Tuesday, September 12, 2017

Với chữ NẾU , người ta có thể bỏ thành phố Paris trong 1 cái chai .-- Châm ngôn Pháp . 
NẾU năm 1954 , Cộng Sản Việt Nam ĐỪNG ÉM QUÂN ở miền Nam , nghĩa là tập kết hết ra Bắc theo đúng tinh thần Hiệp định Genève 1954 về Đông Dương cũng như ĐỪNG GỬI hàng triệu thanh niên "sanh Bắc tử Nam" thì miền Nam VN có lẽ KHÔNG THUA bất cứ nước nào ở Á Châu khi có sẵn những điều kiện như sau :
1/ Nhân tài do Pháp đào tạo có mặt tại miền Nam trước 1954 cộng với nhân tài (do Pháp đào tạo ở Hà Nội) di cư vào Nam sau ngày 20.7.1954 (ngày ký kết HĐ) . Sau đó là nhân tài từ các nước tư bản như Mỹ , Canada , Bỉ , v.v...
2/ Nông nghiệp với những đồng ruộng mênh mông , cò bay thẳng cánh ở vùng Đồng Tháp 10 - nơi mà ng ta đã dùng máy để cày ruộng . Nhờ hệ thống các ngân hàng nông nghiệp , ng dân bán lúa , gửi tiền ở chi nhánh ở quận : khi cần quan hôn tang tế họ rút tiền ra để tiêu xài ; và các ngân hàng của VNCH hoạt động tốt đẹp tới khi ông Dương ăn Minh ra lịnh đầu hàng . 
3/ Ở Nông Sơn , Quảng Nam có mỏ than ; mỏ vàng ở Bồng Miêu , Quảng Ngải ; v.v... 
4/ Kỹ nghệ nhẹ đã có sẵn như Hảng Sà Bông Cô Ba , hảng nước ngọt và bia BGI và SEGI , v.v... (của Pháp để lại sau 1954) . Sau này còn ráp xe La Dalat , v.v... Xin đọc khu kỹ nghệ Biên Hòa ở đoạn 5 . 
Nói chung VNCH đã bắt đầu khởi sắc kể từ ngày Pháp trao trả độc lập cho VN và thế giới tự do - đứng đầu là Mỹ đã giúp đở cho dân VN rất nhiều .
5/ Xa Lộ Sài Gòn - Biên Hòa do Mỹ giúp VN xây dựng , xong năm 1961 . Sau đó tới năm 1975 , các QL đều mở rộng bằng kỹ thuật Mỹ + nhân công VN . 
"Xa lộ Biên Hòa ra đời đã đẩy Sài Gòn phát triển mạnh về hướng đông như hiện nay. Các vùng, khu công nghiệp mọc lên dọc theo tuyến đường ở Thủ Đức, Biên Hòa với nhiều ngành nghề như hóa học, mỹ phẩm, cơ khí, luyện kim, vật liệu xây dựng... Nhiều nhà máy, xí nghiệp còn đến ngày nay như Ximăng Hà Tiên, nhà máy giấy Cogido - An Hảo, nhà máy dệt Vinatexco, nhà máy đường Biên Hòa…
Làng đại học Thủ Đức cũng được quy hoạch đưa ra khỏi trung tâm thành phố khi tuyến xa lộ hoàn thành. Làng đại học sẽ là nơi cung ứng nguồn lao động chất lượng cho các khu công nghiệp, kỹ nghệ kế cận.
Các khu dân cư dọc tuyến đường cũng được khuyến khích hình thành. Người dân được phân lô, bán nền với giá ưu đãi. Việc xuất hiện các khu dân cư nhằm cung ứng nguồn lao động cho các nhà máy nơi đây.
Sau năm 1975, xa lộ dần làm đúng chức năng mà những nhà quy hoạch trước đó đã dự tính khi nhiều hãng xưởng mở ở khu công nghiệp Biên Hòa. Hàng ngày, nhiều công nhân tại Sài Gòn đi làm ở khu công nghiệp Biên Hòa bằng xe buýt của công ty.
