cuộc đời của mình không được khá cho lắm. Tôi đã đi đến tận cùng của trái đất, đã xuống tới tầng chót của địa ngục, từ đỉnh của tiền đồn quay một vòng ba trăm sáu chục độ không một mái nhà, không một bóng người, đây là khu oanh kích tự do.

Tôi tập họp trung đội, trung sĩ nhất trung đội trưởng báo cáo quân số, chỉ vẻn vẹn hai mươi hai người. Nghe cũng an ủi được phần nào, hai mươi hai người dù sao cũng nhiều hơn con số mà tôi ước đoán. Súng cộng đồng trong đồn gồm có hai đại liên M60, hai súng cối 81 ly, đạn dược đầy đủ nếu không muốn nói là dư thừa. Sau khi tìm hiểu cách bố trí phòng thủ của tiền đôn, tôi kêu mấy tay xạ thủ súng cối, là người Thượng nhưng họ nói và nghe được tiếng Việt, tuy không rành lắm.

- Các ông có thấy cây cổ thụ ở ngoài xa, dưới chân đèo hay không?
- Thấy chớ.
- Điều chỉnh tác xạ, nhắm vào cây cổ thụ bắn cho tôi vài quả.
- Tuân lệnh.

Sau một hồi loay hoay tính toán về khoảng cách, cao độ, thuốc bổi, bốn viên đạn 81 ly thoát ra khỏi nòng súng hướng về phía cây cổ thụ. Tôi đang dùng ống dòm quan sát mục tiêu, bất chợt ngựời Hạ sĩ truyền tin vác máy PRC25 chạy ào đến, đưa ống liên hợp cho tôi.

- Đại úy Tiểu đoàn Trưởng trên máy, muốn nói chuyện với Chuẩn úy.
- Cải Cách, Ủng Hộ, Đống Đa.
- Ông dẹp mẹ nó mấy cái chữ ngụy hóa tào lao đó đi được không? Đang làm gì ngoài đó?
- Thưa Đại úy, tôi đang điều chỉnh tác xạ súng cối tám mươi mốt ly.

Tiếng của Đại úy Tiểu đoàn Trưởng gằn giọng trong máy:

- Dạ thưa ông Chuẩn úy, ông muốn điều chỉnh tác xạ thì kệ ông nhưng trước khi bắn ông phải báo cáo về căn cứ, ông có biết tất cả mọi người ở đây khi nghe súng cối đề pa là xuống hầm hết hay không? Họ đang báo động là VC pháo kích. Tôi chỉ tiếc là không còn chỗ nào nữa để đưa ông đi, không lẽ lệnh cho ông dẫn vài thằng lính, ôm lựu đạn đi kích ở chân đèo?

Ngừng một chút như để dằn cơn giận (tôi đoán như vậy), Đại úy Tiểu đoàn Trưởng rên rỉ.

- Chuẩn úy ơi là Chuẩn úy, ông làm ơn quên cái quân trường của ông được không? Đợi ông tính toán xong xuôi, bắn được một viên đạn súng cối, tụi VC đã tràn ngập mẹ nó cái đồn của ông rồi.

***
Mãn hạn trấn thủ lưu đồn, tôi được gọi trở về căn cứ. Chuẩn úy Hòa đã chuẩn bị sẵn một bữa tiệc thịnh soạn với đủ món ngon để đón người về từ đỉnh núi. Một nồi canh rau muống nấu với tôm khô trong đó có thêm mấy trái cà chua đỏ tươi, cá lóc kho tiêu, một đĩa trứng chiên. Hơn một tháng ở tiền đồn chỉ toàn cá khô, thịt hộp, cơm sấy và rau rừng gồm đủ mọi thứ lá, từ đăng đắng, nhân nhẩn đến chua chua, giờ đây được ăn canh rau muống, quả thật đây là thứ rau ngon nhất trần đời. Cơm nước xong xuôi lại đến màn cà phê phin với sữa đặc có đường hiệu ông Thọ đàng hoàng, mùi cà phê thơm lừng, vị ngọt của đường, chút béo của sữa, hòa với cái đăng đắng của cà phê mới hớp một ngụm đã thấy sảng khoái cả tâm thần, bao nhiêu là mệt mỏi khổ cực biến đi đâu mất.

Bum..bum..bum.....

- Pháo kích, pháo kích.

Tiếng la của ai đó từ bên ngoài vọng vào, âm vang chưa kịp dứt tôi đã nghe.

Ảm..ầm..ầm.

Không biết bao nhiêu là trái đạn súng cối 82 lỵ tới tấp thi nhau nổ, những tiếng nổ liên tiếp kéo dài liên tu bất tận. Hình như có một trái 82 ly rơi trúng ngay nóc hầm, tôi cảm nhận được sự rung chuyển khác thường của mặt đất, bụi từ trên nóc hầm lã chã rơi xuống mù mịt căn hầm khiến tôi tưởng như mình đang đứng trong một con tàu lắc lư, chao đảo, ngả nghiêng trong cơn bão tố. 

Lần đầu tiên trong cuộc đời, thật sự với chiến trường, đứng trước mũi tên hòn đạn, thấy được cái chết sừng sững trước mắt, tôi lặng người đi vì sợ hãi, hoảng hốt thì đúng hơn. Khi đạn pháo bắt đầu thưa dần, tôi mới bình tỉnh trở lại. Trời đánh tránh bừa ăn, nhìn ly cà phê váng bụi, tiếc của trời tôi bưng lên ực một hơi, cà phê thoang thoảng mùi con gián chết. Tôi vơ vội cây súng M16 cùng với Chuẩn úy Hòa chạy ra giao thông hào.

Lúc này, hai khẩu đại bác 105 ly của căn cứ bắt đầu phản pháo, đạn 105 ly vụt đi, chưa biết có trúng được nơi vc đặt súng hay không nhưng âm thanh của nó nghe thật là phấn chấn, đã cái lỗ tai.

Lại đến đợt pháo thứ hai, lần này ít hơn chỉ độ vài chục trái. Người lính đứng bên cạnh tôi nói:

- Không sao đâu Chuẩn úy, ở đây pháo ban ngày, không sợ cái màn “tiền pháo hậu xung” lát nữa lên dọn dẹp là xong chuyện, coi như không có gì xảy ra.
- Ha sĩ ở đây bao lâu rồi?
- Gần một năm, lúc đầu khi mới tới đây sợ pháo kích quá sức, riết rồi thành quen đâm ra lờn, có pháo cũng như không. Mà nè, làm một điếu thuốc cho ấm phổi đi Chuẩn úy.
- Làm thì làm, sợ gì.

Đang say sưa tán gẫu, tôi bỗng giật mình.

- Chuẩn úy Đạt, có lịnh gọi ông đi trình diện.

Tôi vội vàng đi qua hầm của bộ chỉ huy. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một người lính nằm bò càn dưới đất, chân mang đôi giày bốt đờ sô to quá khổ so với thân hình của ông ta. Ông đang dùng lưỡi lê để đào một trái đạn súng cối 82 ly chưa nổ.. Khi moi được một nhúm đất, ông ta dùng tay gạt nhẹ qua một bên rồi lại đào tiếp, khi đào được phân nửa trái đạn, cái đuôi viên đạn súng cối đã hiện nguyên hình, bất ngờ người lính rút hai tay lại xoa vào nhau rôi nói một mình “hãy còn nóng”.

- Anh đang làm gì vậy? Tôi hỏi.

Quay đầu nhìn tôi, người lính nói:

- Đào đem đi dụt, Chuẩn úy.

Giọng nói của người miền Nam chứa đầy chơn chất, thoải mái, nghe sao lạc loài xa lạ, bởi vì đa phần lính ở cao nguyên thường là dân gốc miền Trung. Tôi đoán là anh ta ở trong toán tháo gỡ đạn dược. Không muốn hỏi nhiều khi anh ta đang thi hành công vụ, tôi lặng lẽ quan sát hiện trường. Nhìn gương mặt của anh ta đỏ gay đỏ gắt, mồ hôi nhễ nhãi chảy dọc theo hai bên thái dương, nhìn trái đạn còn nóng hổi, tôi suy nghĩ một chút rồi lẹ làng dọt mau mau cho được việc, đứng đó lạng quạng lỡ trái đạn nổ bất thình lình, mình bị chết lây lảng nhách.

Tôi trình diện Trung úy Đại đội Trưởng, ông ta là người Thượng nhưng nói tiếng Kinh khá sõi.

- Chuẩn úy sẽ là Trung đội Trưởng Trung đội 1 Ông đi gặp Hạ sĩ quan Tiếp Liệu lãnh địa bàn, bản đồ và vật dụng cần thiết. Hôm nay đại đội của…

Ầm…chỉ một tiếng nổ vang lên từ bên ngoài,

Trung úy Đại đội Trưởng nghiêng đầu như nghe ngóng rồi hỏi.

- Cái gì nổ vậy?
- Trung úy có muốn tôi ra coi không?
- Thôi kệ nó đi, hôm nay đại đội của mình đi hành qụân bảy ngày, mục tiêu là lục soát vùng VC đặt súng cối, ông về chuẩn bị.

Trên đường về, tôi thấy mấy người lính quân y bu quanh xác một người lính không đầu với mảnh hình hài nhầy nhụa nát tan. Nhìn xuống đôi giày bốt đờ sô to quá khổ, tôi biết anh ta là ai rồi. Mới nói chuyện với tôi đó mà, cuộc sống phù du, sống đó rồi chết đó, dễ dàng như chuyện uống miếng nước, ăn chén cơm, hút điếu thuốc.

***

Trung đội phó báo cáo quân số của trung đội, tôi kiểm soát lại cấp số đạn và bảy ngày lương khô của binh sĩ. Trong lúc tôi đang dùng viết chì mỡ khoanh vùng đỉnh núi, chỉ cho Trung sĩ Nhất Trung đội Phó mục tiêu của cuộc hành quân.

- Chuẩn úy, em là Năm Thẹo, ông đưa hết đồ đạc cá nhân của ông em mang cho. Từ đây về sau ông thầy cứ yên tâm, mọi chuyện đã có Năm Thẹo lo hết.

Tôi nhìn anh binh nhì đang đứng trước mặt, trạc tuổi tôi nhưng thân hình to lớn kềnh càng, tóc quăn, da mặt ngăm ngăm đen với đôi mắt sáng quắc, thoạt nhìn đã thấy rõ cái ngang tàng ngạo nghễ trong con người của anh ta. Một vết thẹo dài chạy dọc theo bên má trái từ chân mày đến cằm, vết thẹo làm tăng thêm phần lì lợm, bụi đời trên gương mặt của Năm Thẹo. Thật sự mà nói nếu không nhờ vào bộ đồ lính với cặp lon Chuẩn úy nơi cổ áo, có cho kẹo tôi cũng không dám nhìn anh ta. Tôi lấy gân, gồng mình hỏi:

- Ngày xưa em ở đâu?
- Dạ, Tôn Đản, Khánh Hội ông thầy.
- Có phải du đãng không đó?

Năm Thẹo chắt lưỡi, gãi đầu.

- Dạ, cũng có dính líu chút ít.
- Năm Thẹo nè.
- Có gì Chuẩn úy.
- Mày vén áo lên tao coi, còn bốn cái thẹo nữa ở đâu?
- Ông thầy ơi, một cái thẹo trên mặt, thêm hai cái xương sườn gãy khi bị du đãng Cầu Muối thanh toán khiến em nằm nhà thương cả tháng trời, nếu lãnh thêm bốn cái thẹo nữa chắc em chết từ cái đời nào rồi. Em tên Năm, vì có cái thẹo trên mặt nên bạn bè gọi là Năm Thẹo, riết rồi chết tên luôn.

Tôi chọn NămThẹo làm đệ tử và biết rằng kể từ đây mạng sống của tôi và Năm Thẹo sẽ buộc chặt lấy nhau. Tôi cần đến sự giúp đỡ của Năm Thẹo trong khi đi hành quân. Ngược lại chưa hẳn Năm Thẹo cần đến sự bao che của tôi.

