Monday, December 8, 2025

 Kể Chuyện Đánh Giặc Ở Quê Hương Ông Nguyễn Tấn Dũng

Hoàng Long Hải (Tuệ Chương) * đăng lúc 01:53:46 AM, Sep 09, 2022 * Số lần xem: 4797
Xã Mỹ Lâm

Nói thiệt tình, về cá nhân, tôi không ghét mà cũng không thương gì ông Nguyễn Tấn Dũng (NTD) nhưng bởi vì ông ta mới lên làm thủ tướng, lại được một số nhà báo, chính trị gia ở Mỹ có tiếng khen ông ta nên nhân dịp nầy tôi lại muốn viết đôi điều về xứ sở của ông, nơi ông ta sinh ra, lớn lên rồi làm… Việt Cộng. Chuyện tôi viết, nói cho cùng, cũng là chuyện tầm phào Miền Tây Nam Bộ, chuyện “Hương Rừng Cà Mau” thời chiến tranh. Nhiều người biết “Hương Rừng Cà Mau” hay “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang” của Sơn Nam, là chuyện miền Tây Nam Bộ hồi xưa, khi người Việt mới tới vùng nầy lập xóm lập làng, cho tới “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” là chuyện thời Tây thuộc. Chuyện tôi viết hôm nay là chuyện thời chiến tranh, chuyện xảy ra từ thời Nam Bộ Kháng Chiến, chuyện đánh Tây giành độc lập hồi 9 năm (1945-54), hay là chuyện “Chống Mỹ Cứu Nước” mà thực ra chỉ là chuyện “Cộng Sản Bắc Việt Xâm Lược”, nồi da xáo thịt giữa người Việt hai miền Nam-Bắc mà thôi.

Trong bài trước, nói tới nhân vật chính - Chị Sứ trong “truyện phong thần Hòn Đất” của “nhà văn cộng sản Anh Đức”, tôi có nói qua về lý lịch thuở nhỏ của ông Nguyễn Tấn Dũng. Nay xin nói lại đôi điều, sau khi “tham khảo” với vài người bạn thân từng sinh trưởng hay phục vụ cho chính quyền Quốc Gia ở Rạch Giá, Kiên Giang trước 1975.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, sau khi “tổng thống Lê Lai cứu chúa” Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt Cộng, ở Hà Tiên, lực lượng Cộng Sản cũng chưa dám xuất đầu lộ diện ra tiếp thu chính quyền Quốc Gia. Từ trong rừng tràm mật khu Trà Tiên, họ chỉ tiến ra mấy chỗ vắng vẻ, trên Liên Tỉnh Lộ 8A Rạch Giá - Hà Tiên. (Liên Tỉnh Lộ 8A (LTL 8A) bắt đầu từ “Ngã Ba Lộ Tẻ” trên LTL 9 và LTL 27, đường Cần Thơ - Châu Đốc, tới mãi tận Hà Tiên). Họ đóng quân chờ trên trục lộ, không chặn xe đò bắt lính đem bắn tại chỗ như trước kia, không nổ một tiếng súng. Mãi tới sáng hôm sau, ngày 1 tháng năm, trung tá Thảo quận trưởng Hà Tiên thì rút vào rừng, thế chỗ Việt Cộng ẩn núp trước kia, còn thiếu tá Sầm Long, Quận trưởng Kiên Lương, nhờ “thân hào nhân sĩ” vào núi Hòn Chông “mời” Việt Cộng ra bàn giao chính quyền theo lệnh tổng thống Dương Văn Minh, họ mới ra tới quân lỵ Kiên Lương. Chỗ nầy, Việt Cộng gọi là “Thị Trấn Kiên Lương” là một thị trấn quan trọng vì là nơi tọa lạc của “Nhà Máy Xi Măng Kiên Lương”, có hai lò đốt đá vôi thành clinker trước khi xà lan chở về Nhà Máy Xi Măng Hà Tiên Thủ Đức, trên xa lộ Saigon Biên Hòa, xay thành bột và vô bao.

Bấy giờ ông Nguyễn Tấn Dũng mới ở trong rừng mò ra với các đồng chí, đồng đội của ông ta. Chức vụ NTD lúc đó là “Truởng Ban Quân Y” Huyện Đội Hà Tiên, cấp bậc “Thiếu tướng một sao một gạch đít”. Đó là nói đùa theo cách của mấy ông bộ đội chớ “Một sao một gạch đít” thì chỉ mới thiếu úy mà thôi. Khi ở trong rừng mới ra, ông ta chỉ mặc một bộ đồ xanh bộ đội, mũ tai bèo (Mũ tai bèo là “Bộ đội địa phương” hoặc du kích, “Cộng Sản Bắc Việt Xâm Lược” mới đội nón cối). Nói như thế là theo nhận xét của dân chúng địa phương. Hễ khi nào vô rừng đốn tràm mà thấy Việt Cộng đội mũ tai bèo thì biết đó là “Xã Đội”, “Huyện Đội”, cao hơn là “Tỉnh Đội”; còn thấy “Đội nón cối” thì về báo cáo với chính quyền Quốc Gia rằng Việt Cộng ngoài Bắc mới vô, từ Cămpuchia mới qua - Việc nầy sẽ kể sau, để quí độc giả biết thêm.

Ngoài bộ đồ xanh và mũ tai bèo, NTD không mang “loon lá” gì cả. Ít lâu sau, “thống nhứt” lực lượng võ trang, Việt Cộng trong Nam mới đội nón cối và mang “loon lá” giống như bộ đội miền Bắc xâm nhập. Bấy giờ NTD mang “quân hàm” là “Một sao một gạch đít”, tức thiếu úy như nói ở trên.

Mấy người bạn tôi nhận xét rằng ở “Ban Quân Y Huyện Đội Hà Tiên”, ông NTD lúc đó cũng chưa hẵn là “nhân vật quan trọng”. Huyện Đội Hà Tiên từ trong rừng ra tiếp thu hai địa điểm: Thị xã Hà Tiên và thị trấn Kiên Lương. Huyện Ủy Hà Tiên từ trong rừng ra đóng ở Hà Tiên. Ở thị trấn Kiên Lương chỉ có Nguyễn Văn Thôn tự Tiếu, dân chúng thường gọi là Hai Tiếu, gốc gác ở ấp Ngã Ba, xã An Bình, quận Kiên Lương, vì trốn đi lính Quốc Gia nên thoát ly theo Việt Cộng hồi trước tết Mậu Thân, nay là bí thư xã An Bình, ra tiếp thu xã. Nguyễn Văn Ngộ, tự Hai Ngộ, xã đội trưởng Ba Hòn thì ra tiếp thu xã Dương Hòa (Ba Hòn). Hai Ngộ trước kia là trung đội trưởng nghĩa quân, thoát ly theo Việt Cộng vì chống lại ông quận trưởng Kiên Lương hồi đó, thiếu tá N. bắt trung đội trưởng “đóng hụi chết”. Hai Ngộ bị thương ở chân trái. Nhìn dấu chân y in trên ruộng có thể biết tối hôm qua y có về hoạt động nơi đó. Vì bên phía Chính Quyền Quốc Gia có thành lập quận Kiên Lương (Hà Tiên và Kiên Lương là hai quận riêng biệt, trong khi Việt Cộng chỉ có chung một huyện Hà Tiên mà thôi) nên lực lượng chính thì ra tiếp thu thị xã Hà Tiên còn lực lượng phụ thì ra tiếp thu thị trấn Kiên Lương vì ở đây cũng có quận đường, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát, các chi, trong đó có Chi Y Tế và bệnh xá Dân Quân Y Kiên Lương. NTD ở trong lực lượng phụ, có nghĩa là anh trưởng ban Quân Y ra tiếp thu Hà Tiên to chức to quyền hơn anh ra tiếp thu thị trấn Kiên Lương. Có lẽ vậy.

Như vậy, gốc gác ông NTD là bên ngành Y, học Y ở Cục Rờ (R) hay có ra Hà Nội? Ai mà biết. Chưa được một năm, NTD thuyên chuyển về tỉnh ủy Cà Mau, chuyển qua ngành Công An và đời NTD lên hương từ đó.