Ngoài xa lộ Biên Hòa, đến đầu những năm 1970, xa lộ Vòng Đai được xây dựng ở xung quanh Sài Gòn. Gọi là xa lộ vòng đai vì nó không nối liền hai thành phố mà chỉ chạy xung quanh Sài Gòn. Xa lộ Vòng Đai cũng được người dân gọi là xa lộ Đại Hàn vì lực lượng công binh của Nam Hàn xây dựng". Nguồn : https://vnexpress.net/…/con-duong-bien-sai-gon-xua-thanh-do…
Trong khi đó , đầu TN 1990 , tôi đi đường bộ từ Hà Nội - Hải Phòng , có nhiều cầu chỉ qua được một chiều , ko khác gì thời Pháp thuộc , dù đã gần 40 năm ( 1990-1954=36) . Nghĩa là các nước CS chỉ giúp miền bắc đánh nhau , chứ họ không nâng cao mức sống người dân như bọn tư bản "dảy chết" giúp VNCH .
Ảnh 1 : miền Bắc đã xuống cấp và nghèo khổ kể từ ngày có ba ông này !
Ảnh 2-3 : TT Diệm khánh thành xa lộ Sài gòn - Biên hòa năm 1961 , cầu bắc qua sông Sài Gòn
.

Tại sao chưa thể chấm dứt tình trạng nghèo khổ tại Hoa Kỳ?

Hoa Kỳ là một trong những nước giàu nhất thế giới với lợi tức bình quân hằng năm tính theo đầu người vào 2014 là 55.800 đôla, sau Luxembourg, Singapore, Norway, Australia, Switzerland, Hồng Kông, và một số các nước xuất cảng dầu hỏa. Tuy nhiên người ta vẫn thấy tình trạng nghèo khổ xuất hiện một cách công khai tại Hoa Kỳ như để thách thức xã hội và những nhà làm chính sách.
Vào năm 2014, có khoảng 47 triệu người sống trong hoàn cảnh nghèo khổ tại nước Mỹ, chiếm 15% tổng số dân Hoa Kỳ. Theo định nghĩa của chính phủ liên bang, một gia đình bốn người có lợi tức hàng năm từ 24.000 đôla trở xuống là ở trong tình trạng nghèo và mức nghèo cho một cá nhân là 12.000 đôla, hai người là 15.000 đôla, và ba người là 19.000 đôla. Ở Hoa Kỳ có khoảng 21 triệu người, tức 7% dân số, sống trong tình trạng cực kỳ nghèo khổ với lợi tức hàng năm chỉ bằng một nửa mức nghèo theo định nghĩa của chính phủ liên bang.
Phân tích kỹ hơn, người ta thấy sự nghèo khổ tác hại không đồng đều trên toàn thể 47 triệu người này. Cũng vào năm 2014, tỉ lệ nghèo của đàn ông là 13% so với 16% của đàn bà. Tỉ lệ nghèo của gia đình với cả vợ lẫn chồng chỉ là 6% trong khi đó tỉ lệ này tăng lên đến 16% đối với gia đình chỉ có chồng và 36% đối với gia đình chỉ có vợ. Thật là đáng sợ.
Thông thường người ta tưởng rằng sự nghèo khổ là một hiện tượng của thành thị nhưng thực tế khác hẳn. Mức nghèo ở nông thôn là 17% so với thành thị là 15%. Khu vực nông thôn nghèo tập trung ở miền Nam, đặc biệt là vùng Đông Nam, bao gồm Mississippi Delta, Central Appalachia, vùng thuộc thổ dân da đỏ, và vùng Colonias dọc theo biên giới Hoa Kỳ và Mexico. Hai lý do căn bản khiến tình trạng nghèo khổ của vùng nông thôn nói chung nghiêm trọng hơn thành thị:
(1) Vùng nông thôn ít công việc đòi hỏi kỹ năng và trả lương cao.
(2) Trình độ học vấn thấp.
Mức nghèo của các sắc dân cũng khác nhau. Cũng theo thống kê của US Census Bureau, vào năm 2014 tỉ lệ người nghèo của dân da đen là 26%, so với dân gốc người Tây Ban Nha (Hispanics) là 24%, Á châu 12% và da trắng là 10%. Tuy tỉ lệ người da trắng thấp nhất, nhưng số người da trắng nghèo cao nhất (25,7 triệu) so với người da đen (10,7 triệu) vì người da trắng chiếm 80% của dân số Hoa Kỳ (321,4 triệu) so với 12,8% của người da đen.
