Showing posts with label đại tá nguyễn hữu thông. Show all posts
Showing posts with label đại tá nguyễn hữu thông. Show all posts

Tuesday, November 3, 2020

 ANH DŨNG TRONG TUYỆT VỌNG : HY SINH BỊ QUÊN LẢNG CỦA SƯ ĐOÀN 22 VNCH TẠI BÌNH ĐỊNH TRONG THÁNG 3.1975.

....

Tôi chuyển ngữ bài này từ quyển Black April của George Veight để ghi ơn các chiến sĩ của sđ 22 đã hy sinh, bị thương, bị mất tích, bị bắt sống trong khi chiến đấu trên QL-19 hay trên đường rút lui về Qui Nhơn để lên tàu hải quân.

"Sáng 30/3, lính đpq bảo vệ Phù Cát tan hàng mà ko chiến đấu nên buổi trưa, lực lượng vc địa phương tấn công. Lực lượng KQ phòng thủ đã chống trả và cầu cứu không đoàn 92 ở Phan Rang. 

ĐT Thảo của không đoàn 92 tập hợp khoảng 40 A-37 cất cánh tấn công. Dù A-37 không trang bị để đánh đêm nhưng nhờ huấn luyện trước đó nên làm được. Ông đã cho 40 chiếc ném bom cùng một lượt vào vị trí tập trung của địch, sát nách sân bay. Mỗi chiếc chỉ mang hai bom 250 cân Anh. 

Tuy nhiên đến bình minh, sđ 2 KQ vội vả bỏ Phù Cát, chỉ mang đc 32 chiếc và để lại hơn 50 chiếc. Sân bay thất thủ vào chiều 31/3."

Sau đây là phần chuyển ngữ: 


...


"CHIẾN DỊCH BẮT ĐẦU

Trung tá Lê Cầu (gần cuối trận đánh ông mới được thăng đại tá), chỉ huy trung đoàn (tr.đ.) 47 sđ 22 VNCH mệt mỏi ngả người xuống ghế bố tại BCH nhẹ của ông ở phía đông của ĐÈO AN KHÊ trên QL-19 của tỉnh Bình Định. Lúc đó là gần khuya của NGÀY 3 THÁNG 3 1975. Trong 10 giờ, ông đã leo những đồi đá dốc đứng (steep, rocky hill) và đi thăm binh sĩ, duyệt xét những vị trí phòng thủ. Từ ngày bắt được người tù binh csbv với bản đồ, tr.đ. của ông đã bảo vệ đèo này. Sau sáu tuần hành quân và trực chiến 24/24 liên tục, ông Cầu và binh sĩ của ông kiệt sức. 

Ông đã được giao sứ mạng này bởi ông quen thuộc (familiarity) với khu vực này; ông đã chiến đấu ở đây trong những ngày khó khăn của cuộc tổng tấn công 1972. Ông đã biết sđ 3 csbv muốn chiếm đèo này, nhưng ông ko biết ngày giờ. Dựa vào tin tình báo rằng sđ 3 csbv sẽ tấn công đèo, ông Cầu và TL của ông, chuẩn tướng Phan Đình Niệm, đã tin tưởng rằng sđ 3 sẽ theo khuôn mẫu sau: một tr.đ. sẽ chiếm đèo trong khi phần còn lại của sđ sẽ tấn công vùng bờ biển phía bắc Bình Định. Vì hai bên đã từng đụng độ ác liệt tại vùng này từ tháng 12/74, và vì tướng Phú sợ rằng lữ đoàn 52 csbv chiếm cảng Sa Huỳnh, tướng Niệm đã để hai tr.đ. tại vùng này, một tr.đ. khác làm trừ bị. Ông có thể tăng viện cho ông Cầu một liên đoàn ĐPQ tân lập.

Tuy nhiên, lần này sđ 3 csbv đã thay đổi cách đánh. Là một phần trong chiến dịch Cao Nguyên, nhiệm vụ của họ rất quan trọng. Trong quân sử của sđ này sau 1975 đã viết: "để tiêu diệt một phần đáng kể của lực lượng địch và ... cắt Đường 19 trong một thời gian lâu dài để tạo điều kiện thuận lợi cho phép cuộc tấn công đầu tiên ở cao nguyên nhằm tiêu diệt địch và nhằm tạo một khoản trống ở phía đông để hỗ trợ phong trào địa phương của chúng ta tại Bình Định. Sự khác biệt trong lần này là QUY MÔ của trận chiến, thời gian mà đường 19 bị cắt, và những mục tiêu của chiến dịch này HƠN RẤT NHIỀU (all much greater than) so với những gì của tổng tấn công năm 1972. Trong năm 1972, sđ chỉ cắt QL-19... để giúp các đv đạt chiến thắng... Lần này sđ được lịnh tiêu diệt lực lượng địch để chúng ta có thể cắt đường này trong thời gian dài."

Ngăn chặn đường này vô hạn định sẽ bóp nghẹt (strangle) Kontum và Pleiku về quân sự và kinh tế, và ngăn quân VNCH rút về duyên hải. QL- 19, dài gần 125 dặm hay 201 km, là đường huyết mạch chánh của cao nguyên. Hàng tiếp tế cho Kontum và Pleiku đc chỡ bằng xe tải từ cảng Qui Nhơn, tỉnh lỵ của Bình Định và tp lớn THỨ TƯ của nam VN. QL-19 bắt đầu từ QL-1 gần Qui Nhơn, tại một nơi có tên AN NHƠN. Đường sẽ đi ngang các ruộng lúa và đồi thấp (foothill) để tới Đèo An Khê rất nguy hiểm (treacherous) và kế đó là Đèo Mang Giang nổi tiếng, nơi mà năm 1954, chiến đoàn 100 của Pháp đã bị phục kích và gần như bị tiêu diệt. Kế đó QL-19 đi vào tỉnh Pleiku và tiếp tục đi về hướng tây, chấm dứt tại Đức Cơ gần Cambodia. 

Để đánh lừa tướng Niệm, các đv của sđ 3 csbv "đã rêu rao với dân rằng chúng tôi sẽ giải phóng bắc Bình Định...Buổi tối nhiều đv đã tới sát chu vi phòng thủ của các đồn bót VNCH, và sau đó rút lui nhưng cố tình để lại dấu vết. Máy kéo và xe ủi đất thuộc ủy ban canh nông của tỉnh? đã được lịnh chạy về phía bắc với đèn pha bật sáng và động cơ mở lớn, và để lại dấu vết giống xích xe tăng. Làm sao để địch nghĩ rằng chúng tôi sẽ tấn công họ ở phía bắc, dù cho cả sđ của chúng tôi đã im lặng chuyển về phía nam."

NGÀY 2 THÁNG 3, tướng Phú  gặp trung tá Cầu để duyệt xét tình hình. Phú đã nhấn mạng với Cầu rằng QL-19 giữa Pleiku và Qui Nhơn phải thông thương bằng mọi giá. Cầu đã trả lời rằng bảo vệ cả con đường này là điều ko thể được (impossible), vì có quá nhiều cầu, địa thế khó khăn vì nhiều đèo, và lực lượng của ông ko đủ để có mặt mọi chỗ. Không thám ko giúp đc nhiều vì quá ít: Không quân (KQ) chỉ cung cấp một quan sát cơ L-19 BA GIỜ MỖI NGÀY CHO CẢ SĐ! Tuy nhiên, Cầu đã hứa với Phú là sẽ thông đường lại nếu bị CS cắt. 

Khoảng 6:20 sáng NGÀY 4/3, sương mùa dầy đặc che phủ mặt đất, bao phủ các đỉnh núi. Đột nhiên, một tiếng nổ làm rúng động BCH của Cầu. CẦU SỐ 13, là một cống nước gần đó, bảo vệ sơ sài bởi một trung đội nghĩa quân, đã bị đánh sập bởi đặc công. Con đường huyết mạnh của Phú bị cắt. Lúc 6:35 sáng, sương mù tan, hai hỏa châu được bắn lên trời. Pháo binh địch lập tức bắt đầu bắn vào các vị trí của ĐPQ và của tr.đ. 47 của Cầu. Cuộc "Tổng Tấn Công Mùa xuân" đã bắt đầu.

           1. Đèo An Khê với Đèo Mang ở bên trái 


ĐÓNG SẬP BẪY

Cùng lúc với tấn công của sđ 3 csbv tại Đèo An Khê, tr.đ. 95 A CSBV tấn công các vị trí của ĐPQ và NQ trên QL-19 ở phía tây của ĐÈO MANG GIANG thuộc tỉnh Pleiku. Sau trưa một chút, CS đã chiếm một đoạn dài. Vì phần lớn quân VNCH phải bảo vệ Kontum và Pleiku, Phú chỉ có thể gửi MỘT TĐ của lực lượng trừ bị của QĐ, liên đoàn 4 BĐQ, cùng với một số ít chiến xa, nhằm đẩy lui (dislodge) tr.đ. 95A. Ông phải giữ phần còn lại của LĐ 4 BĐQ để làm trừ bị. Phú cũng ra lịnh cho TRUNG ĐOÀN 42, sđ 22 bộ binh (do ĐT Nguyễn Hữu Thông chỉ huy, sau này đã tự sát ngày 2/4 tại bãi biển Qui Nhơn vì ko muốn di tản .-- Người dịch), chuyển từ bắc bình Định tới TP nhỏ có tên BÌNH KHÊ nằm phía đông của đèo An Khê để bảo vệ TP trước địch quân.

            

    
2. QUỐC LỘ 19 VÀ BÌNH KHÊ


3-4:  KHU VỰC PHÍA ĐÔNG BÌNH KHÊ VỚI              MỘT ĐỊA DANH TÊN PHÚ AN 




Dù cho nhật ký tìm thấy ngày 5 THÁNG BA trên tù binh csbv là chỉ dấu rõ ràng nhứt là quân csbv đang bao vây Ban Mê Thuột, có vẻ điều này bị coi thường (overlook) khi cùng ngày đó, tr.đ. 25 csbv đã tấn công và cắt QL-21, chạy từ Ban mê thuột đi Nha trang. Bây giờ giờ Phú có bốn ĐÁM CHÁY cùng một lúc: hai trên QL-19, đã kể ở trên, thứ ba tại quận lỵ Thanh An, và thứ tư trên QL-21. Phú đã tổ chức một lực lượng lớn để mở lại QL-21 tại một vị trí bị địch ngăn chặn ở đông Ban Mê Thuột - gần ranh giới của 2 tỉnh Darlac và Khánh Hòa. Được thành lập từ các đv ĐPQ thuộc các tỉnh duyên hải, đv này có nhiệm vụ mở lại QL-21. Chỉ huy bởi tỉnh trưởng Khánh Hòa (ĐT Lý Bá Phẩm), các cuộc phản công của ĐPQ bắt đầu NGÀY 7 THÁNG 3. Dù được yểm trợ bởi không, pháo, và thiết giáp, ĐPQ ko thể đẩy lui các lực lượng CSBV đang giữ các cao điểm trên QL-21.

Khi các cuộc tấn công xảy ra, tướng Phú gần như ăn ở tại BTL QĐ. Trong quá khứ, ông đã từng ra sát tuyến đầu để chỉ huy binh sĩ. Nhưng làm TL một QĐ, ko chỉ cần có can đảm. Lề lối làm việc của Phú có thể đúng trong quá khứ, nhưng năm 75, chiến tranh hoàn toàn khác xa. Quân csbv đã dùng những đv lớn hơn, cơ động hơn, với ưu thế về hỏa lực và tiếp vận, tất cả đều ĐỒNG BỘ bởi sự tiên liệu vượt trội và kiểm soát chặc chẻ của các TL CSBV - luôn luôn đi trước mọi bước tiến của Phú. Tình hình này đòi hỏi một TL có thể đồng thời phản ứng và tiên liệu (planning). 