Nguyễn Tấn Dũng quê ở xã Mỹ Lâm. Xã Mỹ Lâm nằm kế cận phía tây thị xã Rạch Giá, trên LTL 8A Rạch Giá - Hà Tiên, thuộc quận Kiên Thành. Quận lỵ Kiên Thành đóng ở Rạch Sỏi, cũng trên LTL 8A nhưng ở phía bắc thị xã. Từ Rạch Sỏi muốn đi Mỹ Lâm, theo trục lộ thì phải đi qua thị xã. Có thể tuởng tượng như Rạch Sỏi ở góc vuông mà cạnh kia là thị xã Rạch Giá vậy. Cũng xin nói thêm một chút về ông Tư La và ca sĩ nổi danh La Thạch Tuyền ở Saigon một chút. Mấy năm nay ở Saigon thiên hạ bỗng bàn tán xôn xao về ca sĩ La Thạch Tuyền, không phải vì hát hay mà vì cái tên La Thạch Tuyền khá hay. Anh ca sĩ nầy chẳng có bà con gì với La Thoại Tân cả. Anh ta quê ở Rạch Sỏi. Nói theo danh từ Hán-Việt thì Rạch là con suối, là Tuyền (Như nữ danh ca Thanh Tuyền vậy); Sỏi là một loại Đá, tức là Thạch. Còn La là bởi anh ta con ông Tư La. Ông nầy có cái tật xấu, “rượu vào lời ra” nên khi uống ruộng xong, ông ta hay la lối om sòm. Vì cái tật say rượu hay la nên chòm xóm gọi là ông Tư La (Ông thứ Tư). Nói chung lại, ca sĩ La Thạch Tuyền là con ông Tư La ở Rạch Sỏi. Nếu giới thiệu anh ta là con ông Tư La ở Rạch Sỏi, chắc người ta cười bể bụng. Nhưng nếu giới thiệu đây là ca sĩ La Thạch Tuyền, thính giả sẽ vổ tay hoan hô. Ai nói tiếng Việt không hay?! Từ con ông Tư La ở Rạch Sỏi mà biến thành La Thạch Tuyền là hay lắm! Cũng ý đó nên ông tổng thống Ngô Đình Diệm bảo rằng một nước có bốn ngàn năm văn hiến như nước ta không thể có những cái tên nôm na như Rạch Giá mà phải đổi lại là Kiên Giang; không thể Giồng Riềng mà phải là Kiên Bình; không thể là Bù-Đốp mà phải là Bố Đức!!!

Trở lại chuyên quê hương ông Nguyễn Tấn Dũng thì cái tên Mỹ Lâm cũng là văn vẻ lắm, giàu có và xã nầy cũng nổi tiếng vì có nhiều… Việt Cộng.

Ông Nguyễn Tấn Dũng sinh đẻ ở xã, năm 1952, cắp sách đi học ở trường Sơ Cấp xã thời ông Ngô Đình Diệm làm tổng thống. Mặc dù dưới thời ông Ngô Đình Diệm, nền giáo dục đã phát triển, nhưng ở cấp xã cũng chỉ mở tới trường Sơ Cấp mà thôi. Trường Sơ Cấp chỉ có ba năm đầu của bậc tiểu học, tức chỉ có lớp Một, lớp Hai, lớp Ba. (Trước kia thì gọi là lớp Năm, lớp Tư, lớp Ba). Kể ngược kể xuôi bằng cách nào thì cũng chỉ tới lớp Ba là hết. Vậy thì ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ mới học có lớp Ba?

Không!

Một trong mấy người bạn của tôi ở Kiên Lương, từng làm việc với ông NTD khi ông ra tiếp thu bệnh xá Dân Quân Y Kiên Lương nói với tôi rằng ông NTD đã học hết bậc tiểu học Việt Nam Cộng Hòa. Người bạn tôi nhấn mạnh chữ Việt Nam Cộng Hòa vì việc học của Việt Nam Cộng Hòa và của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) khác nhau xa lắm. Khác như thế nào thì không thể nói ở đây, không có thì giờ! Xin để có dịp tôi sẽ nói lại.

Xã Mỹ Lâm ở sát cạnh thị xã Rạch Giá, nhà nào khá giả, muốn cho con cái học tiếp thì cứ ghi tên học lên lớp Nhì, lớp Nhứt ở trường tiểu học thị xã. Thị xã Rạch Giá có rất nhiều trường, nhất là ở bậc tiểu học, trường công, trường tư và có cả trường Tàu. Ông Nguyễn Tấn Dũng được gia đình cho ra học hết bậc tiểu học ở Rạch Giá. Nếu vậy thì nhà ông Nguyễn Tấn Dũng không có nghèo đâu, không phải bần nông, cố nông là “thành phần cơ bản” của chế độ quí độc giả ạ!

Sau khi có bằng tiểu học, cũng hơn 10 tuổi vì ở nhà quê trẻ con thường đi học chậm, NTD thoát ly vào mật khu theo Việt Cộng.

Tại sao ông ta theo Việt Cộng. Điều nầy rắc rối lắm, xin phân giải từ từ.

2. Từ Xã Mỹ Lâm đến Dinh Điền Cái Sắn



Sau khi có bằng tiểu học, cũng hơn 10 tuổi vì ở nhà quê trẻ con thường đi học chậm, NTD thoát ly vào mật khu theo Việt Cộng.

Tại sao ông ta theo Việt Cộng. Điều nầy rắc rối lắm, xin phân giải từ từ.

Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-54), lần thứ hai (1960-75) và lần thứ ba (1979-89), bao giờ xứ chùa Tháp cũng đóng một vai trò quan trọng. Chiến trường thì xảy ra bên phía Việt Nam, còn hậu cần thì nằm ở Kampuchia. Không tấn công vào hậu cần, chiến tranh khó chấm dứt. Đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa âm mưu đảo chánh Sihanouk hay quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tấn công qua Miên hồi tháng 3 năm 1970.

Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, người và vũ khí từ Kampuchia chuyển qua tiếp tế cho quân Cộng Sản ở miền Tây Nam Bộ. Con đường tiếp vận của Việt Minh (danh xưng hồi đó) từ Miên xuyên qua mật khu Trà Tiên, vượt qua đoạn đường phía bắc thị xã Rạch Giá và thẳng về U-Minh.

Vì vùng nầy đất thấp, tới mùa nước, nước tràn lên khắp mọi chỗ, ngoại trừ vùng Thất Sơn (Việt Cộng gọi là Bảy Núi). Ai đọc “Mùa Len Trâu” của Sơn Nam trong quyển “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang” thì biết hiện tượng nầy. Người ta chỉ có thể dùng thuyền, ghe di chuyển. Tới khi nước rút, di chuyển theo kinh rạch là tiện lợi nhứt. Vì vậy, hồi đó, Việt Minh cho đào một con kinh nhỏ dọc theo ranh giới hai tỉnh Long Xuyên-Rạch Giá. Kinh nầy được đặt tên là kinh Kháng Chiến vì nó được đào trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Sau nầy, trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, con đường di chuyển nầy của Việt Cộng được gọi là đường giây 1C. Đường giây 1C từ Miên, qua mật khu Trà Tiên, vượt qua LTL 8A ở cây số 15 bắc thị xã Rạch Giá, thuộc xã Mông Thọ, (Cách thị xã Rạch Giá 15Km) và đi thẳng về Chương Thiện-U Minh.

Tại sao vượt qua ở Cây Số 15 mà không qua chỗ Dinh Điền Cái Sắn như trong cuộc chiến tranh trước. Dễ hiểu thôi. Dân Dinh Điền Cái Sắn là dân Bắc di cư 1954. Việt Cộng đút đầu vào đó là coi như đút đầu vào rọ.

Hồi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, vì vùng Dinh Điền Cái Sắn chưa có nên việc vượt qua LTL 8A rất dễ dàng. Đại tướng Trần Thiện Khiêm khi đó còn mang “loon” trung úy, chỉ huy một đơn vị Quân Đội Quốc Gia đóng ở Mông Thọ, có thể đêm đêm nghe tiếng bộ đội Việt Minh vượt qua LTL 8A ở đoạn Cái Sắn mà không dám động tỉnh (1). Đoạn nầy, có cụ già Nam Bộ kể cho tôi nghe: “Tụi nó di chuyển qua lại như đi chợ.”

Vùng Cái Sắn ngày xưa là vùng ruộng của mấy ông chủ điền, ruộng cò bay thẳng cánh hay còn gọi là “Đồng Chó Ngáp”, cũng là chỗ nầy. Kể từ kinh Núi Sập tới kinh Cái Sắn (Còn gọi là Thạnh Đông) dài 12Km. Từ kinh Thạnh Đông tới kinh Thạnh Tây cũng dài 12Km. Có con chó nào chạy một mạch từ kinh Núi Sập tới kinh Thạnh Tây dài 24Km mà không ngáp mới thật là chó hay?!

Vùng nầy đất thấp, chỉ làm lúa sạ. Mỗi năm, mùa hè, sau khi gặt xong, đồng bỏ hoang. Khi chuẩn bị làm ruộng mùa tới thì người ta đốt đồng. Dân địa phương cũng gọi là “Mùa Đốt Đồng”. Cứ sau trưa một chút, chờ có gió mạnh, người ta giăng một cái lưới phía dưới gió, rồi đi ngược lên phía trên gió, cầm một cây đuốc mà đốt những gốc rạ, bụi cây khô. Buổi chiều, gió thổi mạnh, lửa cháy rần rần. Vậy là thỏ, rùa, rắn, chồn, cáo, cần đước, ba ba, tranh nhau chạy trốn. Chúng chạy về hướng cuối gió, chui vào lưới mà nằm, chờ người ta tới nắm cổ lôi đi bán hay làm thịt nhậu chơi. Vùng nầy dân ưa nhậu thịt rắn. Nếu độc giả tới thăm họ, gặp người quí khách, họ sẽ mời quí độc giả nhậu thịt rắn. Con rắn - thường là loại rắn độc mới bổ -, được làm thịt, móc ruột, luộc chín, chặt khúc, sắp từng khúc quanh cái dĩa bàn to, tưởng như con rắn đang nằm ngủ. Ai có gan thì cầm đũa gắp ra ăn. Tôi thì chịu vì tôi là chúa sợ rắn. Ngoài thịt rắn, còn có một nồi cháo rắn, “ăn dằn bụng” trước khi tan hàng. Phải được người dân quí lắm, họ mới mời mình nhậu thịt rắn. Khoảng thập niên cuối 60 đầu 70, một con gà giá chỉ vài trăm bạc, còn một con rắn giá 2 ngàn. Mời nhậu thịt gà, có phải rẻ hơn không!