Bộ Canh Nông Hoa Kỳ ước tính rằng vào năm 2014 có khoảng 17 triệu gia đình (14%) đôi lúc trong năm thiếu thốn thực phẩm. Khoảng 61% những gia đình thiếu thực phẩm đã tham gia vào một hay hơn trong ba chương trình trợ giúp thực phẩm và dinh dưỡng lớn nhất của chính phủ như Supplemental Nutrition Assistance Program (SNAP), thường gọi là Food Stamp. Hai chương trình còn lại là Unemployment Insurance Benefits (Bảo Hiểm Thất Nghiệp) và Earned-Income Tax Credit (Trừ thuế vì có con nhỏ). Ngoài ra còn có chương trình Social Security (An sinh Xã hội) và minimum wage (lương tối thiểu).
Tất cả những chương trình chống nghèo khổ này đã giúp cho 40 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Theo Center on Budget and Policy Priorities, nếu không có những biện pháp trên, số người nghèo đã tăng gấp đôi. Nhưng tình trạng nghèo khổ chưa chấm dứt ở Hoa Kỳ như nhiều người mong ước. Để bi thảm hóa tình trạng này Tổng thống Ronald Reagan từng tuyên bố “We fought a war on poverty and poverty won” (Chúng ta chiến đấu chống lại nghèo khổ và nghèo khổ đã thắng).
Thật vậy, trong tài khóa 2016, chính phủ liên bang, tiểu bang, và địa phương đã chi tiêu tổng cộng khoảng 1.057,4 tỉ đôla vào các chương trình an sinh xã hội bao gồm Medicaid với 577,2 tỉ đôla và các chương trình khác với 480,2 tỉ đôla. Nói một cách khác, Hoa Kỳ đã tiêu khoảng 22.500 đôla mỗi năm cho mỗi người nghèo hay 90.000 đôla cho một gia đình bốn người nhưng tình trạng nghèo ở Hoa Kỳ không được cải thiện đáng kể.
Khi điều nghiên về những người nghèo ở vùng thủ đô Washington, tôi nhận thấy không ai gầy gò ốm yếu. Họ ăn mặc khá tươm tất và mập mạp. Những hình ảnh đính kèm trong bài này và nhiều hình khác tôi chụp được cho thấy rõ như vậy. Thông thường chúng ta hiểu từ nghèo có nghĩa là túng thiếu, cực khổ, không có khả năng cung cấp cho gia đình thực phẩm, quần áo, và nơi trú ngụ. Nhưng chỉ có một số nhỏ trong 47 triệu người được xếp vào loại nghèo bởi Census Bureau đáp ứng những tiêu chuẩn này. Theo tài liệu điều trần trước Ủy Ban Kinh Tế Thượng Viện Hoa Kỳ của Nghiên cứu gia Robert Rector thuộc Heritage Foundation, một người Mỹ nghèo tiêu biểu theo định nghĩa của chính phủ có xe hơi, tủ lạnh, máy giặt, máy sấy, TV, DVD player, và được chăm sóc sức khỏe. Do đó, mức độ nghèo khổ không trầm trọng như ở các quốc gia khác.
Một trong những nguyên nhân khiến tình trạng nghèo tiếp tục tồn tại trong vài thập niên vừa qua là sự thoái hóa của nền công nghiệp tại Hoa Kỳ vào các thập niên 1980 khiến cho sự nghèo khổ thâm nhập vào miền Trung Tây (Midwest) và Đông Bắc (Northeast). Tình trạng kinh tế trì trệ vào các năm 2007-2009 ảnh hưởng lớn vào tình trạng nghèo khổ. Một lý do khác là sự gia tăng dân số nhanh chóng của người gốc Tây Ban Nha (Hispanic) trong hai thập niên 1990 và 2000, đặc biệt ở các tiểu bang California, Nevada, Arizona, Colorado, North Carolina, và Georgia.
Cũng theo ông Robert Rector, hàng chục triệu học sinh học dở dang đã nhập cư vào Hoa Kỳ trong những thập niên vừa qua một cách hợp pháp và bất hợp pháp. Khoảng 1/3 tất cả số người di dân trưởng thành ở Hoa Kỳ không có bằng trung học. Nói chung tỉ lệ nghèo của khối người di dân khá cao so với khối người còn lại. Một trong tám trẻ em nghèo ở Mỹ thuộc gia đình di dân bất hợp pháp và 1/4 của tổng số người nghèo ở Mỹ thuộc gia đình di dân. Khoảng 38% trẻ em Hoa Kỳ là những đứa trẻ ngoại hôn và sinh ra từ bà mẹ trẻ ít học. Đây là nguyên nhân làm cho chúng trở thành những đứa trẻ nghèo.
