Monday, August 11, 2014

HOẠT ĐỘNG CỦA QUÂN Y VIỆT MỸ .

1/ Một lính BĐQ VNCH bị thương , đầu quấn băng chỉ hở mắt và miệng , sẳn sàng đón chờ địch tại trận Đồng Xoài . 


2/ 1 Y tá VNCH nhảy từ vị trí an toàn , sau 1 bờ đê , để vượt qua cánh đồng lúa dưới hỏa lực địch tại tỉnh Định Từơng dọc theo 1 con kinh ở rìa của Đồng Tháp Mười . Anh ta đến cứu 1 lính ĐPQ bị thương .

3/ 1 lính Mỹ bị thương đc cho uống nước .

4/ 1 lính TQLC Mỹ nghe nhịp tim của 1 anh bạn sắp chết vì vết thương ở đầu khi tr.đội đầu của đ.đ. này bị bắn bằng đại liên khi băng qua 1 cánh đồng lúa kế khu PQS ngày 17/9/1966 .

5/ Một TQLC Mỹ lau nước mắt khi quì gối bên cạnh 1 xác trong trận đánh gần vùng PQS , ngày 18/9/1966 . Một số khác bị thương và chết nằm dọc đường .

6/ Tr.tá George Eyster nằm trên băng ca sau khi bị bắn sẻ tại Trung lập , Nam VN . 16/1/1966 .

7/ 1 lính Mỹ nằm chết trên chiến trường .

8/ Hai lính Mỹ tản thương 1 thương binh .

10/ Một lính Mỹ bị thương nặng ở mặt chờ t.thương . Ng lính này định giựt 1 nhánh tre có truyền đơn cs , làm lựu đạn gài sẳn trên tre phát nổ .
11/ Hình dưới ko có chú thích .


12/ ko có chú thích .



Những bài học Lịch sử đắt giá chưa thuộc

Đăng bởi Hai Hoang Van vào Thứ Sáu, ngày 08 tháng 8 năm 2014


"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải."

Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:

"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu." Lời của Vua Trần Nhân Tông (1258-1308)

“Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng dễ ai lấy mất 1 phân núi, 1 tấc sông do vua Thái Tổ để lại.” Lời của Vua Lê Thánh Tông (1442-1497)

Trên đây là những lời vàng ngọc liên quan đến chủ quyền và lãnh thổ quốc gia, trước mưu đồ bành trướng của người láng giềng đến từ phương Bắc, của hai vị Vua nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Không có gì là quá đáng nếu xem đó là những bài học lịch sử đáng giá ngàn vàng trong vấn đề chủ quyền và lãnh thổ của đất nước. Tiếc thay, lịch sử luôn lặp lại với những người không thuộc lịch sử. Và Đảng Cộng Sản Việt Nam mà người đại diện là cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một trong những người không thuộc những bài học lịch sử mà Tiền nhân đã để lại.


Ngày 14 tháng 9 năm 1958, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Công hàm gởi người đồng nhiệm của mình là Chu Ân Lai để ghi nhận và tán thành “tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục”! Nội dung của bức Công hàm do cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng ký như sau.

Gần đây, nhiều học giả của Việt Nam đã bỏ ra nhiều thời gian và công sức để chứng minh rằng bức Công hàm trên đây của cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng không có giá trị khi phía Trung Quốc dùng bức Công hàm trên đây như một bằng chứng là Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1958. Dù chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm trên đây của nhiều học giả Việt Nam trong và ngoài nước nhưng chúng tôi thấy cần phải trình bày thêm những điểm sau đây để chúng ta có thể đánh giá vấn đề này một cách thấu đáo.

Thứ nhất. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa.(1)

Như vậy, rõ ràng là một điều bất cập khi cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng đã ký Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 bởi “Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa.” Có nghĩa là phía Trung Quốc đã có gởi hình ảnh để làm bằng chứng “đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa” mà cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng vẫn đặt bút ký Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 để “ghi nhận và tán thành” tuyên bố của Trung Quốc thì rõ ràng là phía Việt Nam đã tự buột dây thòng lọng vào cổ mình.

Thứ hai. Là Thủ tướng của một nước thì không thể ký Công hàm một cách giỡn chơi được. Nhất là Công hàm liên quan đến chủ quyền và lãnh hải của quốc gia cũng như đối ngoại với lân bang hay bạn bè trên thế giới. Có phải là lố bịch hay không khi mà đảng cầm quyền vẫn tồn tại, thể chế lãnh đạo vẫn tồn tại nhưng lại cho rằng Công hàm ngoại giao của người tiền nhiệm không có giá trị pháp lý. Nói như vậy thì có khác nào tự vả vào mặt mình?

Thứ ba. Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ trong tay của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Khi đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng vẫn đang làm Thủ tướng có gởi Công hàm để phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và lãnh hải của Việt Nam hay không? Nếu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có gởi Công hàm để phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc thì đương nhiên quần đảo Hoàng Sa trực thuộc chủ quyền của Việt Nam. Còn nếu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc thì đã đồng nghĩa rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không coi trọng chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Dù lúc đó Trung Quốc là đồng minh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như giúp đỡ súng đạn cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng cũng không thể nào dùng chủ quyền lãnh hải và biển đảo của đất nước để trao đổi, thỏa hiệp. Dù là chế độ nào, dù cho ở thời điểm nào, một khi dùng một tấc đất của Tổ tiên để lại rồi trao đổi với ngoại bang thì vẫn là hành động bán nước cần lên án.