Đốt đồng xong, người ta bắt đầu cày. Lần đầu thì gọi là cày lật, nghĩa là cày sao cho đất lật úp, cỏ xuống dưới, đất lên trên. Cỏ sẽ bị thúi mà chết, thành ra phân hữu cơ. Lần sau thì cày cho đất nhỏ ra, chờ nước lên - khoảng tháng 8 tháng 9 âm lịch – đem lúa ra sạ. Lúa lên, nước lên. Gần tết, nước rút xuống, lúa cũng bắt đầu chín. Khi nước rút hết thì người ta lo gặt. Lúa gặt xong đem sắp vòng tròn cho xe máy cày chạy quanh cán lên cho hột rời ra. Lúa chất thành đống cao như ngọn đồi, dân địa phương gọi là “cà tang” lúa. Có lẽ “cà tang” là tiếng Miên. Hôm qua đi ngang, thấy đồng trống không, nay thấy có ngọn đồi hiện ra xa xa. Đó là “cà-tang” lúa. Bên phía Dinh Điền Cái Sắn thì Việt Cộng không dám, còn bên phía Cờ Đỏ, thuộc Long Xuyên, bọn kinh tài đêm khuya thường mò ra thu thuế nông nghiệp. Bọn nó thâu thuế “ác lắm”, nghĩa là thuế cao lắm nên dân chúng ghét. Nhờ đó mà phe Quốc Gia biết chúng xuất hiện ở đâu để “phục kích lấy tiền nhậu chơi”. Hễ tới mùa lúa thì bọn nó thu thuế nông nghiệp, mùa cày thì chúng nó thu thuế máy cày, cũng “ác” như thu thuế nông nghiệp. Tới mùa chúng nó đi thu thuế, “phe ta” đi săn giặc nên tôi gọi giặc ở đây là “Giặc Mùa.” Chuyện nầy cũng sẽ nói thêm về sau. Hồi xưa, người ta cày bằng trâu, chủ điền nuôi hàng trăm con trâu mới đủ cày. Như ông chủ Ry, bố vợ ông Trần Thiện Khiêm nuôi những hai trăm con trâu. Đó cũng là đề tài truyện “Mùa Len Trâu” của Sơn Nam nay đã được quay thành phim. Thời Ngô Đình Diệm phải nhập trâu Murat bên Ấn Độ về cho dân cày. Sau nầy thì cày bằng máy. Máy cày John Deer, Somecar, v.v… rất được dân chúng ưa chuộng.

Tôi không rành cách tính diện tích ruộng ở đây. Người ta tính theo công: Công tầm cắt và công tầm điền khác nhau. Năm nào trúng, mỗi công được khoảng trên dưới 35 giạ là cao. Có năm trên 40 chục giạ là trúng lắm.

Việt Minh nổi lên bắt giết, bỏ tù (Rồi cũng chết trong tù luôn) các ông chủ điền. Hầu hết chủ điền chạy trốn lên Rạch Giá, Cần Thơ hay Saigon. Việt Minh gọi là “theo Tây”. Không theo Tây cũng không được, bị Việt Minh giết sao?! Ruộng của họ sau nầy, thời Đệ Nhứt Cộng Hòa bị truất hữu để lập Dinh Điền Cái Sắn. Sau nầy, tôi cũng có gặp vài người là con cháu của mấy ông chủ điền ngày trước. Nói chung, họ đã sa cơ và nghèo túng, tuy vẫn còn mang cái tên Tây như Bôn, gốc là Paul; Răng, gốc là Jean. Bố vợ ông Trần Thiện Khiêm, dân chúng gọi là ông chủ Ri, vì tên Tây là Henry, con trai lớn ông nầy, tên là Hai Re vì tên Tây là Robert và chị Tư Nết, chính hiệu con nai vàng là Annette, đích thị là bà Trần Thiệm Khiêm. Chuyện gia đình nầy sẽ kể thêm ở phần sau, cũng là chuyện vui mà thôi! Cũng có người tên họ cũng hay, nửa Nôm nửa Hán như anh bạn Trần Thông Đến của tôi, con một ông chủ điền lớn ở Cái Sắn trước 1945. Anh nầy thường hay trốn làm việc để “đi mây về gió” nên ai hỏi tới thì tôi nói đùa là Trần Không Đến.

Khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai nổ ra thì Dinh Điền Cái Sắn đã thành lập xong, kéo dài từ ngã Ba Lộ Tẻ Long Xuyên tới Kinh Tư gần xã Mông Thọ. Việt Cộng không thể vượt qua LTL 8A dễ dàng. Cây số 15 là điểm duy nhất, Việt Cộng cố sống cố chết để vượt qua LTL ở đây.

Cách Cây Số 15 cỡ 10 Km, về phía tây là ấp Tà Keo. Gọi là ấp nhưng thật ra đó là một vùng rừng tràm nước mênh mông. Ấp Tà Keo là cứ điểm quan trọng để Việt Cộng xuất phát vượt qua LTL 8A ở cây số 15. Khi quân Cộng Sản từ Miên vượt qua mật khu Trà Tiên, di chuyển dọc theo kinh Kháng Chiến, đi về phía đông để về U-Minh, tới ấp Tà Keo thì chúng phải dừng quân, chờ trời tối, tình hình thuận tiện mới vượt qua LTL 8A ở cây số 15. Hạ tầng cơ sở Việt Cộng ở Tà Keo giữ nhiệm vụ giao liên, an ninh để bộ đội vượt lộ. Bên cạnh LTL là kinh Cái Sắn. Họ phải vượt qua kinh rồi mới vượt qua lộ, cố tránh khỏi bị quốc gia phục kích. Thường phe Quốc Gia phục kích bên bờ kinh hay bên lộ, chờ Việt Cộng vượt qua là nổ súng. Tình hình chỗ nầy rất căng. Phía Quốc Gia hoạt động rất ráo riết để cố ngăn chận không cho Việt Cộng đi qua. Phía Việt Cộng thì cố sống cố chết vượt qua cho được.

Cuối năm 1974, đầu 1975, khi tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, ông rất chú trọng nơi nầy, ra lệnh cho các lực lượng địa phương như Quận, Tỉnh và cả Khu phải hết sức ngăn chận Việt Cộng qua lộ. Trước khi có lệnh tướng Nam, tôi từng dẫn vài chục lính phục kích Việt Cộng ở đây nhưng lại đụng nhằm cỡ một trung đoàn quân Việt Cộng qua lộ, đành phải ôm súng nằm im mà run. Bọn chúng đông như thế, nổ súng, bọn chúng tới đạp lên đầu mình cũng đủ chết, nói chi tới chuyện đánh nhau. Chuyện nầy hồi sau xin kể tiếp.

Trở lại chuyện ấp Tà Keo. Ấp Tà Keo thuộc xã Mỹ Lâm. Việt Cộng cố sống cố chết giữ Tà Keo. Muốn giữ Tà Keo phải mở rộng hoạt động toàn xã Mỹ Lâm. Đó là lý do tại sao xã Mỹ Lâm có nhiều Việt Cộng và NTD thoát ly theo Việt Cộng sau khi học xong bậc tiểu học.

hoànglonghải (tuệchương)

(1) Xã Mông Thọ thuộc tiểu khu Rạch Giá (Secteur de Rachgia là nói theo Tây). Trung úy Trần Thiện Khiêm vào ra tiểu khu nầy và quen chị Tư Nết, con ông chủ Ry, trước 1945 là điền chủ nay là chủ câu lạc bộ. Dân Rạch Giá nói rằng đó là giây nhợ để sau nầy ông trung úy Quân Đội Quốc Gia cưới chị Tư Nết. Phần sau sẽ xin nói thêm về ông chủ Ry.

2. Từ Xã Mỹ Lâm đến Dinh Điền Cái Sắn



Sau khi có bằng tiểu học, cũng hơn 10 tuổi vì ở nhà quê trẻ con thường đi học chậm, NTD thoát ly vào mật khu theo Việt Cộng.

Tại sao ông ta theo Việt Cộng. Điều nầy rắc rối lắm, xin phân giải từ từ.

Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-54), lần thứ hai (1960-75) và lần thứ ba (1979-89), bao giờ xứ chùa Tháp cũng đóng một vai trò quan trọng. Chiến trường thì xảy ra bên phía Việt Nam, còn hậu cần thì nằm ở Kampuchia. Không tấn công vào hậu cần, chiến tranh khó chấm dứt. Đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa âm mưu đảo chánh Sihanouk hay quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tấn công qua Miên hồi tháng 3 năm 1970.

Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, người và vũ khí từ Kampuchia chuyển qua tiếp tế cho quân Cộng Sản ở miền Tây Nam Bộ. Con đường tiếp vận của Việt Minh (danh xưng hồi đó) từ Miên xuyên qua mật khu Trà Tiên, vượt qua đoạn đường phía bắc thị xã Rạch Giá và thẳng về U-Minh.

Vì vùng nầy đất thấp, tới mùa nước, nước tràn lên khắp mọi chỗ, ngoại trừ vùng Thất Sơn (Việt Cộng gọi là Bảy Núi). Ai đọc “Mùa Len Trâu” của Sơn Nam trong quyển “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang” thì biết hiện tượng nầy. Người ta chỉ có thể dùng thuyền, ghe di chuyển. Tới khi nước rút, di chuyển theo kinh rạch là tiện lợi nhứt. Vì vậy, hồi đó, Việt Minh cho đào một con kinh nhỏ dọc theo ranh giới hai tỉnh Long Xuyên-Rạch Giá. Kinh nầy được đặt tên là kinh Kháng Chiến vì nó được đào trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Sau nầy, trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, con đường di chuyển nầy của Việt Cộng được gọi là đường giây 1C. Đường giây 1C từ Miên, qua mật khu Trà Tiên, vượt qua LTL 8A ở cây số 15 bắc thị xã Rạch Giá, thuộc xã Mông Thọ, (Cách thị xã Rạch Giá 15Km) và đi thẳng về Chương Thiện-U Minh.

Tại sao vượt qua ở Cây Số 15 mà không qua chỗ Dinh Điền Cái Sắn như trong cuộc chiến tranh trước. Dễ hiểu thôi. Dân Dinh Điền Cái Sắn là dân Bắc di cư 1954. Việt Cộng đút đầu vào đó là coi như đút đầu vào rọ.

Hồi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, vì vùng Dinh Điền Cái Sắn chưa có nên việc vượt qua LTL 8A rất dễ dàng. Đại tướng Trần Thiện Khiêm khi đó còn mang “loon” trung úy, chỉ huy một đơn vị Quân Đội Quốc Gia đóng ở Mông Thọ, có thể đêm đêm nghe tiếng bộ đội Việt Minh vượt qua LTL 8A ở đoạn Cái Sắn mà không dám động tỉnh (1). Đoạn nầy, có cụ già Nam Bộ kể cho tôi nghe: “Tụi nó di chuyển qua lại như đi chợ.”

Vùng Cái Sắn ngày xưa là vùng ruộng của mấy ông chủ điền, ruộng cò bay thẳng cánh hay còn gọi là “Đồng Chó Ngáp”, cũng là chỗ nầy. Kể từ kinh Núi Sập tới kinh Cái Sắn (Còn gọi là Thạnh Đông) dài 12Km. Từ kinh Thạnh Đông tới kinh Thạnh Tây cũng dài 12Km. Có con chó nào chạy một mạch từ kinh Núi Sập tới kinh Thạnh Tây dài 24Km mà không ngáp mới thật là chó hay?!

Vùng nầy đất thấp, chỉ làm lúa sạ. Mỗi năm, mùa hè, sau khi gặt xong, đồng bỏ hoang. Khi chuẩn bị làm ruộng mùa tới thì người ta đốt đồng. Dân địa phương cũng gọi là “Mùa Đốt Đồng”. Cứ sau trưa một chút, chờ có gió mạnh, người ta giăng một cái lưới phía dưới gió, rồi đi ngược lên phía trên gió, cầm một cây đuốc mà đốt những gốc rạ, bụi cây khô. Buổi chiều, gió thổi mạnh, lửa cháy rần rần. Vậy là thỏ, rùa, rắn, chồn, cáo, cần đước, ba ba, tranh nhau chạy trốn. Chúng chạy về hướng cuối gió, chui vào lưới mà nằm, chờ người ta tới nắm cổ lôi đi bán hay làm thịt nhậu chơi. Vùng nầy dân ưa nhậu thịt rắn. Nếu độc giả tới thăm họ, gặp người quí khách, họ sẽ mời quí độc giả nhậu thịt rắn. Con rắn - thường là loại rắn độc mới bổ -, được làm thịt, móc ruột, luộc chín, chặt khúc, sắp từng khúc quanh cái dĩa bàn to, tưởng như con rắn đang nằm ngủ. Ai có gan thì cầm đũa gắp ra ăn. Tôi thì chịu vì tôi là chúa sợ rắn. Ngoài thịt rắn, còn có một nồi cháo rắn, “ăn dằn bụng” trước khi tan hàng. Phải được người dân quí lắm, họ mới mời mình nhậu thịt rắn. Khoảng thập niên cuối 60 đầu 70, một con gà giá chỉ vài trăm bạc, còn một con rắn giá 2 ngàn. Mời nhậu thịt gà, có phải rẻ hơn không!

Đốt đồng xong, người ta bắt đầu cày. Lần đầu thì gọi là cày lật, nghĩa là cày sao cho đất lật úp, cỏ xuống dưới, đất lên trên. Cỏ sẽ bị thúi mà chết, thành ra phân hữu cơ. Lần sau thì cày cho đất nhỏ ra, chờ nước lên - khoảng tháng 8 tháng 9 âm lịch – đem lúa ra sạ. Lúa lên, nước lên. Gần tết, nước rút xuống, lúa cũng bắt đầu chín. Khi nước rút hết thì người ta lo gặt. Lúa gặt xong đem sắp vòng tròn cho xe máy cày chạy quanh cán lên cho hột rời ra. Lúa chất thành đống cao như ngọn đồi, dân địa phương gọi là “cà tang” lúa. Có lẽ “cà tang” là tiếng Miên. Hôm qua đi ngang, thấy đồng trống không, nay thấy có ngọn đồi hiện ra xa xa. Đó là “cà-tang” lúa. Bên phía Dinh Điền Cái Sắn thì Việt Cộng không dám, còn bên phía Cờ Đỏ, thuộc Long Xuyên, bọn kinh tài đêm khuya thường mò ra thu thuế nông nghiệp. Bọn nó thâu thuế “ác lắm”, nghĩa là thuế cao lắm nên dân chúng ghét. Nhờ đó mà phe Quốc Gia biết chúng xuất hiện ở đâu để “phục kích lấy tiền nhậu chơi”. Hễ tới mùa lúa thì bọn nó thu thuế nông nghiệp, mùa cày thì chúng nó thu thuế máy cày, cũng “ác” như thu thuế nông nghiệp. Tới mùa chúng nó đi thu thuế, “phe ta” đi săn giặc nên tôi gọi giặc ở đây là “Giặc Mùa.” Chuyện nầy cũng sẽ nói thêm về sau. Hồi xưa, người ta cày bằng trâu, chủ điền nuôi hàng trăm con trâu mới đủ cày. Như ông chủ Ry, bố vợ ông Trần Thiện Khiêm nuôi những hai trăm con trâu. Đó cũng là đề tài truyện “Mùa Len Trâu” của Sơn Nam nay đã được quay thành phim. Thời Ngô Đình Diệm phải nhập trâu Murat bên Ấn Độ về cho dân cày. Sau nầy thì cày bằng máy. Máy cày John Deer, Somecar, v.v… rất được dân chúng ưa chuộng.

Tôi không rành cách tính diện tích ruộng ở đây. Người ta tính theo công: Công tầm cắt và công tầm điền khác nhau. Năm nào trúng, mỗi công được khoảng trên dưới 35 giạ là cao. Có năm trên 40 chục giạ là trúng lắm.

Việt Minh nổi lên bắt giết, bỏ tù (Rồi cũng chết trong tù luôn) các ông chủ điền. Hầu hết chủ điền chạy trốn lên Rạch Giá, Cần Thơ hay Saigon. Việt Minh gọi là “theo Tây”. Không theo Tây cũng không được, bị Việt Minh giết sao?! Ruộng của họ sau nầy, thời Đệ Nhứt Cộng Hòa bị truất hữu để lập Dinh Điền Cái Sắn. Sau nầy, tôi cũng có gặp vài người là con cháu của mấy ông chủ điền ngày trước. Nói chung, họ đã sa cơ và nghèo túng, tuy vẫn còn mang cái tên Tây như Bôn, gốc là Paul; Răng, gốc là Jean. Bố vợ ông Trần Thiện Khiêm, dân chúng gọi là ông chủ Ri, vì tên Tây là Henry, con trai lớn ông nầy, tên là Hai Re vì tên Tây là Robert và chị Tư Nết, chính hiệu con nai vàng là Annette, đích thị là bà Trần Thiệm Khiêm. Chuyện gia đình nầy sẽ kể thêm ở phần sau, cũng là chuyện vui mà thôi! Cũng có người tên họ cũng hay, nửa Nôm nửa Hán như anh bạn Trần Thông Đến của tôi, con một ông chủ điền lớn ở Cái Sắn trước 1945. Anh nầy thường hay trốn làm việc để “đi mây về gió” nên ai hỏi tới thì tôi nói đùa là Trần Không Đến.

Khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai nổ ra thì Dinh Điền Cái Sắn đã thành lập xong, kéo dài từ ngã Ba Lộ Tẻ Long Xuyên tới Kinh Tư gần xã Mông Thọ. Việt Cộng không thể vượt qua LTL 8A dễ dàng. Cây số 15 là điểm duy nhất, Việt Cộng cố sống cố chết để vượt qua LTL ở đây.

Cách Cây Số 15 cỡ 10 Km, về phía tây là ấp Tà Keo. Gọi là ấp nhưng thật ra đó là một vùng rừng tràm nước mênh mông. Ấp Tà Keo là cứ điểm quan trọng để Việt Cộng xuất phát vượt qua LTL 8A ở cây số 15. Khi quân Cộng Sản từ Miên vượt qua mật khu Trà Tiên, di chuyển dọc theo kinh Kháng Chiến, đi về phía đông để về U-Minh, tới ấp Tà Keo thì chúng phải dừng quân, chờ trời tối, tình hình thuận tiện mới vượt qua LTL 8A ở cây số 15. Hạ tầng cơ sở Việt Cộng ở Tà Keo giữ nhiệm vụ giao liên, an ninh để bộ đội vượt lộ. Bên cạnh LTL là kinh Cái Sắn. Họ phải vượt qua kinh rồi mới vượt qua lộ, cố tránh khỏi bị quốc gia phục kích. Thường phe Quốc Gia phục kích bên bờ kinh hay bên lộ, chờ Việt Cộng vượt qua là nổ súng. Tình hình chỗ nầy rất căng. Phía Quốc Gia hoạt động rất ráo riết để cố ngăn chận không cho Việt Cộng đi qua. Phía Việt Cộng thì cố sống cố chết vượt qua cho được.

Cuối năm 1974, đầu 1975, khi tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, ông rất chú trọng nơi nầy, ra lệnh cho các lực lượng địa phương như Quận, Tỉnh và cả Khu phải hết sức ngăn chận Việt Cộng qua lộ. Trước khi có lệnh tướng Nam, tôi từng dẫn vài chục lính phục kích Việt Cộng ở đây nhưng lại đụng nhằm cỡ một trung đoàn quân Việt Cộng qua lộ, đành phải ôm súng nằm im mà run. Bọn chúng đông như thế, nổ súng, bọn chúng tới đạp lên đầu mình cũng đủ chết, nói chi tới chuyện đánh nhau. Chuyện nầy hồi sau xin kể tiếp.

Trở lại chuyện ấp Tà Keo. Ấp Tà Keo thuộc xã Mỹ Lâm. Việt Cộng cố sống cố chết giữ Tà Keo. Muốn giữ Tà Keo phải mở rộng hoạt động toàn xã Mỹ Lâm. Đó là lý do tại sao xã Mỹ Lâm có nhiều Việt Cộng và NTD thoát ly theo Việt Cộng sau khi học xong bậc tiểu học.

hoànglonghải (tuệchương)

(1) Xã Mông Thọ thuộc tiểu khu Rạch Giá (Secteur de Rachgia là nói theo Tây). Trung úy Trần Thiện Khiêm vào ra tiểu khu nầy và quen chị Tư Nết, con ông chủ Ry, trước 1945 là điền chủ nay là chủ câu lạc bộ. Dân Rạch Giá nói rằng đó là giây nhợ để sau nầy ông trung úy Quân Đội Quốc Gia cưới chị Tư Nết. Phần sau sẽ xin nói thêm về ông chủ Ry.

2. Từ Xã Mỹ Lâm đến Dinh Điền Cái Sắn



Sau khi có bằng tiểu học, cũng hơn 10 tuổi vì ở nhà quê trẻ con thường đi học chậm, NTD thoát ly vào mật khu theo Việt Cộng.

Tại sao ông ta theo Việt Cộng. Điều nầy rắc rối lắm, xin phân giải từ từ.

Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-54), lần thứ hai (1960-75) và lần thứ ba (1979-89), bao giờ xứ chùa Tháp cũng đóng một vai trò quan trọng. Chiến trường thì xảy ra bên phía Việt Nam, còn hậu cần thì nằm ở Kampuchia. Không tấn công vào hậu cần, chiến tranh khó chấm dứt. Đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa âm mưu đảo chánh Sihanouk hay quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tấn công qua Miên hồi tháng 3 năm 1970.

Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, người và vũ khí từ Kampuchia chuyển qua tiếp tế cho quân Cộng Sản ở miền Tây Nam Bộ. Con đường tiếp vận của Việt Minh (danh xưng hồi đó) từ Miên xuyên qua mật khu Trà Tiên, vượt qua đoạn đường phía bắc thị xã Rạch Giá và thẳng về U-Minh.

Vì vùng nầy đất thấp, tới mùa nước, nước tràn lên khắp mọi chỗ, ngoại trừ vùng Thất Sơn (Việt Cộng gọi là Bảy Núi). Ai đọc “Mùa Len Trâu” của Sơn Nam trong quyển “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang” thì biết hiện tượng nầy. Người ta chỉ có thể dùng thuyền, ghe di chuyển. Tới khi nước rút, di chuyển theo kinh rạch là tiện lợi nhứt. Vì vậy, hồi đó, Việt Minh cho đào một con kinh nhỏ dọc theo ranh giới hai tỉnh Long Xuyên-Rạch Giá. Kinh nầy được đặt tên là kinh Kháng Chiến vì nó được đào trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Sau nầy, trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, con đường di chuyển nầy của Việt Cộng được gọi là đường giây 1C. Đường giây 1C từ Miên, qua mật khu Trà Tiên, vượt qua LTL 8A ở cây số 15 bắc thị xã Rạch Giá, thuộc xã Mông Thọ, (Cách thị xã Rạch Giá 15Km) và đi thẳng về Chương Thiện-U Minh.

Tại sao vượt qua ở Cây Số 15 mà không qua chỗ Dinh Điền Cái Sắn như trong cuộc chiến tranh trước. Dễ hiểu thôi. Dân Dinh Điền Cái Sắn là dân Bắc di cư 1954. Việt Cộng đút đầu vào đó là coi như đút đầu vào rọ.

Hồi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, vì vùng Dinh Điền Cái Sắn chưa có nên việc vượt qua LTL 8A rất dễ dàng. Đại tướng Trần Thiện Khiêm khi đó còn mang “loon” trung úy, chỉ huy một đơn vị Quân Đội Quốc Gia đóng ở Mông Thọ, có thể đêm đêm nghe tiếng bộ đội Việt Minh vượt qua LTL 8A ở đoạn Cái Sắn mà không dám động tỉnh (1). Đoạn nầy, có cụ già Nam Bộ kể cho tôi nghe: “Tụi nó di chuyển qua lại như đi chợ.”

Vùng Cái Sắn ngày xưa là vùng ruộng của mấy ông chủ điền, ruộng cò bay thẳng cánh hay còn gọi là “Đồng Chó Ngáp”, cũng là chỗ nầy. Kể từ kinh Núi Sập tới kinh Cái Sắn (Còn gọi là Thạnh Đông) dài 12Km. Từ kinh Thạnh Đông tới kinh Thạnh Tây cũng dài 12Km. Có con chó nào chạy một mạch từ kinh Núi Sập tới kinh Thạnh Tây dài 24Km mà không ngáp mới thật là chó hay?!

Vùng nầy đất thấp, chỉ làm lúa sạ. Mỗi năm, mùa hè, sau khi gặt xong, đồng bỏ hoang. Khi chuẩn bị làm ruộng mùa tới thì người ta đốt đồng. Dân địa phương cũng gọi là “Mùa Đốt Đồng”. Cứ sau trưa một chút, chờ có gió mạnh, người ta giăng một cái lưới phía dưới gió, rồi đi ngược lên phía trên gió, cầm một cây đuốc mà đốt những gốc rạ, bụi cây khô. Buổi chiều, gió thổi mạnh, lửa cháy rần rần. Vậy là thỏ, rùa, rắn, chồn, cáo, cần đước, ba ba, tranh nhau chạy trốn. Chúng chạy về hướng cuối gió, chui vào lưới mà nằm, chờ người ta tới nắm cổ lôi đi bán hay làm thịt nhậu chơi. Vùng nầy dân ưa nhậu thịt rắn. Nếu độc giả tới thăm họ, gặp người quí khách, họ sẽ mời quí độc giả nhậu thịt rắn. Con rắn - thường là loại rắn độc mới bổ -, được làm thịt, móc ruột, luộc chín, chặt khúc, sắp từng khúc quanh cái dĩa bàn to, tưởng như con rắn đang nằm ngủ. Ai có gan thì cầm đũa gắp ra ăn. Tôi thì chịu vì tôi là chúa sợ rắn. Ngoài thịt rắn, còn có một nồi cháo rắn, “ăn dằn bụng” trước khi tan hàng. Phải được người dân quí lắm, họ mới mời mình nhậu thịt rắn. Khoảng thập niên cuối 60 đầu 70, một con gà giá chỉ vài trăm bạc, còn một con rắn giá 2 ngàn. Mời nhậu thịt gà, có phải rẻ hơn không!