Do đó, ông Rector đề nghị rằng Hoa Kỳ cần phải duyệt lại chính sách di dân, giảm bớt nạn nhập cư bất hợp pháp, thi hành triệt để luật cấm thuê nhân công bất hợp pháp và tìm biện pháp phát triển gia đình và ngăn chặn tình trạng ngoại hôn.
Có năm trở ngại khiến Hoa Kỳ chưa thể chấm dứt được tình trạng nghèo khổ:
(1) Một số khá đông dân Hoa Kỳ kiếm sống bằng những nghề lương thấp.
(2) Ngày càng nhiều gia đình chỉ có một cha hoặc mẹ. Do đó rất khó kiếm được việc làm tốt vừa chăm sóc gia đình.
(3) Chương trình trợ cấp tiền mặt cho mẹ và con với lợi tức thấp gần chấm dứt (Temporary Assistance for Needy Families – TANF).
(4) Vấn đề sắc tộc và giới tính.
(5) Sức khỏe tâm thần xáo trộn khiến bệnh nhân khó có thể tìm được việc làm.
The National Coalition for the Homeless ước tính rằng hàng năm có khoảng 700 người sống ngoài đường chết vì giá lạnh. Những nhân viên xã hội tiếp xúc và khuyến khích họ vào các nhà tạm trú nhưng nhiều người từ chối vì nhiều lý do như thiếu giường ngủ, luật lệ không thích hợp với người tàn tật, thiếu kiểm soát, thiếu riêng tư, sợ đám đông, sợ mất cắp, thành kiến về bệnh tâm thần, nghiện ma túy, không có tiện nghi cho người tàn tật, sợ lây bệnh, thủ tục phức tạp, bị từ chối vì bệnh tâm thần, kỳ thị đồng tình luyến ái, giờ giấc của nhà trú không thích hợp.
Phần lớn lợi tức của mọi cá nhân và gia đình thu nhận được từ việc làm. Phương cách đầu tiên để chống nghèo đói là tạo việc làm trả lương khá. Điều này đòi hỏi đầu tư đáng kể vào giáo dục và sách lược phát triển kỹ năng và kinh tế. Ưu tiên của chính sách quốc gia còn có an ninh, quốc phòng, và ngoại thương. Trong khi đó quốc gia phải đương đầu với tài nguyên hạn chế và quyền lợi mâu thuẫn giữa ba nhóm lợi tức: thượng lưu (30% trên cùng), trung lưu (40% ở giữa) và nghèo (30% thấp nhất). Nạn thất nghiệp là một nguyên nhân của nghèo đói, nhưng không một nước nào trên thế giới có thể xóa bỏ hoàn toàn nạn thất nghiệp. Trong khoảng thời gian từ 1950 đến 2016, tỉ lệ thấp nghiệp thấp nhất ở Hoa Kỳ là 2,5% vào tháng 5/1953 và cao nhất là 10,8% vào tháng 11/1982 và gần đây hơn 9,9% vào 3/2010. Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn có một số người không đi làm vì đang ở trong tình trạng thay đổi công việc, chuyển ngành hay không chấp nhận mức lương bổng chủ nhân đề nghị.
Hiện nay chưa có biện pháp nhiệm mầu nào có thể giúp chấm dứt tình trạng nghèo khổ ở Hoa Kỳ. Nhiều đề nghị đôi khi mâu thuẫn và tạo ra tranh cãi giữa hai phái bảo thủ và cấp tiến như tăng mức lương tối thiểu, cấp tiền mặt cho người nghèo, nghỉ làm vì gia đình vẫn được trả lương, và cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em. Mặc dù xã hội tạo cơ hội tương đối đồng đều cho mọi người tiến thân, có những người không có phương tiện hay đủ khả năng nắm bắt được những cơ hội này. Họ sẽ phải nhờ vả vào xã hội lâu dài.