Thứ tư. Đàng Cộng Sản là đảng cầm quyền mà thông qua cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng đã ký Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 và đảng cầm quyền hiện nay tại Việt Nam vẫn là một đảng Cộng Sản. Tính đến nay là đã có 6 người giữ chức Thủ tướng sau cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng. Như vậy, đã có vị Thủ tướng nào của Việt Nam đã lên tiếng nói rằng Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 được ký bởi cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý hay chưa? Nếu chưa có vị nào đưa ra tuyên bố này thì hiển nhiên là Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 được ký bởi cố Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng vẫn còn có giá trị.

Có lẽ bài học lịch sử “Công hàm 1958” là một bài học đắt giá mà lãnh đạo đảng CSVN phải ghi nhớ và nằm lòng để lấy đó làm kim chỉ nam trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc. Ngoài ra, cũng cần kể thêm bài học “mối nối đường xe lửa” của Trung Quốc để thấy rõ âm mưu bành trướng để lấn đất, cướp đất của Việt Nam chúng ta. Thế nhưng, lãnh đạo của đảng CSVN không bao giờ ghi nhớ những bài học xương máu. Để rồi Việt Nam lại mắc mưu thâm độc của Trung Quốc và lịch sử lại tiếp tục lặp lại.

[…..Những biến động lớn trong tình hình thế giới bên ngoài lúc này đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ của lãnh đạo ta về phương hướng chiến lược đối ngoại. Cuộc khủng hoảng chính trị tại nhiều nước theo chế độ XHCN đã bùng nổ từ năm 1989 và đang có chiều hướng lan rộng ra. Tháng 6.89 xảy ra vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc. Cũng trong năm 1989, chế độ XHCN ở các nước Đông Âu như CHDC Đức, Ba Lan, Rumani, Hung, Tiệp, Ba Lan đều đã sụp đổ. Đầu tháng 10.89, TBT Nguyễn Văn Linh đi dự kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức, khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ, Honecker bị lật. Lãnh tụ Rumani Ceaucescu, người mà khi ở Berlin anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp XHCN thế giới đang lâm nguy, vừa chân ướt chân ráo về đến Bucarest thì bị truy bắt. Với “tư duy mới” của Gorbachov, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên lộn xộn.

Các "đồng chí" Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu. TBT có ý kiến: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ CNXH, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa 2 nước. Các vấn đề khác giải quyết sau… một Campuchia thân thiện với Trung quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia…Phương án 4 là tốt. Không để LHQ nhúng tay vào vì LHQ là Mỹ, Thái lan là Mỹ” …] (Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 9)

Khi những quốc gia ở Đông Âu từ bỏ con đường XHCN trong những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ trước, thì Việt Nam đã có một cơ hội ngàn vàng để thoát khỏi vũng lầy lạc hậu và đói nghèo. Thế nhưng, lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn đó đã bỏ qua cơ hội ngàn vàng này để đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo đói và lạc hậu. Không những vậy, Bộ Chính Trị đã chọn con đường chống đế quốc bằng cách bắt tay với Trung Quốc để tiếp tục con đường xây dựng XHCN.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN và đã có 4 người đảm nhiệm chức vụ Tổng Bí Thư kể từ thời TBT Nguyễn Văn Linh. Nhưng cho đến ngay lúc này, ông tân TBT Nguyễn Phú Trọng – một nhà lý luận (suông?) xuất sắc của đảng CSVN hiện nay vẫn không thể trả lời cho hơn 85 triệu người Việt Nam biết rằng, không thể nói rõ rằng Việt Nam hiện đang ở đâu trên nấc thang dẫn đến thiên đường bánh vẽ XHCN.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường kinh tế thị trường định hướng XHCN, kim ngạch xuất cảng của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào xuất cảng thủy hải sản, lúa gạo, và tài nguyên thô là chính. Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, nền giáo dục nước nhà đã đi “đúng hướng” với những chỉ tiêu như học sinh cấp trung học thi đậu tốt nghiệp từ 98% đến 100%. Lãnh đạo của Bộ Giáo dục có thể tự hào vì Việt Nam đã có những trường đại học được xếp thứ hạng cao trong một trang mạng “vui là chính” nào đó. Thế nhưng, Việt Nam luôn thiếu nguốn nhân lực đảm trách các ngành sản xuất chế tạo công nghiệp cao mà những công ty kỹ thuật hàng đầu như Intel tìm kiếm.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, Việt Nam đã có những công trình hạ tầng cơ sở hoành tráng và hiện đại. Thế nhưng, những công trình hoàng tráng và hiện đại này có thể bị sụt lún hay xuống cấp trầm trọng trước khi được đưa vào sử dụng bởi do thời tiết. Hoặc là những công trình hoành tráng có thể trở thành sông sau một cơn mưa lớn.(2)

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, giai cấp công nhân – giai cấp tiên phong của chế độ được làm việc trong những điều kiện tồi tệ và bị bóc lột đến tận xương tủy. Những người công nhân – giai cấp tiên phong của chế độ được sống và làm việc trong những môi trường không khác gì những giai cấp công nhân Âu Mỹ đã từng trải qua trong khoảng thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, Việt Nam đã nhận được rất nhiều hỗ trợ từ các quốc gia tiên tiến Âu Mỹ để xây dựng hệ thống Tư pháp được tốt hơn. Thế nhưng, thế giới biết đến Việt Nam không phải vì Việt Nam có một nền Tư pháp văn minh hiện đại mà thế giới biết đến Việt Nam qua những phiên tòa “bịt miệng” cũng như phiên tòa bắt đầu bằng “2 bao cao su”.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, sân golf mọc lên khắp nơi để phục vụ những người lắm tiền nhiều của. Bên cạnh đó là người dân bị đẩy vào con đường cùng bởi mất ruộng, mất đất để làm kế sinh nhai. Chúng ta có thể thấy những khu biệt thự triệu đô bị bỏ hoang nhưng cũng không thiếu cảnh người dân không có mảnh đất cắm dùi.(3)

