Monday, May 5, 2025

CUỘC ĐỜI CỦA TIỀN QUÂN NGUYỄN VĂN THÀNH QUA LĂNG KÍNH CỦA LTS.

1/ Theo Wikipedia, ông Nguyễn Văn Thành sinh ngày 13 tháng 11 âm lịch năm Mậu Dần (tương đương dương lịch là 1758). Tiên tổ người xứ Thuận Hóa, phủ Triệu Phong, huyện Quảng Điền, tổng Phú Ốc, xã Bác Vọng. Tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định.

Sử sách ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ".[1][2]

...

Nhận xét: Tuy là khai quốc công thần, nhưng lúc gần cuối đời, do lời dèm pha của những kẻ ghen tị ông, cha con ông bị vua Gia Long nghi ngờ tạo phản nên ông tự tử, con trai bị xử chém. Sau này danh dự được phục hồi, ông được người đời nay thờ phượng, làm lễ nhân ngày giỗ của ông.

Vì thấy cuộc đời của ông quá đau khổ nên tôi dùng LTS để tìm hiểu.

Đầu tiên tôi dùng Âm Dương lịch đối chiếu, tôi biết ngày sanh của ông là ngày 12 tây, xem hình.

                               


          

2/ Nay dựa vào bảng trị số của LTS, thay thế các chữ trong tên họ của ông, tôi có:

Nguyễn = 536155 = 25 = 7

Văn = 615 = 12 = 3

Thành = 45155 = 20 = 2

Cộng lại: 7 3 2 = 12, rất xấu.

Sau đây là ý nghĩa của số này, xem hình, xin đọc kỹ phần có gạch đỏ. 

     

Kết luận: Những gì xảy ra đã ứng với tên và ngày sanh (số 12) của ông.

Đọc thêm:

Lăng mộ

Lăng mộ Tiền quân Nguyễn Văn Thành hiện an vị ở xã Thủy Phương, huyện Hương ThủyThừa Thiên Huế. Lăng mộ có diện tích năm mươi mét vuông, bao gồm bốn cột trụ biểu, bia tiền và bia hậu. Trên bức bia tiền còn ghi rõ chức tước của Tiền quân khi đã trở về cố đô Huế vào năm 1810 cho đến khi mất: "Việt Cố Khâm Sai Chưởng Trung Quân Bình Tây Đại tướng Quân Thành Quận Công Chi Mộ". Trên Bức bia hậu ghi tóm tắt tiểu sử công trạng cùng tên tuổi gia quyến của Tiền quân. Đặc biệt trên bia còn khắc cảnh Xuân Hạ Thu Đông và các hoa văn tượng trưng cho uy quyền và đức độ của ngài khi xưa.

Đền thờ: Tại xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trên vùng đất cao trong khu rừng sao, ngôi đền thờ Tiền quân Nguyễn Văn Thành được xây dựng từ năm 1820. Toàn bộ khung sườn đền đều làm bằng gỗ sao đốn từ những cây sao già tại khu rừng ấy. Trải qua hơn một trăm tám mươi năm thăng trầm của lịch sử, đền vẫn còn đó dáng uy nghiêm và trầm mặc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Mười Một âm lịch là ngày giỗ của Tiền quân.

Ngày giỗ: Theo như lệ thường hàng năm, vào ngày mười lăm tháng mười một âm lịch năm Bính Tuất, tức là vào thứ tư, ngày mùng ba tháng giêng dương lịch năm 2007 đã diễn ra buổi lễ cúng đình thần, Đức Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tại xã Tân An. Từ tờ mờ sớm đã diễn ra lễ rước sắc phong thần từ ngôi nhà cổ vào đền Tân An. Trong bầu không khí trang nghiêm và long trọng của buổi lễ cúng thần, các đội tế lễ trong trang phục truyền thống, áo dài khăn đóng, đã ra làm lễ tế. Các khách thập phương lũ lượt từ các nơi gần xa cũng đã có mặt đông đủ tại đình cổ Tân An để thấp hương và cầu an.

