Tuesday, September 27, 2016

PHẢI LÊN TIẾNG VÌ KO CHỊU NỖI ! (tiếp theo) .
- Tôi chẳng là họ hàng hay hưởng bổng lộc gì của TT Thiệu để binh vực ổng nhưng chỉ nói lên sự CÔNG BẰNG , trả SỰ THẬT về đúng chỗ của nó .
Một số ng còn nói ông Thiệu đã HÈN NHÁT khi bỏ trốn ra nước ngoài (hay ĐÀO NHIỆM/ĐÀO NGŨ) . Họ nên nhớ , sau khi từ chức , giao quyền cho PTT Hương , ông Thiệu ko tỏ dấu hiệu gì sẽ rời bỏ đất nước . Nhưng sau đó đài HN và đài MTGPMN ra rã tối ngày " CP Trần văn Hương là CP Thiệu mà ko có Thiệu" .
CS cho rằng , sự có mặt của ông Thiệu tại VN sẽ gây trở ngại cho 1 giải pháp chính trị nên Mỹ và các phe phái chính trị tại SG đã gây áp lực , yêu cầu ông ra đi ; và và để tạo điều kiện thuận lợi cho 1 giải pháp chính trị , ko mang tiếng là người ngoan cố , ông đã phải ra đi trong lén lút vào 1 buổi tối (theo hồi ký của tướng Timms) .
Khi làm CT ủy ban lãnh đạo QG và làm TT , ông ko phải là ng sợ chết : năm 1972 , lúc An Lộc còn bị bao vây và pháo kích , ông đã dùng trực thăng đáp xuống để động viên quân dân cán chính . Đây là việc làm rất nguy hiểm : một ông TL quân khu cũng ko cần phải làm như vậy , huống hồ là nguyên thủ quốc gia .
NHỜ AI MÀ MẤY TRIỆU NGƯỜI VN ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI , KỂ CẢ VIỆT CỘNG VÀ THÂN NHÂN CỦA HỌ ? (Đã đăng 1 lần trên Facebook của tôi)
- Trong họa có phúc và trong phúc có họa . -- Kinh Dịch
- Tôi chẳng là họ hàng hay hưởng bổng lộc gì của TT Thiệu để binh vực ổng nhưng chỉ nói lên sự công bằng , trả sự thật về đúng chỗ của nó .

Có lần 1 ông bạn 75 t * , cựu sq và tù CS 6 năm , trong khi nói chuyện về sụp đổ của VNCH , đã gọi TT Thiệu bằng THẰNG THIỆU (và tôi nghĩ ko ít ng cũng gọi như vậy) và tôi "phản pháo" liền .