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, tuy giới lãnh đạo CSVN không thể cho hơn 85 triệu người dân biết được Việt Nam đang ở đâu trên con đường tiến lên XHCN, nhưng hơn 85 triệu người Việt hiện nay có thể biết được, thấy được xã hội Việt Nam ngày nay đang đầy rẫy những bất ổn bởi sự quản lý yếu kém, tham nhũng, và tất nhiên là không thể không kể đến “một bầy sâu” như lời của ông Bí thư Thường trực Trương Tấn Sang đã nói cách đây không lâu.

Và tệ hại hơn, việc bắt tay với Trung Quốc để tiếp tục con đường xây dựng XHCN vào năm 1990 đã khiến Việt Nam lún sâu vào những cạm bẫy của Trung Quốc. Chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề này trong một chủ đề mới với tựa đề “Tư duy và chiến lược Đà điểu”. Kính mời quý độc giả đón đọc kỳ tới.

Nguyễn Trung



(thegioimoionline.com)

Ảo tưởng về khẩu hiệu “vừa anh em vừa đồng chí”, 1950-1973



Đăng bởi Hai Hoang Van vào Thứ Hai, ngày 11 tháng 8 năm 2014



Trích từ bài viết “The Sino-Vietnamese Dispute over Territorial Claims, 1974–1978: Vietnamese Nationalism and its Consequences“, International Journal of Asian Studies, 8, 2 (2011), pp. 189–220



Đặng Tiểu Bình và Hồ Chí Minh ( TheoZing.vn)

Lịch sử tác động qua lại giữa TQ và Việt Nam là một lịch sử lâu dài. Kí ức tập thể của người Việt về sự thống trị của TQ trong hai thiên niên kỉ chứa đầy một kho chuyện kể về chủ nghĩa anh hùng chống lại bá quyền TQ mà những người Việt yêu nước tận dụng để vận động người dân chống lại sự xâm lược của TQ trong tương lai [1].



Trong khi các nguồn năng lực chính của Việt Nam để đẩy lùi các cuộc xâm lược liên tục của TQ, hoặc để làm cho việc TQ chiếm đóng Việt Nam lung lay có thể là một ý thức về dân tộc anh hùng, đồng thời tồn tại việc cạnh tranh có ý thức của các tổ chức chính trị và quân sự của TQ, không những cho thấy cốt lõi trong việc chống lại mối đe dọa TQ mà còn làm hài lòng các hoàng đế Trung Hoa vô cùng tự tin về tính ưu việt văn hóa của chính họ.[2] Như William Duiker đã nhận xét một cách chính xác, “Đối với người Việt Nam, thái độ của họ đối với TQ là một sự pha trộn độc đáo giữa sự tôn trọng và tính ngỗ ngược, kết hợp việc chấp nhận thực tế về sức mạnh và ảnh hưởng của TQ với việc bảo vệ bền bỉ nền độc lập và tính khác biệt của Việt Nam.”[3] Chỗ mà lịch sử chính thức Việt Nam nhấn mạnh áp đảo là việc cả nước kháng chiến chống ngoại xâm, hầu như lúc nào cũng là TQ. Di sản lịch sử này vẫn còn là một lực lượng mạnh mẽ ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Trung hiện tại.



Giai đoạn 1950-1965 chứng kiến sự hợp tác chặt chẽ nhất giữa hai nước láng giềng này. Trong giai đoạn này, các nhà lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) và Đảng Cộng sản TQ (ĐCSTQ) vạch ra một khẩu hiệu chung về mối quan hệ thân mật Việt -Trung “vừa đồng chí vừa anh em”.[4] Cả hai bên đều gạt bỏ điều tiêu cực của quá khứ – đó là, lịch sử TQ xâm lược và chinh phục Việt Nam trong hai thiên kỉ trước khi thực dân Pháp đến vào thế kỉ XIX. Thay vào đó, họ nhấn mạnh rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như là một nhà nước cách mạng mới của công nông vô sản TQ vốn đã từng đấu tranh không ngừng trong nhiều thế kỉ chống lại sự đàn áp của phong kiến TQ và thực dân châu Âu.[5]



Ví dụ, vào ngày 18 tháng 10 năm 1956, báo Nhân Dân, tờ báo của ĐLĐVN, đưa ra một bài xã luận chào đón chuyến thăm VNDCCH của Thủ tướng Chu Ân Lai bằng cách mở đầu với nhận xét sau: “Trong mấy ngàn năm qua, nhân dân hai nước chúng ta đã chiến đấu chống lại bọn thống trị phong kiến [muốn nói đến cả phong kiến TQ lẫn VN], và gần đây nhất, chúng ta đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân [qua việc gợi lại kí ức về quân “Cờ Đen” TQ vượt qua biên giới Trung-Việt để cùng với dân Việt Nam ở miền Bắc chống quân đội Pháp].”[6] Sau đó, Chu Ân Lai đáp lại bằng cách bày tỏ lòng tôn kính đến Hai Bà Trưng từng đứng lên chống lại đế chế Trung Hoa vào năm 43, tố cáo chủ nghĩa nước lớn của các triều đại Trung Hoa đối với Việt Nam trong quá khứ.[7]