Đường phố;  Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1985 có tới 2 con đường mang tên Nguyễn Văn Thành. Đường Nguyễn Văn Thành (thường hay gọi là bến Nguyễn Văn Thành, do nằm dọc theo rạch Hàng Bàng) của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là đường Phan Văn Khỏe (trước đó cũng gọi là bến Phan Văn Khỏe, nhưng hiện nay không còn gọi là bến nữa do rạch Hàng Bàng đã bị lấp gần hết) ở quận 5 và quận 6, còn đường Nguyễn Văn Thành của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Huỳnh Đình Hai ở quận Bình Thạnh. (http://vi.wikipedia.org/)

 I remember when......Page 2

 PHÉP LẠ CHO NGƯỜI NÀY NHƯNG CÁI CHẾT CHO NGƯỜI KHÁC

Đôi khi trong chiến đấu người ta thấy rằng sống và chết cách nhau trong gang tấc. Câu chuyện sau đây là 1 bằng chứng đầy thuyết phục (overpower) về 1 phép lạ cho 3 nhân viên phi hành nhưng bất hạnh cho nhân viên còn lại.

Ngày đó hợp đoàn chúng tôi gồm 1 số trực thăng chở quân hay slick và hai gunship được lịnh bốc quân VNCH tại Gò Dầu Hạ, gần Đức Hòa, nằm giữa Sài Gòn và vùng Mỏ Vẹt. Sau khi bốc quân, chúng tôi về Đức Hòa chờ đợi và ăn trưa.

Chuyên viên bậc 5 Dave Norton của chiếc "The Fabulous Blue 5" kể lại:

"Tôi ko thích ăn trưa ở Đức Hòa vì chúng tôi luôn luôn đậu trực thăng kế pháo binh và gần như họ luôn luôn tác xạ khi chúng tôi ở đó. Đạn đại bác nổ lớn, đến độ dù mang mũ bay, lổ tai chúng tôi rất khó chịu. Tôi là cơ khí phi hành (crew chief) trong chiếc Fabulous Blue 7 này với Lyman Sramek làm trưởng cơ hay AC, một phi công phụ hay Peter Pilot (mà tôi ko biết tên), và chuyên viên bậc 4 George Gomez, xạ thủ. Chúng tôi bay cuối đoàn và có trách nhiệm theo dỏi tần số guard trong trường hợp khẩn cấp khi chúng tôi trên mặt đất."

"Sau khi ăn trưa, hai chiếc gun đã cất cánh để yểm trợ quân VN. Ko lâu sau đó, trong khi tránh nắng trong cái bóng của trực thăng, chúng tôi được lịnh bay gấp. Sau khi cất cánh, chúng tôi được biết một Bandit, tiếng lóng mà chúng tôi đặt cho gunship, đã bị rơi và chúng tôi phải cứu phi hành đoàn. Chiếc gun còn lại sẽ yểm trợ chúng tôi. (Mỗi toán gunship gồm hai chiếc để yểm trợ lẫn nhau).

Chỉ vài phút sau khi rời Đức Hòa, chúng tôi đã thấy địa điểm máy bay rơi. Sau khi các chiếc gun dọn bãi, chúng tôi bắt đầu xuống thấp để tiếp đất. Nơi máy bay rơi là cánh đồng lúa bị cháy xém với một bên là bụi và cây nhỏ và một bên là cánh đồng trống trải. Bay càng gần, chúng thấy chiếc Bandit 3 chỉ là một đống sắt cong quẹo, nằm rải rác.

Mới nhìn, chúng tôi ko thấy ai và nghĩ rằng điều xấu nhứt đã đến với họ. Gomez và tôi nhảy ra khỏi máy bay để tìm kiếm. Đầu tiên chúng tôi thấy phi công phụ, mà tiếng lóng là Peter Pilot, đang ngồi trên mặt đất cách nơi máy bay rơi 1 khoảng. Y có nhiều vết cắt trên mặt và đầu, có phần lảo đảo và choáng váng (wobbly and woozy), chúng tôi đưa y đến máy bay. Sau đó chúng tôi thấy cơ khí phi hành trong đám cỏ cao. Chân trái y bị thương nhiều chỗ. Sau khi đưa y nằm trên sàn máy bay, chúng tôi biết xương chậu của y cũng gẫy. Chúng tôi tìm kiếm kẻ khác thì thấy xạ thủ ngồi trong máy bay. Ngoài lớp tro đen phủ khắp người khác và vết cắt dài nửa inch trên trán, y có vẻ OK.