Sau hai ngày leo núi, tối ngày thứ ba đại đội đóng quân trên đỉnh núi với thế đất hình yên ngựa, chuẩn bị sáng hôm sau sẽ lục soát đỉnh núi bên cạnh, nơi vc đặt súng cối.

Suốt đêm, trên đỉnh núi cao vời vợi, tôi nằm một mình trên chiếc võng nghe gió hú, từng hồi, từng cơn, tiếng gió hú nghe như từ cõi âm vọng về lạnh lùng đến rợn gáy.

Năm Thẹo bất chợt nói với tôi, giọng nói nhỏ như là tiếng muỗi kêu.

- Ông thầy, lần đầu nghe gió hú phải không?
- Ừ, nghe nó rờn rợn làm sao ấy.
- Nghe riết rồi cũng quen thôi ông thầy à, gắng ngủ đi, lấy sức mai còn lội tiếp.

Mờ sáng ngày thứ tư, khi sương mù còn bao phủ dày đặc trên đỉnh núi, tôi dẫn trung đội một đi đầu tiến đến mục tiêu. Tiểu đội một báo cáo có nhiều đường mòn, họ tránh không dùng đường mòn vì sợ mìn bẫy. Khi trung đội của tôi đã chiếm đóng mục tiêu, bố trí phòng thủ xong, ba trung đội còn lại lần lượt đến. Lịnh của Đại đội Trưởng cho các trung đội bung rộng ra để lục soát, tìm nơi chôn giấu súng cối và đạn.

Ầm …ầm..

Hai tiếng nổ liên tục, tôi biết có chuyện chẳng lành. Qua máy PRC 25, trung đội ba báo cáo với Đại đội Trưởng, hai binh sĩ chết, hai bị thương do mìn VC gài lại. Cùng lúc đó tôi nhận được lịnh dùng mìn phá rừng, dọn bãi đáp cho trực thăng tải thương.

Sau gần hai tiếng đồng hồ làm việc cật lực, chúng tôi phát quang được một khoảng trống khá rộng đủ chỗ cho trực thăng sà xuống bốc người.

Vẫn biết rằng “Xưa nay chinh chiến mấy ai về”, bài Lương Châu Từ còn đó nhưng khi nhìn hai xác chết được cuốn gọn trong tấm poncho, đầu đuôi cột chặt, thêm phiếu tải thương cột bên hông khiến tôi nghĩ đến chuyện da ngựa bọc thây tưởng chỉ có trong điển tích của Tàu, giờ đây nó ngay trước mắt mình. Những ngày đầu vào lính, khi lãnh quân trang có thêm cái poncho, tôi chỉ nghĩ là nó dùng để che mưa, không biết được công dụng khác là dùng như tấm da ngựa để bọc thây khi chết. Tôi nói với Năm Thẹo:

- Nếu tao có phải cuộn mình trong tấm poncho, mày làm ơn nhắn lại với ba má của tao là: “Tao thương ông bà”, chỉ có thế thôi.

***

Hai đại đội phòng thủ căn cứ, hai đại đội hành quân di động tiêu diệt địch ở bên ngoài, có nghĩa là cứ lội mười lăm ngày trong rừng, sau đó về phòng thủ căn cứ dưỡng quân mười lăm ngày.

Một năm rưỡi trôi qua, một năm rười dãi nắng dầm mưa, hít thở cái lạnh lẽo của cao nguyên, cơm chỉ là gạo sấy thịt hộp, nước có suối cạn trong rừng, đụng độ với địch năm bảy lần, tôi lãnh được hai cái huy chương, cộng thêm cái biệt danh “ Đạt Húc”.

Ngày tôi lên chức Thiếu úy cũng là lúc thực thụ nắm Đại đội Trưởng, cũng ăn tục nói phét như điên, chửi thề uống rượu như máy. Tôi là Đại đội Trưởng sáng giá nhứt của tiểu đoàn, là cánh tay mặt của Tiểu đoàn Trưởng, ông ta coi tôi như thằng em nhỏ, tình thân giữa ông và tôi là cái tình nửa nhà binh nửa là người anh lớn lo cho thằng em.

Tôi tưởng rằng cuộc đời của mình sẽ cứ như vậy mà đi qua, không ngờ có một ngày đặc biệt khiến tôi nhớ mãi suốt đời, ngày mà cuộc đời lính của tôi bước sang khúc quanh mới. Hôm ấy, tôi với Tiểu đoàn Trưởng cùng vài người lính trong tiểu đoàn uống rượu tiêu sầu, ở chốn thâm sơn cùng cốc này ngoài rượu ra còn có gì để mà giải sầu đâu? Sau vài ly xây chừng, tôi hỏi Đại úy:

- Ngày mới ra trường khi trình diện, tại sao ông giận dữ đày tôi đi tiền đồn?
- Có gì đâu, tao không thích Chuẩn úy Hòa vì nó đánh đấm chẳng ra cái con mẹ gì, đã vậy suốt ngày cứ say sưa. Chú mày mới chân ướt chân ráo đến đây đã có vẻ muốn theo chân Chuẩn úy Hòa, cho nên tao đày đi tiền đồn cho bỏ ghét.
- Nếu lúc đó trên đường ra tiền đồn, xe Dodge bị trúng mìn nát bét thì sao?
- Chú mày nhắc tao mới nhớ. Sau khi chú mày đi rồi tao mới hết hồn, trong lúc nóng giận tao quên mất chuyện mìn gài đầy đường. Đang còn bực bội chưa hết, tiếp theo chuyện chú mày lại điều chỉnh tác xạ súng cối khiến tao giận cành hông, VC pháo kích vào căn cứ là chuyện thường tình, đàng này phe ta pháo kích phe mình, không giận sao được.

- Đại úy à, tôi còn thêm câu hỏi này nữa. Ngày đó tôi còn ngơ ngơ ngáo ngáo như con ngỗng đực lại thêm không gốc, không rễ cho nên mới bị đày xuống đây. Đại úy chắc cũng vậy chứ gì?
- Chú mày chỉ được cái giỏi là suy bụng ta ra bụng người. Đúng, tao bị đày xuống đây nhưng lý do thì khác, tao đâu có phải là con ngỗng đực.

Đại úy Châu xé miếng khô nai to bằng bàn tay đưa lên trước mặt, lật qua rồi lật lại, ông nói mà như là than thở

- Cuộc đời của tao nó cũng bầm giập như miếng khô này, bị phơi không biết bao nhiêu là nắng, sấy cho đên lúc khô queo khô quắt, giờ đây lại bị nướng trên lửa than rồi hun khói, cháy đen thui là phải. Chú mày biểu Năm Thẹo xé nhỏ miếng khô này, dầm trong tô nước mắm ớt, chanh đường rồi đem lên đây.
- Đại úy cần gì nữa không?
- Không.

Đưa tay với lấy cái zippo có hình con cọp nâu nhe hàm răng đủ mười ba cái, Đại úy Châu đốt một điếu thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ, khói thuốc màu trắng xám chập chờn uốn lượn trong không gian, lan tỏa khắp căn hầm, ông nhắm mắt như muốn thả hồn theo khói thuốc.

- Thiếu Tá Nguyễn Văn Tinh Châu, Tiểu đoàn Trưởng tiểu đoàn Biệt Động Quân là tao.

Tôi lặng người đi vì không ngờ sếp của mình trước kia là thiếu tá, mà lại là Thiếu Tá Tiểu đoàn Trưởng của một binh chủng lừng danh.

- Đại úy, ông bị giáng cấp phải không?

Không buồn trả lời câu hỏi của tôi, Đại úy Châu nâng ly rượu nốc một hơi, ông uống rượu mà mặt nhăn mày nhíu như là đang uống cạn đắng cay của cuộc đời. Đặt cái ly không xuống bàn, Đại úy Châu thong thả nói, giọng nói nghe trầm trầm như âm vang từ quá khứ vọng về.

- Ở một vùng biên giới, chú mày có biết nơi mà giòng sông chảy ngược hay không?
- Đại úy nói gì? Nước chảy ngược?
- Ừ, tất cả sông ở miền Trung của Việt Nam đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy về hướng Đông, tức là chảy ra biển, riêng khúc sông này nó lại chảy về hướng Tây, tức là đổ qua Lào, cho nên người ta gọi nó là sông chảy ngược. Tại đây, một đại đội đi đầu của tao đụng độ nặng với Việt cộng. Địch quân đông như kiến, hỏa lực hùng hậu, hàng chục khẩu cối 82 ly pháo như mưa vào cái đám con của tao. Chú mày biết rồi, bên kia biên giới là an toàn khu của Việt cộng, nơi mà họ dưỡng quân, nghỉ ngơi thiếu điều dựng lều hát chèo, xây sân khấu cho văn công trình diễn văn nghệ cũng chẳng có ai làm gì.

Trong lúc đại đội bị nguy khốn cần yểm trợ hỏa lực, tao yêu cầu Cố vấn Mỹ xin Không Yểm, nhìn gương mặt lạnh lùng như cái xác chết của thằng Cố vấn, kèm theo giọng nói tĩnh bơ như không phải chuyện của nó “Bên kia biên giới, Không Quân Mỹ không yểm trợ được vì vi phạm luật trung lập của Lào”.

Rừng núi bao la, cây cối xanh um, mây trắng ngút ngàn một đường kẻ cong quẹo trên bản đồ, nhỏ như sợi chỉ gọi là đường biên giới nó quá sức mù mờ, đẩy qua phía bên kia dăm ba cây số cũng được, kéo lại bên này vài câỵ số cũng xong, biết đâu là chân lý? Giận thằng Cố vấn Mỹ cứng ngắt theo nguyên tắc, nóng ruột vì của đau con xót, đám con của tao đang khắc khoải đợi chờ yểm trợ từng giây từng phút, cứu binh như cứu lửa, chậm một phút kể như ôm hận ngàn đời. Tao nổi điên rút cây Colt 45, lên đạn.

Tôi nghĩ rằng mình biết về sếp của mình nên lanh chanh hớt lời.

- Chỗ này tôi biết, ông bắn chết thằng Cố vấn Mỹ chứ gì?
- Nói tầm bậy, ai nói với chú mày như vậy?
- Bọn lính vẫn thường thầm thì, to nhỏ với nhau là ngày xưa ông đã từng bắn chết một viên Cố vấn Mỹ.

Một thoáng không vừa lòng hiện ra trong đôi mắt của Đại úy Châu, ông chỉ vào cây cột to chần dần giữa hầm.

- Chú mày qua dựa lưng vào cây cột đó rồi nói chuyện cho đở mỏi.
- Tôi còn khỏe mạnh, có mệt mỏi gì đâu.
- Ông bà mình có nói “Biết thì thưa thốt, không biết thì …”

Tôi ngậm câm như thóc rồi tự hứa với mình là phải học hỏi thêm nhiều nơi ông, bỏ đi cái tính nhanh nhẩu đoảng.

Đại úy Châu rót thêm rượu vào cái ly của tôi.

- Thói đời, có ít cứ nới cho nhiều, thêm thắt, vẽ vời cho lắm, có một đồn mười, dám tụi nó đồn tao là hung thần giết người như ngoé cũng nên. Tao chỉ bắn què giò thằng Cố vấn Mỹ sau đó phải tự lực cánh sinh, đem mấy đại đội còn lại cấp tốc đi đường vòng đánh thẳng vào nơi đặt súng cối của Việt cộng, giải vâỵ cho đám con của tao. Tao cứu được đám con đem về bên này biên giới nhưng không cứu được bản thân tao.