Phú giỏi về phản ứng nhưng kém về tiên liệu.  Ông đã đối phó với việc QL-21 bị cắt bằng cách ra lịnh TĐ  3/53 thuộc sđ 23 phải bỏ Đức Lập để về Ban mê thuột. Ông cũng ra lịnh cho một đv pháo binh và TLP của sđ 23, ĐT Vũ thế Quang về Ban Mê Thuột. Ông này sẽ coi mặt trận Quảng đức và Ban mê thuột. Đoàn xe này đã bị sđ 320 phục kích, hư 10 xe. Dù ĐT Quang thoát được nhưng một thiếu tá tù binh VNCH đã khai với sđ 320 rằng 1 TĐ của tr.đ. 45 sẽ tới Thuần Mẫn để tìm kiếm sđ 320 nên TL sđ này đã xin cắt QL-14 để ngăn tr.đ. 45 tiến về nam. 

...

TRÊN QL-19, các chiến sĩ của tr.đ. 47 đã chống cự những đợt tấn công dữ dội của bộ binh và pháo binh của sđ 3 csbv. Các chiến sĩ này được phân tán thành trung hay đại đội để giữ các vị trí hai bên đường GẦN đèo. Trận chiến ác liệt diển ra ở trên nhiều đỉnh đồi. Pháo binh csbv mở đường, theo sau là tấn công biển người. Mỗi khi một vị trí nào bị mất, tr.đ. phải phản công để chiếm lại. Thường thường, ông phải đích thân chỉ huy binh sĩ để chiếm lại các vị trí đã mất. Trong khi những cố gắng can đảm của ông đã gây thiệt hại nặng cho bắc quân, thương vong của lính ông cũng cao. Với tỉ lệ ba đánh một, quân csbv đã chậm chạp đẩy lui quân của ông ra khỏi các vị trí. Vào cuối chiều ngày 5 tháng ba, chỉ còn một cứ điểm của VNCH ở đầu đèo phía đông. Nếu nó bị mất, đèo này lọt vào tay địch. Bây giờ lính của ông chỉ có thể cố thủ và chờ viện quân.

Được hỗ trợ tốt bởi không yểm, tr.đ. 42 tại Bình Khê đã cản được (stymie) các cố gắng của csbv. Vì tr.đ. 47 ko thể đánh bật (dislodge) quân cs ra khỏi đèo, tướng Niệm đã gửi tr.đ. 41 đến thế tr.đ. 42, để tr.đ. này có thể giúp tr.đ. 47 của đt Cầu. Điều này khiến tướng Niệm chỉ còn một tr.đ. và DPQ/NQ để bảo vệ hàng trăm dặm vuông dọc theo bờ biển đông dân này. 

Với tr.đ. 41 chiếm Bình Khê, ngày 7 tháng ba, tr.đ. 42 đã tiến quân để giúp tr.đ. 47 tái chiếm những vị trí đã mất. Tr.đ. 42 đã tấn công để quét sạch mặt bắc của phía đông đèo, nhưng chẳng bao lâu sa lầy (bog down) trên địa thế khó khăn này. Trước nỗ lực mới này của sđ 22, ngày 8 tháng ba, sđ 3 đã tấn công để tiêu diệt các vị trí còn lại của tr.đ. 47. Các vị trí này đã ĐÃ ĐỔI CHỦ NHIỀU LẦN, nhưng sau hai ngày chiến đấu dữ dội, trung đoàn 47 vẫn giữ được. (Xin nhắc lại: chỉ trong chín ngày từ 4-13/3/75, có bốn TĐ trưởng của TĐ 2/47 tử trận -- Người dịch). 

Dù bị thiệt hại nặng, bắc quân ko bỏ cuộc (relent). NGÀY 10 THÁNG BA, nhận lịnh từ Văn Tiến Dũng là phải tăng cường chiến đấu và trói chân (tie up) sđ 22 VNCH, Bắc quân đã tung nguyên một tr.đ. tấn công tr.đ. 47. TĐ 2/47 ĐÃ BỊ TRÀN NGẬP và TĐ trưởng chết. Tướng Niệm ko còn chọn lựa: ông rút tr.đ. 41 khỏi Bình Khê và nhanh chóng cho tr.đ. này thay thế tr.đ. 47. Tr.đ. 47 đã thiệt hại 40/100 khi bảo vệ đèo này. Sau đó tướng Niệm đã gửi tr.đ. 47 về bảo vệ bắc Bình Định và bổ sung quân số và ông đã thăng cấp đt cho Cầu. 

====

Tại Bình Định, TL của sđ 22 VNCH đã ra lịnh tr.đ. 41, của đt Thiều, tấn công sđ 3 csbv - trước đó đã bị thiệt hại nặng, đang ngăn chặn QL-19. NGÀY 16/3, tr.đ. đã tiến tới đầu phía đông của đèo An Khê. Tuy nhiên vì cuộc rút quân ở cao nguyên đã bắt đầu, tr.đ. 41 và 42 lui về phòng thủ ở Bình Khê. Trong khi đó, tr.đ. 47 đã tiếp tục bảo vệ QL-1 gần ranh giới Quảng Ngải để ngăn lữ đoàn 52 csbv tiến về nam. Tr.đ. 40 và DPQ Bình Định bảo vệ sân bay Phù Cát và bắc QL-1 và nam của tỉnh lỵ Qui Nhơn. Tin tưởng rằng sđ 22 đã ổn định tình hình trên QL-19, Phú đã rút tr.đ. 40 trừ (vì để lại một tđ cho tướng Niệm) để tăng phái cho quận lỵ Khánh Dương.

...

Cùng lúc Phú đang cố gắng ngăn cản bước tiến csbv trên QL21, ông vẫn quyết tâm giữ 2 tuyến khác: một tại Bình Khê và một tại Củng Sơn trên LTL-7. 

... SĐ 2 không quân ở Phù Cát đang yểm trợ sđ 22 và cố gắng phá hủy trang bị và hàng núi đồ tiếp tế bỏ lại Pleiku vì di tản vội vàng. Sđ 6 KQ, đặc biệt là không đoàn 92 của đt Lê văn Thảo tại Phan Rang, đang oanh kích trên LTL-7 và QL-21...

Tại phía đông Bình Định, do ko có tr.đ. 40 VNCH, quân địa phương của vc thành lập 2 tr.đ. tân lập. Hai tr.đ. này đã gây thiệt hại nặng cho các đv đpq/nq bảo vệ QL-1. Chỉ trong một tuần, cs đã đánh tan phần lớn các vị trí VNCH ở bắc và nam Qui Nhơn, và uy hiếp tỉnh lỵ này. Tr.đ. 47 đột nhiên thấy rằng họ bị khóa đuôi bởi quân địch. Một tr.đ. của sđ 3 csbv lại ở sau lưng hai tr.đ. VNCH tại Bình Khê, khiến họ ko thể rút và Phù Cát bị đe dọa. Hy vọng giờ đây là sđ 22 rút được về Qui Nhơn và lập phòng tuyến mới...

RÚT RA BIỂN (A RETREAT TO THE SEA)

Với ko còn chọn lựa nào khác, Phú gặp phó đề đốc (chuẩn tướng hải quân/commodore) Hoàng cơ Minh tại BCH vùng 2 duyên hải tại Cam Ranh để thảo luận việc di tản sđ 22 tại Qui nhơn và đưa về Nha trang...

Tại Bình Định, NGÀY 27/3, tướng Niệm ra lịnh tr.đ. 41 và 42 tiếp tục bảo vệ QL-19. Ông cũng ra lịnh cho đt Cầu rút tr.đ. 47 ở phía bắc Bình Định về lập tuyến phòng thủ trên QL-1 gần Qui Nhơn. Lính của tr.đ. 47, do ko có xe, ĐÃ ĐI BỘ 28 DẶM HAY 45 KM để tới vị trí mới! Vì thấy khó kiểm soát khi lính lẩn lộn với dân di tản, đt Cầu ra lịnh cho lính ko đi trên đường...

Để cắt đuôi tr.đ. 41 và 42, sđ 3 đã cho một TĐ chặn đường của hai tr.đ. này và chiếm một cầu trên QL-19. Tr.đ. 42 đã đánh trả dữ dội và gây thiệt hại nặng cho địch...

Cùng lúc, ba tr.đ. địa phương tân lập của vc đã tấn công các vị trí DPQ ở bắc Qui Nhơn và cắt QL-1, chận đường rút của tr.đ. 42 trên QL này. Sđ 968 csbv đã tới 1 khu vực tập hợp gần Bình Khê trên QL-19 ngày 27/3, và sđ 3 tăng viện cho TĐ đang đánh sau lưng tr.đ. 42.

Vì tình hình Bình định suy sụp, lúc 8:00 tối ngày 30/3, tướng Niệm gọi Phú. Niệm báo cáo hầu như mọi đv DPQ đã đào ngũ, đặc công csbv đã vào Qui nhơn và tp sắp mất. Phú gọi về BTTM để báo cáo nhưng ko được gì hết. Ông định rút sđ 22 về Qui nhơn.. để bảo vệ quân cảng... chờ tàu HQ để về Phú Yên và Khánh Dương, nhưng tướng Tất phản đối, nói rằng nếu bỏ Qui Nhơn, Nha Trang còn mất nhanh hơn! Vì lý do này, Phú đã bỏ lịnh di tản khỏi Qui nhơn và đưa sđ 22 trở lại trong tối 30/3.

Sự trì hoãn này đã trả giá, vì nó cho phép sđ 3 csbv tiến gần đến phía sau các tr.đ. của VNCH trên QL-19. Những cuộc tấn công thêm nữa ở Bình định vào khuya hôm đó đã buộc Phú hành động. Lúc 11:00 sáng ngày 31/3 ông ra lịnh cho Niệm rút về Qui Nhơn và bảo vệ tp này. Niệm nhanh chóng cho hai tr.đ. này, đang ở QL-19 rút lui nhưng bẫy đã giăng ra. Một tr.đ. của sđ 3 tấn công từ phía đông và sđ 968 từ phía tây. Đt Thiều của tr.đ. 41 kể lại những gì xảy ra khi tr.đ. của ông rút về hướng đông:

"Tôi dùng tđ 2 và 3 tấn công làm hai mủi về phía đông để bắt tay với tr.đ. 42 của đt Thông, tđ 1 làm trừ bị. Khi tr.đ. 41 tới tp Phú An trên QL-19, đã đụng độ với địch. Hai TĐ đã phối hợp và sau nửa gìơ đã đánh tan địch ở Phú An. Tuy nhiên, khoảng 5:00 chiều, khi sắp bắt tay với tr.đ. 42, chúng tôi đụng với sđ 3. Trong khi tđ 3/41 cố gắng chọc thủng phòng tuyến địch nhưng thất bại, tđ 1/41 giữ đoạn hậu đã bị sđ 968 tấn công, và pháo địch đã bắt đầu điều chỉnh vào khu vực mà bs của tr.đ. dừng lại... Chúng tôi phải cho trung đội M-113 mở đường với bộ binh đi sau M-113 và bung rộng hai bên đường, nhưng vẫn bị thiệt hại đáng kể. Khi trời tối, tiếng súng thưa dần, các đv của tr.đ. 41 tiếp tục tiến về phía đông để bắt tay với tr.đ. 42."

Trong khi tr.đ. 41 chiến đấu để tiến về phía đông, tình hình tại Qui nhơn tệ hại hơn. Sáng 30/3, lính đpq bảo vệ Phù Cát tan hàng mà ko chiến đấu nên buổi trưa, lực lượng vc địa phương tấn công. Lực lượng KQ phòng thủ đã chống trả và cầu cứu không đoàn 92 ở Phan Rang. 

ĐT Thảo của không đoàn 92 tập hợp khoảng 40 A-37 cất cánh tấn công. Dù A-37 không trang bị để đánh đêm nhưng nhờ huấn luyện trước đó nên làm được. Ông đã cho 40 chiếc ném bom cùng một lượt vào vị trí tập trung của địch, sát nách sân bay. Mỗi chiếc chỉ mang hai bom 250 cân Anh. 

Tuy nhiên đến bình minh, sđ 2 KQ vội vả bỏ Phù Cát, chỉ mang đc 32 chiếc và để lại hơn 50 chiếc. Sân bay thất thủ vào chiều 31/3. 