Tôi nói với anh ta , do tính toán sai lầm ông Thiệu đã làm mất nước như ra lịnh bỏ vùng 2 CT hay Huế , v.v... dù lực lượng tại 2 nơi này còn nguyên vẹn ; sự rút quân này đã tạo sự sụp đổ dây chuyền của các tỉnh/thành miền nam . . .
Nhưng NHỜ MẤT NƯỚC nên gần bốn triệu ng mới được sống ở nước ngoài , phần lớn thành đạt . Họ đang sống trong những đất nước mà con người được tự do ngôn luận , báo chí , hội họp , mọi ng được mưu cầu hạnh phúc miễn là hợp pháp , v.v...
Nếu ko mất nước vào năm 1975 , tôi cũng sẽ thành cố Đại úy vì lúc đó đang ở đơn vị tác chiến , anh cũng ngồi cạo giấy tới già ở Nha Động Viên Bộ Quốc Phòng , chứ đâu có an hưởng tuổi già ở Mỹ như bây giờ (lúc còn ở VN có nằm mơ cũng ko thấy) . Gia đình tôi dù mất hết tài sản và bản thân tù 6 năm nhưng tôi cũng ko oán hận ông Thiệu .
Và dân đánh cá , làm ruộng , chăn trâu , v.v... ở VN cũng đi Mỹ hay nước khác . Nhờ ai ?
Trước 75 , chỉ có 2 giới có thể được xuất ngoại : thứ 1 , HS đậu tú tài II hạng bình hay ưu , hợp lệ tình trạng quân dịch . Và 1 số rất ít cũng lén lúc đi du học vì C.O.C.C. . Còn lại là xuất ngoại vì lấy chồng hay vợ nước ngoài .
Hơn nữa , nếu ko có 30.4.75 , hàng vạn ng dân miền Bắc (Bắc kỳ 75) , làm sao có mặt tại nhiều nước trên TG . Lúc đầu , họ ra đi vì phần lớn là Việt gốc Hoa (dân Móng Cáy , Hải Phòng, v.v...) qua ngỏ HK , sau này 1 số khác đi hợp tác lao động (ở các nước Đông âu hay LX/Nga) hay du lịch hay vượt biên . Họ cũng phải cám ơn ông Thiệu vì họ đã "ăn theo" . (Tôi quen 1 anh bạn trẻ , dân miền Bắc , sau 75 vào Nam sinh sống và vượt biên sang Mỹ , hiện làm chủ 1 cty chuyên làm mái nhà (roofing) rất thành công tại SJ . . ."
Tôi biết 1 phụ nữ dân Đà Nẳng, có người thân là VC nằm vùng , sau 75 , người thân được chia nhiều nhà mặt tiền hay biệt thự ở Sài gòn - mà chủ bỏ ra nước ngoài . Họ đã bán rẻ cho bà và bà đã biến thành biệt thự-vườn sang trọng cho thuê . Bà cho con trai du học tại San Jose , nó lấy vợ để ở lại và bảo lãnh cha mẹ sang , hiện bà là chủ một tiệm Nail sang trọng tại SJ . Rất nhiều VC hay thân nhân của họ đã sang Mỹ theo cách này .
Ng tị nạn ** khi đến đảo đều khai với phái đoàn LHQ là mình bị CS ngược đãi , hay là lính tráng của chế độ cũ . . . do vậy được đi nước thứ 3 . (Trước năm 1989 , mọi ng đến đảo đều được nhận , ko cần phải thanh lọc) . Nhờ ai ?
Tóm lại mọi ng đang sống ở nước ngoài (kể cả ra đi từ miền Bắc) , ko ít thì nhiều đều phải cám ơn ông Thiệu .
Tôi nói tiếp : tôi khuyên anh từ nay về sau đừng bao giờ dùng danh từ THẰNG THIỆU vì chỉ có kẻ thiển cận , ngu ngốc , ăn cháo đái bát , v.v... mới gọi ông như vậy . Và nếu anh thấy ai gọi ông Thiệu bằng thằng Thiệu thì cũng nhờ anh "chỉnh" họ giùm tôi . Tôi chẳng là họ hàng hay hưởng bổng lộc gì của ổng để binh vực ổng nhưng chỉ nói lên sự công bằng , trả sự thật về đúng chỗ của nó . (còn tiếp) .
=======
* Một chị và 1 em trai ông (đều qua năm 1975 , có ng có 2-3 nhà , 1 đứa cháu - đẻ tại Mỹ kêu ông bằng bác - làm cho 1 cty Mỹ lương 500.000 đô/năm . Một cháu gái khác của ông đi về VN như đi chợ vì vẫn còn cơ xưởng hàng trăm công nhân ở VN . . . Và bảo lãnh theo lối dây chuyền để ko còn ai ở VN . Ông cùng các chị về VN 4-5 lần theo kiểu "áo gấm về làng" , họ thuê xe du lịch khắp nước , ở toàn ks sang trọng . . . Nhờ ai mà gđ ông được như vậy ? Trong khi tôi , hơn 20 năm chưa về VN .
** Có những ng , miệng thì chửi CS nhưng năm nào cũng về VN , nói là thăm bà con hay chăm lo mồ mã ông bà nhưng thật sự là vì GÁI !!! vì ở VN rất rẻ : massage tối đa là 10 đô trong khi Mỹ là 40 . . . những ăn chơi khác cũng rẻ hơn Mỹ . . .


Show more reactions

3 Comments
Comments
Quang Tri Nhan Hay quá bài của anh thật chính xác,mất MNVN chỉ có 55 ngày nếu kéo dài thành 1 năm hay hơn nữa thì sinh mạng của dân và lính còn chết nhiều hơn nữa,âu cũng là một bàn cờ họ đã sắp đặt cho MNVN


Tai Tran Ngay sau BMT bị tấn công , vài ngày sau , TĐ tôi ở vùng 4 CT đã bắt đc tù binh chính qui BV , họ khai đc học tập sẽ hoàn toàn giải phóng miền nam vào năm 1976 . (Trước khi có HĐ PARIS 1973 , từ bắc vào nam phải đi bộ 6 tháng . Sau khi có HĐ , do Mỹ ngưng ném bom đường mòn HCM và đường xá sửa chữa tốt , từ Bắc vào Nam chưa tới 2 tuần bằng Molotova (dựa vào nhật ký của lính CS chết) . Thông thường họ tổng tấn công vào mùa mưa , vì các hoạt động của KQ bị hạn chế . . .