- Ra Tòa án Quân sự vì tội bắn Cố vấn, tao bị lột lon, giáng một cấp và đuổi ra khỏi binh chủng. Tao mang lon Đại úy và đi đày ở đây như mày thấy. Đã ba năm qua rồi, giờ này tất cả đã chìm sâu vào dĩ vãng. Tao không bao giờ ân hận về việc làm của mình, cũng như không bao giờ quên binh chủng, máu của Cọp Mũ Nâu vẫn còn chảy trong huyết quản của tao. Mỗi khi nhớ tới đơn vị cũ tao lại bận bộ đồ Biệt Động Quân, bận để thương nhớ binh chủng của mình hơn là tiếc cho cái lon Thiếu Tá.
- Nhưng mà thôi, chuyện xưa dẹp qua một bên để dành làm kỷ niệm. 
- Tao có món quà đặc biệt, chú mày sinh quán ở đâu ?
- Đà Lạt.
- Tao chỉ muốn hỏi lại thôi, không có gì bàn cãi nữa. Đây là công điện từ bộ Tổng Tham Mưu gởi tiểu khu Darlac với nội dung là trường Võ Bị Đà Lạt cần một Sĩ quan Tham mưu, tao đã dành chỗ này cho chú mày. Sau khi nhậu xong, qua bên Cố vấn Mỹ theo trực thăng về Tiểu khu để hoàn tất thủ tục thuyên chuyển. Lẹ lên, không được bỏ lỡ cơ hội, cờ tới tay mà không chịu phất, chần chờ sẽ có đứa khác nó chộp mất.
- Tôi có biết gì về tham mưu đâu. Nghề của tôi là húc mà.
- Đừng có lo, trước đây hai năm, có bao giờ chú mày nghĩ rằng chú mày là một thằng Đại đội Trưởng có hạng haỵ không?
- Ông nói cứ như thiệt, đâu phải điền đơn xong là được thuyên chuyển, trường Võ Bị Đà Lạt, chỗ đó là nơi mơ ước của không biết bao nhiêu là người.
- Hùm chết để da, người ta chết đế tiếng. Tao đi đày ở đây, coi như là chết rồi nhưng tên tuổi, tiếng tăm của tao vẫn còn. Ở cái tiểu khu này có ai mà không biết tao. Khi phòng Nhân Viên thấy chữ ký của tao, hồ sơ của chú mày sẽ chạy nhanh như gió, hơn nữa chú mày cũng nên học hỏi chút đỉnh việc đời, dầu gì Đại Tá Tỉnh Trưởng với tao cũng là chỗ thân tình, tao với ông ấy vốn là bạn cùng khóa.

Vui buồn lẫn lộn, về quân trường đúng là nơi an toàn cho bản thân, khỏi phải đi hành quân lội suối băng rừng nhưng những ân tình của lính cũng như là của Tiểu đoàn Trưởng đã dành cho mình thì sao? Tôi còn sống cho đến ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh của họ, lấy gì báo đáp đây?

- Đại úy, tôi có một thỉnh cầu xin Đại úy giúp cho.
- Gì nữa đây?
- Tôi đi rồi bỏ Năm Thẹo bơ vơ một mình, tội nghiệp nó.
- Tao vẫn thích những đứa thủy chung, có trước có sau như mày. Tao sẽ đem Năm Thẹo về Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn với tao, mày vừa ý chưa?
- Chưa, Đại úy à, thằng em đi rồi ông ở với ai ?
- Chú mày khéo lo bò trắng răng. Khi nào VC ũi sập cái căn cứ này, lúc đó mày hãy lo.

Ngày rời khỏi địa ngục trần gian, tôi ôm Đại úy Tiểu đoàn Trưởng khóc ròng.

***

Cổng Nam Quan của trường Võ Bị Đà Lạt không to lớn, không đồ sộ, trên nóc cổng là ngọn cờ Quốc Gia tung bay phất phới, dưới chân cột cờ là phù hiệu của trường với thanh kiếm bạc chỉ thẳng lên trời, thêm hàng chữ “Tự thắng để chỉ huy” nổi bật trên nền gạch đỏ, nhờ sự phối hợp hài hoà khiến cổng trường trông oai nghiêm, hùng dũng. Hình ảnh cổng Nam Quan, biểu tượng của trường Võ Bị Đà Lạt như in sâu vào trong trí nhớ của tôi. Tôi bước chân qua cổng. Bắt đầu từ đây, tôi là sĩ quan cơ hữu của trường.

Theo con đường tráng nhựa sạch bong, không một cọng rác, hai bên vệ đường cỏ mọc xanh rì, được cất tỉa gọn gàng, tôi đi thẳng đến phòng nhân viên. Trên đường đi, tôi chào kính mệt nghỉ, chào mỏi tay. Sau này tôi mới rõ thêm, trường Võ Bị Đà Lạt là nơi quần anh tụ hội. Hình như ở đây quan nhiều hơn lính, quan cấp úy đếm không hết, quan cấp Tá phải vài chục ông, đã vậy có lúc trong trường còn thêm hai ông Tướng, Thiếu Tướng Chỉ huy Trưởng, Chuẩn Tướng Chỉ huy Phó.

Mang một cái bông mai trụi lũi như tôi, chào kính mỏi tay là phải. Chưa chi tôi đã nản chí anh hùng, muốn hát bài “Hổ nhớ LOK”, một mình một chợ, tha hồ múa gậy vườn hoang, dẫn gần trăm người lính, lội nửa tháng trong rừng nhìn khắp bốn phương, tìm khắp tam hướng chỉ thấy cái bông mai của mình là lớn nhất.

Trường Võ Bị Đà Lạt xây trên ngọn đồi thấp với cao độ 1500 mét, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5km, được kiến trúc theo kiểu Mỹ gồm nhiều dãy nhà bốn tầng. Dùng làm nơi ở cho sinh viên có bốn doanh trại, mỗi doanh trại có khoảng một trăm phòng ngủ, phòng ăn rộng mênh mông bát ngát, đủ sức dọn ăn cho trên một ngàn sinh viên cùng ăn một lượt, thư viện với đầy đủ sách cho sinh viên nghiên cứu, riêng nhà thí nghiệm nặng được xây âm dưới đất. Sân cỏ của vũ đình trường Lê Lợi lúc nào cũng xanh mướt với con đường tráng nhựa bọc quanh, tất cả đều sạch sẽ ngăn nắp. Qua cái nhìn đầy chủ quan của tôi, khó có học viện quân sự nào ở Đông Nam Á có thể sánh bằng.

Điều hành trường gồm có ba khối: Văn Hóa, Quân Sự và Tham Mưu, phòng làm việc của tôi ở tầng hai ngay cầu thang xoắn ốc của Bộ chỉ huy, đối diện với phòng của Thiếu Tướng Chỉ huy Trưởng.

Đang từ một chỗ quanh năm suốt tháng sống dưới những căn hầm chật chội, ẩm thấp đêm cũng như ngày lù mù lờ mờ trong ánh sáng của ngọn đèn dầu hột vịt bé tí tẹo, giờ đây tôi ngồi làm việc trong căn phòng rộng rãi, thoáng mát với tất cả đầy đủ tiện nghi. Hơn mười cái điện thoại trước mặt, gồm hai hot line dùng để liên lạc trực tiếp với phòng Ba của bộ Tổng Tham Mưu, hai class A liên lạc khắp miền Nam, hai class C liên lạc trong tỉnh và năm điện thoại nội bộ, phải mất cả tháng trường tôi mới tạm quen với công việc.

Có những buổi chiều Thu, khi mây xám giăng đầy bầu trời Đà Lạt, từng cơn mưa phùn kéo nhau qua quân trường, mưa nhè nhẹ, từng hạt mưa nhỏ, nhỏ như hạt bụi vướng vào cửa kính, trong phòng hơi nước phủ mờ mặt gương, thoải mái với không khí ấm cúng của căn phòng khiến tôi bồi hồi nhớ lại những cơn mưa ở LOK. Nhớ những buổi chiều trên Cao Nguyên vùng biên giới với bầu trời xám xịt, nằm trên chiếc võng nhìn từng giọt nước theo sợi dây cột ở đầu võng rơi tóc tách, âm thanh nghe buồn đến nát ruột, nhớ đến những người lính co ro, run rẩy trong bộ quần áo sũng nước mưa. Nhớ Năm Thẹo vác tôi chạy như bay đến trực thăng tải thương, dưới cơn mưa pháo của VC. Nhớ Đại úy Tiểu đoàn Trưởng quay người bước đi như trốn chạy khi ông ta tiển tôi rời khỏi LOK. Đột nhiên ý tưởng xin trở về LOK hiện ra trong đầu tôi.

Gần năm năm ở trường Võ Bị Đà Lạt, tôi chưa một lần đụng đến cây súng treo ở góc phòng. Phải đợi cho đến cuối tháng Ba năm 1975, tôi mới cầm lại cây súng M16 cùng với quân nhân cơ hữu và khoảng một ngàn sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt di tản về Long Thành, tạm trú chung với sinh viên sĩ quan của trường Bộ Binh Thủ Đức.

Giã từ đồi Tăng Nhơn Phú, sau bảy năm lưu lạc, tôi trở về để tình cờ thấy lại hình bóng của mình ngày xưa với mồ hôi nhễ nhại, cát bụi lấm lem đầy người, đang thi hành lịnh phạt hai mươi cái bơm dầu, bên cạnh ông huynh trưởng đứng phùng mang trợn mắt huấn luyện đàn em. Trở về đây để thấy thuở còn là sinh viên sĩ quan, đang thực tập tác xạ ở sân bắn dưới cái nóng như thiêu đốt của Thủ Đức. Tôi trở về trong lúc đất nước đang ở trong tình huống cực kỳ bi thảm. Hai mươi bảy tuổi, cái tuổi lo chưa tới, tôi trở về trường mẹ để rồi phải ngậm ngùi, buồn thấm thía với câu nói của cổ nhân: “Lá rụng về cội”.

***

Khi nghe đọc lời tuyên bố buông súng chờ bàn giao trên đài Phát Thanh Sàigon, tôi hơi bàng hoàng sửng sốt mặc dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước.

Tôi mượn ông cậu của tôi bộ đồ dân sự tròng vô người, bộ đồ rộng thùng thà thùng thình trông chẳng ra làm sao cả, nhưng nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ. Tôi phóng Honda ra đường, chạy ngang qua trại Hoàng Hoa Thám, nơi tôi đã cùng hai trăm Sinh viên Võ Bị Đà Lạt về đây học nhảy dù, suốt năm tuần lễ, sáng, trưa, chiều, tối lúc nào cũng vừa chạy vừa đếm nhịp.

Nhảy Dù cố gắng
Cố gắng Nhảy Dù.


Qua Lăng Cha Cả với mấy chiếc tăng T54 cháy đen thui, chứng tích sự kháng cự của Nhảy Dù. Dọc theo đường Công Lý, đây là con đường một chiều, thế nhưng hàng ngàn chiếc Honda cái chạy xuôi, chiếc chạy ngược cứ loạn cả lên, mạnh ai nấy chạy. Hình như người ta chạy để mà chạy chứ chẳng biết chạy đi đâu. Hai bên lề đường giày bốt đờ sô, nón sắt, súng M16 cùng với những bộ quần áo rằn ri vứt lăn lóc, lòng tôi chợt quặn đau khi nhớ tới bộ đồ dù, trong đáy túi quân trang của tôi khi còn ở quân trường.
 
 


Đến trước Dinh Độc Lập tôi hơi rợn người, xe tăng của VC đã đậu khắp trong sân. Bên ngoài cũng tăng và lính Cộng Sàn bố trí khắp công viên, kéo dài qua tòa Đại sứ Mỹ thẳng về phía Sở Thú, trùng trùng điệp điệp xe tăng và lính Cộng Sản.

Trên nóc Dinh Độc Lập cờ Quốc Gia đã được thay bằng lá cờ hai màu xanh đỏ của Mặt Trận Giải Phóng. Tôi cố nhìn một lần cuối cùng, muốn ghi lại trong trí nhớ của mình hình ảnh Dinh Độc Lập trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Trong lúc tất cả mọi chuyện hình như đã đặt dưới sự kiểm soát của vc, đột nhiên từ cánh phải bên trong Dinh Độc Lập nhiều loạt đạn M16 thi nhau nổ giòn giã, xé tan cái bầu không khí ngột ngạt, khó thở. Tiếng súng nghe như đầy căm phẩn, xen lẫn với đau thương uất hận, khiến tôi nghĩ đến hình ảnh con mãnh sư mang thương tích trầm trọng khắp mình, cất tiếng hú bi ai trước giờ tử biệt. Qua kẽ hở hàng rào dinh, tôi thấy lính Cộng Sản rối loạn hẳn lên, người ta chen lấn, đổ dồn về phía hàng rào. Tôi đoán ngay đó là những tiếng súng của Liên Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, tiếng súng của những người lính có nhiệm vụ bảo vệ Dinh Độc Lập.