Trong khi đó, tr.đ. 47 của đt Cầu, di chuyển về nam theo QL-1, đánh tan các nút chận của du kích địa phương và hướng về Qui nhơn. Vì có dân thường lẩn lộn, tr.đ. bị tấn công lần 2. Lúc đó, tr.đ. có khoảng 1/2 quân số bị chết hay bị bắt. Số còn lại xé lẻ thành từng toán nhỏ và tiếp tục rút về phía nam, nhưng tr.đ. 47 ko còn đủ sức tác chiến

Chiều 31/3, Thiệu ra lịnh Phú phải bảo vệ Qui nhơn. Để giúp chuẩn tướng hải quân hay phó đề đốc (commodore) Hoàng cơ Minh, phó đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại, TL hải quân vùng 1, vào sáng ngày đó, đã được lịnh của đô đốc Chung Tấn Cang, TL mới của HQ, "chỉ huy các đv HQ tại mặt trận Qui nhơn". Các tàu HQ đang đón người tị nạn ở Đà Nẳng đc lịnh kéo về Qui Nhơn ngay lập tức...

Lúc trưa ngày 31/3, một trung đoàn địa phương vc tiến vào từ phía bắc, quét sạch đpq bảo vệ bên ngoài Qui Nhơn. Lúc 6:30 chiều họ chiếm BCH tiểu khu và trung tâm tp... Tr.đ. 47 tan rả, HAI TR.Đ. CÒN LẠI VÀ THIẾT GIÁP CỦA SĐ 22 vẫn còn trên QL-19, và bị kẹt giữa quân địa phương VC đang chiếm Qui Nhơn với quân chánh qui Bắc Việt từ hướng tây đánh tới. Với tp đã mất và sợ rằng các đv này sẽ bị tiêu diệt, vào buổi chiều tướng Niệm bay ra tàu HQ và ngất xỉu.  

Hy vọng đã xuất hiện lúc 9:00 tối khi hạm đội của phó đề đốc Hoàng cơ Minh đến cứu sđ 22. Minh nói với Phú rằng Niệm ngất xỉu. Thiệu đã chỉ định Minh làm TL mặt trận Bình Định lúc 2:00 sáng ngày 1/4 và ra lịnh phải giữ tp và giúp sđ 22 rút lui. 

Minh đã khó khăn để tiếp xúc với cấp chỉ huy của sđ 22. Cuối cùng ông nói chuyện đc với một sq tiếp liệu gần bờ biển khi ông này đang theo dỏi tần số của BTL sđ. Ông này sau này viết rằng, Minh "...đã đc BTTM chỉ định làm quyền TL SD 22. Ông nhờ tôi nói lại với TLP của sđ rằng đúng 12:30 trưa ông sẽ gửi năm LCM, mỗi chiếc có thể chở 500 lính. Yêu cầu lính phải bỏ súng và quân trang xuống biển." Vì bến tàu (pier) ko đáp ứng nên phải bốc bs tại bãi biển.

Sau khi di chuyển SUỐT ĐÊM trên QL-19, sáng sớm ngày 1/4, hai tr.đ. này và thiết giáp của sđ đã tới giao điểm của QL-1 và đường địa phương đi Qui nhơn. Lúc 11:00 sáng, họ đc lịnh tới bờ biển và lên tàu. Tr.đ. 42 và thiết giáp lên trước, kế đó là pháo, và tr.đ. 41 đoạn hậu.

Khi các thành phần của sđ tới ngoại ô của Qui nhơn, vc địa phương ở hai bên phố nổ súng chặn đường. Đt Thiều cho một đại bác 105 ly bắn vào các vị trí vc. VC rút lui. 

Trước khi đến bãi biển, họ đã tiêu diệt thêm hai vị trí địch, nơi mà họ thiết lập tuyến phòng thủ để lên tàu. Họ đã lên tàu nhưng lúc 7:00 tối, họ phải ngừng vì hỏa lực địch mạnh. Lúc 9:00 tối, chiếc LSM Ninh Giang đã cố gắng đến sát bờ nhưng bị trúng nhiều B-40 nên rút ra. Khi chiếc thứ hai vào gần đó, cũng bị bắn. Minh ra lịnh cho các tàu tuần duyên nhỏ vào rước lính. Vào hừng đông 2/4, vì hỏa lực địch bắn vào tàu, lịnh ra là bs của sđ 22 phải lội ra tàu. Việc di tản kéo dài đến 11:00 sáng. Khi hoàn tất, chỉ có khoảng 1/2 của hai tr.đ. lên đc tàu. Con số thay đổi từ vài ngàn đến 7 ngàn. Trong khi đó tp này đã mất.

Dù cho sđ 22 ít đc nhà báo Tây phương biết đến, họ đã hoàn tất một kỳ công về chiến đấu (feat of arms) trong những ngày tháng ba 75. Họ đã duy trì sự toàn vẹn (integrity) suốt trong HAI MƯƠI LĂM NGÀY chiến đấu ác liệt và gây thiệt hại nặng cho địch. Trong lúc rút quân, chẳng những họ đã phá tan ba nút chặn (roadblock) để tới bờ biển, họ còn ko hoảng loạn hay đào ngũ. Thiếu tướng Howard Smith viết, "sđ 22 đã chiến đấu quả cảm với kiên trì cao (great perseverance) chống lại những tấn công mạnh mẻ và quyết tâm của csbv. Bị đánh vào sườn (outflank), thiếu vũ khí, và cuối cùng bị khóa đuôi, sđ 22 đã chiến đấu để đến bãi biển...'" ĐT Nguyễn hữu Thông, sau khi người cuối cùng lên tàu, đã chào vĩnh biệt và đến một nhà gần đó để tự sát. ĐT Lê Cầu, đang di chuyển với đ.đ. trinh sát thì dẫm phải mìn. Ông bảo cấp dưới để mặc ông nhưng họ ko nghe. Họ đã khiên ông, nhưng sau đó bị bao vây và phải đầu hàng. Chỉ có ĐT Nguyễn Thiều của tr.đ. 41 lên đc tàu. Khi sđ đổ bộ lên Vũng Tàu, ông đã giúp biến đổi số tàn quân này thành hai tr.đoàn".

Dịch từ: Black April của George Veight




QUÂN CSBV TẤN CÔNG VÀ PHẢN CÔNG CỦA VNCH TẠI QUÂN KHU II TỪ 5-11/3/1975 

       QUÂN CSBV CHIẾM QUÂN KHU II  TỪ 12/3 - 3/4/1975 


Saturday, October 31, 2020

 

Sự hào hùng của Đại tá Nguyễn Hữu Thông

HQ Nguyễn Đức Thu

vhch vbdalat

Ngày 31 tháng 3 năm 1975, tại Thành phố Qui Nhơn, người ta nghe rất rõ nhiều tiếng đạn nỗ từ đèo An khê, tiếng rít kinh hồ của đại bác từ dãy nuí Nam triều và mọi người đều nhận ra rằng Bắc quân sẽ tấn công thành phố này nay mai.

Sáng ngày 1 tháng tư năm 1975, có một vị Ðại Tá , người cao lớn, còn rất trẻ, da hơi ngâm đen  đã bất thần đến thăm Quân Y Viện Qui nhơn. Thấy tình cảnh  chỉ còn một bác sĩ và vài y tá cùng hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh  chết chưa được chôn cất, ông đã bật khóc trước mặt vị Bác sĩ này. Đó là Y sĩ Trung úy Nguyễn Công Trứ, người Bác sĩ duy nhất còn lại trong Quân y viện.

REPORT THIS AD

Chiều ngày 2 tháng tư, Quân Y Viện lại tiếp nhận thêm một tử thi nữa, và đau buồn thay, đó chính là tử thi của vị Ðại Tá hôm qua , Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung đoàn trưởng Trung Đoàn  42, một Trung đoàn thiện chiến nhất của Sư đoàn 22BB . Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát sau khi  từ chối lên tàu Hải quân để được hải vận về Nha trang với 3 Tiểu đoàn (-) của ông trên bờ biển Qui nhơn . Xác ông được Quân y viện chôn cất dưới cột cờ chung với 46 tử sĩ QLVNCH.

Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, nhập học khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam năm 1959, khóa đầu tiên với chương trình 4 năm đào tạo Sĩ quan Hải Lục Không Quân hiện dịch. Ông tốt nghiệp ngày 22 tháng 12 năm 1962 và chỉ không đầy 10 năm sau, được  thăng cấp Đại tá thực thụ tại chiến trường Cao nguyên năm 1972 .

nhanva dt nhthong
Hình trên : Tổng Thống Đệ Nhị Cọng Hòa với các Trung Đoàn Trưởng Khóa 16 tại chiến trường Cao nguyên : Trung tá Đinh Văn Mễ,  Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47, Đại tá Nguyễn Hũu Thông , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 và Đại tá Nguyễn Thiều, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 41 thuộc Sư đoàn 22 BB.

REPORT THIS AD

Quân nghiệp lẫy lừng nhưng đầy bi hùng của Đại tá Thông bắt đầu từ cuối năm 1971 khi ông còn là Trung tá, được chỉ định về làm Giám đốc TTHQ/TKBĐ, nhưng chỉ chừng 3 tháng sau, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42/SĐ 22BB để trực chiến ngay với Bắc quân trong một trận chiến kinh hoàng nhất trong mùa hè đỏ lửa , tháng tư năm 1972, trận DAKTO-TÂN CẢNH.

vnch bd tancanh

REPORT THIS AD

Mở đầu Mùa Hè Đỏ Lửa tại Dakto-Tân Cảnh ngày 22 và 23 tháng tư năm 1972, các Sư đoàn  Bắc quân đã bất thần tấn công trực diện vào Bộ Tư lệnh tiền phương và 2 Trung đoàn của Sư đoàn 22 , với sự yểm trợ của đại pháo cường tập tối đa và Thiết giáp hạng nặng  cùng với chiến thuật biển người.  Trung đoàn 42 và 47 và Bộ tư lệnh của Sư đoàn đã chống trả mãnh liệt, Thiếu Tá Nguyễn Bá Như, Trung Đoàn Phó 42, cùng Đại Úy Cố Vấn Kenneth Yoman đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12 ly 7 để tác xạ địch, cũng bị hỏa tiển Sagger bắn trúng, bồn nước nổ tung và cà hai vị sĩ quan này chết tại chỗ. Tân cảnh thất thủ !

Ban cố vấn còn lại  được cố vấn trưởng Quân đòan John P Vann di tản lúc 4 giờ sáng bằng trực thăng, nhưng vị Tư lệnh Sư đoàn 22 , Đại tá Lê Đức Đạt cương quyết ở lại chống trả ,để rồi tử trận trong biển lửa ngày 24 tháng tư , 1972.

Sự uất hận thua trận vì chiến thuật biển người  thí quân của Bắc quân  và  sự hy sinh anh hùng của một Đại niên trưởng , của các Huynh Đệ đã khơi dậy tinh thần yêu nuớc , yêu dân và lòng can đảm của những Sĩ quan tự hào  xuất thân từ một Quân trường Võ Bị nổi tiếng , Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Đại tá Thông cùng với vị Tân Tư lệnh cùng  3 vị Trung đoàn trưởng 40, 41 & 47 đã tái hồi sinh một Sư đoàn 22 mãnh liệt và dũng cảm hơn bao giờ hết. Sư đoàn 22 cùng với Sư đoàn 23 từ đó đã tái  chiếm, trấn giữ  vùng Cao nguyên từ Pleiku đến KonTum , từ Pleime đến Bình Định. Nhưng cho đến một ngày…..

REPORT THIS AD

….một ngày vào cuối tháng 3 năm 1975,  theo lời của Y sĩ Trung úy Phan ngọc Hà , Tiểu đoàn 22 Quân y,  thì ” ….tình thế biến chuyển thật lẹ làng. Quyết định sai lầm trong việc triệt thoái Quân đoàn 2 ra khỏi Cao nguyên chẳng những đã không duy trì được lực lượng tác chiến mà còn làm rối loạn hậu phương và cũng chẳng có một lợi ích chính trị nào hết nếu không muốn nói đến sự phá sản của mọi mặt khi quân bài Domino bắt đầu đổ vỡ.

