Friday, April 2, 2021

 




 

Vũ Xuân Thông – Những Cánh Thép Ngày Trước…

A20 Vũ Xuân Thông

This image has an empty alt attribute; its file name is 51009550075_8198755d13_z.jpg

Như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ “Tự Do” …Cho tôi xin dù chỉ một lần Mơ làm cánh én giữa trời Xuân Tang bồng hồ thỉ mang chí lớnRạng giống Tiên Rồng lính Không Quân.

Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.

Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.

Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.

Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.
Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.

Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì ?

Cái gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.

Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đã có ý định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nhìn bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đã làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đã lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đã mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật vì lính BCD 81 không biết bơi).

Đã bao lần không quản ngại trước lưới lửa phòng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.

Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. Vì không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đã cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.

Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối còn lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.

Ấy là những ngày không chạm địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch thì coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi mình đã chưa ăn gì suốt một ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thắng hay thua, lúc ấy mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm sấy. Còn các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.

Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đã bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ý là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!

Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua thì thua rồi. Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân mỏi gối mòn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đã qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.

REPORT THIS AD

Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.

Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50, súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.

Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.

Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch.

Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lý và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kịp thời nên chúng đã bị tiêu diệt ngay sau đó.

Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.

Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội.

Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.

Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh để chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh:

“Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm”

Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.

Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.

Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi .

Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa.

Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.


Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng còn sướng hơn” như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.

Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.

Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?

Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.

Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc nằm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do .

Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi … “Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur

A20 Vũ Xuân Thông
Liên Đoàn 81 BCND

31 Tháng Mười Hai 2020

Nguồn: https://hung-viet.org/p11a28212/nhung-canh-thep-ngay-truoc-

 Nha kỹ thuật tại mặt trân Ban mê Thuột tháng 3/75 .

TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG
23/06/201700:00:00(Xem: 6524)
Nguyễn Anh Nguyên
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là con của một sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, ra đời trong mùa hè đỏ lửa. Bài viết mới của ông có lời ghi “Xin cám ơn Ba vì câu chuyện đã kể, là nội dung chính cho bài viết này!”
* * *
. . .
Thuộc thế hệ 7X sinh ra được vài năm thì nước mất nhà tan, cha bị đi “học tập cải tạo” mất mấy năm trời, mẹ phải bươn chải làm đủ việc để kiếm miếng ăn cho các con nên tuổi thơ của anh em tôi gắn liền với sự cơ cực của cả miền Nam ở thời kỳ đó. Cơm độn khoai lang, khoai mì, bo bo cứng ngắc và bánh bao nhân su su là các món ăn thường trực trong những bữa ăn của gia đình. Những ngày các Dì được lãnh tiêu chuẩn bột mì và bơ ký (thùng bơ to cả kg) ở Lâm trường là cả nhà hào hứng thưởng thức bánh bột mì chiên và bơ. Nhớ những lúc thèm quá, anh em tôi vẫn lén xuống bếp múc vài muỗng bơ ăn không cho đã miệng. Những câu chuyện mẹ kể cho anh em tôi về cuộc sống hạnh phúc trước đây, về cuộc đời binh nghiệp của cha ông và hành trình di tản kinh hoàng của ba mẹ và tôi trong cuộc “triệt thoái cao nguyên” vào tháng 03 năm 1975 vẫn in đậm trong ký ức trẻ thơ của tôi khó có thể phai mờ…
BA TÔI LÀ một sỹ quan Võ Bị Đà Lạt thuộc binh chủng nhảy dù (biệt danh Anh cả đỏ) của quân đội VNCH. Đầu năm 1975, đơn vị biệt kích dù (Lôi hổ) của ba thuộc Nha Kỹ Thuật đang đóng quân gần sân bay Buôn Ma Thuột chuyên thực hiện các nhiệm vụ nhảy toán vào hậu tuyến của địch để thu thập các tin tức tình báo và phản tình báo quan trọng. Các toán biệt kích dù thường được trực thăng UH-1H hoặc máy bay MC-130 Blackbird chuyên thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt có râu móc trước mũi (Fulton Skyhook Extraction System), cất cánh hành quân bí mật, thả toán vào địa điểm xác định và bốc toán sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Mục tiêu và hoạt động của các toán biệt kích này có phần nào đó giống với các điệp vụ đầy táo bạo mà điệp viên James Bond 007 thường thực hiện trên màn ảnh rộng. Khác nhau là ở chỗ các chiến dịch của ba và các chiến hữu không diễn ra trên phim trường hay ngoại cảnh ở các địa danh nổi tiếng mà xảy ra trên các chiến trường khốc liệt nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1955-1975).
Mùa Xuân năm 1975, mẹ đưa tôi lên Buôn Ma Thuột thăm và ở lại chơi với ba một thời gian và để em gái tôi ở lại Đà Lạt với ông bà Ngoại (Ông cũng là một sỹ quan cấp tá trong quân lực VNCH). Đây là một quyết định khá mạo hiểm và nhiều rủi ro trong tình hình chiến sự đang diễn biến ngày càng phức tạp. Dù ông bà Ngoại đã hết sức can ngăn nhưng có lẽ tình yêu thương, mong muốn được chia sẻ khó khăn và động viên tinh thần ba đã khiến mẹ tôi bất chấp nguy hiểm để đến cùng ba.