Khoảng năm phút sau từ cánh cửa nhỏ bên hông của dinh, một ông Thiếu úy Cảnh Sát Dã Chiến hai tay ôm vòng ra phía sau đầu bước ra, theo sau ông ta khoảng một trung đội Cảnh Sát Dã Chiến. Không tin vào đôi mắt của mình, Cảnh Sát Dã Chiến lại phòng thủ Dinh Độc Lập, chuyện khó tin nhưng những bộ đô bông da báo, màu nâu đậm và vàng nhạt, thêm chiếc mũ nồi màu đen đã xác nhận họ là Cảnh Sát Dã Chiến.

Tất cả xếp hàng một dọc theo hàng rào, mặt quay vào tường, quỳ xuống, riêng viên Thiếu úy không chịu quỳ, ông ta đang nói gì đó với đám lính Cộng Sản. Trong lúc bất ngờ một cán binh VC giáng nguyên cái báng súng AK vô đầu viên Thiếu úy, thêm một cái đạp sau bắp chân. Tôi thấy ông ta qụy xuống đất, thân hình lao đảo, ngả nghiêng nhưng vẫn cố gắng gượng lại, cuối cùng như một con báo vàng với vết thương đâm ngay tử huyệt, cả thân hình của viên Thiếu úy đổ dài xuống đất. Ông ta nằm bất động, một dòng máu tươi chảy dọc theo mang tai, lan dần như một vết dầu loang để rồi cuối cùng nhuộm đỏ cái bông mai vàng nơi cầu vai áo.

Mắt của tôi cay. Môi của tôi mặn, bất lực đứng nhìn, thương cho viên Thiếu úy Cảnh Sát Dã Chiến, thương cho mình, thương cho Việt Nam.

***

Bất tuân thượng lệnh khi đối đầu với địch quân sẽ bị đưa ra tòa án quân sự mặt trận xét xử.

Viên Thiếu úy Cảnh Sát Dã Chiến, đứng trước hàng trăm chiếc tăng T54, PT76 với đại bác, đại liên, trước hàng ngàn lính Cộng Sản với đầy đủ AK và B40, ông ta cùng với trung đội của mình đã không chịu buông súng đầu hàng theo lệnh của cấp trên. Có nên đưa ông Thiếu úy và trung đội Cảnh Sát Dã Chiến của ông ta ra tòa án quân sự hay không ?

Câu trả lời xin nhường lại cho quý vị. Phần tôi, tôi chỉ thuật lại những gì tôi thấy.

Khi mà tôi biết được bộ đồ bông da báo của Cảnh Sát Dã Chiến cũng đẹp và oai hùng như bộ đồ rằn ri của Nhảy Dù thì mọi chuyện đã trễ rồi. Đồng hồ đeo tay của tôi chỉ 1 giờ kém 5 trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Dinh Độc Lập từ đây chỉ còn trong ký ức.

Huy Văn Trương

 

Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (Dinh Độc Lập - Tiếng Súng Cuối Cùng)

 CHUYẾN VƯỢT BIÊN HÃI HÙNG CỦA TÀU VT 1502


Thế giới biết đến Thuyền Nhân Việt Nam và công nhận tỵ nạn chính trị CSVN vào ngày 14/11/1978 do chính nhiều chuyến vượt biên đầy hiểm nguy và gian khổ đến được các bờ đất liền hay do các tàu bè di chuyển quanh vùng cứu vớt , một trong những lý do đưa đến sự ra đi tìm tự do bằng cách này , là vì bờ biển VN trải dài từ miền Bắc xuống đến miền Nam hơn hai ngàn cây số , vòng qua phía sau giáp ranh với Cam Bốt và vịnh Thái Lan , những nước gần chung quanh VN được nhắm để đến là : Hồng Kông ( lúc đó còn là thuộc địa của Anh Quốc ) , Mã Lai , Nam Dương , Tân Gia Ba , Phi Luật Tân , Thái Lan và có chuyến đi đến cả Úc Châu …

REPORT THIS AD

Vào những năm 1978-1979 CSVN và CS Tàu có những tranh chấp dữ dội về những vấn đề biên giới cũng như là vấn đề chiếm đóng Cam Bốt của CSVN , một trong những bùng nỗ cụ thể mà các đồng bào sinh sống ở các tỉnh gần biên giới phía Bắc từng chứng kiến là các cuộc giao tranh quân sự qui mô giữa bộ đội CSVN và bộ đội CS Tàu ( cuộc giao tranh này phía CSVN gọi CS Tàu là bọn bá quyền phương Bắc , còn phía TC ( xin đọc là Tàu Cộng ) thì gọi CSVN là ‘dạy cho VN một bài học’ ) , và chính những anh chị em bị đày trong các trại tù cải tạotại đây cũng được chứng kiến và thường xuyên bị di chuyển trại vì lý do an ninh . Do sự kiện này đã gây ra nhiều sáo trộn xã hội lúc bấy giờ ở trong những sinh hoạt của Hoa kiều sinh sống tại VN , nhất là vùng Chợ Lớn trong thành phố Sài Gòn , và chính TC cũng kích động một phần trong các chương trình phát thanh bằng tiếng Hoa , phát vào Việt Nam nhằm khuấy động lên tình hình xã hội , kinh tế và chính trị có lợi cho TC , cộng với việc mở cửa mời gọi ngay tại biên giới , phần đất bên TC thường dựng lên các doanh trại với các phướng vải to lớn như : Hân hoan chào đón công dân trở về tổ quốc , đã có nhiều người thoát chế độ CSVN bằng cách đi này , mặc dù đời sống bên TC chẳng khá gì hơn VN , nhưng miễn là cứ thoát khỏi VN đã ! Sau đó họ lại tìm đường vượt biển bằng các tàu buồm từ TC qua Hồng Kông , rất thịnh hành vào những năm sau đó : 1980 , 1981 , 1982 …

REPORT THIS AD

Phong trào bỏ chạy bằng đường biển mỗi ngày một lên cao , mà nhà càm quyền CSVN không làm sao ngăn cản nỗi , kết quả thế giới càng ngày càng lên án và tẩy chay chế độ phi nhân tại VN , cộng với các vấn đề liên quan tới biên giới TC ở trên , từ đó đảng CSVN nghĩ và đẻ ra được một chính sách gọi là Đi Bán Chính Thức» , với chính sách này họ tung được một mũi tên bắn ra , trúng được nhiều mục tiêu cùng một lúc , trên nguyên tắc chỉ dành cho những người Việt gốc Hoa , với lệ phí phải đóng cho nhà nước VC là vàng thẻ ( tuỳ theo địa phương số vàng được ấn định là từ 06 đến 12 cây cho người lớn , và 03 đến 06 cây cho trẻ con ) , tuy nhiên nếu là người Việt Nam , muốn đi thì một là mua giấy tờ do Công An cấp , để trở thành người Việt gốc Hoa , hai là hối lộ cho cơ quan công an địa phương tổ chức các chuyến đi ! ( vì họ thừa biết rằng : dù có là người Hoa hay người Việt , thì ai cũng muốn chạy càng xa càng tốt để tránh nạn CS ) , với chính sách này vừa đuổi được những người mà họ gọi là khúc ruột thừa hay nguỵ quân nguỵ quyền , vừa lấy được vàng , tịch thu tài sản ( vào thời điểm này chưa được bán nhà , mặc dù là của mình với đầy đủ giấy tờ chứng minh ) , hơn nữa dù nhà nước có cho đi hay không ? Thì trước sau gì người ta cũng vẫn cứ tự đứng ra tổ chức lấy những chuyến đi chui , bất chấp có canh phòng cẩn mật cở nào và tù tội ra sao ? người dân thường nhạo báng chế độ là : Đến cây cột mà biết đi , thì cũng còn bỏ đi nữa , huống chi …

Các chuyến đi tự động do người dân đứng ra tổ chức được gọi là Vượt Biên hay Đi Chui , từ ngữ « Đi chính thức » dành cho những diện ra đi đoàn tụ do gia đình bảo lãnh , hay hồi hương cho những người có quốc tịch nước ngoài , còn chương trình ra đi này thì được gọi là Đi Bán Chính Thức hay cũng có thể hiểu là : vượt biên có giấy tờ do CA cấp cho đi ??? Thoạt đầu mới nghe qua , chính những người trong cuộc cũng lầm tưởng đây là một biệt đãi , một ân huệ ! Từ cái nhìn bên ngoài cách thức tổ chức , hồ sơ giấy tờ với đầy đủ chi tiết tên họ , địa chỉ , lý lịch gia đình và có cả dán ảnh 4×6 như một hình thức thông hành , cho đến bãi tập chung tụ họp , di chuyển tập thể từ các nơi đến địa điểm bằng các đoàn hộ tống do Công An tỉnh hướng dẫn , địa điểm khởi hành là những cảng , bến hay doanh trại của Hải Quân , và từng người với hành lý giấy tờ , thủ tục khám xét , không khác gì như ra phi trường để đi , chỉ có những đơn vị Công An Tỉnh , hành phố lớn mới được biết , các làng xã nơi xa xôi hẻo lánh không được biết đến chính sách này . Đó là bề nổi , càng sâu vào bên trong người ta càng hiểu nhiều hơn về những toan tính , chia chác , có nhiều chuyến đi phải dời tới dời lui nhiều lần , chỉ vì cố nhồi nhét số người đi tối đa cho chật cứng , bất chấp trọng tải miễn sao thâu được càng nhiều vàng càng tốt , có những chuyến đoạn chót của chương trình này là : các âm mưu đục thủng tàu cho chìm , vơ vét lấy sạch vàng vòng của những nạn nhân đem theo phòng thân , và bắn giết thủ tiêu xoá tông tích ! Bởi vì sau 1975 , khi chiếm được toàn miền Nam , người Cộng Sản VN , xem người dân miền Nam như những người cần phải loại bỏ , cụ thể những người vượt biên thường bị phân biệt đối xử và họ thường gọi là : phần tử phản động , bắn bỏ ! , với cách bắn bỏ này không đổ máu , không ai nhìn thấy , mà còn thu được Vàng và tài sản !