Hơn nữa , năm 75 , đụng độ QS ác liệt giửa 2 bên chỉ xảy ra ở Phước Long , BMT , Xuân Lộc , Bến Tranh , Long An . . . các nơi khác đã rút bỏ trước khi quân CSBV tiến vào .

Tai Tran Bạn Gavin Nguyễn , sau khi share bài này đã viết : "Tui nghe nhiều ông sĩ quan chửi ông Thiệu dử lắm, ba tui nói mấy anh em còn sống mà chửi là may lắm rồi, ổng mà ra cái lịnh tử thủ ai ở đâu ở đó bắn hết đạn thì thôi, không còn tiếp liệu tải thương gì ráo. Thì mấy anh em nghĩ sao?"

TẢNG BĂNG NỔI 27/09/2016

27-9-2016
Ông Đinh La Thăng thời còn làm Bộ trưởng GTVT. Ảnh: Ngọc Thắng/ báo TN
Ông Đinh La Thăng thời còn làm Bộ trưởng GTVT. Ảnh: Ngọc Thắng/ báo TN
Hôm qua, khi Phó thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu phải tìm cho ra những “tảng băng chìm” tham nhũng, ông đang ngồi cạnh “tảng băng nổi khổng lồ” Đinh La Thăng. Nếu “không đủ chứng cứ” về những khoản “chênh lệch lãi suất” và phần “lại quả 1%” trong vụ PVN góp vốn vào Ocean Bank, chỉ tính 800 tỷ PVN chịu mất đứt cho “Thắm Đại Dương” đã có “hậu quả nghiêm trọng” đủ để truy cứu trách nhiệm Đinh La Thăng. Tất nhiên, ở PVN thời Đinh La Thăng còn nhiều “tảng băng” rất to, đủ sức làm đắm nhiều Titanic.
Lại “Nội Lực”
Năm 2007, Trung Quốc gây áp lực buộc BP phải từ bỏ hai mỏ khí Hải Thạch & Mộc Tinh nằm trong vùng biển Trường Sa của Việt Nam (cách bờ 370 km). PVN đã được giao tiếp quản lại hai mỏ khí này. Đây không chỉ là một cơ hội kinh tế cho PVN mà còn có một vai trò to lớn về chủ quyền cho đất nước.
Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (POC) được thành lập.
Để mang được khí vào bờ, POC phải lắp đặt một đường ống dẫn khí. Trong số các phần việc quan trọng, có gói thầu cung cấp khoảng 22 km đường ống bọc hai lớp. Ngày 9-4-2010, khi đóng thầu, Chủ đầu tư (PTSC-MC là công ty được ủy quyền) nhận được hồ sơ chào thầu từ Marubeni (Nhật) và POTS (công ty Thương mại và Dịch vụ dầu khí Biển – thuộc PVN).
Chỉ có Marubeni đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.
Biết mình bị loại, ngày 25-5-2010, POTS gửi công văn lên Tập đoàn đề nghị tái xem xét.
Vì đây là gói thầu có yêu cầu công nghệ cao chứ không phải thứ “cây nhà lá vườn”, nhằm ngăn chặn sự can thiệp từ Đinh La Thăng, ngày 7-6-2010, PTSC-MC đã phải báo cáo lên lãnh đạo Tập đoàn khẳng định, “Marubeni là nhà thầu duy nhất đạt kỹ thuật”.
Thế nhưng vào ngày 11-6, PTSC-MC vẫn bị buộc phải lập một tổ thẩm định khác, đánh giá lại, rồi công nhận “cả hai nhà thầu đều đạt về kỹ thuật”.
Ngày 22-7-2010, Đinh La Thăng phê duyệt việc trao gói thầu cho POTS vì lý do POTS đưa ra giá thấp hơn (40,8 triệu so với 49,8 triệu USD của Marubeni).
Không phải tự nhiên, Đinh La Thăng gây sức ép loại “nhà thầu duy nhất đạt kỹ thuật”. Nhân danh “phát huy nội lực, ưu tiên sử dụng dịch vụ trong ngành”, khi chưa có quyết định giao thầu (5-2010) Đinh La Thăng đã yêu cầu POC “giao dịch vụ bọc ống cho PVID” – một công ty thuộc PVGas được “đẻ ra” dưới thời Đinh La Thăng. PVID sau đó được chỉ định thầu phần bọc ống, “bóc” ra từ gói thầu của POTS.