NGÀY 09-03-1975, tin tình báo cho biết là Buôn Ma Thuột có thể bị đánh vào ban đêm, nên chỉ huy trưởng ra lệnh cấm trại 100% quân số.Lúc chạng vạng tối còn có lệnh mỗi người đều phải buộc một khăn trắng vào bắp tay để nhận dạng nhau khi chiến sự nổ ra. Khoảng 07 giờ tối sau khi ăn chiều xong tất cả các đơn vị chiến đấu đều ra giao thông hào để trực chiến.Bộ chỉ huy thì chuyển xuống hệ thống phòng thủ chìm dưới mặt đất (gọi tắt là TOC) có đầy đủ các sỹ quan của bốn ban chiến đấu và nhóm truyền tin. Doanh trại của chiến đoàn biệt kích dù và doanh trại bên không quân nằm sát nhau nên có một mặt chung không phải phòng thủ, mỗi bên chỉ canh phòng ba mặt còn lại. Tựa lưng vào doanh trại phe ta cũng yên tâm hơn phần nào trong trường hợp bị bao vây tứ bề thọ địch.
Khoảng 02 giờ sáng ngày 10-03-1975, tiếng súng đồng loạt nổ bên phi trường L-19 (một loại máy bay quan sát, còn có tên gọi vui là Đầm Già) nhưng đa số là tiếng súng AK và tiếng bộc phá của quân Bắc Việt, còn tiếng súng chống trả của phe ta vang lên khá yếu ớt. Khoảng 10 phút sau lại có những tràng trung liên nồi của VC ở phía TOC và một hồi còi báo động từ trung tâm chỉ huy hành quân vang lên.Như vậy là ba mặt phòng thủ chính bên doanh trại Lôi hổ không bị tấn công mà VC đã đột nhập lặng lẽ vào phi trường L19, kéo trung liên đặt đối diện cửa lên của TOC và nổ súng tấn công. Tại đó sau khi địch rút quân vào sáng hôm sau, anh em thấy xác trung úy trưởng ban 3, trung uý trưởng ban 4 tử nạn gần chiếc xe Jeep. Có lẽ loạt súng trung liên đầu tiên đó đã tước đi sinh mạng của hai sỹ quan chỉ huy khi lên lấy xe đi kiểm tra phòng tuyến.
Quân VC tràn vào, len lỏi khắp nơi nổ súng và đánh bộc phá khắp bên trong doanh trại nhưng chúng lại không đánh ra ba mặt giao thông hào phòng thủ chính của bên biệt kích dù. Điện đóm thì bị đứt hết, đêm tối đen như mực.Cũng nhờ miếng vải trắng đeo trên bắp tay lúc chiều nên có thể phân biệt được quân ta hay quân địch ở khoảng cách phù hợp để nổ súng tiêu diệt.Súng đạn nổ lung tung khắp nơi vì quân VC có lẽ cũng không biết đánh vào đâu cho đúng chỗ. Lúc đó một nửa quân số bên biệt kích phòng thủ ngoài giao thông hào được lệnh chia thành những toán nhỏ tiến ngược vào bên trong doanh trại không quân tiếp viện cho đơn vị bạn chiến đấu, còn nửa kia vẫn nằm phòng thủ ở ba mặt của doanh trại biệt kích đề phòng địch đánh bọc hậu.Nhờ sự hỗ trợ của lực lượng biệt kích dù thiện chiến, quân VC đã bị chặn đứng và đánh dạt dần về lại bên phi trường L19. Đến sáng thì ta chiếm lại và kiểm soát toàn bộ khu vực các doanh trại và sở chỉ huy.Lực lượng lôi hổ chỉ tổn thất 06 người (gồm hai sỹ quan kể trên), bên không quân thì mất quân nhiều hơn vài lần. Tang thương nhất là cả gia đình trung sĩ T. gồm vợ, các em gái và hai con tổng cộng 05 người núp dưới hầm trú ẩn bị VC liệng bộc phá xuống chết hết cả.
Khi súng đã im và chiến sự tạm lắng xuống, ba tôi mới có thời gian nghĩ đến vợ con đang ở sát bên bệnh xá cách TOC khoảng 100m, nằm trong vùng giao tranh tối hôm qua, nên vội trở về xem tình hình thế nào. Phòng ba mẹ tôi gồm có một phòng ngủ với chiếc giường đôi và một phòng khách có cửa sổ thông ra ngoài đường. Lúc chiều trước khi ra giao thông hào trực chiến, ba tôi đã xếp một cái giường sắt chồng lên cái giường mà mẹ và tôi nằm và dặn hai mẹ con chui xuống núp dưới gầm giường nếu nghe tiếng súng nổ. Về đến