Tháng 3-1975, khi Ban Mê Thuột thất thủ, SĐ 22 chỉ còn 3 Trung đoàn để  phòng thủ  Bình Định vì Trung đòan  40 đã phải tăng phái cho SĐ23 BB tại tuyến bắc Khánh Dương. Tại Bình Định, Trung đoàn 47 của Đại tá Lê Cầu (K18/VB) được giao khu vực bắc Bình Định, lo trấn giữ Bồng Sơn, cửa ngõ ra vào thung lũng An Lão .
Trung đoàn 41 của Đại tá Nguyễn Thiều giữ  Quốc lộ 19 từ Bình Khê  đến An Khê trong khi Trung đoàn 42 của Đại tá Nguyễn Hữu Thông giữ  Quốc lộ 19 phía nam Bình Khê và phần lãnh thổ còn lại của Bình Định. Trong lúc Trung đoàn 42 đang cầm cự một cách anh dũng với Sư đoàn 3 Sao vàng của Bắc Việt ở mặt trận Bình-khê thì được lệnh phải di tản về Nha trang để yểm trợ cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đang cầm chân Cộng quân ở Khánh-dương.

REPORT THIS AD

Nhưng lui binh bao giờ cũng là vấn đề khó khăn của các nhà quân sự từ Đông Tây kim cổ. Tài ba và mưu lược như Gia-cát Lượng mấy lần vào Kỳ sơn như chỗ không người; oai dũng kiêu hùng như Napoléon cùng đoàn quân viễn chinh dưới chân Kim Tự tháp tự hào rằng lịch sử đang chiêm ngưỡng tài danh vẫn không khỏi khốn đốn khi phải rút lui khi trận địa không còn ưu đãi.

Tuy nhiên,  với những kỳ tài điều quân , ông  đã để lại những trang sử hào hùng hiếm có trong Quân sử cận đại, điển hình là sự tái chiếm Đèo Nhông năm 1974. Theo lời của Phóng viên chiến trường Phạm Huấn ” Đây là cuộc chuyển quân thần tốc của một Trung đoàn – Trung đoàn 42 Bộ Binh – từ Tây Nguyên trở về Bình Định tái chiếm đèo Nhông – đây cũng là một chiến thắng kỳ diệu nhất của Trung đoàn 42 trong năm 1974. Trung đoàn 42 Bộ Binh đang hành quân tại vùng Pleime, Tây Nam Pleiku, trong một buổi chiều, được lệnh về giải tỏa áp lực của địch tại mặt trận Bình Định. Cuộc chuyển quân tưởng rằng phải được thực hiện trong vòng 2 hay 3 ngày. Nhưng, ngay đêm ấy, toàn bộ Trung đoàn đã về tới Bắc Phù Cát. Và từ đó, dùng bàn đạp, đánh thẳng vào hậu phương địch, khiến Bắc quân trở tay không kịp. Những trận đánh đẫm máu dòng dã suốt 3 ngày sau. Trung đoàn 42 đã tiêu diệt gần 1 Trung đoàn CSBV của Sư đoàn 3 Sao Vàng, dựng nên «Chiến Thắng Đèo Nhông».

REPORT THIS AD

Trước khi mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ, một lần nữa, Trung đoàn 42 Bộ Binh cũng đã tái chiếm và biến 2 ngọn đồi vô danh từ  Tây Tây Nam quận Hoài Nhơn, Bình Định thành những «di tích» của chiến sử, nói lên tinh thần chiến đấu chống Cộng phi thường của người quân nhân QLVNCH.

Hai ngọn đồi vô danh, đó là những ngọn đồi chiến lược, được mang số 82 và 174, nằm trên huyết lộ vận chuyển của Cộng quân, trên trục Quảng Ngãi – Bình Định – cũng tại hai cao điểm chiến lược này, bọn nhà báo bất lương ngoại quốc, sau gần 20 năm xuyên tạc về chiến tranh Việt Nam, đã ngả nón kính phục về tinh thần dũng cảm của QLVNCH. Một phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ cũng được gởi tới đó quan sát chiến trường, và khi trở về nước, đã lên tiếng binh vực, ủng hộ Việt Nam. Nhưng, mọi chuyện đã quá muộn!

Ngày 31 tháng 3 năm 1975, trước đó, và sau đó suốt 22 tiếng đồng hồ, các Trung đoàn 41, 42, 47, trên chặng đường rút quân này, đã phải đương đầu một trận tuyến dài hơn 30 cây số; từng đơn vị bị phục kích,  bị «chặt đứt» ra từng đọan nhỏ.

REPORT THIS AD

Họ phải trực diện một cuộc trả thù tàn ác, man rợ nhất trong trận chiến sau cùng của chiến tranh Việt Nam. Trên 30 cây số đường máu, chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương và một «Hậu phương» rã ngũ, bỏ súng.

Trước mặt, sau lưng, đều là địch.

«Đối thủ» lần này tuy vẫn là Sư đoàn 3 Sao Vàng, và những Tiểu đoàn đặc công CSBV. Nhưng Bắc quân ở thế thượng phong, có pháo, chiến xa yểm trợ, . Những người cộng sản đã không cần biết đến quy luật của chiến tranh. Chúng thẳng tay tàn sát «kẻ thù»  mà trước đây đã gây cho chúng những tổn thất lớn lao, những thất bại đau đớn.

Trên 30 cây số đường máu, các chiến sĩ Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã chiến đấu trong tình trạng tuyệt vọng, nhưng vẫn dũng cảm, anh hùng. Tưởng cũng cần nhắc lại, Sư đoàn 22BB gồm có 4 Trung đoàn BB, Trung đoàn 40,41,42 và 47.

Nhiều người đã bắn đến viên đạn cuối cùng , rồi  ngã gục , bằng những hành động thật hào hùng, thật phi thường trong đó có Đại tá Lê Cầu , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47…..”

REPORT THIS AD

Thật vậy, sau trận chiến Dakto-Tân cảnh, nếu Trung đoàn 42 nói riêng và Sư đoàn 22 nói chung đã từng chiến đấu kiên cường biết bao với Cộng quân, thì khi phải rút lui, họ lại bị tơi tả dường ấy. Mọi kế hoạch thật không diễn tiến đúng như như những bàn thảo ban đầu. Thành phố Qui-nhơn hỗn loạn sớm hơn dự tính vì đã có sự trà trộn của các đặc công và sự quấy phá của các Việt cộng nằm vùng “.

Tuy nhiên khi Trung đoàn 42 từ An Túc rút về tử thủ ở chân đèo An Khê, tại đây, Trung đoàn 42 đã, một lần chót đã đánh bật sư đoàn F.10 Cộng quân không cho tràn xuống từ đèo An Khê, đã tiêu diệt trên 600 địch quân . Sư đòan Bắc quân F.10(SĐ.10) phải bọc qua dẫy Nam Triều cố tràn xuống chiếm Qui Nhơn, nhưng Đại tá Thông đã kết hợp với Trung đoàn 41 của Đại tá Thiều ( bạn cùng khóa 16/VB ) tức tốc kéo về  thành phố Qui nhơn trước, cố cầm chân Sư đoàn F.10 và các lực lượng địa phương Cộng sản để bảo vệ cho Quân dân di tản, và đã ở lại tử thủ Qui nhơn cho đến ngày 2 tháng tư .

Trong thời gian này ,Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, vào chức vụ Tư-Lệnh các Lực-Lượng Hải-Quân yểm trợ chiến trường Qui-Nhơn.

REPORT THIS AD

Lực lượng Hải quân gồm có các chiến hạm :

HQ3, Soái hạm có Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ; HQ 07 có HQ Trung tá Lê Thuần Phong, CHT Hải đội 2 Tuần dương, sau đó đã lên HQ 403 để điều động cuộc nhập hạm của 2 Trung đoàn 41 và 42 ; HQ 08 có HQ Trung tá Lê Thành Uyển, CHT Hải đội 3 Tuần dương, trách nhiệm phối hợp với các đơn vị BB trên bờ ; HQ 400 có nhiệm vụ đón các đơn vị sau cùng của Sư đoàn 22BB và 2 vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 41 & 42 .

Ngày  2 tháng tư năm 1975, Sư đoàn 22 (-) có lệnh từ Bô Tổng tham Mưu phải rút quân, Đại tá Nguyễn Hữu Thông và Đại Tá Nguyễn Thiều  , Trung đoàn trưởng Trung Đòan 41 đành phải điều động gần 5 Tiểu Đòan (-) thuôc quyền  lên các chiến hạm  Hải Quân đậu gần bờ dưới những lằn đạn pháo kich nghiệt ngã của Bắc quân .

Nhưng vẫn còn môt Tiểu Đoàn của Đại Tá Thông còn chưa đến. Hai ông quyết định một người phải ở lại chờ đợi, một người phải lên tàu để chỉ huy đoàn quân . Thông  và vài người đã chọn ở lại , quyết chờ đợi.

REPORT THIS AD

https://i1.wp.com/www.navsource.org/archives/09/43/09433205.jpg
HQ3 là Soái hạm trong chiến trận hành quân phối hợp sau cùng tại Qui Nhơn

Vì chiến hạm phải cứu nguy hàng ngàn người di tản khác khi địch quân  hàng hàng lớp lớp đang truy kích quân ta sát bờ , nên tàu phải nhổ neo.

Theo lời của nhà văn HQ Điệp Mỹ Linh, ” Từ trong bờ, Việt-Cộng bắn ra chiến hạm dữ dội khiến chiến hạm không thể nào ủi bãi được. Cuối cùng, một số các quân nhân của Sư-Đoàn 22 phải bơi ra tàu. Trong số những quân nhân đã lên tàu,  có Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.

Trong khi đó, từ thành phố Qui-Nhơn, Trung-Đoàn-Trưởng Trung-Đoàn 42 Bộ-Binh, Đại-Tá Nguyễn Hữu Thông tiếp tục trấn an  Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển , Chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương trên HQ08 .Ông cho biết rằng trong thành phố Qui-Nhơn không có một tên Việt-Cộng nào cả. Trung-Tá Uyển hỏi tại sao lại có nhiều tiếng súng thì Đại-Tá Thông trả lời, đó là của Nhân-Dân Tự-Vệ bắn vu vơ, để ông ấy cho dẹp ngay. Vì đã biết tình hình thật sự trên bờ, Trung-Tá Uyển yêu cầu Đại-Tá Thông nên ra tàu sớm . Đại-Tá Thông. bảo Trung-Tá Uyển cho tàu đón quân lính của Ông ra trước đi….

REPORT THIS AD

Sau cùng,  Trung-Tá Uyển lại liên lạc với Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Thông lần chót, hỏi tại sao chưa thấy ông lên tàu? Đại-Tá Thông đáp:“Tôi không thể ra với anh được. Lính của tôi có lẽ ra cũng gần hết rồi. Cảm ơn anh. Tôi đi về đây ! Nhưng không ai biết vị Anh hùng ấy đi về đâu ???!!! “.

Theo lời của Đại tá Nguyễn Thiều, Đại tá Thông cùng với vài binh sĩ đã đi ngược lại về phía Những Ngọn Ðồi Vô Danh tức cao điểm 82-174 phía Tây Tây Nam Quận Hoài Nhơn tỉnh Bình Ðịnh , có lẽ ông đã cùng chết với những binh sĩ sau cùng của ông vừa mới  tử trận trên những ngọn đồi lịch sử này.  Dư luận Tỉnh Bình Định thì cho là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đã theo gương Danh tướng Võ Tánh cùng mất với Qui Nhơn . Khi vị Đại tá nầy  nằm xuống ngày 2 tháng 4, ông chỉ mới 38 tuổi đời nhưng đã đi vào huyền thoại của của dân chúng Miền Trung kể từ đó.