Trên thực tế, khẩu hiệu “vừa đồng chí vừa anh em” này được che phủ trong các toan tính chiến lược của cả hai bên. Như Qiang Zhai nêu: “Liên minh Bắc Việt-TQ là một liên minh về sự cần thiết lẫn nhau. Hà Nội thì muốn có viện trợ của TQ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, đổi lại Bắc Kinh cũng cần sự ủng hộ của VNDCCH cho các mục tiêu đối ngoại của mình.”[8] Đối với Hà Nội, trợ giúp kinh tế và quân sự của TQ trong cuộc chiến chống người Pháp trở lại Đông Dương là không thể thiếu vào lúc Liên Xô không quan tâm tới công cuộc này của Việt Nam.[9] Tuy nhiên, Hà Nội vẫn duy trì mối quan hệ có hoạt động với Moskva và bí mật bày tỏ mong muốn được Liên Xô viện trợ sau khi Pháp rút lui vào năm 1955.[10] Đối với Bắc Kinh, Bắc Việt Nam, giống như Bắc Triều Tiên, là một vùng đệm chiến lược để bảo vệ sườn phía nam của TQ chống lại các mối đe dọa từ các nước phương Tây không thân thiện và phục vụ cho việc định danh TQ như một nhà cổ vũ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.[11]



Trong những năm đầu thập niên 1950, ĐLĐVN đã bị cuốn hút bởi ảo tưởng rằng mối quan hệ “vừa đồng chí vừa anh em” giữa hai đảng cộng sản sẽ mở ra một chương mới trong lịch sử của một liên minh bình đẳng trong mối quan hệ Việt-Trung. Tuy nhiên, dù cả ĐCSTQ lẫn ĐLĐVN đều thấy cần phải vạch rõ một lịch sử chung mới cùng là nạn nhân dưới ách thống trị của các triều đại TQ trong quá khứ và sự nghiệp chung chống lại thực dân Pháp, nhưng liên quan tới bản chất của liên minh mới hình thành họ lại khác biệt nhau trên cơ bản.



Trước công chúng, các nhà lãnh đạo TQ không ngớt nhấn mạnh những lời lẽ về “bình đẳng và tôn trọng độc lập lẫn nhau” như một nguyên tắc cốt lõi của mối quan hệ mới. Tuy nhiên, trên thực tế thái độ của họ đối với Việt Nam giống như mối quan hệ thầy-trò.[12] Trong kí ức các lãnh đạo Việt Nam, việc TQ phản bội cách mạng Việt Nam có thể truy từ lời khuyên của Bắc Kinh trong Hội nghị Genève 1954 mà đỉnh cao là việc chia cắt Việt Nam đến năm 1975.[13] Tuy nhiên, sự bất bình đó đã không phát triển thành sự thù địch công khai vì Việt Nam đặt ưu tiên cao nhất cho sự giúp đỡ của TQ trong việc giải phóng Nam Việt Nam. Chỉ dấu cho việc này là khi phản ứng về chính sách đồng hóa cưỡng bức của VNCH đối người Hoa vào năm 1955, Hà Nội đã đồng ý miệng với nguyên tắc đồng hóa tự nguyện đối với cư dân người Hoa, vào năm 1957, Bắc Việt Nam và TQ đã kí một thỏa thuận song phương, trong đó Hà Nội cam kết không dùng đến biện pháp đồng hóa cưỡng bức cư dân người Hoa theo cách VNCH đã thực hiện ở Nam Việt Nam.[14]



Đầu năm 1958, khi Hà Nội theo đuổi giai đoạn mới “đấu tranh vũ trang” giải phóng miền Nam, họ cần thêm nhiều viện trợ kinh tế và quân sự của TQ. Trong bối cảnh này, Bắc Kinh đã biến cuộc khủng hoảng không có liên quan thành cơ hội để thực thi mối quan tâm của họ về lãnh thổ ở biển Đông vào một thời điểm mà Hà Nội yếu kém và phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ của TQ.



Cuối tháng 8 năm 1958, Mao liều lĩnh quyết định pháo kích đảo Kim Môn, kích động cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai leo thang thành một cuộc thách thức quân sự với Hoa Kì. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Bắc Kinh tuyên bố rằng lãnh thổ của TQ “bao gồm đại lục Trung Hoa, các đảo ven bờ, Đài Loan và các đảo phụ cận, gồm cả quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa (Maclesfield Bank), quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và tất cả các đảo khác ngăn cách bởi các vùng biển công (quốc tế).”[15]



Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng TQ Chu Ân Lai “ghi nhận và tán thành tuyên bố của Bắc Kinh ngày 4 tháng 9.”[16] Thật ra, lãnh đạo VNDCCH không có quyền hợp pháp để nhường lại vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến thứ 17 cho TQ bởi vì nó là phần thuộc chủ quyền lãnh thổ của VNCH. Về sau, vào ngày 10 tháng 6 năm 1977, khi bị Phó Thủ tướng TQ Lí Tiên Niệm vặn hỏi, Phạm Văn Đồng tìm cách hợp lí hoá lập trường trước đây của [Bắc] Việt Nam bằng cách lập luận rằng đó là một “vấn đề cấp thiết thời chiến” để ủng hộ các yêu sách của TQ trong chiến tranh bởi vì sự cần thiết phải “đặt việc chống đế quốc Mĩ lên trên mọi thứ khác.”[17] Trong phản bác, Lí Tiên Niệm trả lời:” chiến tranh không đang tiếp diễn tại Việt Nam vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 khi thủ tướng Phạm Văn Đồng. . . thừa nhận trong công thư gửiThủ tướng Chu Ân Lai rằng hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ TQ.“[18]