cửa nhà, ba tôi thấy có một tên VC chết nằm vắt ngang cửa sổ phòng khách. Theo lời kể của anh trung sĩ quân y ở phòng đối diện,khi nhìn thấy lúc tên VC cạy được cửa sổ định chồm ném bộc phá vào phòng ngủ thì anh nổ súng bắn chết, vì thế trái bộc phá rớt xuống và nổ ngay bên ngoài cửa sổ luôn.Nếu trái bộc phá được ném xuống sàn phòng ngủ, nơi mẹ và tôi đang núp dưới gầm giường thì chết là cái chắc. Nhìn lên trần nhà thì thấy mái tôn phòng khách đã bị bộc phá thổi tung nhưng phòng ngủ vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có một ít gạch đá văng trên chiếc giường sắt chồng bên trên mà thôi. Cám ơn Trời Phật, Ông Bà phù hộ cho mẹ con tôi sống sót trong trận chiến cuối cùng của ba. Cám ơn anh trung sĩ quân y đã nổ súng chính xác và kịp thời tiêu diệt tử thần bên ngoài cửa sổ. Không biết giờ anh (chú) đang ở đâu, còn sống hay đã mất để được gửi đến anh (chú) lời cảm ơn chân thành nhất.
Khoảng gần 10 giờ sáng, cấp chỉ huy thông báo Buôn Ma Thuột đã bị chiếm gần hết. Tình hình rất khó được cứu vãn khi không có quân tiếp viện, nhiều lực lượng tại Buôn Mê Thuột đã được lệnh triệt thoái theo đường số 07 về Nha Trang, Khánh Hòa. Chỉ huy Chiến đoàn gọi về gọi về Bộ chỉ huy xin lệnh về rút quân về Tổng Nha Kỹ Thuật ở Sài Gòn thì được lệnh phải cố thủ.Lúc đó số lượng phụ nữ và trẻ con trong doanh trại còn nhiều gấp mấy lần số sỹ quan, hạ sỹ quan và binh lính.Trước tình hình nguy cấp lúc đó,Thiếu tá Chiến đoàn phó giao nhiệm vụ cho ba tôi (lúc đó đang mang lon trung úy), thiếu uý B, một hạ sỹ quan quân y và hai binh sĩ dưới quyền đưa toàn bộ phụ nữ, trẻ con , vợ con các sỹ quan trong khu gia binh còn đang trực chiến mở đường băng qua chợ cây số 4 vào đồn điền SHPI của Pháp xin lánh nạn một thời gian.
Cả nhóm hơn cả trăm người (có khoảng 30 phụ nữ và hơn 60 trẻ em) bắt đầu đi lúc gần 03 giờ chiều. Đồn điền Tây cách doanh trại ba tôi đóng quân hơn 01km. Từ doanh trại đến đồn điền phải băng ngang qua chợ cây số 4 và một cái chùa, hầu hết là trảng trống, ba tôi và nhóm theo hộ tống vẫn mặc quân phục có mang vũ khí nhưng quân số quá ít nên phải len lỏi giữa đám phụ nữ và trẻ con, tay bồng thêm một trẻ em để ngụy trang. Có lẽ VC cũng thấy đoàn người, vì lúc đó họ đã kéo pháo phòng không tới sát đồn điền Tây, nhưng thấy toàn đàn bà con nít không nên họ không nổ súng. Nếu không nhanh trí bố trí quân len lỏi giữa đám đông thì chưa biết có đến được đồn điền hay không. Ở đồn điền, ba tôi và thiếu úy B liên lạc với chủ nhà xin sắp xếp chỗ ở và xin lương thực và thức ăn nấu cho mọi người ăn rồi nghỉ qua đêm.Sáng hôm sau những người có gia đình hay bà con ngoài Buôn Ma Thuột đều rời đồn điền về nhà hoặc tạm lánh về nhà bà con.
Sau hai ngày lánh nạn tại đồn điền SHPI, biết Buôn Ma Thuột đã bị chiếm và thấy tình hình không có gì khả quan cũng như không liên lạc được Bộ Chỉ huy ở doanh trại nên mạnh gia đình nào gia đình nấy tìm đường di tản. Câu chuyện di tản của thiếu úy B và gia đình ly kỳ mạo hiểm nhất trong số sỹ quan, hạ sỹ quan và các gia đình đã lánh nạn ở đồn điền SHPI.