Chính sách trả thù dành cho Quân Nhân , Công Chức , Cán Bộ , Nhân Viên làm việc cho chế độ trước đây của Việt Nam Cộng Hoà là cải tạo , học tập , chính sách tịch thâu nhà cửa ruộng vườn ngoài Bắc là Cải Cách Ruộng Đất với đấu tố , địa chủ …  trong Nam thì đánh tư sản , chính sách cướp đoạt tài chánh trắng trợn , với bao nhiêu lần đổi tiền , mỗi lần đổi thì trị giá của đồng tiền mới lại thấp nhiều hơn so với trị giá đồng tiền cũ , và họ ấn định mỗi gia đình chỉ được tối thiểu một số tiền tượng trưng , số còn lại do ‘nhà nước’ giữ , lúc nào cần và lý do thì phải do ‘nhà nước’ chấp thuận mới được lấy ! hệ thống Kinh tế Việt Nam trao đổi với nhau không qua trung gian ngân hàng , mà tất cả bằng tiền mặt hay vàng , qua kinh nghiệm đổi tiền , người dân không ai còn tin và dám giữ tiền trong nhà , có bao nhiêu tiền đi mua vàng cất giấu ! chính sách ‘Đi bán chính thức’ nằm trong mục tiêu cướp đoạt vàng là vì vậy ! Trong suy nghĩ bình thường bỏ vàng ra để đổi lấy sự ra đi tìm tự do , ai cũng nghĩ đơn giản như vậy , nhưng nếu tất cả không bắt đầu bằng các tai nạn khủng khiếp xảy ra sau đây :

– Chiếc tàu sắt ‘Cát Lái’ bị lật trong lúc lên tàu và chìm ngay lúc còn chưa khởi hành vào cuối năm 1978 , có đến khoảng 500 người chết , mở đầu tai hoạ cho chính sách Đi Bán Chính Thức vì tầm mức quan trọng của chiếc tàu : to lớn , bằng sắt ( rất hiếm vì thường là bằng gỗ ) nhiều nhân vật quan trọng của Sài Gòn đi trong chuyến này .
– Chiếc tàu gỗ ‘VT 1502’ khởi hành tại cảng Vũng Tàu sau tàu ‘Cát Lái’ vài ngày , bị chìm vào lúc 03 giờ sáng ngoài khơi Vũng Tàu ( khoãng 60 hải lý ? ) , với con số phõng đoán hơn 400 người chết , chấn động khu Chợ Lớn vì nhiều thương gia người Hoa đi trong chuyến này .
– Chiếc tàu NT 337 bị chìm trước đó cũng vào cuối năm 1978 , tại ngoài khơi Nha Trang với số lượng cũng vài trăm người chết .
– Một chiếc tàu hơn hai trăm người đi từ miền Trung bị chìm ngoài khơi HongKong , cũng vào cuối năm 1978 .

Và tiếp theo đó là hàng loạt các tàu đi bán chính thức bị chìm ở hầu như khắp các tỉnh có bờ biển . Con số chính thức bị chết cũng như các chi tiết thường được giấu kín , không công bố , chỉ những chuyến nào còn người sống sót thì may ra mới biết được một số tin tức tối thiểu , hoặc do các cư dân sống chung quanh ven bờ biển cung cấp , mỗi khi có xác người , đồ vật hay ván tàu bị bể trôi vào … Trái với những chuyến đi chui , các chuyến đi ‘bán chính thức’ có nhiều hy vọng được biết tin tức nhiều hơn , có được thời gian , địa điểm , ngày giờ khởi hành mà người ta có thể dự đoán được chiếc tàu đã tới chưa , bị chìm hay mất tích ? có những chuyến đi mất tích đến nay chẳng một ai biết , cũng có những chuyến bị chìm cho đến nay mới có người kể lại . Các câu chuyện được kể lại , như những đoạn phim ma quái , kinh dị , bệnh hoạn , tưởng chỉ có thể xảy ra trên màn ảnh hay phim truyện , mà chính người kể cũng phải xót xa rùng mình , nỗi da gà khi hồi tưởng lại :

– Hận người CSVN đẩy dân vào đường cùng , liều mạng với sóng gió , biển cả để đi tìm tự do , mà chưa biết chắc có đến được hay không ? hai vợ chồng cùng đi trên một chiếc ghe với hơn 70 người , sau nhiều ngày trôi dạt bị sóng đánh tan tành , chỉ còn lại đám người bám vào các ván gỗ trôi lênh đênh trên biển , người chồng xấu số đã chết vì kiệt sức , để lại người vợ đang có bầu chuyển bụng đẻ , và đứa bé đã ra đời trong một hoàn cảnh bất đắc dĩ với bao nhiêu trôi nỗi cuộc đời ngay tối hôm đó trên đại dương mênh mông .
– Hai chị em chia tay cha mẹ để ra đi trên một chiếc ghe , chẳng may bị chìm và người em sau nhiều ngày tự lượng sức , biết mình không chống cự nỗi với thiên nhiên , buông tay hy sinh cho người chị được miếng ván gỗ một mình , để hy vọng sống sót trở về …
– Nhìn thấy vợ con bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp trước mặt , người đàn ông gầy yếu sau bao nhiêu ngày bị sóng nhồi nhừ tử , lấy hết sức lực còn lại đứng lên xô đẩy đám người man rợ kia ra , một nhát dao mã tấu chém ngay cổ , anh ngã quỵ xuống chỉ kịp trợn mắt nhìn , trước khi làm một điều gì khác !
– Người thiếu nữ xấu số kia sau bao nhiêu lần bị hãm hiếp trên biển , được đưa vào đất liền bán cho các động mãi dâm bên Thái , đến khi không còn ăn khách vì thân hình tiều tuỵ ốm yếu đau bệnh , được ngã giá và đưa sang bên Tàu làm vợ cho một nông dân , sáng hôm sau chị mới phát hiện ra ‘người chồng hôi hám , nhớp nháp đêm qua’ là một người cùi , từ đó người ta thấy một người đàn bà bị cùi lở loét , lê lết ngoài chợ để xin ăn …
– Thỉnh thoảng người ta vẫn cứ phải đuổi bắt , đem anh vào phòng mặc quần áo để giữ gìn thuần phong mỹ tục trong sân trại ; Kể từ khi phải chứng kiến cảnh tàn nhẫn hành hạ thể xác vợ và thân nhân anh , để lại trong tâm trí anh một hình ảnh kinh hoàng cho đến khi lên bờ , vào trại thì anh chỉ còn là một gã điên …
– Sau nhiều ngày đêm bồng bềnh trên biển , trải qua bao sóng gió , đói khát bệnh tật hoành hành , hết thuỷ táng người này đến người kia ! người ta phải cắt tay để lấy máu mà uống , cầm cự qua ngày , một thiếu phụ tự cắn vú mình chảy máu cho con bú , đến khi người ta phát giác ra thì bà đã trút hơi thở , chết từ khi nào .
– « Bố ơi Bố ! Nếu con có chết Bố đừng ăn thịt con nghe Bố » , đó là một câu nói van xin của một đứa bé với người cha , ngay từ tuổi ấu thơ người ta đã vô tình nhồi nhét vào đầu em những hình ảnh ghê rợn !
– Ai cũng nhìn em , không hiểu tại sao em đi khập khiễng với hai người dìu đỡ hai bên , vào trạm y tế khám xét mỗi ngày ? Chẳng qua vì tuổi em còn nhỏ , khi bọn quỷ dữ hãm hiếp em , chúng đã lấy dao rạch em ngay chổ đó !
– Chúng nó hãm hiếp con dâu của bà đang mang bụng chữa , thằng con trai bà sáp lại định can thiệp , nó phang cho một đao , bà chạy lạy ôm thằng con , đầu lìa khỏi thân rơi xuống biển , máu tuông xối xã ướt hết thân mình bà ! Bằng một sự nhiệm mầu , bà sống sót trong đống xác người ngỗn ngang …
– Năm đó anh là một thanh niên 18 tuổi , đi trên một chuyến tàu hơn 400 người , khởi hành không được bao lâu , tàu anh đã chìm sau khi vật lộn và chịu thua trước sóng gió , anh bám vào các phao nổi , cùng nhiều người lênh đênh trên biển , thời gian cứ trôi thì số người càng thưa dần . Ngày anh trôi được vào bờ cộng thêm với 4 người khác sau 3 ngày đêm … Tổng cộng anh mất đi 8 người thân trong gia đình gồm cha mẹ , anh chị em , và hai đứa cháu .
– ! ! !
– ? ? ?

Và còn nhiều trường hợp dã man , kinh khủng , đau thương khác mà không bút mực nào ghi chép cho hết ! Tất cả , họ chỉ muốn được quên đi , để tiếp tục sống những ngày còn lại bình an « sóng yên biển lặng » , đây là nỗi đau mất mát của cả dân tộc ! Không thể chối cãi , nạn nhân là những người đi trên các chiếc ghe thuyền , thủ phạm là những tên hải tặc Thái Lan và nhà cầm quyền CSVN . Ở những nước tự do dân chủ , mỗi một chính sách người ta cân nhắc đo lường , một hành động dù nhỏ sơ ý đến đâu , ảnh hưởng đến sức khoẻ , tính mạng người dân , đều bị pháp luật xét xữ nghiêm minh , ngỏ hầu bảo vệ tối đa quyền lợi cho người dân . Qua chính sách đi ‘bán chính thức’ , ngoài những điều thu vét vàng và tài sản ở đoạn trên đã kể , chỉ riêng về một vấn đề : tiêu chuẩn giao thông đường biển của các ghe thuyền VN , cũng đủ nói lên tính cách tàn nhẫn của đảng CSVN , cố tình làm ngơ đẩy người ta đi vào chổ chết , một cách tài tình không đổ máu . . . không súng đạn !

Đảng CSVN sẽ phải trả lời ra sao về sự xua đuổi người dân vào đường cùng ?
Đảng CSVN sẽ phải giải thích thế nào về những chuyến đi bán chính thức ? 
Đảng CSVN sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về chính sách này ?

Vào năm 1978 , khi bang giao giữa Việt-Nam và TC đến hồi căng thẳng , Nhà càm quyền Hà-Nội đưa ra một chính sách giải quyết có lợi nhiều mặt cho họ ( Thâu tài sản , Vàng bạc , giải toả phần nào áp lực từ TC , và đuổi được những phần tử « phản động » ra khỏi VN ) , qua chính sách mà ta thường nghe đến qua tên «Đi Bán Chính Thức» , ở từng nơi do Công-An địa phương thâu và cấp giấy phép ( trung bình Người lớn từ 10-12 lượng Vàng , trẻ con phân nửa ! ) qua trung gian của chủ tàu đứng ra lo tổ chức . Chuyến đi của gia đình tôi gồm 9 người : Bố và Má lớn tôi ( mới ngoài 50 ) , Vợ chồng anh H . ( chưa đầy 30 ) và cháu DL ( 1 tháng tuổi ) , anh T . ( ngoài 20 ) , em H . ( con người bạn của Bố tôi khoảng 13 , 14 … ) , cháu CP . ( 4 tuổi , con của người anh thứ tư , bố mẹ và em gái cháu đi chuyến trước , hiện ở Hoa-Kỳ ) , và tôi ( lúc đó 18 tuổi ) . Tất cả tàu của tôi gồm hơn 400 người , già trẻ ,lớn bé , trai gái có đầy đủ cả , phần đông là gia đình với nhau , ví dụ như gia đình của tôi 9 người , gia đình bạn bố tôi 5 người ( chú TH ở cầu chữ Y ) , gia đình chủ tàu nghe nói đâu nội ngoại tất cả lên đến vài chục người . Và đa số là người Việt gốc Hoa , cũng có nhiều gia đình người Việt , nhưng phải làm giấy tờ giả hoặc đút lót thêm cho công an !

Gia đình tôi ra ngoài Vũng-Tàu ở nhà chú B . ( gần bến xe ) , chú thím có tất cả 6 người con , lâu ngày không liên lạc thư từ , quên không nhớ rõ 5 hay 6 gì đó ? chú thím sống nhờ bán hàng và thỉnh thoảng cách vài ngày thì làm thịt một con bò , nhờ vậy tôi có dịp tận mắt xem cách mổ bò và cắt từng phần bộ phận của con bò , thường vào lúc sớm 4-5 giờ sáng , muốn xem phải thức dậy từ sớm , sau khi cột chặt tứ phía , tay phải chú tôi cầm một cái búa thật to , tay trái làm động tác nhấp nháy để che hai mắt con bò lại , và búa một búa thật mạnh xuống , bò chưa kịp phản ứng đã ngã gục ngay xuống đất , cái khéo là ở chổ này , vì nếu búa không đủ mạnh bò chưa chết , với sức mạnh của nó chuyện gì sẽ xảy ra … Sau đó thọc tiết lấy máu tươi , pha với chút rượu uống ngay tại chổ còn nóng hổi , vì cuộc hành trình sắp đến không biết mất bao lâu , cần nhiều sức khoẻ , cho nên dù không quen cũng cố gắng uống vài ngụm , kế tiếp mỗi người một việc , lóc da , xẻ thịt , làm sạch bộ đồ lòng … Cuối cùng dọn dẹp , vệ sinh sạch sẽ , làm sao để kịp đem ra chợ thật sớm để bán . Trong ngày thời giờ rảnh rổi chúng tôi thường đi tắm biển , từ nhà ra bãi đi bộ khoảng 15-20 phút , chiều về ra sau vườn chơi với mấy người con chú trong khi chờ đợi thím làm cơm , ngày nào cũng vậy mỗi lần lên bàn ăn ít nhất cũng có đến gần 20 người ăn , trong lúc ăn cơm mọi người trò chuyện hàn huyên tâm sự , vì nghĩ rằng không biết đến lúc nào mới có dịp gặp lại nhau ( thật vậy , cá nhân tôi đến nay gần 30 năm chưa gặp lại chú thím , nghe anh T nói chú thím hiện định cư ở Đan-Mạch ) . Đến khoảng 8 giờ tối thì mọi người ai về chổ ngủ người đó , được sắp hàng dọc hai bên với mùng che muỗi màu trắng ngà , ở giữa là lối đi , giống như trong các dãy nhà ngủ trong trường nội trú mà hồi nhỏ tôi có ở qua .