Cuối năm 1964 đến đầu năm 1965, trước viễn cảnh một cuộc xâm lược của Mĩ ở Bắc Việt Nam, các nhà lãnh đạo của Hà Nội quan ngại sâu sắc về thái độ do dự của Bắc Kinh đối với việc phải tiến hành chiến tranh chống Mĩ để bảo vệ đất nước. Mặc dù Mao Trạch Đông đã đề ra phương án đánh nhau với Mĩ kể từ mùa hè năm 1962, và cam đoan với các nhà lãnh đạo Hà Nội về quyết tâm chung của TQ là bảo vệ Bắc Việt Nam trong trường hợp bị Mĩ tấn công, Hà Nội vẫn nghi ngờ rằng Mao đã cố né tránh đối đầu quân sự trực tiếp với Hoa Kì. Ngay cả sau khi chính quyền Johnson quyết định phát động chiến dịch ném bom kéo dài Bắc Việt Nam (gọi là Operation Rolling Thunder) vào tháng 2 và tháng 3 năm 1965 , Mao vẫn luôn khuyên phải cẩn trọng.[19]



Ngày 9 tháng 5 năm 1965, Hà Nội thực hiện một sáng kiến khác qua việc tuyên bố rằng “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về TQ.”[20] Phạm Văn Đồng một lần nữa đưa ra sự cần thiết và ưu tiên trong việc chống đế quốc Mĩ vì các quần đảo này vào thời điểm đó nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Mĩ và Nam Việt Nam.[21] Bây giờ nhìn lại sự việc này sẽ thấy rằng các nhà lãnh đạo Hà Nội đã buộc phải thừa nhận công khai tuyên bố của Bắc Kinh vì cần phải tranh thủ tất cả hậu thuẫn của TQ cho một công cuộc to lớn hơn là đấu tranh vũ trang chống lại Nam Việt Nam được Hoa Kì ủng hộ, và do đó không thể nói rõ ra những lợi ích đối nghịch với TQ. Trong chỗ tư riêng, họ rất căm tức việc TQ lợi dụng cơ hội để quyết đoán về lãnh thổ vào thời điểm mà Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào sự giúp đỡ của TQ.



Tuy nhiên, chính hiệu ứng lan tỏa của Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông vào lúc cao điểm của nó trong các năm 1966-1968 trên miền Bắc Việt Nam đã mang sự ngờ vực lẫn nhau được che giấu sơ sài trong khoảng thời gian 15 năm hợp tác Trung-Việt chặt chẽ ra công khai, và đã khiến Việt Nam lo ngại chủ nghĩa Sô vanh TQ lần nữa.[22] Vào lúc cao điểm của Cách mạng Văn hóa, khẩu hiệu tình đoàn kết Việt-Trung “vừa anh em vừa đồng chí” đã được đưa vào kiểm nghiệm trên thực tế lần đầu tiên, và cho thấy rõ hơn rằng lợi ích chiến lược của cả hai bên được che giấu sơ sài sau một tấm màn rất mỏng về tình đoàn kết lịch sử và ý thức hệ. Như sử gia Chen Jian đã lột tả: “Cái mà Bắc Kinh có ý định tạo ra là một phiên bản hiện đại của mối quan hệ giữa đế chế Trung Hoa và các nước láng giềng chư hầu. Cách hành xử này nhắc nhở rất hiệu quả cho người Việt Nam về quá khứ có vấn đề của họ với người TQ. . . . “[23] Nhận xét của Chen Jian trùng hợp với quan điểm chính thức của chính phủ Việt Nam vào thời điểm đó. Mãi về sau, vào ngày 10 tháng 6 năm 1977, một năm sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc, Phạm Văn Đồng nói với phó thủ tướng TQ Lí Tiên Niệm và các quan chức cấp cao khác của TQ của Bộ Ngoại giao [TQ] rằng “trong nhiều năm, nhất là trong Cách mạng Văn hóa, nhiều đồng chí TQ đã công khai đối xử thô lỗ với chúng tôi. Họ gọi chúng tôi là ‘xét lại’ vì chúng tôi nhận viện trợ của Liên Xô, và thậm chí còn gọi chúng tôi là ‘vô ơn’. Qua việc sử dụng loại ngôn ngữ này, các đồng chí TQ đã nuôi dưỡng một thái độ không thân thiện đối với chúng tôi. Thái độ như vậy có ở Hà Nội, Bắc Kinh, và nhiều nơi khác. Thái độ như vậy làm chúng tôi rất đau lòng.”[24]



Vào lúc đỉnh cao của Cách mạng Văn hóa, phe cực đoan theo Mao nắm quyền kiểm soát toà Đại sứ TQ tại Hà Nội. Họ tập hợp cư dân người Hoa ở Bắc Việt Nam ủng hộ Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông, đề cao tư tưởng cách mạng văn hóa về “đấu tranh giai cấp,” chủ mưu tạo ra các chiến dịch chống chủ nghĩa xét lại Liên Xô, và thậm chí công khai tố cáo các nhà lãnh đạo Việt Nam là “xét lại” vì nhận sự giúp đỡ của Liên Xô.[25] Cư dân người Hoa gây ra rối loạn qua việc tổ chức các cuộc biểu tình chống chủ nghĩa xét lại Liên Xô và công khai tiến hành các cuộc tuần hành ủng hộ chủ nghĩa Mao tại Hà Nội. Đối với người Việt Nam, những cư dân người Hoa này là những “người Hoa phản động.”[26] Như Han Xiaorong nhận xét, “Nếu người Hoa ở Bắc Việt Nam đang trên đà trở thành công dân Việt Nam trước Cách mạng Văn hóa thì Cách mạng Văn hóa đã làm xu hướng này bị đảo ngược.”[27] Điều đó chứng tỏ cho lãnh đạo Việt Nam thấy rằng những cư dân gốc Hoa này vẫn trung thành với “quê hương TQ” tận xương tuỷ.