Lúc ở đồn điền này, thiếu úy B tìm được một xe chiếc Jeep của cảnh sát,chú đã lên kế hoạch lấy cây lá che phủ ngụy trang bên ngoài xe, giả làm xe của bộ đội, tìm cách nhập vào đoàn công-voa của họ chạy về phía Nam. Trước khi đi thiếu úy B có rủ ba mẹ tôi và vợ một thiếu tá cảnh sát có hai con nhỏ cùng đi nhưng thấy kế hoạch đó nguy hiểm quá, hơn nữa xe Jeep cũng không đủ chỗ cho cả ba gia đình nên không ai đi theo. Trong suốt hành trình, xe Jeep của chú bị chận lại mấy lần, vợ con chú phải nằm sát sàn xe để trốn không bị phát hiện vì bộ đội không ai lại hành quân mà mang theo vợ con.Đi mấy ngày đêm thì đoàn xe tới Phước An, đầu đèo Phượng Hoàng (DakLak) thì đoàn xe VC phải tản ra vì gặp phải sự kháng cự của quân VNCH đang giữ đèo. Nhân cơ hội, chú B tìm cách tách đoàn, bỏ xe và tìm đường sang phòng tuyến quân ta. Lúc đó ở đầu con đèo này có một lữ đoàn lính Dù đang cố thủ nên gia đình thiếu úy B may mắn tìm đến được và ở lại với họ. Sau đó gia đình thiếu úy B theo đơn vị này băng rừng về tới Nha Trang (lúc đó chưa bị chiếm), được tàu Hải Quân chở hết về Sài Gòn và cả gia đình kịp thời di tản qua Mỹ trước ngày 30 tháng 04.Sự dũng cảm, quyết đoán và nhanh trí của chú B đã giúp gia đình chú thoát khỏi cảnh gia đình ly tán, tù đày và phải sống cuộc sống điêu tàn sau khi chiến tranh kết thúc. Nguyên tắc “High Risk, High Return” (Tạm dịch: có gan làm giàu) có từ thời La Mã vẫn luôn đúng trong mọi hoàn cảnh, kể cả lúc tưởng như ngàn cân treo sợi tóc và không còn gì để mất, kể cả mạng sống của mình và gia đình. Tuy nhiên rất nhiều gia đình đã không có được cơ hội và sự may mắn như vậy.
Sau khi thiếu úy B đi, ba mẹ tôi còn ở lại đồn điền thêm một ngày nữa để chờ tin. Đến sáng ngày thứ tư kể từ lúc rời trại thì được nghe dân báo là đơn vị đã rút đi và VC đã chiếm doanh trại, ba tôi mới bỏ quân phục, mặc đồ dân thường và đưa mẹ con tôi di tản. Ba mẹ cõng tôi chạy từ Buôn Ma Thuột về Nha Trang, bám theo đường số 07. Lúc thì lội bộ, lúc may mắn thì quá giang các xe quân đội đi được vài đoạn đường. Nghe mẹ kể rằng ba tôi dùng khăn lông cột tôi vào người như cách gùi con của người Thượng để di chuyển cho nhanh, lúc mệt thì chuyển sang cho mẹ đỡ. Nhiều lúc mệt quá và đường dễ đi thì ba mẹ cho tôi xuống đi bộ theo. Đi mệt và đau chân quá, nghe mẹ nói tôi tìm cách bỏ dép để kiếm cớ cho ba mẹ phải bồng đi. Sau này mẹ hay nói đùa là lúc đó con còn nhỏ mà đã biết khôn ngoan, láu cá rồi. Chắc đó chỉ là bản năng tự bảo vệ của một đứa trẻ chưa đầy ba tuổi đã phải trải qua hành trình di tản kinh hoàng đó mà thôi. Ròng rã gần một tháng trời ba mẹ và tôi mới đến được Nha Trang thì Nha Trang cũng đã mất (Ngày 02 tháng 04). Chợ Đầm đã bị quân lính đốt cháy trong cơn tức giận và hoảng loạn khi nghĩ rằng mình ở lại tử thủ nhưng lại bị cấp trên bỏ rơi.Lúc đó do mọi thông tin liên lạc đều bị cắt đứt, không biết rằng Đà Lạt cũng đã bị mất (Ngày 03 tháng 04) nên ba mẹ lại cõng tôi chạy về Đà lạt có nhà ông bà Ngoại hy vọng gặp lại gia đình và đứa em gái tôi còn đang ở đó.