Ngay từ khi dự thầu, nội lực mà POTS thể hiện chỉ là như vai trò một anh “cò”. Gói thầu được POTS chia đôi cho Canadoil tại Thái Lan (phần chế tạo ống) và Bredo Shaw tại Malaysia (phần bọc ống). Nhưng do phải nhường phần bọc ống cho PVID nên công việc chưa bắt đầu, POTS đã phải mất thời gian đàm phán để loại Bredo Shaw ra khỏi cuộc chơi.
Canadoil cũng chỉ là một nhà thầu liều mạng. Nhận một gói thầu trị giá hàng chục triệu đô là để làm ống mà vừa thiếu thép tấm, thiếu máy hàn, thiếu cả nhân công có tay nghề… Vì sốt ruột, Chủ đầu tư (PTSC MC) đã nhiều lần phải đưa nhân công sang Thái Lan hỗ trợ.
Thế nhưng thời hạn giao ống vẫn liên tục bị Canadoil trì hoãn. Mặc dù được Đinh La Thăng đầu tư thêm 1,1 triệu để lắp đặt “dây chuyền bọc ống”, PVID vẫn không thể nào thực hiện đúng hợp đồng, buộc PTSC MC phải mang gần một nửa ống mà Canadoil sản xuất đưa sang Malaysia nhờ bọc.
Không phải tự nhiên ngay từ đầu Chủ đầu tư đã khẳng định “Marubeni là nhà thầu duy nhất đạt yêu cầu kỹ thuật”. Đối với những gói thầu đòi hỏi công nghệ cao thì giá chưa phải là yếu tố quyết định.
Chủ trương “nhà làm được” của Đinh La Thăng khi chọn POTS để “tiết kiệm 9 triệu USD” chênh lệch giá với Marubeni, kết cục đã làm phát sinh giá thành của gói thầu này thêm 11 triệu, cao hơn giá bỏ thầu của Marubeni 1 triệu USD (PVN phải bỏ thêm 1,1 triệu đầu tư dây chuyền bọc ống cho PVID và các nhà thầu phụ đòi phát sinh thêm 5,44 triệu USD – riêng Canadoil đòi phát sinh 3,6 triệu USD, cùng với chi phí PTSC-MC đưa nhân công sang Thái).
Con số phát sinh không dừng lại ở mức gần 11 triệu USD. Sự can thiệp của Đinh La Thăng, buộc POTS phải chọn những nhà thầu kém năng lực, thiếu uy tín, đã làm cho việc giao ống bị chậm 10 tháng; ngày giao khí đầu tiên lẽ ra phải là 31-12-2012 đã bị chậm mất gần 6 tháng (tới 28-6-2013). Sự chậm trễ này đã buộc POC phải phá vỡ hợp đồng với các nhà thầu khác, khiến cho chi phí phát sinh thêm những khoản rất lớn.
Tàu Seamac được thuê để rải ống vào năm 2012 bị chuyển sang 2013 khiến cho POC phải bồi thường 25,7 triệu USD. Các phương tiện lắp ống phải chờ ngoài biển trong giai đoạn rủi ro thời tiết buộc POC phải bồi thường 8 triệu. Phát sinh chi phí quản lý và thuê kho chứa khí thêm gần 5 triệu USD; Mất doanh thu do chậm đưa khí vào bờ gần 6 tháng (28-6-2013 thay vì 31-12-2012) lên đến gần 38 triệu USD (270 nghìn USD/ngày).
PTSC-MC không thể buộc POTS hay Canadoil bồi thường vì ngay từ đầu hợp đồng đã bị vỡ do Đinh La Thăng đưa PVID chen ngang vào. Chỉ vì nhân danh “phát huy nội lực” cho vài công ty con mà Đinh La Thăng đã làm tổn thất gần 90 triệu USD cho Dự án Biển Đông I.
Venezuela & 2 tỷ USD
Chưa tới một năm sau khi PDV- 39 “chọc mũi khoan đầu tiên”, tháng 4-2013, PVN đã phải đầu hàng trước Venezuela, bỏ lại nơi đây dự án Junin-2.
Trở lại hơn 6 năm trước đó, ít ai biết vai trò kiến tạo mối quan hệ khăng khít giữa Việt Nam với Venezuela không phải nhờ vào thành tích của ngành ngoại giao mà phần lớn nhờ vào Đinh La Thăng.