Đáp ứng với sự lan tỏa của Cách mạng Văn hóa, Hà Nội thấy cần phải viện lại khẩu hiệu quen thuộc “mối đe dọa xâm lược từ phương Bắc” để nhắc nhở công chúng Việt Nam về chủ nghĩa Sô vanh TQ, ngay cả khi họ nhận khoảng 320 000 “người tình nguyện” TQ do Bắc Kinh phái đến giúp Bắc Việt chống Mĩ từ năm 1966 đến năm 1969.[28] Đổi lại, điều này làm các nhà lãnh đạo Bắc Kinh hết sức khó chịu bởi vì “việc VN sử dụng quá khứ để ngụ ý hiện tại” là phản bội tinh thần, và sẽ làm suy yếu nền tảng cảm xúc của tình đoàn kết “vừa anh em vừa đồng chí” Trung-Việt. Kể từ năm 1950, Bắc Kinh đã rõ ràng và liên tục lên án việc xâm lược Việt Nam trong lịch sử. Năm 1956 và một lần nữa vào năm 1970, Thủ tướng Chu Ân Lai thậm chí đã đến viếng đền Hai Bà Trưng ở Hà Nội để tỏ lòng lòng tôn kính đối với hai bà xưa kia đã đứng lên chống lại phong kiến TQ xâm lược Việt Nam.[29]



* * *



Tóm lại, một sự khảo sát kĩ lưỡng mối quan hệ Trung-Việt trong thời kì hợp tác chặt chẽ 1950-1965, và vào thời kì cao điểm của Cách mạng Văn hóa TQ 1966-1968, cho thấy sự đoàn kết giữa TQ và Việt Nam là cách xa với mô tả màu hồng của cả hai bên về mối quan hệ “vừa anh em vừa đồng chí”, nhưng nó vẫn phẳng lặng vượt qua mọi bất ổn vì việc duy trì hình ảnh về hợp tác Trung-Việt sẽ phục vụ các lợi ích chiến lược của cả hai bên và gìn giữ tình đoàn kết chống lại kẻ thù chung. Ẩn bên dưới bề mặt của quan hệ “vừa anh em vừa đồng chí” là nỗi căm giận mà Hà Nội nén lại trước việc Bắc Kinh sẵn sàng thay đổi đường lối chính trị của họ mà không quan tâm gì đến lợi ích của Việt Nam và nỗi lo sợ ngày càng tăng về chủ nghĩa Sô vanh đang trỗi dậy của TQ dưới hình thức “hệ thống triều cống” lạc hậu của TQ đối với Việt Nam. Mặc dù lãnh đạo Việt Nam thừa nhận tầm quan trọng của sự giúp đỡ của TQ cho Bắc Việt Nam, họ phẫn nộ sự kiện các nhà lãnh đạo TQ đã không né tránh việc áp đặt ý muốn của họ lên Bắc Việt Nam vào những lúc Bắc Việt Nam yếu kém và phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ của TQ. Như một phản ứng chiến thuật, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã thực hiện các sáng kiến có tính chiến thuật biểu lộ việc chiều theo ý TQ qua các phát biểu công nhận tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa khi mà họ ở trong vị thế khó thể nói ra những lợi ích lãnh thổ của họ đối nghịch với Bắc Kinh.



Việc VN liên tiếp công nhận tuyên bố chủ quyền của TQ trong các năm 1956, 1958, và 1965 đã được thực hiện với động cơ kín đáo “tuân thủ ngoài mặt, phản bội trong lòng.” Trong suy nghĩ của họ, tranh thủ cam kết lớn hơn viện trợ của TQ và dấn sâu hơn trong cuộc đối đầu quân sự với Mĩ phải được dành cho ưu tiên cao nhất trong thập kỉ định mệnh 1956-1965. Khi nỗi lo bại trận của Việt Nam giảm xuống và Liên Xô háo hức thay thế TQ như là nơi cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự chính vào năm 1974, Hà Nội đã chủ động thách thức việc bành trướng lãnh thổ của TQ, đưa tranh chấp lãnh thổ Trung-Việt trở lại công khai. Biên giới đất liền giữa TQ và Việt Nam đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi vì những thay đổi trong vị trí các mốc phân chia biên giới đã được thực hiện từ năm 1955, và cả hai bên cáo buộc lẫn nhau về việc thay đổi hiện trạng. Tranh chấp biên giới đất liền biến thành xung đột biên giới từ năm 1974 trở đi.[30]



Kosal Path/Đại học Nam California  

Huỳnh Phan dịch



——–

Ghi chú:



* “CPMO” viết tắt của: Hồ sơ Văn Phòng Phủ ThủTướng (“Collection of the Prime Minister’s Office”), lưu ở Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia 3 (“National Archive No. 3”), Hanoi.

[1] Xem Taylor Keith W. The Birth of Vietnam. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1983; Duiker William J. China and Vietnam: The Roots of Conflict. Berkeley: Center for Chinese Studies, 1986; SarDesai D. R. Vietnam: The Struggle for National Identity. 2nd ed. Boulder, Colo.: Westview Press, 1992; Nguyen Khac Vien. Vietnam: A Long History. Hanoi: Thế Giớii Publishers,1993; Kenny Henry. Shadow of the Dragon: Vietnam’s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy. Dulles, Va.: Brassey’s, Inc.,2002.