Đến nơi thì Đà Lạt đã mất từ nhiều ngày trước, nhà ông Ngoại gần dinh Tỉnh trưởng chỉ còn một ông Chú bà con (không theo nghiệp nhà binh) ở lại giữ nhà còn ông Ngoại đã đưa cả gia đình về Sài Gòn trước ngày bị chiếm. Lúc đó tình hình giao tranh ở khu vực đèo Bảo Lộc, qua các thị trấn Phương Lâm, Định Quán vẫn đang căng thẳng lắm, không có xe chạy do chiến sự còn ác liệt. Trong khi đó Nha Trang bị chiếm rồi nên có xe đò hoạt động tuyến Đà Lạt - Nha Trang, ba mẹ lại cõng tôi nhảy xe đò về Nha Trang nhưng tiền chỉ đủ đi một đoạn rồi lại cuốc bộ và xin quá giang nhưng lúc này quá giang là không dễ.Từ Nha Trang cả nhà lại bồng bế nhau tìm đường về Sài Gòn khi trong túi không còn gì đáng giá cả. Trải qua bao khó khăn, cực khổ tưởng chừng không thể vượt qua, ba mẹ cũng đưa tôi về được nhà ông bà Nội ở Sài Gòn vào sáng ngày 01 tháng 05, khi Sài Gòn đã mất và mọi người trong nhà tưởng rằng ba mẹ và tôi đã không thể thoát được để trở về.
Sau này mới biết, nhóm biệt kích dù ở lại doanh trại tử thủ chỉ ở thêm một ngày nữa. Lúc đó VC đã chiếm hầu hết Buôn Ma Thuột, xe thiết giáp và súng phòng không của họ đã kéo vào đầy trong đồn điền Tây và các khu vực xung quanh. Nhưng lạ là quân VC chỉ bắn tỉa và thỉnh thoảng dội pháo từ xa vào phạm vi chiến đoàn chứ không tấn công thẳng vào hoặc bao vây cô lập. Sau khi nhận được lệnh cho rút từ Bộ Chỉ Huy, lợi dụng đêm tối, Thiếu Tá chiến đoàn phó đã chỉ huy đơn vị rút vào rừng và từ đó băng rừng về Nha Trang. Gần như không có một sự đụng độ đáng kể nào nào xảy ra trên đường rút quân. Sau này qua Mỹ gặp lại một số bạn bè và các anh em trong đơn vị họ suy luận rằng có lẽ VC cố tình chừa đường cho đơn vị ba tôi thoát. Họ muốn bảo toàn lực lượng để chuẩn bị sẵn sang cho chiến dịch mới.
. . .
==========================================
Sài gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài gòn ơi, thôi đã hết
thời gian tuyệt vời
. .
Lúc còn nhỏ ba ở trong tù, mẹ hay cho chúng tôi xem cuốn album cũ có hình ba chụp ngày ra trường Võ Bị Đà Lạt với lễ phục đội mũ vải và giày da bóng loáng, hình ba mặc đồ biệt kích dù với mũ sắt giày bốt đờ sô trang bị súng ống đến tận răng, hình ba đu thang dây lên trực thăng và đu dây vượt suối... Đặc biệt là chiếc huy hiệu trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam màu đỏ mang dòng chữ vàng “Tự thắng để chỉ huy” trích từ một câu nổi tiếng của Đức Phật Thích Ca “Chiến thắng muôn quân không bằng tự thắng mình, Tự thắng mình mới là chiến thắng oanh liệt nhất”.Lời Phật dạy in trên huy hiệu gắn ở mũ thật ý nghĩa và luôn đúng trong cả thời chiến lẫn thời bình. Sau khi buông súng sau các trận chiến cuối cùng của cuộc chiến, sỹ quan và binh sĩ VNCH phải đối diện với cuộc sống tù đày gian khổ không biết đến ngày về.
Được thua một trận cười khàn
Ván cờ xí xóa theo làn bụi bay
. . .
Mong rằng thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và thế hệ 7X, 8X ở miền Nam trước đây hãy luôn sống xứng đáng với những gì cha ông ta đã hy sinh, chịu đựng để vun đắp cho cuộc sống của chúng ta có được như ngày hôm nay. Dẫu đường ta đi mặt trời xưa đã ngã. (*)
Tháng 06/2017
Nguyễn Anh Nguyên
(*) Trích một câu thơ trong bài thơ Ba viết tặng Mẹ trong tù.