Tài liệu tham khảo:
  1. William J. Bennett, Reduce Poverty by Promoting Schools, Families,” CNN January 17, 2013.
  2. Peter Edelman, “Poverty in America: Why Can’t We End It?” The New York Time, July 28, 2012.
  3. Tracy Farrigan, “Geography of Poverty,” Economic Research Service, USDA, December 17, 2015.
  4. Evan Horowitz, “A Proven Way to Reduce Poverty? Give Poor People Money,” Boston Globe, October 29, 2015.
  5. Robert Rector, “Understanding and Reducing Poverty in America,” The Heritage Foundation, September 25, 2016.
  6. Paul Solman, “Will We Ever Get to ‘Full Employment’?” PBS, April 25, 2013.
  7. Sam Webb, “Is Full Employment Possible Under Capitalism?” People’s World, February 27, 2013.
  8. Poverty USA, Poverty Facts: The Population of Poverty USA,” an Initiative of the Catholic Campaign for Human Development, undated.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Con đường biến Sài Gòn xưa thành đô thị bậc nhất

Nguồn : https://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/con-duong-bien-sai-gon-xua-thanh-do-thi-bac-nhat-3388088.html

Làm bằng công nghệ Mỹ, dài, đẹp nhất Việt Nam 60 năm trước, Xa lộ Biên Hoà từng bị nhầm tưởng là đường băng dự phòng cho máy bay khi Tân Sơn Nhất bị phá hủy.


TP HCM hiện có hàng trăm tuyến đường hiện đại, rộng rãi cho hàng triệu người đi lại. Để kết nối với các vùng kinh tế trọng điểm khác, thành phố có nhiều tuyến ở cửa ngõ như đại lộ Đông Tây, cao tốc Long Thành - Dầu Giây, Trung Lương, quốc lột 13, 22...
Nhưng 60 năm trước, Sài Gòn chỉ phát triển nội đô, những con đường ngắn phục vụ đi lại. Các khu sản xuất tập trung ở Tân Bình, Chợ Lớn... không đáp ứng được nhu cầu phát triển "nóng" lên từng ngày của đô thị. Mọi chuyện thay đổi khi người Mỹ cho thi công xa lộ Biên Hòa (tức xa lộ Hà Nội ngày nay).
con-duong-bien-sai-gon-xua-thanh-do-thi-bac-nhat
Xa lộ Biên Hòa xưa và xa lộ Hà Nội nay. Ảnh: Life
Dài 31 km và rộng 21 m, xa lộ bắt đầu từ cầu Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh) và kết thúc tại ngã tư Tam Hiệp, Biên Hoà (Đồng Nai). Con đường khởi công từ năm 1959 đến ngày 28/04/1961 thì hoàn thành với tên gọi Xa lộ Biên Hòa.
Toàn bộ chi phí do Mỹ viện trợ, việc thi công do nhà thầu RMK-BRJ phụ trách. Đơn vị này đặt đại bản doanh tại một ngã tư trên xa lộ, người dân sau này quen gọi thành ngã tư RMK (quận 9).
Sự ra đời của nó gây nhiều bàn tán thời đó. Bởi xưa nay người dân chưa thấy con đường rộng, phẳng phiu như xa lộ Biên Hòa.
Sở dĩ xe chạy trên xa lộ êm, không xóc như các tuyến đường khác vì được thi công bằng kỹ thuật mới nhất của Mỹ - đổ nhựa bằng máy có chiều ngang rộng và đổ cùng một lúc nên bằng phẳng.
Trên xa lộ được gắn đèn cao áp thủy ngân, đêm đèn tự bật sáng, ngày tự tắt. Người dân lúc đó rất thích thú vì chạy xe đèn đường sáng trưng chứ không tù mù như ngọn đèn vàng trong thành phố gắn thời Pháp.
Điều đặc biệt trên tuyến xa lộ này là cây cầu Sài Gòn dài 986 m. Cầu làm với kỹ thuật mới nên khác với các cầu bằng sắt, lót ván, thời đó mà mỗi khi xe đi qua phải đi chậm vì hẹp và kêu lọc cọc. Cầu mới cũng đổ bêtông như mặt xa lộ, xe chạy qua không phải giảm tốc độ.
con-duong-bien-sai-gon-xua-thanh-do-thi-bac-nhat-1
Thi công cầu Sài Gòn năm 1960, một trong những hạng mục của Xa lộ Biên Hòa. Ảnh: Flickr
Việc thực hiện con đường dài, đẹp và hiện đại nhất miền Nam lúc đó nhưng chạy qua khu heo hút, toàn đồng lúa rồi dừng ở Biên Hòa khiến nhiều người thắc mắc. Có ý kiến cho rằng người Mỹ làm con đường rộng rãi, phẳng phiu như thế để cho phi cơ đáp xuống, phòng khi sân bay Tân Sơn Nhất bị phá hủy.