Trong phần bình luận” Cuộc triệt thoái Cao nguyên 1975 “, phóng viên  Quân đội kỳ cựu Phạm Huấn , một lần nữa đã ngưỡng mộ sự hào hùng của Đại tá Nguyễn Hữu Thông như sau :

REPORT THIS AD

….” Sự hy sinh của một người anh hùng , một đại anh hùng sáng ngày 2/4/1975, đã bị rơi vào quên lãng, và cũng là một thiệt thòi lớn lao cho đất nước! Đó là trường hợp Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 Bộ Binh…

Ông viết tiếp ” Tôi có thể quả quyết rằng, trong 20 năm sau cùng của chiến tranh Việt Nam, không có một tướng lãnh nào khi chỉ huy một cấp trung đoàn hay lữ đoàn, đã tạo dựng được những chiến công to lớn như người anh hùng Nguyễn Hữu Thông. Những tướng Cộng sản Bắc Việt chỉ huy Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ, Sư đoàn 3 Sao Vàng  trong những năm 73, 74, 75, cho đến bây giờ và mãi mãi sẽ phải cúi mặt khi nhớ đến thảm bại nhục nhả, những thảm bại bởi Trung đoàn 42 Bộ Binh, do Đại tá Nguyễn Hữu Thông chỉ huy, tại Pleime, Đèo Nhông, và «Những Ngọn Đồi Vô Danh» (Cao điểm chiến lược 82 và 174) tại Tây, Tây Nam Hoài Nhơn, Bình Định.

«Nhân vật và Hình ảnh» Nguyễn Hữu Thông, sau khi đưa «những chiến hữu anh em còn lại» về vùng an toàn; đã lừng lững đi trở lại con đường cũ, về phía «Những Ngọn đồi vô danh»…để chết thật đẹp, thật phi thường, thật hào hùng.

REPORT THIS AD

Hai năm trước đây, tôi có dịp hầu chuyện với một vị tiền bối cùng thời với Hồ chí Minh. Tôi có thưa với Cụ về tài ba, anh hùng, của những Sĩ quan các khóa 16, 17, 18…Đà Lạt. Họ được huấn luyện 4 năm cả về Quân Sự lẫn Văn Hóa, như tại các trường Võ Bị của Mỹ, Anh, Pháp.

Trong những trận chiến sau cùng, các Sĩ quan này đã giữ những chức vụ Trung đoàn trưởng, Lữ đoàn trưởng , nhiều vị mất tích, tự tử chết hoặc ở lại chiến đấu với chiến hữu của mình cho đến phút cuối cùng. Như Đại tá Khóa 16 Đặng Phương Thành, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 12, Sư đoàn 7BB; như Lữ đoàn trưởng K16 Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu Tùng , Thủy Quân Lục Chiến ngoài vùng Hỏa tuyến; như  K16 Bùi Quyền , Nhảy dù ; như K 17 Võ Vàng ; như  K18 Lê Cầu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 47 tại mặt trận Bình Định …”

Sau cùng, Phóng viên chiến trường Phạm Huấn kết luận : “Nếu Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ký kết trễ hơn khoảng 2 năm nữa, miền Nam không bao giờ mất vào tay cộng sản. Bởi vì, đất nước và quân đội sẽ được lãnh đạo và chỉ huy bởi những Tướng Lãnh anh hùng, có khả năng cả về quân sự lẫn văn hóa, với đầy đủ Trí, Đức, Dũng

REPORT THIS AD

Ngày 2/4/1975, nếu người anh hùng Nguyễn Hữu Thông là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Thông, thì chắc chắn cái chết của Ông sẽ tạo thành một trận cuồng phong. «Trận cuồng phong» từ vùng đất linh thiêng của Quang Trung Đại Đế, sẽ làm quân thù khiếp sợ. Và gây được sự tin tưởng, phấn khởi cho toàn Quân, toàn Dân trong những ngày cuối cùng !!! “.
KÍNH XIN QÚY VỊ BẤM VÀO DƯỚI ĐÂY ĐỂ CÙNG CHÚNG TÔI TƯỞNG NIỆM  http://www.k16tvbqgvn.org/tuongniemk16.htm
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC MỘT NGƯỜI BẠN, MỘT ANH HÙNG BỊ LÃNG QUÊN,
NGUYỆN CẦU CHO LINH HỒN TẤT CẢ CÁC HUYNH ĐỆ QLVNCH ĐÃ NẰM XUỐNG ĐƯỢC MIÊN VIỄN BÌNH AN, THÊNH THANG TRÊN  CỎI VĨNH HẰNG.

HQ Nguyễn Đức Thu  ( Hoa Thịnh Đốn )
CSVSQ K16, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam

http://saigonecho.com/index.php/lich-su-vn/chien-tranh-vn/cac-nhan-vat/35773-su-hao-hung-cua-dai-ta-nguyen-huu-thong

 


Đại tá Nguyễn Hữu Thông

~  Lê Bá Hùng sưu tầm  ~


(có nhấn mạnh vài chổ bằng dấu gạch ở dưới


hay đổi màu)


*****

image001


Đại Tá Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

“Trước mối hiểm nguy sẽ bị địch tràn ngập, Quân Khu II đã bắt buộc phải ra lệnh cho Sư đoàn 22 Bộ binh, đơn vị duy nhất vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu, phải tránh đối đầu địch hầu rút về Qui Nhơn. Trong ngày 30 tháng 3, Trung đoàn 41 và 42 chiếu theo lệnh, rút bỏ Bình Khê. Vị chỉ huy của Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông,  đã quá ư là phẫn uất; ông đã năn nỉ vị sư đoàn trưởng đừng rút . . . Nhưng lúc đó thì cũng đã quá trể rồi. Khi hai trung đoàn về tới Qui Nhơn vào lúc đêm đã xuống thì tức khắc đã bị các lực lượng địch, mà đã chuẩn bị kiên cố xong rồi ngay trong thành phố,  chận đánh. Lúc đó thì đa số dân cư cùng lực lượng phòng thủ thì cũng đã bỏ trốn chạy đi mất rồi. Bến tàu thì cũng đã bị chúng chiếm đóng; cũng như là đa số các tòa cao ốc. Qui Nhơn đang thật sự nằm dưới quyền kiểm soát của Sư đoàn 3 Bắc cộng. Sau hai ngày chiến đấu thì hai Trung đoàn 41 và 42, với hải pháo hổ trợ, đã giải tỏa được một bãi để di tản ở hướng  Nam của thành phố và cùng nhau tụ tập lại tại một bãi biển cách hải cảng bốn dặm Anh. Lúc 2 giờ khuya ngày 1 tháng 4 thì ba tàu hải quân đã đón được lên tàu các quân nhân còn lại của Sư đoàn 22. Vị Chỉ huy của Trung đoàn 42 đã khước từ di tản và quyết định tự tử”.


theo


Đại Tướng CAO VĂN VIÊN, trong Sụp Đổ Tan Hàng Vào Lúc Cuối (The Final Collapse), https://lehung14.wordpress.com/ts-lewis-sorley-gioi-thieu/dai-tuong-vien-viet-ve-lan-tan-hang-cuoi-cung-2/


 *****

image016

1/

http://www.k16vbqgvn.org/butky-NguyenHuuThong.htm


ĐẠI TÁ THÔNG K16

Lê Đình Thọ K28



REPORT THIS AD


Thưa Quý Niên trưởng và Quý Bạn,


image005


Nhân dịp ngày 2 tháng 4, một số cựu Quân nhân của một đơn vị QLVNCH, đã làm lễ giỗ một cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy ấy là Trung đoàn trưởng từng là SVSQ trường VBQGVN.


Thưa Quý vị,


Trong văn hoá Việt Nam chúng ta, hằng năm đến ngày cúng giỗ Ông Bà, Cha Mẹ là bổn phận con cháu phải làm theo truyền thống hiếu nghĩa của dân tộc.  Đó là chuyện tất nhiên ở bất cứ gia đình Việt Nam nào còn giữ được tinh thần lễ giáo. Trừ trường hợp đặc biệt là những vị Anh hùng dân tộc từ các đời vua nước Việt. Những vị đã có công bảo vệ biên cương mà được ghi vào những trang sử oai hùng và mặc nhiên đuợc toàn dân Việt ghi nhận không nói làm gì. Ở đây, những thuộc cấp, những người lính còn sống ở trong nước, họ tổ chức lập bàn thờ, thờ cúng vị Trung Đoàn Trưởng của họ như thờ cúng Cha Mẹ vậy. Đó là điều đáng nói.



REPORT THIS AD


image007


Hằng năm ở trong nước họ vẫn quy tụ lại làm lễ giỗ; còn ở tại San Jose thì một số cựu Quân nhân từng là thuộc cấp của vị trung Đoàn trưởng ấy ngồi lại với nhau cũng bày biện thức ăn, hoa quả, hương đèn để tưởng nhớ về một Trung Đoàn trưởng. Đó là Cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông K16 VBQG, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 BB, QLVNCH.


Theo lời kể của một ĐĐT trinh sát; những ngày cuối tháng 3 năm 1975, SĐ 22 BB rút về Qui nhơn. Trên đường lui binh Trung đoàn 42 vừa lui, vừa đánh giạt, hay tiêu diệt gọn nhiều đơn vị quân Bắc Việt suốt dọc đường QL19 khi ra khỏi Pleiku di chuyển về đồng bằng, qua khỏi sông Côn thuộc Quận Bình Khê, tỉnh Bình định.



REPORT THIS AD


Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 42 về gần đến Qui nhơn thi phân làm hai ngả để tiến vào thành phố.


Một ngả là cải lộ tuyến (gọi là xa lộ Quang Trung) cũng từ trục QL19 tách theo hướng tây nam giữa 2 triền núi, đi vào phía nghĩa trang khu 6 rồi chạy về trung tâm thành phố hay ra biển Qui nhơn.

Một ngả vào là trục lộ 19 có Cầu đôi đi vào thành phố theo hướng đông bắc. Ngay gần Cầu đôi, có một tháp Chàm quen gọi là Tháp đôi nhìn ra đầm Thị Nại, biển Qui nhơn, Cộng quân đã xâm nhập từ ven biển thuộc lãnh thổ quận Tuy phước và đã chiếm giữ điểm cao này nhằm khống chế Thành phố Qui nhơn, nhưng lập tức đám giặc Cộng này bị một đơn vị Trung đoàn 42 tiêu diệt.


image009


Trung đoàn 42 đi vào Qui nhơn và ra biển để chờ lên tàu Hải Quân VNCH đang neo tại đây để di chuyển vào Nam. Trong khi hầu hết ba Tiểu đoàn đã lên tàu thì còn một tiểu đoàn khác đang giao tranh đì đùng với Cộng quân ở khu vực nghiã trang hướng tây nam của Thành phố chạy dài xuống hướng trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật nằm trên đường Nguyễn Huệ, sát biển.

Tuy đã lên tàu HQ, Đại tá Thông vẫn cố gắng liên lạc những Tiểu đoàn thuộc quyền.

Một Tiểu đoàn bị mất liên lạc!

Trong khi đại liên vẫn nổ dòn giã cùng những tiếng M79 nghe rất gần, đã khiến ĐT Thông không thể nào yên tâm đứng trên tàu mà bỏ đi, trong khi chiến hữu của ông còn đang anh dũng chiến đấu với giặc Cộng. Vì quá nóng lòng, ông đã nhảy xuống tàu và bơi trở lại bờ cát, biển Qui Nhơn. Trên khoảng cách từ tàu Hải quân đến bãi biển cũng hơi xa,một phần vì mất ngủ thiếu sức, vì nhiều ngày đêm rút quân từ Tây nguyên về Qui nhơn vừa đánh vừa rút; nên bơi không được nhanh. Khi Đại tá Thông bơi đến gần đến bãi cát thì ông bị pháo giặc. Một số chiến hữu của ông còn trú ẩn trên bờ biển gần đó nhào ra cứu ông nhưng ông cũng đã tắt thở trong cảnh xô bồ của dân chúng đang hỗn loạn.

Những binh sĩ dưới quyền của Đại tá Thông khóc ông như khóc người anh ruột của mình!

Sinh thời còn là Trung Đoàn trưởng Trung đòan 42, Đại tá Thông luôn luôn sống gần gũi, sát với chiến hữu thuộc cấp. Đại tá Thông lo chu đáo cho đời sống của từng người lính và gia đình. Ông đi sát từng tiểu đội để lo về sức khoẻ cho họ. Hỏi về các tiêu chuẩn quân trang, quân dụng như giày trận, poncho. Ai đã lãnh ai, chưa đuợc lãnh? Ai đã đi phép, ai chưa có phép? Lương hướng của từng chiến binh lãnh ra chi tiêu bao nhiêu, còn gởi về cho vợ con được bao nhiêu? Ông buộc lính phải tiêu hạn chế, và gởi lương về cho vợ con từng tháng trông chờ.

