Thursday, August 7, 2014


TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM : chuyến đi định mạng của tàu ngầm Nhật I-52 .

Vào mùa xuân , khi anh đào nở rộ gần Hoàng Cung , Satonobu Gamo , 34 t rời nhà tại Tokyo cho 1 sứ mạng rất bí mật . . . Ông đc lịnh sang Đức để thăm nhà máy Daimbler-Benz và học cách chế tạo máy cho tàu phóng ngư lôi .
Nhật rất cần 1 cách kinh khủng (desperately) kỷ thuật về vũ khí mới cũa Đức và Đức cần nguyên liệu thô từ đế quốc của Nhật . Nhưng hai đồng minh phe Trục (Axis) này lại cách nhau 1/2 vòng trái đất , và mọi đường đi qua Siberia đều bị đóng . Lúc đầu , các thương thuyền (merchant vessel) Đức lo chương trình trao đỗi này , nhưng vận chuyển trên biển đã trở nên những chuyến đi tự sát . . .
Cách thay thế duy nhứt là dưới biển , và ko bao lâu Nhật và Đức đã sửa đổi tàu ngầm để tiến hành CT này . Chiếc I-52 , hoàn thành tại công xưởng HQ Kure Nhật năm 1943 . Nó có thể mang 300 TẤN hàng và chạy 21.000 dặm (33.796 km) KHÔNG CẦN TIẾP TẾ nhiên liệu .Nhưng tàu ngầm chở hàng ko đi xa bằng tàu mặt nước (fare little better than surface vessel) : chỉ có 1 chiếc , I-8 hoàn tất đoạn đường từ Nhật đi Âu và trở lại .
Giửa tháng 3 1944 , dưới quyền HQ trung tá (Comdr.) Kameo Uno , tàu I-52 rời cảng Kure . Nó ngừng ở Singapore để lấy nguyên liệu thô từ các thuộc địa ĐNA của Nhật - 2,88 tấn thuốc phiện , 3 tấn quinine (kí-ninh) để dùng cho y khoa và 54 tấn cao su thô . Tàu được điều khiển bởi 11 SQ và 84 HSQ , BS (enlisted man) và chở 14 hành khách , 6 của HQ và 8 dân thường - 1 thông dịch và 7 kỷ sư , gồm Satonobu Gamo . Việc ra đi từ Sing này đã bị chú ý kịp thời (duly noted) bởi tình báo Mỹ , do đã phá vở "mật mã tím" (purple code) của ngoại giao Nhật .
Một tháng buồn thảm (dreary) trải qua khi tàu vượt Ấn độ dương . Để tránh phát hiện , tàu chỉ nổi lên (surface) vào đêm . Vào ban ngày , khách và các nhân viên ko nhiệm vụ phải nằm sắp (lie flat) để giử gìn dưởng khí .
. . .
Vào tháng 5 , tàu đã đi vòng Phi châu và vào Đại tây dương . Để cẩn thận , tàu sẽ gặp 1 tàu ngầm (U-boat) Đức giửa biển , để nhận 1 hoa tiêu/ng dẫn tàu (pilot) Đức và một máy phát hiện bằng radar (radar detector) , với 2 ng xử dụng nó , để giúp tàu có thể lén (sneak) vào cảng Lorient của Pháp - bị Đức chiếm đóng .
Nhưng vào lúc này , ĐTD là một cái hồ của Đồng minh . Chung quanh bờ (rim) của ĐTD , có các trạm nghe vô tuyến (radio) nhận và chuyển các vị trí của tàu phe Trục . Đồng minh đã mở (crack) được mật mã (cipher) của Đức , khiến họ đọc được các công điện của HQ Đức .
Sự hiểu biết này , có tên Ultra , đã khiến các sói biển (wolf pack) (tàu ngầm Đức) phải trốn tránh , và CT này bao gồm những công điện ngoại giao và HQ của Nhật để hướng dẩn lực lượng chống tàu ngầm của ĐM .
Các chỉ huy Mỹ tại Washington , D.C., đã xác định (pinpoint) chiếc I-52 trên biểu đồ treo tường ghi nhận hầu hết các tàu ngầm địch tại ĐTD . Họ đã biết chính xác ai và hàng gì mà con tàu định mạng (doom) đã chở .
I-52 vượt Xích đạo ngày 4/6 , hai ngày trước khi Pháp đổ quân lên Normandy và cuộc gặp sẽ dự trù vào hoàng hôn (dusk) ngày 23/6 . Tàu U-530 đậu chờ .
Với 2 tàu ngầm nổi lên và lộ ra 1 cách nguy hiểm , thuyền trưởng Đức , Kurt Lange đã cho 1 thuyền cao su (rubber dinghy) mang 3 ng - thiếu úy hoa tiêu Schafer , và 2 chuyên viên vô tuyến , Chuẩn úy Schulze và Behrendt - và 1 hộp gổ chứa máy phát hiện bằng radar . . .