Nhưng người đã từng du học ở Pháp, Mỹ thì giải thích rằng đây là con đường nối liền khu dân cư tại Sài Gòn với khu công nghiệp tại Biên Hòa. Họ kể ở phương Tây, khu công nghiệp và dân cư được quy hoạch cách xa nhau rồi kết nối bằng xa lộ. Dần dần, người dân xây nhà cửa hai bên xa lộ khiến hai khu vực biến thành một thành phố chung.
Theo kế hoạch của chính quyền Sài Gòn cũ, họ thành lập khu công nghiệp tại vùng Biên Hòa. Sài Gòn chỉ có nhiệm vụ trung tâm thương mại, khu dân cư tiêu thụ hàng hóa sản xuất từ khu công nghiệp. Những người sống tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Biên Hòa sẽ có con đường xa lộ đi lại cho nhanh.
Ngày nay, kế hoạch đó đã thành hiện thực khi nhiều người sống tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Đồng Nai thông qua xa lộ Hà Nội. Nhà cửa hai bên ngày càng xây san sát, hiện đại.
Xa lộ Biên Hòa ra đời đã đẩy Sài Gòn phát triển mạnh về hướng đông như hiện nay. Các vùng, khu công nghiệp mọc lên dọc theo tuyến đường ở Thủ Đức, Biên Hòa với nhiều ngành nghề như hóa học, mỹ phẩm, cơ khí, luyện kim, vật liệu xây dựng... Nhiều nhà máy, xí nghiệp còn đến ngày nay như Ximăng Hà Tiên, nhà máy giấy Cogido - An Hảo, nhà máy dệt Vinatexco, nhà máy đường Biên Hòa…
Làng đại học Thủ Đức cũng được quy hoạch đưa ra khỏi trung tâm thành phố khi tuyến xa lộ hoàn thành. Làng đại học sẽ là nơi cung ứng nguồn lao động chất lượng cho các khu công nghiệp, kỹ nghệ kế cận.
Các khu dân cư dọc tuyến đường cũng được khuyến khích hình thành. Người dân được phân lô, bán nền với giá ưu đãi. Việc xuất hiện các khu dân cư nhằm cung ứng nguồn lao động cho các nhà máy nơi đây.
con-duong-bien-sai-gon-xua-thanh-do-thi-bac-nhat-2
Dàn xe hơi đậu kín trên Xa lộ Biên Hòa trong ngày khánh thành. Ảnh: Life
Năm 1984, con đường nối Sài Gòn - Biên Hòa được đổi tên thành Xa lộ Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng thủ đô. Sau năm 1975, xa lộ dần làm đúng chức năng mà những nhà quy hoạch trước đó đã dự tính khi nhiều hãng xưởng mở ở khu công nghiệp Biên Hòa. Hàng ngày, nhiều công nhân tại Sài Gòn đi làm ở khu công nghiệp Biên Hòa bằng xe buýt của công ty.
Ngoài xa lộ Biên Hòa, đến đầu những năm 1970, xa lộ Vòng Đai được xây dựng ở xung quanh Sài Gòn. Gọi là xa lộ vòng đai vì nó không nối liền hai thành phố mà chỉ chạy xung quanh Sài Gòn. Xa lộ Vòng Đai cũng được người dân gọi là xa lộ Đại Hàn vì lực lượng công binh của Nam Hàn xây dựng.
Sự xuất hiện của xa lộ Biên Hòa góp phần thúc đẩy kinh tế, chuyển dịch hướng phát triển của TP HCM về hướng đông. Hiện, tuyến xa lộ này tiếp tục được mở rộng, nâng cấp ở nhiều đoạn nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại ngày một lớn hơn của tuyến cửa ngõ thành phố.
