Showing posts with label đại tá barrou. Show all posts
Showing posts with label đại tá barrou. Show all posts

Thursday, September 28, 2017

Chiến đoàn 100 - phần 3.

"Lúc 1900, tàn quân của CĐ tập họp lại để đánh trận cuối cùng: mở đường máu từ KM 15, để thoát khỏi cái bẩy thép đã nhai họ thành từng mảnh trong sáu giờ qua sau khi đã gậm nhắm (gnaw) họ trong 6 tháng qua. 
Khi màn đêm vừa phủ xuống, khắp nơi đầy ánh lửa khi lính Pháp bỏ lựu đạn cháy vào nòng đại bác để phá hủy, đổ xăng vào xe và trang bị để đốt, và bắn những súng ko giật và đại liên trước khi phá hủy chúng .
Đoàn quân rút lui theo thứ tự: TĐ 1, TĐ 2 và các lính pháo thủ và các tàn quân của TĐ 520 đi đoạn hậu. Một lần nữa, bóng tối là bạn của lính Pháp; thay vì rút về hướng tây tới km 22, họ đi về rừng rậm hướng nam. Trên lộ vẫn còn các TB bị thương ở chân đang đánh trận cuối cùng của cuộc đời. 
Lính VM đã nhanh chóng tràn lên đường để tịch thu chiến lợi phẩm vì họ biết máy bay Pháp sẽ ném bom vào khu vực phục kích một khi tù binh của CS đã an toàn rời khỏi con lộ. Vào lúc hừng đông hôm sau, trên lộ chỉ còn xe cộ hư hỏng và xác lính Pháp bắt đầu thối rửa dưới mặt trời.
Trong số người Pháp bị thương, bỏ sót bởi VM, có ĐT Barrou. Trong hai ngày, ông trốn trong bụi rậm gần nơi ông bị thương, rán lết đau khổ về phía một xe Dodge cứu thương - nơi hai lính Miên đang hấp hối rên rỉ , để uống ít nước từ can đựng xăng(jerrycan) của xe. Vào ngày 26/6, một nhóm lính Pháp xuất hiện, họ là tàn quân của CĐ. Họ làm băng-ca cho ông và bắt đầu đi bộ 50-dặm tới Pleiku. Chỉ ba giờ sau, cả toán lọt đúng vào một ổ phục kích của một toán thám kích VM: cả toán bị giải về trại TB.
Trong lúc đó, đoàn quân đã phá vòng vây ở KM 15 và vào rừng sâu nhưng rất khó khăn vì quá đông người. Chỉ trong giây phút, VM bắt đầu chạy đua với đoàn quân tới KM 22 hầu hủy diệt nó. Lúc 1930 , các TĐT đã quyết định chia đoàn quân thành từng trung đội - mỗi toán dưới quyền một sq hay hsq. 
Thật là cơn ác mộng khi các trung đội hay cá nhân phải dùng lưởi lê hay dao đi rừng (bush knife), hay dùng tay để nhổ các bụi rậm, trong khi gai gốc (thorn) xé rách quần áo họ. Nhiều ng đã gục ngã vì kiệt sức để rồi sau đó bị giết bởi Thượng Cộng (marauding mountaineer). 
Hàng trăm ng bị lạc đường trong đêm 24/6 nhưng khi hừng đông ló dạng, TĐ 1 Korea lại dẫn đầu đoàn quân. Với đ.đ. 3 bọc hậu, TĐ đã bẻ gẫy ba đợt tấn công của VM từ 0630 tới 0830 của ngày 25/6 trong vòng 5 km từ KM 22. Lúc 0800, đ.đ. 4,  đi đầu đoàn quân đụng với một toán VM phục kích họ, giết 12 VM. 
Lúc 1130, trời xanh bắt đầu chiếu sáng xuyên qua các tán lá, và có gió mát . 
"Ai đó?" (Qui va là?)
"Đừng bắn ... người Pháp!" (Ne tire pas...Francais!) 
Từ một lùm (clump) cây ở trước đ.đ. 4, ba lính mặc đồ xanh rằn ri tác chiến (motley-green battle-dress) xuất hiện với tiểu liên cầm tay - đó là lính Dù của CĐ Dù số 1 tại KM 22. 
Lính của TĐ 1 Korea nhào về phía trước, ôm lính Dù và khóc, vì kiệt sức, vì sợ hãi, vì biết ơn đã được cứu sống. Dù họ sống nhưng CĐ 100 đã khai tử ngày 24/5 tại KM 15.