Có lẽ đây là một cách an dân của cấp chỉ huy để người lính thuộc quyền yên tâm mà đánh giặc. Có lẽ vì cách sống có nghĩa có tình với thuộc cấp của ông đã khiến những người lính suốt đời thương mến ông.

Sau nhiều năm từ khi mất nước, 1975, lòng thương mến ấy đã khiến lính và thuộc cấp, dù ở trong nước hay lưu lạc tại San Jose này, hàng năm họ ngồi lại với nhau cúng giỗ và tưởng nhớ Đại tá Nguyễn Hữu Thông như một người anh, hay như cha mẹ.

Sự thương mến kính trọng thể hiện việc thờ phượng, cúng giỗ hàng năm như một bổn phận này của những người chiễn hữu thuộc quyền đối với cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông, cựu SVSQ K16 trường VBQG, quả là hiếm.


image011

Đây chỉ là tình cờ được ăn giỗ và nghe thuật lại về cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông. Chắc có thể không được khách quan. Nếu Quý Niên trưởng nào từng chiến đâu dưới quyền Cố Đại tá Thông thấy những chi tiết kể thiếu khách quan về trường họp cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông nên điều chỉnh. Riêng tôi nhìn thấy lòng mến mộ của lính đối với Đại tá Nguyễn Hữu Thông như thế này thì suy nghĩ rằng, Ông quả là người lãnh đạo chỉ huy giỏi và đạo đức nên mới được một kết quả tốt để an ủi Anh Linh của ông.

Lê Đình Thọ K28

*****

2/

https://www.facebook.com/CONGHOATHOIBAO/posts/1713813218857166


Cộng Hòa Thời Báo


April 3, 2016


Đại-tá Nguyễn Hữu Thông được an táng dưới cột cờ Trung Đoàn Trưởng 42 BB – SĐ 22 BB

Tự sát 31-3-1975 tại Quy Nhơn.Thêm một mộ tập thể 47 tử sĩ VNCH những ngày cuối cuộc chiến.

QUY NHƠN – Trong những ngày cuối của cuộc chiến, có một vị đại tá trung đoàn trưởng đã không chịu xuống tàu chạy loạn mà chịu ở lại với lính, và dùng súng tự sát. Xác ông được chôn trong một ngôi mộ tập thể khổng lồ, dưới chân cột cờ bên ngoài Quân Y Viện Quy Nhơn, trong đó có 47 thi hài tử sĩ. Câu chuyện này được một hạ sĩ quan pháo binh kể lại, đồng thời gợi lại ký ức đau buồn nơi một vị bác sĩ hiện đang hành nghề ở New York.


Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42/SÐ 22BB, tự sát vào cuối tháng 3, 1975 bị chôn trong nấm mộ tập thể tại Quy Nhơn.


Vào đầu năm 1975, anh Dương Công An nguyên là một hạ sĩ quan Pháo Binh thuộc tiểu đoàn 223 Pháo Binh, nay anh đang sống tại Ðức. Anh An cho biết, vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị của anh bị tan hàng trên bờ biển Quy Nhơn, anh và một số anh em binh sĩ khác đã lẩn trốn nhiều ngày trong Quân Y Viện Quy Nhơn.


Ở đấy, khi đó chỉ còn có một bác sĩ duy nhất, là Trung Úy Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ hiện là bác sĩ quang tuyến tại một trường đại học ở New York. Khi tin về nấm mộ tập thể tại Quân Y Viện Quy Nhơn được tôi đưa lên net, nhiều người đã điện thoại cho Bác Sĩ Trứ. Những cú điện thoại này nhắc nhở cho ông quá nhiều chuyện kinh hoàng trong quá khứ, khiến ông nhiều đêm mất ngủ.


Sau nhiều lần gọi và nhắn trong máy là chúng tôi sẽ gọi lại, Bác Sĩ Trứ mới bốc máy. Ông kể, vào những ngày sau cùng, một buổi sáng ông được tiếp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 đi trực thăng đến thăm Quân Y Viện.


Thấy tình cảnh y chỉ còn một bác sĩ và hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh chết chưa được chôn cất, Ðại Tá Thông đã khóc trước mặt Bác Sĩ Trứ.


Và chỉ một ngày sau đó, Quân Y Viện tiếp nhận một tử thi nữa, và đó chính là tử thi Ðại Tá Thông. Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát. Nhiều nguồn tin sau này cho biết, Ðại Tá Thông đã từ chối xuống tàu vì binh sĩ dưới quyền ông còn kẹt lại quá nhiều, không di tản được.


Khi đó, tại quân y viện này, có cả hàng trăm bệnh nhân cho một mình Bác Sĩ Trứ. Ðồng thời cũng có rất nhiều binh sĩ tử trận được mang về nằm từ trong nhà xác và rải rác ra khắp hành lang. Các thi hài tại nhà xác QYV đã bốc mùi, và chó đã vào nhà xác ăn, gặm các tử thi này, nên Bác Sĩ Trứ đã nhờ khoảng 20 anh em quân nhân còn sức khỏe phụ với Bác Sĩ Trứ đào một huyệt mộ rất lớn dưới cột cờ, gần khu quân xa của Quân Y Viện.


Ở đây gần biển các nên việc đào đất tương đối dễ dàng. Ðầu tiên là những tử sĩ đã được khâm liệm trong quan tài có phủ quốc kỳ được sắp xuống trước, tiếp theo là những người chết nằm trên băng ca được đặt lên trên những quan tài, cứ thế mà sắp xếp. Tất cả là 47 thi hài tử sĩ, trong số này có Ðại Tá Thông, là cấp chỉ huy trực tiếp của anh An.


Lúc bấy giờ Saigòn chưa thất thủ, ngay cả sinh mạng của anh em binh sĩ bại trận cũng không biết sẽ ra sao nên sự việc chôn cất anh em tử sĩ lúc đó chỉ được thực hiện rất sơ sài hầu như là lén lút và vội vàng. Sau đó vài ngày tất cả bị bắt làm tù binh.


Anh An cho biết câu chuyện đã đeo đuổi theo anh suốt bao nhiêu năm nay, tâm nguyện của anh là ước sao, có ai đó, có khả năng để cải táng được ngôi mộ tập thể này, đó cũng là dịp mà mình an ủi được phần nào linh hồn của những tử sĩ này, nhưng những hy vọng càng ngày càng bị thu nhỏ lại, vì qua tin tức báo chí đất đai ở Việt Nam đã bị lạm dụng xây cất bừa bãi, hay khu đất này thuộc phạm vi của bộ đội Cộng Sản thì không thể làm gì được.


Khi VC vào Quy Nhơn, họ bắt Bác Sĩ Trứ. Nhưng ông không chỉ bị bắt làm tù binh, mà còn bị buộc tội làm việc cho CIA vì mọi người đi hết sao chỉ còn một mình Bác Sĩ Trứ ở lại.


Trong Quân Y Viện lúc ấy, có một lính Việt Cộng bị thương được một đơn vị đem gởi điều trị, nhưng lại bị khóa tay vào thành giường, Bác Sĩ Trứ không có chìa khóa mở còng nên nhóm VC càng căm thù Bác Sĩ Trứ.


Ông bị tù 4 năm 11 tháng, ra tù ông vượt biển đến Mỹ từ năm 1981, lúc còn độc thân, hiện nay đã có ba con theo học đại học….


Trong những ngày qua, có nhiều điện thoại hỏi đến ông về câu chuyện cũ gần 36 năm về trước khiến cho ông có nhiều đêm bị mất ngủ vì những cơn ác mộng.


Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ nói rằng ông đã làm theo lương tâm và với tình đồng đội, đã chôn 47 tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện. Ông đã nhiều lần về lại Quy Nhơn, qua lại trước khu Quân Y Viện cũ, ngày nay đã là doanh trại của bộ đội Cộng Sản, mà không thể làm gì hơn.


Tin về ngôi mộ tập thể cũng đến tai bà quả phụ cố Ðại Tá Thông, nhũ danh Phùng Ngọc Hiếu. Liên lạc được qua điện thoại hôm Thứ Năm, bà cho biết mấy ngày hôm nay, nhiều bạn bè đã chuyển cho bà về tin tức ngôi mộ tại Quân Y Viện Quy Nhơn, cũng là nơi yên nghỉ của Ðại Tá Thông.


Từ 35 năm nay, bà cũng nghe nhiều tin tức về chồng và bà cũng có nghe tin ông tự sát. Bà cũng đã về Quy Nhơn tìm kiếm nhưng không có tin tức, và không biết xác ông được chôn cất ở đâu. Bà kể, trước khi mất liên lạc, Ðại Tá Thông có liên lạc với vợ và than phiền rằng trung đoàn của ông đang chiến thắng, vì sao lại có lệnh rút bỏ Pleiku.


Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ông được vinh thăng đại tá năm 1972. Hiện nay bà quả phụ cố Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông cư ngụ tại Sacramento và ông bà có 5 người con đã thành đạt.


*****

3/

http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5904_15-2/


Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

Thần Việt Điện_Thập Bát Đại Thần Tướng Việt Nam


image014 


Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần,


Sinh ra là Tướng chết đi thành thần,


Thế, Đông, Ân, Thanh, Đạt, Vinh, Thà, Phúc, Tùng, Thông, Hiếu, Long, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn,


Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.


***


Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính

(trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)


10/ Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông (1937 – 1975)

 


Anh-hùng Nguyễn-Hữu-Thông nguyên Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Sư đoàn 22 Bộ binh QLVNCH.


Ông sinh năm 1937, xuất thân khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.


Trong cuộc rút quân của Trung đoàn 42, SĐ 22 BB, thành công đưa gần trọn vẹn Trung Đoàn 42 BB lên tàu của Hải quân VNCH ở Qui Nhơn. Chỉ huy trưởng cuộc rút quân ở Qui-Nhơn kiêm Tư lịnh Vùng 2 Duyên Hải, tư lịnh mặt trận Qui-Nhơn là Phó đề đốc Hoàng-cơ-Minh.


Tuẫn-quốc ngày 02-04-1975 trên bờ biển Qui-Nhơn thuộc Vùng 2 Duyên Hải.


Lúc còn sống, là một vị chỉ huy xuất sắc, tài đức vẹn toàn được toàn thể binh sĩ thuộc quyền kính trọng thương yêu.


Tài đức vẹn toàn, phong độ chỉ huy xuất sắc, ông được tôn xưng là vị tướng thần thứ mười trong mười tám vị tướng thần lớn của Việt-Nam thời cận đại.


Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc


*****

TIN VỀ HUYỆT MỘ 47 TỬ SĨ TRONG Quân Y Viện QUI NHƠN – Liên quan đến anh hùng Nguyễn Hữu Thông – ĐIỆN ĐÀM VỚI BÀ Đại Tá Nguyễn Hữu Thông.


Tôi (Lý trung Tín) vừa điệm đàm với Chị Phùng Thị Ngọc Hiếu, phu nhân của cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, chị cho biết: sau ngày 30.04.1975, rất nhiều nguồn tin về Đại Tá Thông, nhưng hoàn toàn không có tin về việc Đại Tá Thông được chôn cất trong QYV Qui Nhơn, Chị Thông đã ra tận Qui Nhơn hỏi thăm tin tức và không ai biết gì cả, sau đó Chị đã cho con vượt biển tìm tự do, đến năm 1990, Chị đoàn tụ với các con tại Hoa Kỳ. Chị có 5 mặt con với Đại Tá Thông, 4 trai, 1 gái, cả 5 cháu đều thành đạt trên đất Mỹ. Đại Tá Thông xuất thân khóa 16 VBQGVN, là một SQ tác chiến nổi tiếng tại Vùng 2. Cá nhân tôi cũng có những liên hệ với các đàn anh khoá 16 Đà Lạt, “ông thầy“ Nguyễn Duy Sự (Nam Cali) là Đại Đội Trưởng của tôi trong Trường SQTĐ, anh Nguyễn Minh Chánh (Nam Cali), đương kim Tổng Hội Trưởng BĐQ, và Anh Vi Kim Sinh (Floria) là anh rể tôi. Chị nói với tôi, Anh Chị lấy nhau tại Quảng Trị, họ hàng nhà chồng đông lắm, hơn nữa đời chiến binh, nay đây mai đó nên không còn nhớ BS Nguyễn Công Trứ nữa, và Chị cũng không biết bà con với anh Thông như thế nào? Tôi thuật lại lời BS Trứ: „Mẹ ĐT Thông là Chị của Ba BS Trứ (ANH EM Cô Cậu), Chị Thông sẽ liên lạc ngay với BS Trứ để có những dữ kiện chính xác về ĐT Thông cũng như HUYỆT MỘ trong QYV Qui Nhơn.