[2] Xem Truong Buu Lam. Patterns of Vietnamese Response to Foreign Intervention: 1858–1900, Monograph Series no. 11,

Southeast Asia Studies. New Haven: Yale University Press, 1967 and Inoguchi Takashi. “China’s Intervention in Vietnam and its Aftermath, 1768–102.” Journal of Law and Diplomacy 73:5 (1975), pp. 36–83.

[3] Duiker William J. China and Vietnam: The Roots of Conflict. Berkeley: Center for Chinese Studies, 1986, p. 6.

[4] Xem Westad Odd Arne. “History, Memory and the Languages of Alliance-Making.” In 77 Conversations between

Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977, eds. Odd Arne Westad et al., pp. 8–19.

Washington: Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project Working Paper no. 22, May

1998, pp. 11–16.

[5] Zhai Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950–1975. Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 2000, p. 79

[6] Xem Nguyễn Ngọc Tuyên. Quan hê gữa cách mạng Trung Quốc và cách mạng Viêt Nam (“Relations between the

Chinese revolution and the Vietnamese revolution”). Nhà Xuâấ Bản Sự Thật, Hanoi, 1959.

[7] Zhai (như [5]), p. 79

[8] Ibid., p. 219

[9] Xem Ang Cheng Guan. The Vietnam War from the Other Side: The Vietnamese Communists’ Perspective. New York, N.Y. RoutledgeCurzon,2002

[10] Olsen Mari. “Forging a New Relationship: The Soviet Union and Vietnam, 1955.” In Behind the Bamboo Curtain: China,

Vietnam, and the World Beyond Asia, ed. Priscilla Roberts, pp. 97–126. Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2006

[11] Zhai Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950–1975. Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 2000, pp. 20–24

[12] Zhang Shu Guang. “Beijing’s Aid to Hanoi and the U.S.-China Confrontations.” In Behind the Bamboo Curtain:

China, Vietnam, and the World Beyond Asia, ed. Pricilla Roberts, pp, 264–66. Stanford, Calif.: Stanford University

Press, 2006, pp. 264–66, 273–74

[13] Westad 1998 (như [4]), pp. 11–16

[14] Han Xiaorong. “Spoiled Guests or Dedicated Patriots? The Chinese in Northern Vietnam, 1954–1978.”

International Journal of Asian Studies 6:1 (2009), p. 10; xem thêm Chang Pao-min. “The Sino-Vietnamese Dispute over the Ethnic Chinese.” China Quarterly 90 (June 1982),.

[15] Zhai (như [5]), 2000, p. 209

[16] Ibid. Muốn biết thêm chi tiết, xem biên bản cuộc họp giữa Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Phó Thủ tướng Lí Tiên Niệm tại Bắc Kinh ngày 10 tháng 6 năm 1977, CPMO, Hồ sơ 10460, p. 5. Có mặt tại cuộc họp về phía Việt Nam là Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Thủ tướng Chính phủ, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh. Về phía Trung Quốc có Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa và Thứ trưởng Hàn Niệm Long. Tác giả chép tay lại tài liệu này từ Trung tâm Lưu Trữ Quốc Gia 3, Hà Nội, Việt Nam.

[17] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 4–5; xem thêm Hyer Eric. “The South China Sea Disputes: Implications of China’s Earlier Territorial Settlements.” Pacific Affairs 68:1,1995, p. 37; Lưu 1995, p. 143.

[18] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 4–5.

[19] Chen 2001, pp. 215–216.

[20] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 5–6.

[21] Ibid. Lưu 1995, p. 143. Lặp lại lời giải thích mập mờ của Phạm Văn Đồng cho Lí Tiên Niệm ngày 10/6/1977, Lưu Văn Lợi cho rằng tuyên bố của VNDCCH ngày 9 tháng năm 1965 đã được thực hiện để đáp ứng tuyên bố của Hoa Kỳ ngày 24 tháng 4 về một vùng chiến tranh kéo dài 100 hải lí tính từ bờ biển của Việt Nam, vì thế cần đặt việc VNDCCH công nhận các tuyên bố của Trung Quốc trong bối cảnh của cuộc chiến tranh mở rộng.

[22] Xem Westad 2006, pp. 1–7. Xem thêm Chen Jian, Mao’s China and the Cold War. Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001, p. 237, và Zhai (như [5])2000, pp. 152–54.

[23] Chen (như [22]), p. 237 và Zhai 2000, pp. 219–20.

[24] CPMO, Hồ sơ 10460, p. 20.

[25] CPMO, Hồ sơ 10460, p. 17. Xem thêm Quinn-Judge Sophie. “The Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti-Party Affair, 1967–68.” Cold War History 5:4 (2005, pp. 483–84.

[26] Han (như [14]), pp. 12–13.

[27] Ibid., p. 13.

[25] See Path forthcoming; also see Chen (như [220), p. 237, and Zhai (như [5]), p. 140.

[29] CPMO, Folder 10460, p. 20; Zhai (như [5]), p. 79.

[30] See Chang (như [14]), pp. 25–35; Duiker (như [3]), pp. 72–73.



Nguồn: Lan Man
TẠI SAO DÂN VIỆT "QUẬY" VÀ KHÔNG BIẾT THƯƠNG YÊU , GIÚP ĐỞ LẪN NHAU * *?

Nhờ các bạn giải thích giùm .

- Theo 1 số ng đi du lịch kể lại , ở 1 số nước , hải quan khi biết họ mang quốc tịch VN , đã tỏ vẽ không thiện cảm . Theo báo Đảng thì hải quan Thái Lan đã làm rồi . Không biết dân VN QUẬY tới cấp độ nào mà đc đối xử như vậy ?