KM 22 cũng ko giữ được lâu và lính Dù giữ nó nhằm thu nhặt những tàn quân của CĐ 100. Vì họ đi lộn xộn/straggle (những thành phần cuối cùng chỉ đến lúc 1900 sau khi đi bộ và chiến đấu trong 40 giờ ko nghỉ và gần như ko thức ăn), họ được gửi về đèo Mang Yang, nơi CĐ 42 của ĐT Sockel thanh lọc và chuyển kẻ bị thương về Pleiku. Thật kỳ diệu Đ.U. Léouzon lại xuất hiện với tàn quân của đ.đ. 1 của Tr.đ. Thuộc địa, với áo và giày trận, quần dài đã bị xé rách bởi gai rừng. 
Về phía VM cũng phải nghỉ lấy sức, sau khi lấy các chiến lợi phẩm từ đoàn xe, gửi kẻ bị thương của họ về An Khê, và tiếp nhận 1 t.đ. tăng viện. Giờ họ sẵn sàng chiến đấu để hủy diệt CĐ Dù và CĐ 42, giờ rất chậm chạp vì thiếu phương tiện vận chuyển và nay thêm gánh nặng với tàn quân của CĐ 100.
Một lần nữa đoàn người lại bắt đầu, và lần này rút về Pleiku với thành phần sau: lính Thượng, lính Dù và các đv của CĐ 100, được tăng cường bởi một số chiến xa của Thiết đoàn 5 (biệt danh Royal Poland); họ di chuyển chậm chạp với bộ binh đi 2 bên đường. Vào chiều 26/6, CĐ 42 đã an toàn tới Phú Yên , 10 km tây của đèo Mang Yang và các dv còn lại của đoàn quân đi về đó .
Mục tiêu cho chiều hôm sau là cây cầu xuyên qua sông Dak Ya-Ayun, 12 km về phía tây; đi đầu vẫn là TĐ 1 Korea, đã lọt một ổ phục kích ở phía đông của cầu, xem hình. Một lần nữa, với yểm trợ của xe tank, đoàn xe vượt qua và mệt mỏi (wearily) đóng quân quanh cầu cùng chiều.
Vào 28/6 , đoàn quân có thể cảm thấy rằng họ sắp tới hậu cứ (home base). Đường 19 bây giờ đi qua một cánh đồng ngày càng mở rộng, vài dân làng đứng vệ đường và những cánh đồng đã cày cuốc bắt đầu xuất hiện. Pleiku chỉ còn 30 km. Vào lúc 1100 ngày 28, các phần tử đi đầu--hai đ.đ. của CĐ 42, tàn quân của TĐ 1 Korea, pháo đội 4 của VN (4th Vietnamese Artillery Group) và một trung đội của Thiết đoàn 5 - đã tới một điểm khoảng 3km từ giao điểm (junction) của đường 19 và 19-B, khi lần nữa những dấu hiệu bất thường (ominous) của 1 phục kích lại xuất hiện: im lặng tuyệt đối, ko thấy chim chóc, và những tảng đá to bỏ lộn xộn ngang đường (strewn seeming helter-skelter across the road).
Phe VM lần này là Tr.đoàn 108, tăng cường bởi TĐ 30 độc lập và thiện chiến; nhưng kẻ sống sót tại KM 15 đã có kinh nghiệm. Khi súng vừa nổ, lính của TĐ 43 và 1 Korea lập chu vi phòng thủ hai bên đường với tank của Thiết đoàn 5 lo mặt đường và pháo đội 4 của VN đặt ở giữa chu vi cùng với BCH của ĐT Sockel; xem hình 2. 
Những xe tiếp tế nằm ngoài chu vi phòng thủ đã bị trúng cối và bazooka của VM và vài xe chỡ đạn đã phát nổ. Rút kinh nghiệm, tài xế các xe sau vẫn chạy, ủi các xe bị cháy xuống mương bên đường, dù phải cán lên đồng đội bị thương. Để lại 10 xe bị cháy và hàng chục ng chết và bị thương phía sau, đoàn xe đã vào chu vi phòng thủ lúc 1208. Lúc 1215, bộ binh VM chui ra từ đám cỏ xung phong vào đám tàn quân đã mệt mỏi của TĐ 1 Korea. 
Một TĐ VM mới tăng viện tấn công khu vực tây bắc của chu vi, bảo vệ rất mỏng (thinny held) bởi đ.đ. 1; vì không có đại liên và ko đủ đạn cho vũ khí cá nhân và đã chết 20 ng vào ngày hôm qua gần Dak Ya-Ayun. Tuy nhiên đ.đ. 1, dù chỉ có 60 ng đã chống lại 500 lính VM. Lúc 1235, lính VM đã tràn vào tới vị trí pháo binh, ĐT Sockel ra lịnh cho 3 tr.đ. của đ.đ. 2 phản công. Lúc 1300, đ.đ. này đã xung phong, vượt qua đường 19 dưới đạn địch và xông vào cạnh sườn của VM. Lần này đủ chỗ cho điều động, lại có tank, ko có lính công binh và tân binh, và lính pháo binh của VN trực xạ (round after round at point-blank range into the ennemy). 