Đốt đồng xong, người ta bắt đầu cày. Lần đầu thì gọi là cày lật, nghĩa là cày sao cho đất lật úp, cỏ xuống dưới, đất lên trên. Cỏ sẽ bị thúi mà chết, thành ra phân hữu cơ. Lần sau thì cày cho đất nhỏ ra, chờ nước lên - khoảng tháng 8 tháng 9 âm lịch – đem lúa ra sạ. Lúa lên, nước lên. Gần tết, nước rút xuống, lúa cũng bắt đầu chín. Khi nước rút hết thì người ta lo gặt. Lúa gặt xong đem sắp vòng tròn cho xe máy cày chạy quanh cán lên cho hột rời ra. Lúa chất thành đống cao như ngọn đồi, dân địa phương gọi là “cà tang” lúa. Có lẽ “cà tang” là tiếng Miên. Hôm qua đi ngang, thấy đồng trống không, nay thấy có ngọn đồi hiện ra xa xa. Đó là “cà-tang” lúa. Bên phía Dinh Điền Cái Sắn thì Việt Cộng không dám, còn bên phía Cờ Đỏ, thuộc Long Xuyên, bọn kinh tài đêm khuya thường mò ra thu thuế nông nghiệp. Bọn nó thâu thuế “ác lắm”, nghĩa là thuế cao lắm nên dân chúng ghét. Nhờ đó mà phe Quốc Gia biết chúng xuất hiện ở đâu để “phục kích lấy tiền nhậu chơi”. Hễ tới mùa lúa thì bọn nó thu thuế nông nghiệp, mùa cày thì chúng nó thu thuế máy cày, cũng “ác” như thu thuế nông nghiệp. Tới mùa chúng nó đi thu thuế, “phe ta” đi săn giặc nên tôi gọi giặc ở đây là “Giặc Mùa.” Chuyện nầy cũng sẽ nói thêm về sau. Hồi xưa, người ta cày bằng trâu, chủ điền nuôi hàng trăm con trâu mới đủ cày. Như ông chủ Ry, bố vợ ông Trần Thiện Khiêm nuôi những hai trăm con trâu. Đó cũng là đề tài truyện “Mùa Len Trâu” của Sơn Nam nay đã được quay thành phim. Thời Ngô Đình Diệm phải nhập trâu Murat bên Ấn Độ về cho dân cày. Sau nầy thì cày bằng máy. Máy cày John Deer, Somecar, v.v… rất được dân chúng ưa chuộng.

Tôi không rành cách tính diện tích ruộng ở đây. Người ta tính theo công: Công tầm cắt và công tầm điền khác nhau. Năm nào trúng, mỗi công được khoảng trên dưới 35 giạ là cao. Có năm trên 40 chục giạ là trúng lắm.

Việt Minh nổi lên bắt giết, bỏ tù (Rồi cũng chết trong tù luôn) các ông chủ điền. Hầu hết chủ điền chạy trốn lên Rạch Giá, Cần Thơ hay Saigon. Việt Minh gọi là “theo Tây”. Không theo Tây cũng không được, bị Việt Minh giết sao?! Ruộng của họ sau nầy, thời Đệ Nhứt Cộng Hòa bị truất hữu để lập Dinh Điền Cái Sắn. Sau nầy, tôi cũng có gặp vài người là con cháu của mấy ông chủ điền ngày trước. Nói chung, họ đã sa cơ và nghèo túng, tuy vẫn còn mang cái tên Tây như Bôn, gốc là Paul; Răng, gốc là Jean. Bố vợ ông Trần Thiện Khiêm, dân chúng gọi là ông chủ Ri, vì tên Tây là Henry, con trai lớn ông nầy, tên là Hai Re vì tên Tây là Robert và chị Tư Nết, chính hiệu con nai vàng là Annette, đích thị là bà Trần Thiệm Khiêm. Chuyện gia đình nầy sẽ kể thêm ở phần sau, cũng là chuyện vui mà thôi! Cũng có người tên họ cũng hay, nửa Nôm nửa Hán như anh bạn Trần Thông Đến của tôi, con một ông chủ điền lớn ở Cái Sắn trước 1945. Anh nầy thường hay trốn làm việc để “đi mây về gió” nên ai hỏi tới thì tôi nói đùa là Trần Không Đến.

Khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai nổ ra thì Dinh Điền Cái Sắn đã thành lập xong, kéo dài từ ngã Ba Lộ Tẻ Long Xuyên tới Kinh Tư gần xã Mông Thọ. Việt Cộng không thể vượt qua LTL 8A dễ dàng. Cây số 15 là điểm duy nhất, Việt Cộng cố sống cố chết để vượt qua LTL ở đây.

Cách Cây Số 15 cỡ 10 Km, về phía tây là ấp Tà Keo. Gọi là ấp nhưng thật ra đó là một vùng rừng tràm nước mênh mông. Ấp Tà Keo là cứ điểm quan trọng để Việt Cộng xuất phát vượt qua LTL 8A ở cây số 15. Khi quân Cộng Sản từ Miên vượt qua mật khu Trà Tiên, di chuyển dọc theo kinh Kháng Chiến, đi về phía đông để về U-Minh, tới ấp Tà Keo thì chúng phải dừng quân, chờ trời tối, tình hình thuận tiện mới vượt qua LTL 8A ở cây số 15. Hạ tầng cơ sở Việt Cộng ở Tà Keo giữ nhiệm vụ giao liên, an ninh để bộ đội vượt lộ. Bên cạnh LTL là kinh Cái Sắn. Họ phải vượt qua kinh rồi mới vượt qua lộ, cố tránh khỏi bị quốc gia phục kích. Thường phe Quốc Gia phục kích bên bờ kinh hay bên lộ, chờ Việt Cộng vượt qua là nổ súng. Tình hình chỗ nầy rất căng. Phía Quốc Gia hoạt động rất ráo riết để cố ngăn chận không cho Việt Cộng đi qua. Phía Việt Cộng thì cố sống cố chết vượt qua cho được.

Cuối năm 1974, đầu 1975, khi tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, ông rất chú trọng nơi nầy, ra lệnh cho các lực lượng địa phương như Quận, Tỉnh và cả Khu phải hết sức ngăn chận Việt Cộng qua lộ. Trước khi có lệnh tướng Nam, tôi từng dẫn vài chục lính phục kích Việt Cộng ở đây nhưng lại đụng nhằm cỡ một trung đoàn quân Việt Cộng qua lộ, đành phải ôm súng nằm im mà run. Bọn chúng đông như thế, nổ súng, bọn chúng tới đạp lên đầu mình cũng đủ chết, nói chi tới chuyện đánh nhau. Chuyện nầy hồi sau xin kể tiếp.

Trở lại chuyện ấp Tà Keo. Ấp Tà Keo thuộc xã Mỹ Lâm. Việt Cộng cố sống cố chết giữ Tà Keo. Muốn giữ Tà Keo phải mở rộng hoạt động toàn xã Mỹ Lâm. Đó là lý do tại sao xã Mỹ Lâm có nhiều Việt Cộng và NTD thoát ly theo Việt Cộng sau khi học xong bậc tiểu học.

hoànglonghải (tuệchương)

(1) Xã Mông Thọ thuộc tiểu khu Rạch Giá (Secteur de Rachgia là nói theo Tây). Trung úy Trần Thiện Khiêm vào ra tiểu khu nầy và quen chị Tư Nết, con ông chủ Ry, trước 1945 là điền chủ nay là chủ câu lạc bộ. Dân Rạch Giá nói rằng đó là giây nhợ để sau nầy ông trung úy Quân Đội Quốc Gia cưới chị Tư Nết. Phần sau sẽ xin nói thêm về ông chủ Ry.