Đánh đúng “khẩu vị” của không ít nhà lãnh đạo khoái một Hugo Chavez vừa chống Mỹ vừa thân với “người bạn gác” thành trì xã hội chủ nghĩa ở bên kia bán cầu. Đinh La Thăng đã tạo ra “một mốc son trong mối quan hệ quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Venezuela” sau chuyến thăm Việt Nam của Hugo Chavez vào năm 2006 bằng cách bằng mọi giá liên doanh với một đơn vị của Công ty Dầu quốc gia Venezuela, “Khai thác và Nâng cấp dầu nặng ở lô Junin-2”.
Để thuyết phục Chính phủ cho phép PVN bỏ 1,8 tỷ USD sang Venezuela, Đinh La Thăng đã đưa ra đánh giá: “Junin-2 là mỏ có trữ lượng dầu lớn nhất trong vành đai dầu mỏ khí đốt Oricono – vành đai có trữ lượng lớn thứ nhì thế giới. Việc khai thác dầu tại lô Junin-2 sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho Việt Nam ít nhất trong 25 năm nữa”.
Chiều ngày 19-4-2012, tại Venezuela, khi khởi động giàn khoan PDV-39, PVN còn cứng cỏi tuyên bố: “Sang năm, Junin 2 sẽ cho sản lượng khoảng 200.000 thùng/ngày”. Nhưng, vừa đúng “sang năm”, khi Đinh La Thăng đang lo “trảm tướng” bên ngành giao thông, những người kế nhiệm Thăng ở PVN tái mặt khi lượng dầu khai thác được, cả sản lượng và chất lượng, không đạt giá trị thương mại. Họ đã có một quyết định dũng cảm là gần như “bỏ chạy”.
Trong hợp đồng mà Đinh La Thăng cho ký với Venezuela vào ngày 29-6-2010 có một điều kiện rất “quái gở” là 6 tháng sau khi ký kết, phía Việt Nam phải bắt đầu “bonus” cho Venezuela khoảng 1 USD trên một thùng dầu (không phải thùng dầu khai thác được mà là thùng dầu trữ lượng theo dự đoán). Ngay trong 2 năm đầu, bất kể có dầu hay không, phía Việt Nam vẫn phải nộp đủ cho Venezuela 584 triệu USD bằng tiền mặt.
Trước ngày 12-5-2011, trong khi Liên doanh chưa hoàn thành thủ tục đăng ký với cơ quan chức năng Venezuela, 300 triệu USD tiền mặt đã được “bonus” cho đối tác; Đúng một năm sau, 142 triệu USD khác cũng đã được thanh toán(12-5-2-12)[tổng cộng 442 triệu USD chưa kể hàng trăm triệu đã đầu tư vào công tác thăm dò, khai thác].
Tháng 4-2013, PVN (đại diện trực tiếp là PVEP) đứng trước lựa chọn khó khăn khi tới hạn nộp tiếp 142 triệu USD tiền mặt trong khi lượng dầu ở mỏ Junin-2 hoàn toàn “không như dự đoán”.
Hợp đồng mà Đinh La Thăng ký không chừa cho Việt Nam cửa lùi. Cho dù không kiếm được thùng dầu nào đáng giá, 15 ngày sau thời hạn “bonus”, nếu không nộp đủ tiền, toàn bộ cổ phần của PVN trong liên doanh sẽ tự động chuyển cho đối tác Venezuela. Việt Nam cũng sẽ không được quyền thanh toán hoặc đền bù bất cứ đồng nào từ các khoản đã đóng góp, vay vốn hay đầu tư ở Junin-2.
Những người gánh di sản của Đinh la Thăng đã phải cứu 3000 tỷ (142 tiền bonus đóng lần thứ 3), thay vì ném tiếp sang Caracas để nó chết chìm cùng các khoản đã đầu tư vào Junin-2.
Cùng với các tổn thất ở những dự án “hợp tác quốc tế” khác như Peru-67; SK-305; SK-304, PVN đã ném xuống đại dương không dưới 2,1 tỷ USD.
Tất nhiên, trách nhiệm không chỉ một mình Đinh La Thăng. Nhưng nếu không xử lý ông Thăng thì bao nhiêu tuyên bố về chống tham nhũng cũng trở nên sáo rỗng.
PS: Có nhiều người hỏi, khi viết về Đinh La Thăng tôi có sợ không. Tôi trả lời: Sợ. Nhưng tôi có một nỗi sợ lớn hơn, đó là, tôi sợ tương lai đất nước tôi rơi vào tay những kẻ tham lam và bịp bợm.
_____
Mời xem lại: THANH hay THĂNG (HĐ/ BS).