Lần này máy bay B-26 đã hoạt động hữu hiệu vì VM ở đồng trống; lần này VM phải rút vào rừng sau khi để lại nhiều xác cháy xém vì bom napalm. 
Họ tập họp và đếm quân, đ.đ. 1 của TĐ 1 Korea đã chết 42 ng trong hơn 60 phút. Cuộc phục kích hôm trước làm chết 59 ng. 5 ngày đánh nhau trên QL-19 đã gây tổn thất nhiều hơn 2 năm chiến đấu ở Cao ly. 
(đọc tiếp ở phần 4)


Chiến đoàn 100 Pháp - phần 2
...
Lúc 17:15 Thiếu tá Kleinman chỉ huy TĐ 2 Korea * nhận lệnh của BTL Quân khu "phải bỏ xe cộ và trang bị và mở vòng vây về KM 22 với lính và những ai bị thương mà ông mang đi được". Ông liên lạc với TT Guinard coi TĐ 1 Korea. Trong khi đó TĐ 43 , đi trước đoàn xe, đang cố gắng phá vòng vây ở đầu phía tây của trận địa phục kích của Việt minh. Kleinman và Guinard nghĩ rằng : khó khăn nhứt là thương binh. Họ ko thể bỏ rơi họ và cũng là điên rồ khi mang họ theo; trong rừng rậm cần 8 người để tản thương một người và thêm hai người bảo vệ 8 ng này - với điều kiện là biết đường . Ở đây, họ ko biết đường để rồi cuối cùng thương binh sẽ lần lượt bỏ rơi. 
Hai ng quyết định thương binh sẽ được để lại trên đường với thuốc men cần thiết với y tá và ng tình nguyện - họ cũng bị thương. Vì TĐ 803 của VM trước đây đã tử tế với thương binh Pháp.
Thiếu tá quân y Varma-Janville được mời tới. Đẫm máu từ đầu tới chân, mệt xỉu (dead-tired) Janville nhìn hai TĐT.
"Janville, chúng ta vừa nhận lịnh. Chúng ta sẽ rút lui vào lúc 19:00."
"Và ng bị thương?"
"Janville - ng bị thương sẽ ở lại. Anh biết chúng ta ko thể làm gì hơn một khi chúng ta rời ổ phục kích này."
"Nhưng có lẽ chúng ta có thể yêu cầu hưu chiến (truce) để di tản thương binh. VM trước đây đã đối xử tốt với TB."
"Chúng ta ko nhận và cũng ko có quyền để yêu cầu hưu chiến. Người của chúng ta ở ĐBP cũng ko yêu cầu hưu chiến."
Varma-Janville chớp mắt, và nhìn một lần nữa về con đường đầy các xe tải, đại bác và xe thiết giáp hư hỏng, với lính tráng đang chiến đấu ko có nước uống, dưới ánh mặt trời nóng cháy (sear) trong sáu giờ, chung quanh họ là núi non và họ là mục tiêu của súng địch.
"Tôi nghĩ rằng tôi ko thể làm gì hơn trong lúc này. Các thương binh (TB) sẽ có bác sĩ giỏi ở Pleiku nhưng họ cần tôi ở đây. Tôi sẽ ở lại với họ."
Không còn nhiều thì giờ, họ bắt tay nhau và TT Varme-Janville đi về chỗ các TB đang nằm dưới xe tải hư hỏng, đàng sau các xe cứu thương bị trúng đạn (shot-up). 
Sự hy sinh của Varme-Janville vô ích. VM ko giết TB Pháp tại chỗ; họ dùng các xe tải còn chạy được để đưa họ về một bv bỏ trống tại An Khê *. Ông năn nỉ VM cho ông mổ xẻ các TB Pháp cũng như của VM.
Tại An Khê ông gặp các chính ủy (commissar) CS. Câu trả lời đơn giản :
"Ông ko còn là BS, nhưng chỉ là một sĩ quan đế quốc dơ bẩn (dirty imperialist officer). TB chúng tôi ko có BS thì TB các ông cũng ko có BS."
Trong vòng ba ngày, kẻ cuối cùng của khoảng 20 (twenty-odd) TB nặng đã chết vì thiếu sự chăm sóc căn bản nhứt ở giữa một BV trang bị đầy đủ - vì hầu hết trang bị mổ xẻ của chiến đoàn 100 Pháp còn nguyên vẹn sau khi di tản khỏi nơi này. (Trước đây chiến đoàn đóng nơi đây nhưng được lịnh rút bằng đường bộ về Pleiku.--Tài). Hầu hết các TB khác đã chết trên con đường di chuyển hàng trăm dặm để đến trại tù binh của CS. BS Janville còn sống và được trao trả sau đó.
...
(Xem tiếp ở phần 3)