George đang chăm sóc ba thương binh trên chiếc Blue 7, còn tôi đi tìm người vẫn còn mất tích, đó chuẩn úy Carl Martin Creal, trưởng cơ. Phần đuôi (tail boom) đã rời khỏi máy bay. Động cơ cũng văng khỏi máy bay. Thân máy bay dựng đứng và cắm đầu xuống đất. Tro đen bao phủ mọi thứ.

Tôi kiếm chung quanh chỗ máy bay rơi nhưng vẫn ko thấy chuẩn úy Carl Creal. Trở về chỗ chiếc máy bay đang cắm đầu xuống đất thì thấy phía trên của buồng lái biến mất, nhưng Creal vẫn còn buộc vào ghế bay với đầu ko có mũ bay. Ngoài vết thương rất sâu trên đầu phía trên mắt trái, y ko còn vết thương khác. Vì nghĩ rằng y đã chết, tôi chạy nhanh về máy bay của tôi đang chờ. Vì chúng tôi phải bay gấp về Sài Gòn để cứu 3 người kia. Khi mở máy bộ đàm hay intercom thì chuẩn úy Sramek hỏi tôi chuẩn úy Creal đâu rồi. Tôi trả lời y đã chết và địa điểm máy bay rơi an toàn."

"Trên đường tới SG, thương binh xạ thủ Dennis Surop dùng tay ra dấu gọi tôi. Tôi nghiêng người để nghe. Y nói, "Norton, đừng để chân tôi rơi ra khỏi máy bay." Tôi thấy bàn chân phải y còn trên sàn tàu nhưng bàn chân trái sắp rớt khỏi máy bay. Bàn chân này chỉ còn dính vào thân y bằng 1 mảnh da thịt. Tôi đưa bàn chân này vào trong máy bay và lấy chân của tôi chận bên ngoài để nó khỏi rơi. Y lại hỏi tôi chuẩn úy Creal thế nào, tôi dùng ngón tay ra dấu cắt cuống họng, khiến y lộ vẻ thất vọng."

"Khi chúng tôi trở lại địa điểm máy bay rơi thì biết rằng 1 máy bay đã bốc chuẩn úy Creal về Biên Hòa. Chúng tôi cũng được lịnh tháo gở súng và máy truyền tin của máy bay. Khi đến nơi, chúng tôi thấy lính VN lục soát chung quanh (poke around). 

Nous avons regardé le site de laccident et avons obtenu ce que nous cherchions. depuis notre dernière visite, quelquun avait renversé le fuselage sur le dessus, enlevant apparemment le corps de ladjudant-chef Creal. Le mot « KILL » qui était écrit sur le bas était maintenant clairement visible."

Việc chiếc Bandit 3 bị rơi và chỉ có 1 người chết là chuẩn úy Carl Creal là 1 điều bí ẩn. Nếu nhìn những ảnh của chiếc UH-1C này, người ta tự hỏi làm thế nào có thể sống sót trong 1 tai nạn như vậy.

Norton sau này đã nói chuyện và hỏi những người sống sót. Vì ko thể liên lạc với quân VN, chiếc Bandit 3 đã lượn một vòng để phóng rocket và vì ko thể lấy cao độ để rời vùng nên đã lao xuống đất với tốc độ cao. Vài người đã văng khỏi máy bay trước khi máy bay tiếp đất và ngừng lại. Người ta ko biết chuẩn úy Creal hay phi công phụ ai là người điều khiển máy bay. Xạ thủ thì nghĩ rằng máy bay ko bị bắn từ dưới đất.

 Ngày bi thảm của đại độ 118 không vận*

*Đại đội này có biệt danh Thunderbirds, thuộc TĐ 145 không vận, đồn trú tại Biên Hòa.

ngày 9/10/1969, là một ngày mà chúng tôi sẽ ko bao giờ quên vì đã mất phi hành đoàn 6 người và 6 người thuộc lữ đoàn 199 bộ binh. 