Riêng đoạn Xa lộ từ trường Đại học Quốc gia TP HCM (quận Thủ Đức) đến ngã ba Tân Vạn (tỉnh Đồng Nai) dài 2,2 km được thi công mở rộng cho 16 làn xe lưu thông. Dự kiến hoàn thành năm 2017. Song song với xa lộ, tuyến Metro đầu tiên của thành phố cũng đang dần thành hình giúp đời sống kinh tế, xã hội ở TP HCM thêm khởi sắc.
Sơn Hòa 
CUỘC CHIẾN BUỒN THẢM NHỨT : VN năm 1947 dưới mắt ĐS Mỹ tại Pháp
Nguồn : SADDEST WAR của William C. Bullitt trên báo LIFE DEC 29 , 1947 (67 NĂM) .
(Bài này giúp các bạn có 1 cái nhìn về VN thời đó qua nhãn quan của 1 ng Mỹ ; dù lúc đó MAO chưa làm chủ HOA LỤC mà tổn thất của lính Pháp đã là 600 ng/tháng .-Tài)
"Trong tất cả các xung đột trên trái đất ngày này , chiến tranh tại Đông dương là thắm thiết/cảm động (pathetic) nhất . Không điều gì tốt có thể đến từ đó (No good can come of it) . Chỉ có 1 lý do nhỏ và 1 chút hiểu biết đầy nhân bản được yêu cầu (require) để chấm dứt nó . Nhưng dọc những con đường ở Nam kỳ , Trung kỳ và Bắc kỳ , lính Pháp - nhiều người từng là kháng chiến quân (maquisard) , tham gia cuộc chiến chống Đức Quốc xã - tiến bước cẩn thận (gingerly) , trông chờ súng máy nổ ra từ mỗi gốc cây hay nhà ; trong khi người dân VN - vừa đói và yếu đi bởi sốt rét , hiền lành do bản chất nhưng can đảm - tung (fling) lựu đạn tự sản xuất và giết mọi lính Pháp - mà họ có thể làm , với con tim trong sáng như lòng ái quốc của những nông dân tại Lexington và Concord , Mỹ (trong chiến tranh dành độc lập Mỹ .-Tài) .
Những người dân Việt này cũng là kháng chiến quân . Nhưng sự tranh đấu của họ là THẢM KỊCH ĐEN (black tragedy) . Vì sự lãnh đạo của cuộc tranh đấu đòi độc lập này đã bị chiếm đoạt bởi người CS . CP và quân đội của họ bị khống chế bởi Tổng Bộ , đây là 1 sản phẩm thu nhỏ của Bộ chính trị Moscow . Không một ai trong 100 người Việt là CS ; nhưng tất cả dân VN đều muốn độc lập ; và cũng như Tướng de Gaulle - được theo bởi hàng triệu người Pháp dù ko đồng ý quan điểm CT của ông , bởi vì ông là biểu tượng của kháng chiến chống Hitler ; cũng như vậy hôm nay Hồ Chí Minh , lãnh tụ CS của dân VN chiến đấu cho độc lập , được đi theo bởi hàng triệu dân VN - dù ko đồng ý với quan điểm CT của ông , bởi vì ông là biểu tượng của kháng chiến chống Pháp . Hậu quả , dân VN chiến đấu và chết và giết những người Pháp trẻ , trong cuộc chiến mà nếu chiến thắng , dưới các lãnh tụ bây giờ , có thể dẫn tới 1 sự thay thế ách thống trị của Pháp bằng ách thống trị KHỦNG KHIẾP của Stalin .
Tình hình của quân Pháp tại Đông Dương chắc chắn ko kém bi thảm hơn (scarcely less tragic) . Có 115.000 quân . Họ trang bị kém .Tinh thần chiến đấu cũng ko tốt đẹp gì dù có thanh lọc cẩn thận , nhiều cựu lính Đức đã tìm vào lính Viễn chinh Pháp (LIFE Nov 10) . Lính bản xứ ko tin vào chiến thắng . Họ tin rằng ít nhứt 500.000 lính trang bị tốt mới đủ để chinh phục 22 triệu dân VN . Họ biết CP Pháp cho phép 1 đoàn đại diện HCM đến Paris . Và họ nghi ngờ 1 thay đổi về chính trị tại Pháp sẽ khiến CP của họ ngày mai sẽ ôm hôn những ng mà họ đã ra lịnh giết hôm nay . Vì lẽ đó , họ rất đau khổ vì bị phục kích và ám sát , ngứa vì muổi cắn và nóng khó chịu , càu nhàu (mutter) , "Đây là cuộc chiến dơ bẩn" (C'est de la sale guerre) , ko chắc rằng cái chết của họ có ý nghĩa gì . Và vào khoảng 600 ng đã chết mỗi tháng .