Ước nguyện cuối cùng của Chị Thông là, cải táng Anh và thiêu, rồi đem tro cốt về Mỹ vì con cháu anh Nguyễn Hữu Thông sống tại Hoa Kỳ.


Tôi cũng cho chị hay, anh Dương Công An, đang sống tại Đức, là một trong 20 Anh Em Quân Nhân phụ với BS Trứ đào huyệt chôn cất 47 tử sĩ, trong đó có thi hài Đại Tá Thông, Trung Đoàn Trưởng TĐ 42, SĐ 22BB, thà chết chứ không để rơi vào tay quân thù.


Tôi làm công việc này như là một nén nhang đốt lên để tưởng niệm đến 47 chiến hữu của tôi đã nằm xuống, may mắn được đồng đội chôn cất nhưng từ hơn 35 năm nay, không một nén nhang, không một lời cầu nguyện, ngày nay chúng tôi đã tìm được thân nhân của „Đại Bàng“ các Anh, hy vọng trong những ngày tới, các Anh sẽ được về với thân nhân, gia đình…


 


Germany, 30 tháng 12 năm 2010


Chủ Nhiệm Tạp Chí Dân Văn,


Lý Trung Tín


(Quân nhân QL/VNCH)


 image016


*****

 


 


 


 


 


 


Quảng cáo



==========================

Đại tá Nguyễn Hữu Thông

~  Lê Bá Hùng sưu tầm  ~

(có nhấn mạnh vài chổ bằng dấu gạch ở dưới

hay đổi màu)

*****

image001

Đại Tá Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

“Trước mối hiểm nguy sẽ bị địch tràn ngập, Quân Khu II đã bắt buộc phải ra lệnh cho Sư đoàn 22 Bộ binh, đơn vị duy nhất vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu, phải tránh đối đầu địch hầu rút về Qui Nhơn. Trong ngày 30 tháng 3, Trung đoàn 41 và 42 chiếu theo lệnh, rút bỏ Bình Khê. Vị chỉ huy của Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông,  đã quá ư là phẫn uất; ông đã năn nỉ vị sư đoàn trưởng đừng rút . . . Nhưng lúc đó thì cũng đã quá trể rồi. Khi hai trung đoàn về tới Qui Nhơn vào lúc đêm đã xuống thì tức khắc đã bị các lực lượng địch, mà đã chuẩn bị kiên cố xong rồi ngay trong thành phố,  chận đánh. Lúc đó thì đa số dân cư cùng lực lượng phòng thủ thì cũng đã bỏ trốn chạy đi mất rồi. Bến tàu thì cũng đã bị chúng chiếm đóng; cũng như là đa số các tòa cao ốc. Qui Nhơn đang thật sự nằm dưới quyền kiểm soát của Sư đoàn 3 Bắc cộng. Sau hai ngày chiến đấu thì hai Trung đoàn 41 và 42, với hải pháo hổ trợ, đã giải tỏa được một bãi để di tản ở hướng  Nam của thành phố và cùng nhau tụ tập lại tại một bãi biển cách hải cảng bốn dặm Anh. Lúc 2 giờ khuya ngày 1 tháng 4 thì ba tàu hải quân đã đón được lên tàu các quân nhân còn lại của Sư đoàn 22. Vị Chỉ huy của Trung đoàn 42 đã khước từ di tản và quyết định tự tử”.

REPORT THIS AD

theo

Đại Tướng CAO VĂN VIÊN, trong Sụp Đổ Tan Hàng Vào Lúc Cuối (The Final Collapse), https://lehung14.wordpress.com/ts-lewis-sorley-gioi-thieu/dai-tuong-vien-viet-ve-lan-tan-hang-cuoi-cung-2/

 *****

image016

1/

http://www.k16vbqgvn.org/butky-NguyenHuuThong.htm

ĐẠI TÁ THÔNG K16

Lê Đình Thọ K28

REPORT THIS AD

Thưa Quý Niên trưởng và Quý Bạn,

image005

Nhân dịp ngày 2 tháng 4, một số cựu Quân nhân của một đơn vị QLVNCH, đã làm lễ giỗ một cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy ấy là Trung đoàn trưởng từng là SVSQ trường VBQGVN.

Thưa Quý vị,

Trong văn hoá Việt Nam chúng ta, hằng năm đến ngày cúng giỗ Ông Bà, Cha Mẹ là bổn phận con cháu phải làm theo truyền thống hiếu nghĩa của dân tộc.  Đó là chuyện tất nhiên ở bất cứ gia đình Việt Nam nào còn giữ được tinh thần lễ giáo. Trừ trường hợp đặc biệt là những vị Anh hùng dân tộc từ các đời vua nước Việt. Những vị đã có công bảo vệ biên cương mà được ghi vào những trang sử oai hùng và mặc nhiên đuợc toàn dân Việt ghi nhận không nói làm gì. Ở đây, những thuộc cấp, những người lính còn sống ở trong nước, họ tổ chức lập bàn thờ, thờ cúng vị Trung Đoàn Trưởng của họ như thờ cúng Cha Mẹ vậy. Đó là điều đáng nói.

REPORT THIS AD

image007

Hằng năm ở trong nước họ vẫn quy tụ lại làm lễ giỗ; còn ở tại San Jose thì một số cựu Quân nhân từng là thuộc cấp của vị trung Đoàn trưởng ấy ngồi lại với nhau cũng bày biện thức ăn, hoa quả, hương đèn để tưởng nhớ về một Trung Đoàn trưởng. Đó là Cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông K16 VBQG, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư đoàn 22 BB, QLVNCH.

Theo lời kể của một ĐĐT trinh sát; những ngày cuối tháng 3 năm 1975, SĐ 22 BB rút về Qui nhơn. Trên đường lui binh Trung đoàn 42 vừa lui, vừa đánh giạt, hay tiêu diệt gọn nhiều đơn vị quân Bắc Việt suốt dọc đường QL19 khi ra khỏi Pleiku di chuyển về đồng bằng, qua khỏi sông Côn thuộc Quận Bình Khê, tỉnh Bình định.

REPORT THIS AD

Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 42 về gần đến Qui nhơn thi phân làm hai ngả để tiến vào thành phố.

Một ngả là cải lộ tuyến (gọi là xa lộ Quang Trung) cũng từ trục QL19 tách theo hướng tây nam giữa 2 triền núi, đi vào phía nghĩa trang khu 6 rồi chạy về trung tâm thành phố hay ra biển Qui nhơn.

Một ngả vào là trục lộ 19 có Cầu đôi đi vào thành phố theo hướng đông bắc. Ngay gần Cầu đôi, có một tháp Chàm quen gọi là Tháp đôi nhìn ra đầm Thị Nại, biển Qui nhơn, Cộng quân đã xâm nhập từ ven biển thuộc lãnh thổ quận Tuy phước và đã chiếm giữ điểm cao này nhằm khống chế Thành phố Qui nhơn, nhưng lập tức đám giặc Cộng này bị một đơn vị Trung đoàn 42 tiêu diệt.

image009

REPORT THIS AD

Trung đoàn 42 đi vào Qui nhơn và ra biển để chờ lên tàu Hải Quân VNCH đang neo tại đây để di chuyển vào Nam. Trong khi hầu hết ba Tiểu đoàn đã lên tàu thì còn một tiểu đoàn khác đang giao tranh đì đùng với Cộng quân ở khu vực nghiã trang hướng tây nam của Thành phố chạy dài xuống hướng trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật nằm trên đường Nguyễn Huệ, sát biển.

Tuy đã lên tàu HQ, Đại tá Thông vẫn cố gắng liên lạc những Tiểu đoàn thuộc quyền.

Một Tiểu đoàn bị mất liên lạc!

Trong khi đại liên vẫn nổ dòn giã cùng những tiếng M79 nghe rất gần, đã khiến ĐT Thông không thể nào yên tâm đứng trên tàu mà bỏ đi, trong khi chiến hữu của ông còn đang anh dũng chiến đấu với giặc Cộng. Vì quá nóng lòng, ông đã nhảy xuống tàu và bơi trở lại bờ cát, biển Qui Nhơn. Trên khoảng cách từ tàu Hải quân đến bãi biển cũng hơi xa,một phần vì mất ngủ thiếu sức, vì nhiều ngày đêm rút quân từ Tây nguyên về Qui nhơn vừa đánh vừa rút; nên bơi không được nhanh. Khi Đại tá Thông bơi đến gần đến bãi cát thì ông bị pháo giặc. Một số chiến hữu của ông còn trú ẩn trên bờ biển gần đó nhào ra cứu ông nhưng ông cũng đã tắt thở trong cảnh xô bồ của dân chúng đang hỗn loạn.

REPORT THIS AD

Những binh sĩ dưới quyền của Đại tá Thông khóc ông như khóc người anh ruột của mình!

Sinh thời còn là Trung Đoàn trưởng Trung đòan 42, Đại tá Thông luôn luôn sống gần gũi, sát với chiến hữu thuộc cấp. Đại tá Thông lo chu đáo cho đời sống của từng người lính và gia đình. Ông đi sát từng tiểu đội để lo về sức khoẻ cho họ. Hỏi về các tiêu chuẩn quân trang, quân dụng như giày trận, poncho. Ai đã lãnh ai, chưa đuợc lãnh? Ai đã đi phép, ai chưa có phép? Lương hướng của từng chiến binh lãnh ra chi tiêu bao nhiêu, còn gởi về cho vợ con được bao nhiêu? Ông buộc lính phải tiêu hạn chế, và gởi lương về cho vợ con từng tháng trông chờ.

Có lẽ đây là một cách an dân của cấp chỉ huy để người lính thuộc quyền yên tâm mà đánh giặc. Có lẽ vì cách sống có nghĩa có tình với thuộc cấp của ông đã khiến những người lính suốt đời thương mến ông.

Sau nhiều năm từ khi mất nước, 1975, lòng thương mến ấy đã khiến lính và thuộc cấp, dù ở trong nước hay lưu lạc tại San Jose này, hàng năm họ ngồi lại với nhau cúng giỗ và tưởng nhớ Đại tá Nguyễn Hữu Thông như một người anh, hay như cha mẹ.

Sự thương mến kính trọng thể hiện việc thờ phượng, cúng giỗ hàng năm như một bổn phận này của những người chiễn hữu thuộc quyền đối với cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông, cựu SVSQ K16 trường VBQG, quả là hiếm.

REPORT THIS AD

image011

Đây chỉ là tình cờ được ăn giỗ và nghe thuật lại về cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông. Chắc có thể không được khách quan. Nếu Quý Niên trưởng nào từng chiến đâu dưới quyền Cố Đại tá Thông thấy những chi tiết kể thiếu khách quan về trường họp cố Đại tá Nguyễn Hữu Thông nên điều chỉnh. Riêng tôi nhìn thấy lòng mến mộ của lính đối với Đại tá Nguyễn Hữu Thông như thế này thì suy nghĩ rằng, Ông quả là người lãnh đạo chỉ huy giỏi và đạo đức nên mới được một kết quả tốt để an ủi Anh Linh của ông.

Lê Đình Thọ K28

*****

2/

https://www.facebook.com/CONGHOATHOIBAO/posts/1713813218857166

REPORT THIS AD

Cộng Hòa Thời Báo

April 3, 2016

  • Đại-tá Nguyễn Hữu Thông được an táng dưới cột cờ Trung Đoàn Trưởng 42 BB – SĐ 22 BB
  • Tự sát 31-3-1975 tại Quy Nhơn.Thêm một mộ tập thể 47 tử sĩ VNCH những ngày cuối cuộc chiến.