Ngày hôm đó, một trực thăng UH-1D mang số 63-08826 được lịnh triệt xuất một toán viễn thám tại 1 bãi đáp ở phía đông tỉnh Long Khánh. Bãi đáp rất gần bờ của Sông Đồng Nai nước chảy mạnh. Lúc cất cánh từ bãi đáp, cánh quạt của rotor chánh của chiếc trực thăng chở nặng đã chặt khoảng 45 feet hay 13.7 mét của bụi tre dầy. Đồng hồ RPM bắt đầu mất cao độ. (Nói thêm: Điều này có thể xảy ra hầu như bất cứ lúc nào và nó thường là kết quả của collective tay ga không đúng cách. Thường thì nó xảy ra vào lúc thephi công phải kéo collective lên để ngăn chặn sự hạ cánh của trực thăng và thêm sức mạnh để bay lơ lửng).





Máy bay quay qua phải và hướng về phía tây, bay trên sông để định tăng tốc độ. Một lúc sau đó, trưởng cơ, chuẩn úy hay CW 4 James Bailey đã buộc phải đáp xuống nước với độ sâu 15-20 feet hay 4,5 tới 6 mét. Bên trái của chiếc UH-1D đã chìm trong nước chưa tới 10 giây, theo báo cáo.

Các toán người nhái và trực thăng đã lập tức tiến hành việc tìm kiếm. Họ chỉ cứu được hai người: chuẩn úy Kilbourne và chuyên viên bậc 4 Cowherd. Năm người lính viễn thám mất tích. Những ngày sau đó, máy bay phát loa kêu gọi và rải truyền khắp khu vực. Đợt 1 từ 9-15/10 và đợt 2 từ 19-21/10/1969, chỉ gián đoạn từ 16-18/10/1969 vì thời tiết xấu.

Một thợ lặn thuộc toán viễn thám cố gắng tìm kiếm khu vực, dù mang theo dây, đã gặp nhiều khó khăn do nước chảy mạnh ở khúc sống này. Y báo cáo đã tìm thấy máy móc ở bờ sông kế nơi máy bay rơi. Nhưng người ta ko thể xác định bao nhiêu đã thoát khỏi máy bay sau khi lâm nạn. Một người cho biết đã cố gắng nhiều lần bơi vào bờ trước khi đến bờ sông. Một người khác nói bạn mình chìm cách y bốn feet nhưng ko thể cứu.

Chỉ có 2 người sống sót của chiếc UH-1D này là chuẩn úy Kilbourne và cơ khí phi hành, chuyên viên bậc 4 Cowherd. Hai tử thi được tìm thấy

 Tragic Day for the Thunderbirds

October 9, 1969

To borrow and word, October 9, 1969 was a day that will live in "infamy" in the history of the 118th Thunderbirds. October 9, 1969 was a terrible day because of the loss of 6 Thunderbird lives and 5 men from the 199th Light Infantry Brigade.

On October 9, 1969, a UH1D (63-08826) helicopter crew and 5 passengers were in the last aircraft of a flight of Thunderbird aircraft executing an extraction from a mined PZ (pick-up zone) in eastern Long Khanh Province, South Vietnam. The PZ was very near the shores of the swiftly flowing Song Dong Nai River. During the extraction, the heavily loaded helicopter's main rotor blades clipped some 45 feet tall bamboo while struggling out of the PZ as formation trail. The helicopter, already struggling with low rotor RPM began losing altitude. It turned right and headed west over the river in an attempt to regain air speed. Shortly thereafter, the aircraft commander, CW 4 James A. Bailey was forced to make a textbook water landing in 15-20 feet of water. The UH-1D sank on its left side in less than 10 seconds according to reports.


Continuous air and water searches were conducted immediately after the crash. They resulted in the rescue of two crew members, WO1 Steven. T. Kilbourne and SP4 O. Cowherd. None of the 5 passengers could be rescued and all perished! For days after that, loudspeaker broadcasts, and leaflet distributions to the locals were conducted. These took place during the periods of 9-15 October and 19-21 October, 1969. They were finally suspended October 16-18, 1969 only because of poor weather conditions. Recovery of most of the missing personnel aboard was accomplished. However, 5 were never recovered and classed as BNR.


A LRRP swimmer trying to search the site had difficulty working in the swift waters of the Song Dong Nai river, even with a rope. The individual reported that equipment was seen on the shore after the crash and it appeared to be alternately submerged and then to reappear. It could not be determined immediately how many persons escaped the aircraft. One who did escape reported that he could not make it to shore and went under numerous times. Another survivor reported seeing a man go down within 3-4 feet of him, but never saw him again. One of the individuals who was initially thought to have survived, later drowned or was lost in the incident.