Hai giờ 25 phút sau khi 2 chiếc gặp nhau , tàu Đức lặn tiếp và đi về hướng tây . . . SAI LẦM CHẾT NGƯỜI đã đến khi tàu Nhật tiếp tục nổi , như luyến tiếc , ko muốn bỏ đi không khí tốt lành của đêm khuya .
Trong khi đó , cách đó 55 dặm , phi công Jesse Taylor , trong chiếc máy bay phóng ngư lôi Avenger đã được phóng đi từ phi đạo ngắn của chiếc USS Bogue . Đây là mẫu hạm nhỏ (bantam-size) (CVE) , cải tiến từ 1 thân (hull) tàu hàng , đang dùng thông tin từ một BCH Mỹ đặc biệt về chống tàu ngầm , đc gọi là Hạm đội 10 .
Taylor , 28 t , quê ở Watson Missouri , là chỉ huy của đội bay 69 (VC-69) , 1 trong 14 phi công của chiếc Bogue có thể bay đêm liên tục . Họ là những ng trẻ xuất sắc , sàng lọc (sift) từ nhiều ng , với phản xạ tốt khi hạ cánh trên phị đạo tối mờ mờ và nhấp nhô (heave) lớn cở mảnh đất trống (vacant lot) .
"Trẻ con . Chúng tôi chỉ là trẻ con," Snuffy Yarington , xạ thủ máy bay 22 t nói . "Nhưng bạn đã từng lớn lên trong vội vã chưa ."
Đội bay chán ngấy (weary) . "Chúng tôi ra đi đã 7 tuần và sắp cạn lương thực và dầu," Thiếu úy William Gordon , 1 phi công khác nhớ lại . "Đây là phi vụ cuối cùng trước khi trở về nhà ở Norfork."
Khi Taylor bay vút lên hướng về khu vực tuần tiểu , Ed Whitlock , ng lo radar của máy bay , nhận 1 đốm sáng (blip) đầy hứa hẹn . Bay gần hơn , họ thả 2 hỏa châu và một phao âm thanh (sonobuoy) màu tím xuống nước . Sonobuoy là máy phát tín hiệu nổi mới sản xuất - có thể chuyển các âm thanh dưới nước tới 1 máy ghi âm trong phòng lái .
Chiếc sonobuoy bắt đầu phát ra tiếng thì thầm của chân vịt tàu , và chẳng bao lâu phi hành đoàn của máy bay đã thấy 1 cảnh tượng làm giật mình (startle) - 1 tàu ngầm địch lớn , nổi hoàn toàn , chạy tốc độ 10 tới 12 hải lý (knot) , tạo nên 1 vạch (wake) lớn .
Vì chiếc I-52 vội vàng (scramble) lặn , Taylor bay vượt (roar across) mủi tàu , bay theo (wheel) theo hình số 8 , và ném 2 bom nổ dưới-ở-độ-sâu (depth) rất mạnh vào sườn ngang . Bay vòng trở lại , anh nhào xuống (swoop) ném vào 1 vùng nước xoáy màu trắng 1 thủy lôi âm học Mark 24 , biệt danh Fido . 3 phút sau , âm thanh của hủy diệt đã dội lại vào sonobuoy . Xạ thủ Andy Emmons , nói âm thanh giống như "giấy bị nắm lại thành 1 cục trong nắm tay ."
Chỉ huy chiếc Bogue , A.B. Vosseler , 45 phút sau đợt tấn công của Taylor , đã phái thêm 1 phi công thứ 2 . Flash Gordon thả thủy lôi sau khi nhận đc âm thanh từ cánh quạt tàu ở vị trí này , và 17 phút sau ông nghe 1 tiếng nổ kéo dài (sustain) .
I -52 - quay cuồng từ các vụ nổ , nước biển xé toạt (rip) thông qua 1 lổ hổng/kẻ hỡ trong vỏ chịu áp lực , hàng hóa đổ sập , còi báo động dữ dội (keen) , đèn mờ dần trở thành tối đen - đã phải nhanh chóng xoay xoắn ốc mang theo sinh mạng của 112 ng .
Trong ngày kế tiếp , các khu trục hạm hộ tống cho mẫu hạm Bogue tìm thấy những mảnh vụn và 1 vệt dầu lớn trên nước . Một chiếc , USS Janssen , vớt được hơn 1 tấn cao su thô , giày sandal và gạo . Một chiếc khác thu được chỉ tơ (silk thread) và 1 mảnh thịt (còn tiếp) .
Ngày Aug 7 21014 .