 Blc. Đinh Thúy Yến Từ cổ chí kim, giai nhân cũng như những bông hoa tươi đẹp luôn luôn là một bảo vật thượng đế đã ban cho loài người. Người ta đã dùng tên hoa đẹp mà đặt cho người và những trường hợp lấy tên người đặt cho hoa cũng không phải là hiếm. Tên các giống hoa lan thường được đặt tên theo mầu sắc, hình dáng, địa danh còn có tên các nhà khoa học gia, tên những người có công trong việc tìm kiếm, nuôi trồng để vinh danh những vị này. Như vậy cũng chưa đủ, ngưới ta lại còn lấy tên của các mệnh phụ phu nhân mà đặt tên cho hoa nữa. Nếu bạn là người yêu thích hoa lan, khi vào mấy trang Web để tìm những bông hoa khác lạ, bạn sẽ thấy Blc. Đinh Thúy Yến. Bạn không khỏi ngạc nhiên khi thấy hàng loạt vườn lan nổi tiếng ở Hoa Kỳ, Pháp, Brazil quảng cáo cho cây lan này. Bạn lạ lùng tự hỏi người phụ nữ Việt Nam này là ai mà lại có tên xuất hiện trong danh mục hoa lan quốc tế? Truy cập theo tài liệu ghi chép trong danh bạ các hoa lan của hội Royal Horticulture Society (RHS) Anh Quốc, nơi công nhận chủ quyền thương mại của các giống hoa lan. Năm 1974, nhà nuôi lan danh tiếng tại Florida, Hoa Kỳ JONES & SCULLY đã đăng ký bản quyền thương mại của cây lan Brassiolaelio cattleya viết tắt là Blc. Đinh Thúy Yến. Cây lan này được ghép giống bởi 2 cây Bl. Lorraine Shirai và cây Blc. Jewel Glo. Cũng xin được nói cho rõ là lấy nhị đực của cây Blc. Jewel Glo ghép vào với hoa cuả cây Bl. Lorraine Shirai. Cây lan lai giống này mang tên Blc. Đinh Thúy Yến ʻOrchiglade IIʼ ra hoa đỏ vàng cam rực rỡ. Chúng ta cũng nên biết rằng bản quyền thương mại đã là nguyên nhân những vụ thưa kiện rắc rối và số tiền phạt vạ lên rất cao cho những kẻ manh tâm ăn cắp tác quyền. Theo luật về tác quyền, kể từ đó trở về sau, bất cứ ai ai khi cấy 2 cây Bl. Lorraine Shirai và Blc. Jewel Glo đều phải đặt tên là Blc. Đinh Thúy Yến dù rằng ghép ngược hay xuôi. Tên cây thụ phấn và ra kết trái tức là cây mẹ được viết trước, ghép ngược tức là lấy nhị của cây Bl. Lorraine Shirai bỏ vào hoa của cây Blc. Jewel Glo. Mấy năm sau một nhà trồng lan ở Hawaii , Carmela Orchids, lại ghép giống 2 cây này. Khi cây lan mới nở hoa, Carmela Orchids mang đi triển lãm và đoạt giải nhì của Hội hoa lan Hoa Kỳ: Award Merit, American Orchid Society (AM/AOS) và cầu chứng bản quyền thương mại với tên Blc. Đinh Thúy Yến ʻCarmela Orchidʼ AM/AOS. Tuy nhiên hoa của Carmela Orchids mầu khác hẳn với mầu của cây do Jones & Scully, bởi vì khi ghép giống bằng hạt tuy cùng do một quả lan có một số sẽ giống cây cha và một số giống sẽ giống cây mẹ và chúng hoàn toàn khác nhau. Vì vậy hoa cây Blc. Đinh Thúy Yến ʻOrchiglade Iʼ không đẹp bằng cây số II. Chỉ có phương pháp cấy mô (Mericlone) tức là cấy bằng tế bào của rễ hay mầm cây mới hoàn toàn giống nhau 100%. Hội Hoa Lan Việt Nam www.hoalanvietnam.org Rồi những năm sau đó các cây lan ghép giống từ cây Blc. Đinh Thúy Yến với các cây lan khác lần lượt ra đời. Nhà trồng lan Fordyce Ochids do cặp vợ chồng Sue & Frank Fordice làm chủ tại Livermore, California, nổi tiếng vì đã cấy giống nhiều cây Cattleya đẹp đẽ cũng ghép cây Blc. Đinh Thúy Yến với cây Slc. Madde Fordyce ra một giống lan mới hoa mầu đỏ rất đẹp. Ngày nay trên thị trường thương mại cũng như người yêu chuộng loài lan Cattleya đều thích dùng cây Blc. Đinh Thúy Yến như một cây chính yếu để ghép giống cho nhiều cây lan khác. Xin kể một vài cây đã được ghép giồng với cây lan Blc. Binh Thúy Yến:  Blc. Đinh Thúy Yến x C. Choolate Drop  Blc. Đinh Thúy Yến Carmela AM/AOS x Lc. Dorothy Warne Favor  Blc. Đinh Thúy Yến x Lc. Owen Homes Betty  Blc. Đinh Thúy Yến x Blc. Waikiki Sunset  Blc. Honolulu Sunset x Blc. Đinh Thúy Yến  Blc. Sunset Bay x Blc. Đinh Thúy Yến  Blc. Déesse  Blc. Gold Digger x Blc. Đinh Thúy Yến x Blc. Đinh Thúy Yến 


 Đến đây chúng ta muốn biết Đinh Thúy Yến là ai? Xin thưa đó là phu nhân của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Người viết có hân hạnh gần gũi với ông bà Khiêm khi ông giữ chức Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ binh tại Biên Hòa vào năm 1958. Ngày ấy mỗi khi rảnh rỗi, ông và tôi đi thường săn khi tại Long Thành, Bà Ria, khi tại Phước Tuy, Định Quán hay Blao v.v... Chúng tôi say mê săn bắn đến nỗi có kẻ ganh ghét nói với bà Khiêm và vợ tôi rằng chúng tôi đi săn “Nai móng đỏˮ. Sau này, ông tâm sự rằng đó là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Vì không phải là Cần Lao, Công giáo cho nên ông đang giữ chức Tham Mưu Trưởng, Bộ Tổng Tham Mưu bỗng dưng vô cớ lại xuống Tư lệnh Sư đoàn. Nhưng thôi ta hãy bỏ qua những việc bất công vô lý này và chính trị rắc rối, phức tạp về sau và mà hãy trở về câu chuyện hoa lan. Vào khoảng năm 1972, một người Hoa Kỳ rất yêu thích hoa lan làm việc tại Việt Nam đã đến xin phép lấy tên bà Khiêm, khuê danh Đinh Thúy Yến để đặt tên cho cây lan ông ta đã ghép giống. Cũng vào dịp này, người Hoa Kỳ đó có xin phép bà Nguyễn văn Thiệu đặt tên cho cây lan mang tên Blc. Mai Anh. Ngay cả những vị phu nhân của Tổng thống Hoa Kỳ như Bush, Carter, Ford v.v... đều được dùng để đặt cho hoa lan, nhưng có lẽ những hoa này không được đẹp cho nên không thấy mặt thấy tên trên thị trường hoa lan quốc tế. Âu cũng là một vinh dự cho người phụ nữ Việt Nam mang tên Đinh Thúy Yến. Bà Trần Thiện Khiêm tuy không phải là một tuyệt thế giai nhân, nhưng là một người đẹp nhất trong số các mệnh phụ phu nhân. Bà là một người lịch sự, khéo leó ăn nói, rất nhã nhặn và mềm mỏng đối với mọi nguời. Ngày 17 tháng 11, năm 2004 tại Virginia, bà đã từ giã cuộc đời tục lụy, đầy những đua chen, tranh chấp thấp hèn, đi vào bên kia thế giới. Bà mất đi, nhưng những bông hoa tươi đẹp mang tên bà, cũng như con cháu của các cây lan này đã và sẽ tiếp tục tăng thêm làn hương quý phái, mầu sắc lộng lẫy, huy hoàng cho loài lan kỳ dịệu vốn đã được mệnh danh là bà chúa của muôn hoa (Cattleya, The Queen of flowers). Placentia 6/05

 

Đại tướng Trần Thiện Khiêm vĩnh biệt

Tran Thien Khiem

Cựu tướng Trần Thiện Khiêm.

Nhiều người nghe tin Đại tướng Trần Thiện Khiêm qua đời mới nhớ đến ông, biết ông đã sống thọ gần 100 tuổi.

Cả đời ông sống đã kín đáo như vậy, mặc dù đã giữ nhiều chức vụ lãnh đạo ở miền Nam Việt Nam, từ 1963 đến 1975.
Có lúc ông ngồi trong “Tam Đầu Chế” (troika) nắm quyền cao nhất nước, gồm Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm.

Sau lại làm thủ tướng với ông Nguyễn Văn Thiệu một thời gian rất dài.
Sau 1975 ông Trần Thiện Khiêm cũng sống bình lặng, chỉ thấy ông xuất hiện một lần năm 2013, đi với Đề đốc Trần Văn Chơn và Tướng Nguyễn Khắc Bình thăm Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa ở San Jose.

Tình cờ tôi mới đọc mấy câu chuyện về Đại tướng Trần Thiện Khiêm trong một cuốn sách mới xuất bản viết về Việt Nam Cộng Hòa của George J. Veith, do bạn Trịnh Bình An gửi tặng.
Đây là một cuốn sách ra rất trễ, nhưng có nhiều chuyện chưa ai kể về thời Đệ Nhị Cộng Hòa .

Chẳng hạn, về Đại tướng Trần Thiện Khiêm, George Veith cho biết ông Khiêm đã từng vào bưng theo “kháng chiến” năm 1947, với ba người bạn cùng tốt nghiệp trường huấn luyện quân sự của Pháp ở Đà Lạt.