QUY NHƠN – Trong những ngày cuối của cuộc chiến, có một vị đại tá trung đoàn trưởng đã không chịu xuống tàu chạy loạn mà chịu ở lại với lính, và dùng súng tự sát. Xác ông được chôn trong một ngôi mộ tập thể khổng lồ, dưới chân cột cờ bên ngoài Quân Y Viện Quy Nhơn, trong đó có 47 thi hài tử sĩ. Câu chuyện này được một hạ sĩ quan pháo binh kể lại, đồng thời gợi lại ký ức đau buồn nơi một vị bác sĩ hiện đang hành nghề ở New York.

Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42/SÐ 22BB, tự sát vào cuối tháng 3, 1975 bị chôn trong nấm mộ tập thể tại Quy Nhơn.

Vào đầu năm 1975, anh Dương Công An nguyên là một hạ sĩ quan Pháo Binh thuộc tiểu đoàn 223 Pháo Binh, nay anh đang sống tại Ðức. Anh An cho biết, vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị của anh bị tan hàng trên bờ biển Quy Nhơn, anh và một số anh em binh sĩ khác đã lẩn trốn nhiều ngày trong Quân Y Viện Quy Nhơn.

REPORT THIS AD

Ở đấy, khi đó chỉ còn có một bác sĩ duy nhất, là Trung Úy Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ hiện là bác sĩ quang tuyến tại một trường đại học ở New York. Khi tin về nấm mộ tập thể tại Quân Y Viện Quy Nhơn được tôi đưa lên net, nhiều người đã điện thoại cho Bác Sĩ Trứ. Những cú điện thoại này nhắc nhở cho ông quá nhiều chuyện kinh hoàng trong quá khứ, khiến ông nhiều đêm mất ngủ.

Sau nhiều lần gọi và nhắn trong máy là chúng tôi sẽ gọi lại, Bác Sĩ Trứ mới bốc máy. Ông kể, vào những ngày sau cùng, một buổi sáng ông được tiếp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 đi trực thăng đến thăm Quân Y Viện.

Thấy tình cảnh y chỉ còn một bác sĩ và hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh chết chưa được chôn cất, Ðại Tá Thông đã khóc trước mặt Bác Sĩ Trứ.

Và chỉ một ngày sau đó, Quân Y Viện tiếp nhận một tử thi nữa, và đó chính là tử thi Ðại Tá Thông. Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát. Nhiều nguồn tin sau này cho biết, Ðại Tá Thông đã từ chối xuống tàu vì binh sĩ dưới quyền ông còn kẹt lại quá nhiều, không di tản được.

Khi đó, tại quân y viện này, có cả hàng trăm bệnh nhân cho một mình Bác Sĩ Trứ. Ðồng thời cũng có rất nhiều binh sĩ tử trận được mang về nằm từ trong nhà xác và rải rác ra khắp hành lang. Các thi hài tại nhà xác QYV đã bốc mùi, và chó đã vào nhà xác ăn, gặm các tử thi này, nên Bác Sĩ Trứ đã nhờ khoảng 20 anh em quân nhân còn sức khỏe phụ với Bác Sĩ Trứ đào một huyệt mộ rất lớn dưới cột cờ, gần khu quân xa của Quân Y Viện.

REPORT THIS AD

Ở đây gần biển các nên việc đào đất tương đối dễ dàng. Ðầu tiên là những tử sĩ đã được khâm liệm trong quan tài có phủ quốc kỳ được sắp xuống trước, tiếp theo là những người chết nằm trên băng ca được đặt lên trên những quan tài, cứ thế mà sắp xếp. Tất cả là 47 thi hài tử sĩ, trong số này có Ðại Tá Thông, là cấp chỉ huy trực tiếp của anh An.

Lúc bấy giờ Saigòn chưa thất thủ, ngay cả sinh mạng của anh em binh sĩ bại trận cũng không biết sẽ ra sao nên sự việc chôn cất anh em tử sĩ lúc đó chỉ được thực hiện rất sơ sài hầu như là lén lút và vội vàng. Sau đó vài ngày tất cả bị bắt làm tù binh.

Anh An cho biết câu chuyện đã đeo đuổi theo anh suốt bao nhiêu năm nay, tâm nguyện của anh là ước sao, có ai đó, có khả năng để cải táng được ngôi mộ tập thể này, đó cũng là dịp mà mình an ủi được phần nào linh hồn của những tử sĩ này, nhưng những hy vọng càng ngày càng bị thu nhỏ lại, vì qua tin tức báo chí đất đai ở Việt Nam đã bị lạm dụng xây cất bừa bãi, hay khu đất này thuộc phạm vi của bộ đội Cộng Sản thì không thể làm gì được.

Khi VC vào Quy Nhơn, họ bắt Bác Sĩ Trứ. Nhưng ông không chỉ bị bắt làm tù binh, mà còn bị buộc tội làm việc cho CIA vì mọi người đi hết sao chỉ còn một mình Bác Sĩ Trứ ở lại.

ADVERTISEMENT
REPORT THIS AD

Trong Quân Y Viện lúc ấy, có một lính Việt Cộng bị thương được một đơn vị đem gởi điều trị, nhưng lại bị khóa tay vào thành giường, Bác Sĩ Trứ không có chìa khóa mở còng nên nhóm VC càng căm thù Bác Sĩ Trứ.

Ông bị tù 4 năm 11 tháng, ra tù ông vượt biển đến Mỹ từ năm 1981, lúc còn độc thân, hiện nay đã có ba con theo học đại học….

Trong những ngày qua, có nhiều điện thoại hỏi đến ông về câu chuyện cũ gần 36 năm về trước khiến cho ông có nhiều đêm bị mất ngủ vì những cơn ác mộng.

Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ nói rằng ông đã làm theo lương tâm và với tình đồng đội, đã chôn 47 tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện. Ông đã nhiều lần về lại Quy Nhơn, qua lại trước khu Quân Y Viện cũ, ngày nay đã là doanh trại của bộ đội Cộng Sản, mà không thể làm gì hơn.

Tin về ngôi mộ tập thể cũng đến tai bà quả phụ cố Ðại Tá Thông, nhũ danh Phùng Ngọc Hiếu. Liên lạc được qua điện thoại hôm Thứ Năm, bà cho biết mấy ngày hôm nay, nhiều bạn bè đã chuyển cho bà về tin tức ngôi mộ tại Quân Y Viện Quy Nhơn, cũng là nơi yên nghỉ của Ðại Tá Thông.

Từ 35 năm nay, bà cũng nghe nhiều tin tức về chồng và bà cũng có nghe tin ông tự sát. Bà cũng đã về Quy Nhơn tìm kiếm nhưng không có tin tức, và không biết xác ông được chôn cất ở đâu. Bà kể, trước khi mất liên lạc, Ðại Tá Thông có liên lạc với vợ và than phiền rằng trung đoàn của ông đang chiến thắng, vì sao lại có lệnh rút bỏ Pleiku.

Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ông được vinh thăng đại tá năm 1972. Hiện nay bà quả phụ cố Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông cư ngụ tại Sacramento và ông bà có 5 người con đã thành đạt.

*****

3/

http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5904_15-2/

Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông

 (1937 – 1975)

Thần Việt Điện_Thập Bát Đại Thần Tướng Việt Nam

image014 

Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần,

Sinh ra là Tướng chết đi thành thần,

Thế, Đông, Ân, Thanh, Đạt, Vinh, Thà, Phúc, Tùng, Thông, Hiếu, Long, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn,

Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.

***

Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính
(trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)

10/ Anh-hùng, tướng thần Nguyễn-hữu-Thông (1937 – 1975)

 

Anh-hùng Nguyễn-Hữu-Thông nguyên Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Sư đoàn 22 Bộ binh QLVNCH.

Ông sinh năm 1937, xuất thân khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Trong cuộc rút quân của Trung đoàn 42, SĐ 22 BB, thành công đưa gần trọn vẹn Trung Đoàn 42 BB lên tàu của Hải quân VNCH ở Qui Nhơn. Chỉ huy trưởng cuộc rút quân ở Qui-Nhơn kiêm Tư lịnh Vùng 2 Duyên Hải, tư lịnh mặt trận Qui-Nhơn là Phó đề đốc Hoàng-cơ-Minh.

Tuẫn-quốc ngày 02-04-1975 trên bờ biển Qui-Nhơn thuộc Vùng 2 Duyên Hải.

Lúc còn sống, là một vị chỉ huy xuất sắc, tài đức vẹn toàn được toàn thể binh sĩ thuộc quyền kính trọng thương yêu.

Tài đức vẹn toàn, phong độ chỉ huy xuất sắc, ông được tôn xưng là vị tướng thần thứ mười trong mười tám vị tướng thần lớn của Việt-Nam thời cận đại.

Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc

*****

TIN VỀ HUYỆT MỘ 47 TỬ SĨ TRONG Quân Y Viện QUI NHƠN – Liên quan đến anh hùng Nguyễn Hữu Thông – ĐIỆN ĐÀM VỚI BÀ Đại Tá Nguyễn Hữu Thông.

Tôi (Lý trung Tín) vừa điệm đàm với Chị Phùng Thị Ngọc Hiếu, phu nhân của cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, chị cho biết: sau ngày 30.04.1975, rất nhiều nguồn tin về Đại Tá Thông, nhưng hoàn toàn không có tin về việc Đại Tá Thông được chôn cất trong QYV Qui Nhơn, Chị Thông đã ra tận Qui Nhơn hỏi thăm tin tức và không ai biết gì cả, sau đó Chị đã cho con vượt biển tìm tự do, đến năm 1990, Chị đoàn tụ với các con tại Hoa Kỳ. Chị có 5 mặt con với Đại Tá Thông, 4 trai, 1 gái, cả 5 cháu đều thành đạt trên đất Mỹ. Đại Tá Thông xuất thân khóa 16 VBQGVN, là một SQ tác chiến nổi tiếng tại Vùng 2. Cá nhân tôi cũng có những liên hệ với các đàn anh khoá 16 Đà Lạt, “ông thầy“ Nguyễn Duy Sự (Nam Cali) là Đại Đội Trưởng của tôi trong Trường SQTĐ, anh Nguyễn Minh Chánh (Nam Cali), đương kim Tổng Hội Trưởng BĐQ, và Anh Vi Kim Sinh (Floria) là anh rể tôi. Chị nói với tôi, Anh Chị lấy nhau tại Quảng Trị, họ hàng nhà chồng đông lắm, hơn nữa đời chiến binh, nay đây mai đó nên không còn nhớ BS Nguyễn Công Trứ nữa, và Chị cũng không biết bà con với anh Thông như thế nào? Tôi thuật lại lời BS Trứ: „Mẹ ĐT Thông là Chị của Ba BS Trứ (ANH EM Cô Cậu), Chị Thông sẽ liên lạc ngay với BS Trứ để có những dữ kiện chính xác về ĐT Thông cũng như HUYỆT MỘ trong QYV Qui Nhơn.

REPORT THIS AD

Ước nguyện cuối cùng của Chị Thông là, cải táng Anh và thiêu, rồi đem tro cốt về Mỹ vì con cháu anh Nguyễn Hữu Thông sống tại Hoa Kỳ.

Tôi cũng cho chị hay, anh Dương Công An, đang sống tại Đức, là một trong 20 Anh Em Quân Nhân phụ với BS Trứ đào huyệt chôn cất 47 tử sĩ, trong đó có thi hài Đại Tá Thông, Trung Đoàn Trưởng TĐ 42, SĐ 22BB, thà chết chứ không để rơi vào tay quân thù.

Tôi làm công việc này như là một nén nhang đốt lên để tưởng niệm đến 47 chiến hữu của tôi đã nằm xuống, may mắn được đồng đội chôn cất nhưng từ hơn 35 năm nay, không một nén nhang, không một lời cầu nguyện, ngày nay chúng tôi đã tìm được thân nhân của „Đại Bàng“ các Anh, hy vọng trong những ngày tới, các Anh sẽ được về với thân nhân, gia đình…

 

Germany, 30 tháng 12 năm 2010

Chủ Nhiệm Tạp Chí Dân Văn,

Lý Trung Tín

(Quân nhân QL/VNCH)

 image016

*****

 

 

 

REPORT THIS AD

 

 

 

Quảng cáo
REPORT THIS AD