Tuy vậy tai họa tệ hại nhứt vẫn có thể xảy ra (befall) với ng Pháp , ng VN và thế giới văn minh nếu ng Pháp , do mệt mõi , đầu hàng HCM và các đồng chí CS của ông . Bất cứ lời hứa tốt đẹp nào mà HCM đưa ra đều có thể phá vở ngay NẾU ông nhận lịnh mới từ Moscow . Dân Pháp sống tại VN sẽ bị tàn sát , và ng VN sẽ bị đô hộ bởi Moscow . . . .
Sau khi Nhật đầu hàng , ng VN ngày 2/9/1945 thành lập 1 cộng hòa độc lập mà họ gọi là VN Dân chủ Cộng Hòa . Hành động này được sự ủng hộ của tất cả ng VN . Ng Nhật đã chấm dứt cai trị của Pháp , và ko người Việt nào muốn nó phục hồi . Tổ chức chính trị đã thành lập nước VNDCCH là VN Độc Lập Đồng Minh Hội - thông thường được gọi là Việt Minh . Các thành viên của VM gồm mọi thành phần , khi BẮT ĐẦU (onset) chưa có tới 1/1000 là CS . Nhưng các lãnh tụ CS , phần lớn đào tạo từ Moscow , lại là những ng có 1 mạng lưới ngầm chặc chẽ (well-knit) và biết cách tổ chức 1 phong trào cách mạng trên diện rộng/quy mô lớn ; và chẳng bao lâu hàng triệu ng VN đã nhận ra rằng HẦU NHƯ (somehow) các vị trí chỉ huy (command post) của VM đều lọt vào tay CS . Tuy nhiên , vì VM đại diện cho kháng chiến chống Pháp , những ng dân này vẫn tiếp tục đi theo VM (còn tiếp) .
Nếu Việt Nam không có "bác" !
Từ ngày có "bác" Hồ ,
Dân Việt chết dài dài .
Ngày xưa thì hàng triệu ,
Thanh niên sanh miền Bắc ,
Nhưng "tử" ở miền Nam ,
Ngày nay thì mỗi năm ,
Cả trăm người khỏe mạnh ,
Vào đồn để "tự tử" ,
Những ai chưa được "chết" ,
Vì tay của công an ,
Cuộc sống lại quá khổ ,
Vì thất nghiệp dài dài ,
(Xin) làm "cu-li" nước ngoài ,
Đảng viên thì tham nhũng ,
Chúng tha hồ vơ vét ,
Như chết đói lâu ngày ,
Chúng không chừa thứ gì ,
Chúng lại rất nhẫn tâm ,
Như bộ trưởng y tế ,
Mụ Nguyễn thị Kim Tiến ,
Nhập thuốc giả về bán ,
Chẳng cần biết thuốc này ,
Sẽ làm chết bịnh nhân ,
Chúng đang đấu đá nhau ,
Vì tranh dành miếng ăn ,
. . .
Nếu đừng có "bác" Hồ ,
Việt Nam sẽ không thua ,
Nước nào ở Á Châu ,
Cứ xem gương Hàn Quốc ,
Hay Trung Hoa Dân Quốc * ,
Cũng mũi tẹt da vàng ,
Tài nguyên rất thiếu thốn ,
Nhưng nhờ có lãnh tụ ,
Với tầm nhìn tuyệt vời ,
Hết lòng với quốc dân ,
Mạnh tay với tham nhũng ,
Ra đi để va-li ,
Toàn là quần áo cũ ** ,
(còn tiếp) .
* Còn gọi là Cộng Hòa Trung Hoa (Republic of China) hay Đài Loan .
** Tài sản của TT Phác Chính Hi để lại khi chết .
Hình : chụp tại rạp Ciros tại Hà Nội năm 1954 với hình Mao cao nhứt , dưới có hình Malenkov (bí thư thứ 1 ĐCSLX) và HCM .