The only survivors of the crash of UH-1D (63-08826) was WO1 Steven T. Kilbourne, the young pilot and the Crew Chief SP4 O. Cowherd. The two crew member remains located were identified as the crew chief, who had survived the immediate crash, but later drowned, and CW4 James W. Bailey, the aircraft commander, who was lost and remains recovered. However, the gunner SP5 James Henry Turner, was presumed drowned and he eventually classified as BNR.

The waters of the Song Dong Nai River were swift and treacherous that day apparently due to monsoon rains. It is particularly tragic that men who survived an aircraft crash would then drown trying to reach safety or aid others who were passengers. SGT James Lawrence Suydam, SGT Dallas Alan Driver, SGT Jimmy Ray Garbett, SGT Raymond Gregory Moore and SP5 James Henry Turner were listed as Killed, Body Not Recovered (BNR).

The fact that so many 199th Light Infantry Bde. Sergeants died in the last aircraft out of the PZ should not go unnoticed. Typically when a unit on the ground was extracted from a PZ, the unit places many Claymore mines around the PZ and then detonates them as the last men load on the aircraft to leave. These Sergeants did just that and were the last to leave the PZ and the ones to detonate the Claymore mines. True leaders and men doing the job of heros.

 

CW4 James A. Bailey, leaning against the aircraft before the incident. CW4 Bailey, a very experienced US Army Aviator,
at the age of 42, died tragically with 6 others when his aircraft crashed and sank into the Song Dong Nai River.
The pilot in the aircraft seat is Lawrence B. Smith, who was given this photo the day before the tragic crash.(69)
(Photo courtesy Lawrence B. Smith)
===========


A Bandit Crew Unfound for Days!

October 9, 1969

While supporting troops in heavy combat at coordinates YT 3025, about 7 miles East of Bien Hoa on October 9, 1969, Bandit 2, a UH-1C (66-00530) gun ship, was lost for days when it crashed in tall bamboo in bad weather. Bandit 2 with the bodies of the 4 killed crew members on board, was not found for many days afterward. Apparently, some Vietnamese wood cutters found the aircraft in thick bamboo, completely covered (See photos below).

According to the accident summary, Bandit 2, piloted by Aircraft Commander CW2 Owen Tetsumi Hirano, and Pilot 1LT Robert Scott Mason, Jr. and Crew Chief SP5 Greg Bradford Scott and Gunner SP4 Danny Ray Spencer, was flying wing with 1LT John W. Mack who was the fire-team leader of the light fire-team. CW2 Hirano's aircraft had a 20 minute fuel warning light on. It was dark and both aircraft experienced lost contact with the ground and began flying on instruments in very poor weather. They were within 500-600 feet above the jungle tops. They both new this was in the vacinity of the high tension power lines that followed Highway 1. CW2 Hirano called Lt. Mack and told him he had Highway 1 in sight with his search light and would pick it up and follow it back to Bien Hoa. 1LT Mack followed CW2 Hirano and shortly after passing over Trang Bom they ran into extremely heavy rain and went completely IFR. CW2 Hirano called and said he was making a 180 degree turn to the right. They both turned right and LT Clay A. Hinderliter, co-pilot with LT Mack, lost sight of CW2 Hirano's aircraft. LT Mack's aircraft made it back to Trang Bom and landed. They tried repeatedly to contact CW2 Hirano's aircraft by FM, UHF and VHF radios, but no contact.

After about 20 minutes on the ground at Trang Bom, the weather cleared sufficiently to take-off. LT Mack and LT Hinderliter took off and proceeded the short distance to Bien Hoa, but CW2 Hirano was not there. A search was conducted for many days, without success. However, following an intelligence report that some Vietnamese woodcutters had found an aircraft crashed in thick bamboo, the aircraft was finally found.

SP5 Dan Chase, Crew Chief of a 145th CAB, HQ,
aircraft, standing beside Bandit 2 wreckage,
which was lost for days in thick bamboo.(69)
(Photo courtesy Dan Chase)
 
 
A closer photo showing the "2" of Bandit 2 vertical stabilizer, above.(69)
(Photo courtesy Dan Chase)