Liên tiếp mấy ngày nay mưa tầm tả , đi tắm biển nhanh nhanh khăn gói chạy về nhà trú mưa , đến một buổi sáng nọ … khi dời tới dời lui nhiều lần vì lý do gì không hiểu ? Chúng tôi được cho hay là tới ngày khởi hành , có thể nói tất cả xe ba bánh của Vũng-tàu được huy động đến từng địa điểm đón khách để đi …( người ở khách sạn bãi trước , kẻ ở khách sạn bãi sau , bãi dâu , Ô-Quắn , bến xe … ) , đoàn xe được hộ tống bởi Công-An đến từng nơi một , người đi mỗi lúc một đông thêm , dân chúng đổ xô đứng hai bên đường như tiển đưa khi đoàn xe đi ngang qua . Đến khoảng 3 giờ chiều chúng tôi được đưa vào một dãy nhà , bên kia con đường là Cảng Vũng-Tàu , trước cổng sắt Công-an đứng canh gác dầy đặc , ngoài trời mưa vẫn cứ rơi lâm râm; Mọi người xôn xao chờ đợi , nét mặt ai cũng như lo lắng một điều gì xảy ra ! Bình thường cháu P . ( 4 tuổi ) hay chạy nhảy vui đùa , từ khi vào đây đến giờ cháu cứ im lìm , đứng yên một chổ , Bố tôi hỏi : “Sao buồn vậy ? không chạy chơi đi ?” , cháu trả lời : “Con sợ quá !” , “Con sợ gì ?” , “Con sợ tàu chìm !” , Bố tôi mắng cháu xong lại ôm cháu vào lòng vuốt ve ! Mặc dù chưa bao giờ cháu đi tàu , vả lại với tuổi như cháu sao có thể suy nghĩ và sợ như vậy ! Có phải đây là điềm báo trước những chuyện không may sẽ đến ! ( có nên tin hay không ? ) .

Chúng tôi được phát mỗi người một phần ăn , hình như là 1 ổ bánh mì ? 1 trái chuối ? và nước uống ? Đến khi trời bắt đầu tối ( khoảng 6-7 giờ ) thì mọi người tập trung sắp hàng theo từng gia đình , Công-an điểm danh kêu từng người một theo danh sách có dán hình và lý lịch , ( tất cả đã chuẩn bị từ trước , từ Vàng phải nộp cho đến tên tuổi v .v… ) , người nào được gọi thì đến trình diện , họ kiểm xem có phải người trong hình và danh sách không ? Hành lý , túi cầm tay tất cả xong xuôi mới được lên tàu , đậu sát ngay bên cạnh , có những trường hợp phải bỏ bớt lại đồ đạt vì quá tải hoặc phải chi thêm ! Tàu được chia làm 3 tầng , tầng dưới cùng nhất ( hầm tàu ) dành cho thanh niên trai tráng , tầng ở giữa cho đàn bà con gái , trẻ con … trên Boong tàu là gia đình , nhân viên , bạn bè thân thuộc của chủ tàu ( kể cả buồng lái ) . Như vậy tôi , hai người anh ( anh H và anh T ) , em H được chỉ định xuống hầm tàu , mới xuống chưa quen khó thở , phải chạy lại mấy góc ( đầu hoặc đuôi tàu ) , kê mũi vào một ống tròn khá to nhìn thông suốt lên trên trời để hít thở không khí , Má lớn và chị dâu ( vợ anh H ) xuống tầng ở giữa , Má lớn tôi một tay ôm tượng Phật Bà Quan Âm , một tay dắt cháu P , miệng luôn khấn niệm ! , chị dâu thì ôm cháu DL , còn Bố tôi thì một phần vì quen thân với chủ tàu , một phần vì có mang bệnh trong người nên được ưu đãi ngồi tầng trên ( trong buồng lái ) .Tàu bắt đầu khởi hành vào khoảng 9 giờ tối , mọi người được phân phát vài viên thuốc say sóng uống ngay tại chổ , và một túi ny lông nhỏ , nếu có ói mửa thì dùng để đựng .

Tôi chợt thức giấc vì phát hiện ra đằng sau lưng mình có một lổ thủng khoảng 20 cm đường kính , mọi người nằm ngủ la liệt vì thuốc say sóng , ở đường đi chính giữa một số thanh niên đang chuyền tay nhau từng sô nước để đổ ra ngoài , tôi cố ngồi dậy mặc dù đầu óc đang quay cuồng , khều tay sang bên cạnh anh H đang say ngủ , lắc mạnh cũng không thấy động tĩnh gì , quay sang bên kia kêu em H , vẫn không thấy phản ứng , tôi dùng hai tay bám và đu theo mấy cây gỗ to lớn ở trên đầu vì dưới sàn mọi người nằm la liệt , không còn chổ để đi , đến chân cầu thang thì gặp anh T , đang cùng đoàn người chuyển những sô nước lên trên để đổ ra ngoài , ở trên cầu thang có một anh dùng chân cản không cho tôi lên , vì lúc này cũng khá nhiều người tụ tập ở đây , sợ tất cả làm rối loạn trật tự ! nằm ngay tại chổ chưa đầy 10 phút , bổng tàu lắc mạnh , sau nhiều lần và tàu lật ngang , nước tràn vào … mạnh ai nấy nhảy xuống biển và bơi ra thật xa theo vị trí của mình ! anh T nhảy ra trước gọi tôi nhảy theo , từ dưới biển nhìn lên con tàu như một cái gáo múc nước , nghiêng một bên múc đầy nước vào , xong nghiêng trở lại và từ từ chìm xuống ! Tiếng la khóc , kêu gào từ những người còn kẹt lại trong tàu tắt dần theo mực nước , đến khi cây cột cao nhất của tàu từ từ đi vào trong lòng biển ! Trên mặt biển chỉ còn lại đồ đạc hành lý và khoảng vài chục người đang cố gắng bơi lội , tìm kiếm những gì có thể mang theo được , từ Va-Li túi xách tay đến đồ ăn trái cây , bình nướ c…Tụi tôi hai anh em mỗi người ôm một cái Va-Li làm phao , vớt được không biết của ai ? may thay lục trong đó có chai dầu Nhị-Thiên-Đường , vì lúc này là nửa đêm nên rất lạnh , có chai dầu bôi đầy mặt mũi cũng thấy ấm áp phần nào ! Từ xa có một nhóm người đang bám vào các phao nổi dính chùm với nhau bằng dây , loại phao dài màu trắng , hai đầu có hai cái lổ để cột dây , thường treo bên hông tàu để làm vật cản khi tàu va chạm , cứ đầu cái này lại cột với đuôi cái kia , có đến hơn trăm cái dính với nhau bằng dây nên đoàn người lúc nào cũng trôi chung với nhau mấy ngày đêm ! Chúng tôi bỏ Va-Li bơi tới xác nhập với đoàn người , cũng may vì nước bắt đầu thấm vào mỗi lúc Va-Li một nặng thêm , lấy phao trắng kẹp vào hai bên nách , mỗi bên một cái , một cái khác chêm dưới cầm để nâng đầu khỏi mặt nước ! Từ xa chúng tôi nhìn thấy một ánh sáng nhỏ tí từ ngọn đèn Hải-Đăng Vũng-Tàu , nhờ H ( con trai chủ tàu , 13 tuổi ) đeo đồng hồ điện tử , nên trong đêm tối chúng tôi biết được bấy giờ là 3 giờ sáng ! Có một anh ( nghe nói là cựu Hải-Quân , cũng đã bị chìm trong một chuyến đi trước đây không thành công ! ) trôi chung và bảo chúng tôi : Ai thấy gì ăn uống được thì nhớ vớt theo , nhờ vậy trong ngày đầu chúng tôi có ít cam quýt để ăn , một bình nước truyền nhau uống , nhưng bị nước biển thấm vào nên ăn uống cái gì cũng mặn hết ! Chỉ có trái dừa là còn giữ được nguyên vị , có điều phải hy sinh lấy đồng hồ tay đập để lấy nước uống .

Trời sáng mọi người mới bắt đầu nhìn rõ mặt nhau hơn , ngoài sợi dây phao dài cả trăm cái , đoàn chúng tôi còn có một cái phao ruột bánh xe khá to , có thể nằm trên đó thả trôi theo , một cái tàu sắt nhỏ dài khoảng một thước , hai bên được hàn dính hai thùng phuy nước để làm phao nổi , có một em nhỏ ( 9-10 tuổi ? ) không biết bơi ngồi trong tàu sắt đó , chúng tôi vừa kẹp phao trắng vừa bám chung quanh hai thùng phuy nước và chiếc tàu sắt này , mỗi lần cơn sóng ập đến là cái tàu sắt bị lật úp lại và dĩ nhiên em nhỏ đó tơi bời ngụp lặn trong đó ! Phải khó khăn mất rất lâu chúng tôi mới lật lại được , và vớt em lên ! Mắt đỏ ké , bụng căng phình vì uống nước biển , nhiều lần như vậy em bắt đầu đuối sức và mê sảng , lần úp cuối cùng không còn tìm thấy em đâu ? Nhiều xác người cứ trôi lẩn quẫn dưới chân chúng tôi , một anh trong đoàn thò tay xuống lôi lên một xác , thì đúng là xác của em ( tôi cũng không biết tên em là gì ? ) , và mọi người cầu khấn với em , phù hộ cho nhanh tới được đất liền , sẽ làm lể cúng cho em ! Từ đó không còn thấy xác em theo nữa ! Lần khác sau khi một cơn sóng đi qua , có tiếng người cách xa chúng tôi vài chục thước , nhìn kỹ thì ra có vài người vì thiếu cẩn thận , không ôm chặt phao để cơn sóng đánh văng ra xa ! Cũng có trường hợp vì đuối sức tự buông xuôi theo dòng nước , hoặc chìm sâu vào lòng biển như anh T ( Lúc tàu vừa lật anh nhảy ra trước và kêu tôi nhảy theo ) ; Hai anh em trôi được hai ngày , một phần có lẻ vì lúc đầu vừa phải chống trả với thiên nhiên , một phần vừa lo lắng cho tôi , vì so với sức khoẻ của anh , tôi yếu sức hơn nhiều ! Anh bắt đầu có những triệu chứng bất bình thường , nhất định không chịu bỏ áo khoát ra , ( xuống nước áo nặng trĩu , vừa đuối sức vừa mặc áo trong người thêm gánh nặng ! ) , anh nói đây là vật kỹ niệm của một người bạn tặng trước khi đi ? Và anh tháo nhẫn đeo tay ra trao cho tôi bảo đem về trả cho anh T , tôi nói hai anh em cùng trôi thì sẽ cùng về thì cứ giữ đó đi ! ( Lúc trước khi đi bố tôi có sắm cho anh em tụi tôi mỗi người một vài thứ : nhẫn đeo tay , đồng hồ , dây chuyền đeo cổ … ) , ngay lúc đó tôi cũng không để ý , vì người lúc nào cũng nửa tỉnh nửa mê ! Sau này mới nghĩ ra đây là những lời trăn trối cuối cùng của anh , con người có những giác quan mà ta thường gọi là thứ sáu , chỉ phát hiện vào giờ phút lâm nguy hay cuối cùng … chăng ? Tôi cũng chẳng biết anh ra đi vào lúc nào , được mấy người bạn ( đồng hành … ) tả lại các chi tiết thì đúng là xác của anh có trôi ngang qua chúng tôi , nói về anh thì phải nói là số phận ! Trước đó anh và anh D ( có con là cháu P , 4 tuổi ) cùng ở ngoài Nha-Trang nhiều tuần lể liên tiếp để chờ đợi đi vượt biên ! Vì trở ngại kỹ thuật chưa đi được , quay về Sài-Gòn do gia đình sắp xếp lại nên đi trong chuyến này ! Còn anh D đi chuyến khác tới được đảo và đi định cư cùng vợ và con gái ( em của cháu P ) . Nguyên ngày trôi trên biển phải chống chọi với sóng gió , ban ngày thì nắng gắt , phải cố ngâm sát người dưới nước biển , vừa đủ để thở cho bớt nóng , tránh nắng trên đầu ! thỉnh thoảng lấy tay múc nước để xối lên đầu cho ướt , chiều đến khi mặt trời sắp sửa chìm sâu xuống nước cộng với gió thổi lành lạnh ! nhất là vào ban đêm thì lạnh run , hai hàm răng đánh bò cạp không ngừng ! Mỗi cơn sóng ập tới là một hung thần đem theo không biết bao mạng người ! Vì sơ ý không bám chặt phao sóng đánh văng ra xa , vì các miếng ván gỗ tàu bể to tướng đánh vào đầu , và có khi vì các sợi dây cột hai đầu phao quấn vào cổ nghẹt thở ! Hoặc chỉ vì đang đuối sức mê mê tỉnh tỉnh , một cơn sóng lớn ập vào cũng đủ chết ngộp ! Ngoài ra còn đói khát , đau ốm … Ban đầu còn tí đồ ăn , nước uống mang theo chia nhau dùng , đến khi cạn … ngửa mặt lên trời mỗi khi có mưa , há to mồm để hứng những hạt nước thần tiên từ trên rơi xuống ! Hy vọng sống sót mong manh ? giữa sống và chết có khi trong giây phút , mới thấy đó mà đã mất đâu rồi ?