- Than ôi ! Cái thời mà "VN là LƯƠNG TÂM của nhân loại" hay "Ngủ dậy mong trở thành ng VN" đã tan biến , như hơi sương , vào quá khứ .

Từ ngày qua Mỹ , tôi tiếp xúc với ng Philippines khá nhiều qua : học ESL , đi BV , họ đến nhà để sửa chữa hay lắp đặt điện thoại hay internet , v.v... Theo thống kê , họ là cộng đồng Á.C. đông nhứt tại Mỹ , kế là ng Hoa , Nhật , Hàn quốc , v.v...
Trong các cộng đồng này tại Mỹ , ng Phi hội nhập dễ dàng nhứt vì họ ko trở ngại về ngôn ngữ . Nền giáo dục của họ cũng giống Mỹ , lại dạy tiếng Anh từ tiểu học . Y tá của họ được các BV Mỹ nhận ngay vì CT học giống nhau . Trong các BV Mỹ , YT phần lớn là Phi .
Dân Phi ở Mỹ rất HIỀN HÒA , THÂN THIỆN , không thấy họ "QUẬY" (như "trồng cỏ" hay trộm cướp , làm gái , v.v...) như dân VN ở nhiều nơi trên thế giới , từ ANH , ÚC , CND , (kể cã Mỹ) , các nước cựu CS , các nước A.C. , v.v...

*** Dân Việt , do chiến tranh liên miên , từ 1975 bị CS gạt quá nhiều , đặc biệt là sau 1975 . Trong phong trào vượt biên , ng Việt gạt ng Việt như nhận tiền để đóng tàu , mua bải/bến , v.v.... khiến ng Việt ko còn tin tưởng lẫn nhau . Chưa kể đóng tiền mua bến/bải cho CA nhưng vẫn bị bắt , v.... TÁC HẠI VỀ TINH THẦN và VĂN HÓA NÀY còn hơn TÁC HẠI về vật chất RẤT NHIỀU . Các tổ chức Phục quốc như của TRẦN VĂN BÁ , v.v... thất bại vì bị CS cài ng . Ở ng Phi và các dân tộc khác ko có "ĐẶC TÍNH" này *** (có lẽ tôi phải viết 1 bài riêng) .

Thời chiến tranh VN , các hảng thầu Mỹ như RMK-BRJ , PACIFIC , v.v... đều dùng thợ Phi rất nhiều , gọi là ĐỆ TAM QUỐC TỊCH mà bây giờ gọi là GUEST WORKER . Thợ VN cũng đc dùng nhưng dành cho công việc đơn giản vì trở ngại ngôn ngữ . Sau 1975 , giai đoạn đầu , các đài kiểm sỏa không lưu tại VN phải thuê ng Phi vì họ nói tiếng Anh đúng giọng .Vì KS không lưu mà sai lầm là máy bay đụng nhau . Và hiện nay , VN còn tuyển ng Phi để day tiếng Anh vì giá rẻ nếu so với Úc , Anh , Mỹ hay CND .
Vừa rồi qua trận bảo lớn , dân Phi đã đối phó với 1 sự chịu đựng đáng cho ta kính phục . Phần nào NHỜ đa số theo Công Giáo , lại chịu ảnh hưởng của NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN . Dân đc quyền biểu tình , báo chí tư nhân , tam quyền phân lập rỏ ràng . . . Trong vụ biển Đông , họ "ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG" với TQ . Điều đặc biệt là bộ máy chính trị và kinh tế lại phần lớn là do ng gốc HOA nắm , kể cã các TT từ Marcos , bà Arroyo , v.v... Tuy nhiên , HỌ ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC , ĐẤT NƯỚC LÊN TRÊN HẾT .
Trong thời gian có phong trào VƯỢT BIÊN , Phi là nước DUY NHỨT ở ĐNA không cưởng bách ng tị nạn về lại VN . Họ đối xử tử tế với ng VN : cho phép ra khỏi trại để b.bán . Sau này , nhờ sự c.thiệp của các h.đoàn , số ng VN còn lại nhập cư vào CND . Chỉ có 1 số rất ít , do lấy vợ/chồng Phi nên ở lại .
Những ng VN đã từng đc Phi nuôi dưỡng (đông nhứt nếu so với các nước tạm dung khác trong khi chờ đi nước thứ ba) KHÔNG BAO GIỜ QUÊN ƠN NÀY . (còn tiếp) .
** Khoảng đầu thập niên 1990 , 1 nhân viên trong tổ chức ONG - mà tôi làm việc - bị chứng lở sơn khi đi núi ở Đà Lạt . Anh đến TLS Pháp ở SG điều trị . Sau khi cho thuốc , BS dặn , nếu ko hết thì cho họ biết , họ sẽ cho về Pháp theo chuyến bay gần nhứt của AIR FRANCE . Không biết chừng nào các TĐS VN sẽ đối xử với kiều dân mình như vầy ! Hay là chỉ biết hợp tác với Vietnam Airlines để buôn lậu (ngà voi , đồ ăn cắp . v.v...) tại Nhật , v.v..., tham gia đường dây đưa ng ra nước ngoài để mãi dâm (TĐS tại Moscow, v...) , làm tiền hay hạch sách kiều dân khi họ có nhu cầu về lãnh sự , v.v...
Theo 1 số blogger , các TT ngoại giao như Nguyễn Thanh Sơn hay Hồ Xuân Sơn là những tay anh chị chuyên môn "ĐÁNH CHUYẾN" hàng từ LX hay các nước Đông Âu về VN .