Chỉ bốn tháng sau, biết rõ Việt Minh là cộng sản, ông đã bỏ về. Ông Nguyễn Khánh đi kháng chiến lâu hơn, một năm mới từ giã cộng sản.
Ông Nguyễn Văn Thiệu trải qua kinh nghiệm như ông Khiêm. George Veith kể rằng tay cán bộ cộng sản tiếp đón những nhóm Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm khi họ vào bưng, là Phạm Ngọc Thảo, một trùm gián điệp cộng sản.

Theo lời Võ Văn Kiệt, năm 1954 chính Lê Duẩn ra lệnh Phạm Ngọc Thảo ở lại nằm vùng. Thảo về thành, bám áo Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục để tìm đường leo lên; từ năm 1963 đã xúi dục mấy vụ đảo chính để gây rối loạn.

George Veith mới xuất bản cuốn “Drawn Swords in a Distant Land” cung cấp nhiều chuyện hậu trường thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ông đã in cuốn “Tháng Tư Đen” về những ngày cuối cùng cùa chiến tranh Việt Nam, sau hai cuốn viết về việc tìm kiếm binh sĩ Mỹ mất tích.
Phải là một người “không sợ súng,” mới viết thêm một cuốn sách về đề tài “quá cũ” đó.

George Veith không có “nợ nần” gì với Việt Nam; khi đến tuổi “quân dịch” thì cuộc chiến đã chấm dứt.

 Có máu một nhà báo hơn là một sử gia, Veith đã phỏng vấn rất nhiều “người trong cuộc” ngoài những tài liệu trong sách vở. Và anh thận trọng như một nhà báo; mỗi khi nói điều gì do một người tiết lộ thì anh đi hỏi người khác về cùng câu chuyện đó.

Cũng nhờ dựa vào các cuộc phỏng vấn cá nhân, Veith cho người đọc nhìn lại thời Việt Nam Cộng Hòa với các chi tiết từ đó các nhân vật nổi tiếng hiện ra như những “con người thật,” không phải chỉ là các “ông tướng” hay “nhà chính trị.”
Các biến cố được kể lại cũng phức tạp hơn, nhiều mâu thuẫn tế nhị hơn, không phải chỉ có bên trắng bên đen như các người trong cuộc viết hồi ký thuật chuyện về mình.

Trong phần Danh Mục (Index) ở cuối sách, sau hai tên Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, tên Đại tướng Trần Thiện Khiêm được nhắc tới nhiều nhất.
Mặc dù Trần Thiện Khiêm không ủng hộ ông Ngô Đình Diệm trong cuộc tranh chấp với Nguyễn Văn Hinh, ông được thăng cấp rất nhanh từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

 Sau cuộc đảo chính hụt 1960 ông Khiêm cũng như ông Thiệu đều bị điều tra. Ông Khiêm được ông Huỳnh Văn Lang, một người góp phần sáng lập đảng Cần Lao, bảo đảm, để đưa ông vào đảng.
Nhưng ông không cải đạo theo Thiên Chúa Giáo, mãi đến năm 2018 ông mới rửa tội, lấy tên thánh Phao Lô.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì khác, năm 1951 ông đã cưới một cô theo Công Giáo, sau một năm “tranh đấu” để được thân sinh cho phép cải đạo. Nhưng ông không rửa tội; cũng không gia nhập đảng Cần Lao.

Năm 1955 ông Thiệu mất các chức vụ chỉ huy, đưa lên “ngồi chơi xơi nước” coi trường Võ Bị Đà Lạt.
Ba năm sau ông mới chịu rửa tội, do Linh mục Bửu Dưỡng, một lý thuyết gia của chủ nghĩa Nhân Vị Thiên Chúa Giáo. Có lẽ nhờ thế nên ông Thiệu được trở lại chỉ huy các đơn vị có quân sĩ, chuyển ngôi trường Võ Bị cho Lê Văn Kim, một ông tướng “gốc Tây” bị ông Diệm nghi ngờ.

George Veith kể một chuyện “hậu trường” về quan hệ giữa hai ông Lê Văn Kim và Ngô Đình Nhu, liên can đến nhiều gia đình nổi tiếng.
Ông Kim lấy em gái Tướng Trần Văn Đôn, có lúc ở Đà Lạt trong ngôi biệt thự của song thân Tướng Đôn. Hai cụ lại quen thân với Luật sư Trần Văn Chương, mà cô con gái Trần Lệ Xuân lấy ông Ngô Đình Nhu năm 1943.

Vì chỗ quen biết đó, vợ chồng ông Nhu đã có lần tạm trú ở nhà ông Lê Văn Kim trên Đà Lạt, trong cuốn sách có hình chụp cả hai gia đình năm 1947.
Năm 1960, nhóm đảo chính hụt công bố danh sách một chính quyền lâm thời, để tên ông Lê Văn Kim làm chức thủ tướng.
Chắc vì ông Vương Văn Đông, người chủ mưu, quen ông Kim khi cùng đi Mỹ dự một khóa học tham mưu năm 1958.

Sau cuộc đảo chính bất thành, ông Diệm sai Tướng Tôn Thất Đính lên Đà Lạt bắt Lê Văn Kim. Ông Kim lo sẽ bị giết, xin về nhà lấy quần áo, nhân đó gọi điện thoại cho ông Ngô Đình Nhu; phân trần mình không biết gì đến âm mưu phản loạn!
Ông Nhu siêu lòng, cho một chiếc máy bay lên đón ông Kim về Sài Gòn.

Ông Nhu cho ông Kim làm phụ tá cho Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang giữ một chức vụ “ngồi chơi xơi nước” ở Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông Kim không có việc gì làm, hay đi thăm người anh vợ là Tướng Trần Văn Đôn, chỉ huy vùng I Chiến thuật.
Kim thường rủ Dương Văn Minh cùng đi Huế. Ba người này, sau là nhóm tổ chức cuộc đảo chính năm 1963, hai ông Diệm, Nhu bị giết.

Nhưng vào tháng Mười năm 1963, ba ông tướng này không thể điều động các đơn vị quân đội mà qua mặt Chánh văn phòng Bộ Tổng Tham Mưu, lúc đó là Tướng Trần Thiện Khiêm.

Dương Văn Minh đi thăm dò ông Khiêm; lúc đó mới biết Khiêm cũng đang bàn chuyện đảo chánh với Nguyễn Khánh!
Năm 1960, Tướng Khánh là người đã “leo hàng rào” vào Dinh Độc Lập, rồi từ trong đó điện thoại cho các đơn vị vùng IV kêu họ về giải vây cho ông Diệm.

Những câu chuyện nho nhỏ trên cũng đáng đem ra kể cho mọi người biết thêm về hậu trường chính trị Việt Nam Cộng Hòa.
George Veith đã phỏng vấn bao nhiêu người để cung cấp các chi tiết tỉ mẩn đó. Có lẽ nhiều năm sau khi tấn kịch đã hạ màn, các tình tự yêu ghét đã nguội bớt, những người được phỏng vấn cũng khách quan hơn.

George Veith xin phỏng vấn bà Nguyễn Văn Thiệu không được, nhờ cựu bộ trưởng Cao Văn Thân năn nỉ giúp và đứng ra làm thông dịch.
Ông Trần Thiện Khiêm cũng từ chối không cho George Veith phỏng vấn. Tác giả phải nhờ Luật sư Cao Lan, con Đại tướng Cao Văn Viên, đóng vai “con cháu trong nhà” đến hỏi chuyện bác Khiêm.

Ông Khiêm không thích chơi với các nhà báo! Trước sau năm 1975 ông luôn “thủ khẩu như bình.”
Bây giờ chúng ta còn nhớ trước năm 1975 dân chúng miền Nam đã xuống đường nhiều lần, phản đối từ ông Diệm, ông Nhu, cho tới ông Minh, ông Khánh, ông Thiệu, ông Kỳ; nhưng hầu như chưa ai tổ chức biểu tình chống Trần Thiện Khiêm cả!

Có lẽ vì ông Khiêm bao giờ cũng chấp nhận đứng hàng thứ hai, thứ ba, không đứng đầu.
Ông Nguyễn Cao Kỳ, khi đóng vai một thủ tướng, vẫn muốn mình nổi nhất trong nhóm tướng lãnh, phải chứng tỏ mình là người đóng vai quyết định, phải được báo chí nhắc tên luôn luôn.

Ông Trần Thiện Khiêm thì ngược lại. Làm thủ tướng nhưng luôn luôn lánh mặt, nhường ông Thiệu đóng vai chính.
Ông để các vị bộ trưởng họp báo, ra trước quốc hội và công chúng để “lãnh đạn.”
Ông Hoàng Đức Nhã, người mà George Veith mô tả là đối nghịch nặng nề với ông Trần Thiện Khiêm, cho biết ông Khiêm công nhận rằng mình chỉ là “kẻ thừa hành.”
Nhưng ông Nhã, phụ tá thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cũng nhận xét rằng chưa thấy ai “lẩn” giỏi như ông Khiêm.

Đáng lẽ không nên viết nhiều về Đại tướng Trần Thiện Khiêm như vầy, biết ông không thích người khác nói đến mình.
Xin ông tha lỗi, và cầu nguyện ông về nơi an lành vĩnh cửu.