Bước sang ngày thứ nhì cũng không khá hơn ! Càng trôi xa hy vọng càng ít đi ! Trên đại dương mênh mông chỉ thấy trời và nước dính liền với nhau , hai màu tương phản xanh trời và đen ngòm của biển cả . Đoàn người cứ trôi nổi theo dòng nước , thỉnh thoảng một vài cơn sóng từ xa xa như những mái nhà bốn năm từng lầu sắp tràn đến , sữa soạn lấy lại tư thế vững vàng , hớp một vài hơi không khí cho đầy buồng phổi ! Sóng ập vào , cố gắng ngụp lặn cho qua để thấy là vẫn còn sống sót , cũng có khi cơn sóng trôi qua êm đềm đưa lên tuốt tận trên ngọn , để từ trên cao nhìn xuống vực thẩm sâu hun húc …

Bỗng từ xa một làn khói trắng thổi ra từ một ống đen tròn ! lúc ẩn lúc hiện ! Sau năm lần bảy lượt trồi lên trồi xuống thì rõ ràng đúng là một chiếc tàu đang chạy ngang từ tuốt phía xa , thật vui sướng không gì bằng ! ! ! người cởi áo phất lên ra hiệu , kẻ lấy tay đập vào hông hai thùng phi , tất cả mọi người la kêu cầu cứu cùng hướng về chiếc thuyền kia ! … Con thuyền vô tình chẳng để ý đến , cứ lặng lẽ vượt sóng đi tiếp hành trình , càng lúc càng thu nhỏ đến khi không còn nhìn thấy … Chúng tôi chết lịm người , bao nhiêu hy vọng tan thành mây khói , nữa tủi nữa hờn ! Thật ra sau này suy nghĩ lại , mình dưới biển như giọt nước , người thấy tàu chứ tàu có nhìn thấy người đâu ? hay có thể họ sợ mang hoạ vào thân … Nhưng dù sao thì vẫn cứ an ủi rằng chắc họ không thấy . Trong suốt mấy ngày đêm lênh đênh trên biển , nếu không lầm tổng cộng chúng tôi sống đi chết lại như vậy ba bốn lần , và lần nào cũng vậy , chẳng có tàu nào đến cứu vớt !

Vào một buổi trưa kia … xa xa có một chấm màu xanh lá cây , khác với bình thường chỉ thấy xanh trời và xanh đen ! chấm xanh lá cây đó càng lúc càng to lên , và biến đổi từ từ thành cây dừa , rồi hàng dừa , dù chẳng còn sức vẩn cố gượng lên nhìn mỉm cười , vì biết rằng chẳng còn bao lâu sẽ trôi đến đất liền ! Bổng chân tôi đụng đất , nước xanh trong nhìn thấy từng đoàn cá bơi qua bơi lại chung quanh , có con còn bay lên khỏi mặt nước , và một con rắn xanh lè dài hơn một thước , dầy độ hơn ngón tay cái bơi ngoằn ngoèo tiến đến chổ chúng tôi , vừa đúng một cơn sóng nhẹ đánh văng con rắn trôi đâu mất ? Một số anh em còn khoẻ , độ mươi người rủ nhau bỏ phao , bơi về phía đất liền có trồng dừa kia ! Chắc cũng khoảng mấy cây số , cho tới giờ này tôi cũng chẳng biết số phận của mấy người đó ra sao ? Có đến được bờ không ? Coi vậy , bơi ngoài biển sóng gió với bơi trong hồ nước yên lặng khác nhau nhiều lắm ! Còn chúng tôi vì yếu sức đành chịu , cứ thả người trôi theo ! Chiều đến nước thuỷ triều dâng lên , lại lôi chúng tôi rời khỏi vùng nước cạn này để đi ra xa , tiếp tục cuộc hành trình bất đắc dĩ ! Chúng tôi bị lôi đến một vùng có nhiều chòi thật cao , nghe nói đâu của dân đánh cá dùng để nghỉ ngơi , ăn uống … được dựng đứng thẳng bằng một cây gổ to cao , có từng nấc thang để leo lên trên , tuốt trên cao là một cái nhà nhỏ bằng gổ , có cửa và cửa sổ để nhìn ra tứ phía , chung quanh được cột dây và kéo căng từ trên nhà nhỏ xuống biển , chúng tôi bám vào các sợi dây này khá lâu để chống trọi với những cơn sóng , có anh còn đề nghị trèo lên đây nghỉ ngơi , nhưng phần vì mệt , không leo lên nổi nên chỉ đứng dưới chân cột , rồi lại thả trôi tiếp !

Như vậy đêm nay là đêm thứ ba chúng tôi ngủ dưới nước , thật ra lúc thức lúc ngủ , lúc tỉnh lúc mê , ban ngày ban đêm , tất cả không chủ động được ! chắc vì phản xạ tự nhiên nên cứ ôm phao mà trôi , và tuỳ sức dẻo dai và chịu đựng bền bỉ của mỗi người mà sống còn ! Chỉ có bộ nhớ là tương đối còn hữu hiệu , tất cả hình ảnh thâu được như một cuộn phim kinh hoàng !

Trời tờ mờ sáng , chúng tôi đang nằm trên bãi cát , thỉnh thoảng từng cơn sóng nhỏ trôi đến mức cuối cùng , và đụng nhẹ vào người chúng tôi , mặc dù đã trôi và nằm ngay trên bờ rồi , nhưng tôi vẫn còn nhớ là chả ai có phản ứng gì cả , mà cứ nằm bất động như vậy ! Đáng nhẻ ra phải mừng vui phấn khởi hay gì gì ? hoặc giả phải đứng lên chạy nhanh đi tìm đồ ăn , nước uống , người thân … Cho đến khi có tiếng người đi từ xa tiến về phía chúng tôi , họ là dân chài lưới ở trong những căn nhà tranh sát cạnh bờ biển , họ thức dậy từ sớm để chuẩn bị đi lưới cá , nhờ vậy họ phát giác ra chúng tôi đang nằm ở đây và cứu chúng tôi vào nhà ! Vì nếu cứ nằm như vậy đến khi nước thuỷ triều lên thì có lẻ chúng tôi lại bị nước biển lôi đi tiếp , không biết đến nơi nào ? Và có còn sống nổi không ? Đoàn người trôi mỗi lúc một thưa đi , mất dần theo thời gian ! Chúng tôi được hai người xách hai bên , kéo lê lết một khoảng khá xa vào một căn nhà gần đó ! bỏ hết quần áo ướt rách tả tơi ra , tôi chỉ còn cái áo sơ mi mất hai cánh tay và cổ áo , vì nước biển ăn mục chỉ , và một cái quần ngắn , trong khi trước khi đi mặc hai ba cái áo và độn hai cái quần , tranh thủ tối đa để đem được càng nhiều càng tốt ! mắt kiếng và đồng hồ đeo tay của tôi thì bị sóng đánh mất ngay từ lúc đầu mới nhảy xuống biển ! Thay quần ngắn khô vào , leo lên bộ ván gổ chùm kín chăn nằm ngủ , dưới chân giường là một cái lò than đốt nóng để sưởi ấm chúng tôi , thật không gì bằng ! Đến chiều tôi tỉnh giấc vì có tiếng người nói chuyện ngoài sau hè , ngồi dậy thò hai chân xuống đất , định bước đi thì té nhào vì đầu óc còn đang quay cuồn , từ từ bò dậy vịn vào thành giường , đi bám sát vách nhà ra ngoài , ngồi xuống chổ mọi người đang trò chuyện , tôi được một bác kia múc cho một chén cháo trắng và căn dặn ăn từ từ , để cho bao tử làm việc nhẹ nhàng trở lại ! Sau khi trò chuyện cùng mọi người , tôi biết nhóm tụi tôi vào đây sáng nay chỉ còn năm người ! Bốn con trai ( tôi 18t , H 13t con chủ tàu , quên tên …14t cháu chủ tàu , và một anh thuỷ thủ chắc lớn hơn tôi vài tuổi ) , và một chị độ trên dưới 30 , bị xảy thai nên được đưa thẳng lên bệnh viện huyện nằm điều trị ! Còn bốn đứa tôi thì có một xe Jeep Công-An đến rước đem về trại để giam ; Vì đây là một xả nhỏ ven bờ biển nên chuyện gì vừa xảy ra , là tất cả mọi người đều biết , kể cả Công-An ! Như lúc nãy ngồi nói chuyện với rất nhiều người , họ biết tin chúng tôi mới trôi vào sáng sớm nay , nên kéo đến để hỏi chuyện , có một chú kia người Hoa đang đóng tàu tại đây sửa soạn để đi , hỏi tôi ở đâu ? tôi trả lời : « Ở Quận năm Trần Hưng Đạo , nhà là trường dạy đánh máy chữ và dạy lái xe … » , ông nói có biết nhà của tôi và hỏi tiếp : « có ai quen ở đây không ? » , « tôi nói có , gần bến xe ! » , « Bến xe nào ? » , « Bến xe Vũng-Tàu » , ông nói : « Đây là Trà-Vinh , chứ đâu phải Vũng-Tàu … » , ông lấy ra phân phát cho tụi tôi mỗi đứa Hai mươi đồng ( khoảng một đồng một tô phở ! ) , thì ra bây giờ tôi mới biết là mình trôi từ Vũng-Tàu về tới Trà-Vinh ! Và cũng không biết vị ân nhân kia là ai ? tên gì ? chuyến đi của ông ra sao , và hiện ở đâu ?

Họ đưa tụi tôi vào một trại giam gần đó ( ngồi xe độ khoảng 20 phút ? ) , nhưng vì vừa mới được vớt lên , vừa nhỏ tuổi ốm yếu nên được giam lỏng , không phải vào buồng giam như những người vượt biên khác , chổ giam tụi tôi là một gò đất lồi lõm , có mái che và bốn cột nhà không cửa không vách , ban đêm gió thổi rất lạnh , phải lấy chiếu nằm quấn vào người để che , và lẻ dỉ nhiên là không gối không nệm , nguyên đêm đầu không tài nào ngủ được , mình mẩy ê ẫm vì cái sàn nhà không được bằng phẳng ! trước mặt là cổng ra vào có trạm canh gác , bên hông trái là dảy nhà làm việc và nhà giam , bên hông phải là hàng rào kẽm gai , phía sau có cái ao khá lớn và mấy cái nhà nhỏ , dựng trên mặt nước dùng làm nhà cầu ! mới lần đầu không quen , nhìn xuống thấy đầy cá ở dưới ! Có mấy anh Công-an trẻ tuổi lại hỏi tụi tôi : « Vượt biên hả ? » , « Tụi tôi đi bán chính thức , nhà nước cho phép ! » , « Nhà nước nào cho tụi bay đi ? tội phản động , đem bắn bỏ ! » , và anh chàng đưa khẩu AK lên định dùng báng gỗ đập tụi tôi , từ phía trong dãy nhà có một anh đi ngang qua nói : « Khoan đã , mấy chú để tôi làm việc với mấy người này ! » , thì ra đây là anh hai ( nghe họ gọi như vậy , trưởng đồn CA , và anh ba là CA phó đồn ) , vì ở dưới làng xã , mấy anh CA cắt ké đâu biết có chính sách ra đi « bán chính thức » như vậy ; chỉ có xếp lớn mới biết , may mà anh này can thiệp kiệp thời .

Họ đưa tụi tôi một tờ giấy khai , hỏi khẩu cung từng người một , đại khái đi ở đâu ? tàu nào , chủ tàu và tên tàu … Sau khi khai xong , họ bảo tụi tôi về lại chổ giam , ở đó chờ ! Vì nằm sát cổng ra vào , nên gần như đêm nào cũng chứng kiến cảnh bắt người đi vượt biên , đem về giam ở đây ! có đêm hai ba vụ một lúc ! Ban ngày tụi tôi được ra ngoài đi chợ , nấu ăn tự túc không như những ngày đầu phải ăn cơm tù ( bo bo với đường hoặc muối , suốt đêm đau bao tử ngủ không được ) , nhờ gia đình tiếp tế có thêm tiền đi chợ , cộng với áo quần cùng đồ ăn …

Ngày qua ngày , chúng tôi ở đây hơn một tuần lể chưa thấy nói năng gì ? phần vì buồn nhớ gia đình , nhớ nhà , nhớ những người thân yêu …cộng với hình ảnh trong những ngày sóng gió vừa qua , chúng tôi quá chán nản mất hết tinh thần , bàn tính với nhau ngày mai lúc được cho ra ngoài đi chợ , sẽ trốn luôn không trở về trại nữa ! Cũng may đang dự trù thì được tin từ Vũng-Tàu xác nhận , đúng là chuyến đi có những tên như đã khai báo v .v…Và sẽ được thả nội nay mai , báo tin về cho anh T hay ; Vì nhà tôi đông anh em , nên phải chia ra đi thành nhiều chuyến , vợ chồng anh K ( anh thứ năm ) đi đường bộ qua ngả biên giới Việt-Nam Trung-Quốc , và 5 năm sau vượt biển qua Hồng Kông , khi vừa mới đến TQ nhắm tình hình không ổn , báo tin về cho bố tôi đừng cho tụi tôi đi tiếp con đường này , và nhờ người ta dẩn em H ( đi cùng anh chị qua TQ ) trở về VN , và đi trong chuyến này ! Vợ chồng anh D ( anh thứ tư ) thì đi trước đó một tháng ( có kể ở đoạn trên ) , vợ chồng của hai người chị ( thứ nhì và thứ bảy ) thì ở bên chồng , nhờ vậy không đi trong chuyến này ! Còn vợ chồng anh T ( anh cả ) thì ở lại trông nhà , nếu có trục trặc thì trở về còn hộ khẩu …và nhà để ở , lúc này chưa được quyền bán nhà , mặc dù là của mình ! ( năm 1978 ) .

Lúc tàu vừa chìm thì sáng hôm sau ở Vũng-Tàu mọi người đều biết , vì đồ đạc , gổ tàu , xác … trôi vào ! Nghe nói có người còn nhặt được Va-Li của bố tôi trong đó có cả con dấu ! hơn nữa mới tiển đưa hôm qua ai cũng biết , cho nên gia đình chú tôi ở đó cho người đi dọ hỏi , và báo tin về Sài-Gòn cho anh T hay , anh cho người đi khắp nơi tìm tông tích gia đình , cùng lúc có một ông đến gặp , cho hay trong gia đình , có một người sống sót là tôi hiện ở Trà Vinh ! ( ông người Hoa có lại thăm hỏi và cho tiền tụi tôi lúc mới lên bờ ) , sau đó anh T nhờ anh WD ( phụ giúp việc , bố tôi xem như người trong nhà ) cùng C mang theo quần áo , đồ ăn cùng tiền đi thăm nuôi tôi ! ( nhờ vậy mà mấy ngày sau có tiền đi chợ , có kể ở đoạn trên ) . Sau khi CA cho biết là sẽ thả tụi tôi , tôi báo tin về nhà , một lần nủa WD được anh T nhờ đi lên đón tôi về .

Không biết do ý kiến của ai ? tối hôm đó trong đồn CA làm một bữa tiệc tiển đưa tụi tôi , nhờ vậy được ăn một bữa hả hê … ( tiền của mấy gia đình đi thăm nuôi đóng góp ) . Sáng hôm sau chúng tôi lần lượt được gia đình đến làm thủ tục bảo lãnh ra trại , đứa đi trước đứa đi sau ! Chúng tôi hẹn nhau tại nhà của bác … đã cứu tụi tôi lúc mới vừa trôi vào bờ ! Rời đồn CA , ra chợ đón xe ôm đi đường ngoằn ngoèo , ổ gà cũng gần một giờ đồng hồ mới tới nơi ! Mọi người vui vẻ hỏi thăm nhau , tôi gặp lại chị L tại đây ! ( vì từ khi trôi vào bờ , chị vào thẳng bệnh viện , còn tụi tôi thì bị giam ) . Nghe bác kể lại : « Hôm đó khoảng hơn nửa đêm , từ xa lắm như có tiếng rên của ai ngoài khơi , lúc đầu không để ý , càng lúc càng gần và to hơn , sai mấy người con ra xem cái gì ? Mấy anh ra xem rồi quay vào bảo là xác người ta trôi vào bờ ! bác nói rõ ràng là tiếng người còn sống vì có nghe tiếng rên , và mấy cha con cùng rủ hàng xóm đốt đèn đi ra xem và cứu … » , sau đó bác lấy từ trong nhà ra trao tận tay từng đứa , cái nhẩn đeo tay , sợi dây vàng đeo cổ và tờ giấy mười Mỹ-Kim của tôi , không thiếu món nào ! Thì ra lúc mới vừa cứu tụi tôi vào đây , thay đồ ướt trước khi đi ngủ , bác cẩn thận cất hộ tụi tôi vì sợ vào trại giam … ( tất cả nhờ giấu trong một túi nhỏ may trong quần đùi ) , và bây giờ lấy ra của ai trả lại cho người đó ! Tụi tôi chẳng ai bảo ai , tất cả không lấy và xin biếu lại bác , bác nhất định từ chối không nhận , dằn co mãi cuối cùng bác cũng phải nhận , vì nếu không có bác , có chắc là tụi tôi còn sống không ? Huống hồ là mấy cái nữ trang này , vì vậy xin bác giữ làm kỷ niệm , gọi là chút quà kỷ niệm nho nhỏ ! chúng tôi ở lại đây ngủ qua đêm , vì phải đợi sáng sớm mới có xe đi ra tỉnh , và từ tỉnh đón xe về xa cảng miền tây , từ đây lấy xích lô về nhà ! Cũng may lúc đầu dự định vượt ngục , đường đi ở đây rắc rối , không có phương tiện giao thông , phải trải qua năm lần bảy lượt đổi xe , không phải giờ nào cũng có , lại trong làng nhỏ mọi người đều biết mặt nhau , vì vậy tụi tôi đi đến đâu ai cũng nhìn , và biết ngay là mấy người sống sót sau khi tàu chìm , trôi từ VT về đây …

Sau vài ngày nghỉ ngơi , ăn uống tẩm bổ lấy lại sức , mọi người bắt đầu đến thăm hỏi , có khi còn hỏi vài điều cần biết để chuẩn bị cho chuyến đi sắp đến của họ ! chẳng hạn như phao loại thổi không khí , chỉ xài được mấy tiếng đồng hồ là xì , tốt nhất là loại gổ có bọc vải , mang vào người , một con dao cá nhân loại bỏ túi rất cần thiết , vỏ chanh hoặc vỏ quýt trị khát rất hay , vì ở dưới biển suốt ngày nội ngâm nước cũng đủ đừ người rồi , và khát nước triền miên ! Ban ngày thì nắng muốn điên lên , nóng khủng khiếp , ban đêm thì lạnh … Khi lên bờ toàn thân đứa nào cũng như rắn , từ trên xuống dưới chổ nào cũng bị lột da . Nói là kinh nghiệm cũng không hẳn , vì mỗi trường hợp một khác , hơn nữa không tin ở số cũng không được , cá nhân tôi ốm yếu , lại bệnh hen suyễn vậy mà lại sống , anh T tôi trước ngày nào cũng thể thao , bơi lội đủ thứ chỉ cầm cự đến ngày thứ hai là ra đi … Và còn bao nhiêu trường hợp khác rất kỳ lạ ! Suốt mấy tuần lể đi đứng lúc nào cũng như người say rượu , nhiều đêm đang nằm ngủ mớ thấy lại cảnh đang trôi , la lối um sùm , anh T ở trên gác nghe chạy xuống hỏi gì vậy ? Cho đến bây giờ mỗi khi đi thuyền là tâm lý vẫn thấy có cái gì ngài ngại ! Còn hình ảnh thì vẫn còn trong đầu mỗi khi nghĩ đến , không bao giờ có thể quên được …

Tôi trở lại VT kỳ này , với nhiều kỷ niệm đau buồn ! cũng bãi cát , hàng cây , quán cóc …tất cả như không có gì thay đổi , nhưng lòng cứ chùn xuống , vừa đi vừa nhìn cảnh vật chung quanh , mới ngày nào còn vui đùa cùng mọi người , giờ đây chỉ còn lại một mình … không cầm được nỗi xúc động , tiếc thương cho những người thân yêu đã mất ! ! !

* * *

VT 1502 là tên của chiếc tàu định mệnh ra đi ngày 10/10/1978 , tại cảng Vũng-Tàu , do CA thị xã VT cấp giấy phép , trong chương trình ra đi “bán chính thức” , gồm hơn 400 người . Tôi thuộc nhóm 5 người còn sống sót sau 3 ngày trôi trên biển , từ VT ngang qua biển Ba-Động , và vào được bờ biển của xã Mỹ-Hoà , huyện Cầu-Ngang , tỉnh Trà-Vinh . Tôi cũng là người duy nhất còn sống sót trong gia đình ! Bố tôi , má lớn , 2 người anh , chị dâu , em họ và 2 đứa cháu ( tất cả 8 người ) coi như đã mất trong chuyến đi này ! ( vì tới nay hơn 25 năm không có tin tức ? ) . Sau chuyến đi thất bại này , họ đề nghị cho tôi đi một chuyến khác , nhưng tôi đã nhất định từ chối ! ( xin lấy lại tiền hoặc thế chổ cho người khác cũng không được ) ; Ở lại chờ 3 năm sau đi chính thức bằng máy bay sang Pháp , theo diện đoàn tụ gia đình do bác P tôi bảo lãnh .

http://wp.me/p5NAhq-6Q

TND  – Paris Tháng Tư 2005 – C/N 2010/10