Tuesday, July 28, 2015

Hận thù có thể giết chết bạn, khoa học nói gì về sự tha thứ?

iStock_000026055226_Large-676x450
(a-wrangler/iStocK)
Các tôn giáo đều dạy chúng ta nhẫn nhịn không trả đũa khi bị tấn công hoặc bị làm nhục, nhưng có lẽ trong thực tế, sự tha thứ dường như là không thể. Có thể chúng ta cảm thấy có lý do chính đáng về sự oán giận của mình, hoặc tin rằng trả đũa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi bị tổn thương một lần nữa, nhưng các chuyên gia nói rằng chúng ta phải trả một giá đắt nếu cứ ôm giữ những mối hận thù lâu dài.
“Sau này bạn sẽ gánh chịu lấy hậu quả về việc này”, tiến sĩ Everett Worthington, tác giả, nhà tâm lý học lâm sàng, và là giáo sư tâm lý học tại Đại học Virginia Commonwealth cho biết. “Chúng ta lúc nào cũng thấy tức giận và bị căng thẳng, và chúng ta không nhận thấy ảnh hưởng gì ngay lập tức. Nhưng cuối cùng chúng sẽ xuất hiện nếu chúng ta tạo nên thói quen đó trong một thời gian dài “.
Sự tha thứ là một quan niệm mà chủ yếu vẫn còn trong lãnh vực tôn giáo. Mặc dù các tác phẩm đồ sộ của Sigmund Freud nói về từng chủ đề tâm lý một, nhưng ông không bao giờ đề cập đến sự tha thứ. Những bậc tiền bối của Freud cũng ít chú ý đến sự tha thứ, nhưng có một sự việc đã xảy ra trong những năm 1980 làm cho các nhà tâm lý học phải thay đổi cách nhìn nhận.

Khoa học đã chỉ ra rằng sự bất bình mãn tính có thể dẫn đến huyết áp cao hơn, căng thẳng và viêm nhiễm gia tăng và các mức hoóc môn nội tiết tố tăng cao.

Kể từ đó, khoa học đã chỉ ra rằng sự bất mãn mãn tính có thể dẫn đến huyết áp cao, tăng căng thẳng và viêm nhiễm, các mức hoóc môn nội tiết tố (cortisol) tăng cao, vốn là những yếu tố phá vỡ gần như mọi quá trình của cơ thể.
Quảng cáo
Worthington là một trong những nhà khoa học đầu tiên có sự nghiên cứu chuyên sâu về đề tài sự tha thứ, và chủ đề này vẫn là trọng tâm trong công tác nghiên cứu của ông. Ông bắt đầu quan tâm đến sự tha thứ khi làm tư vấn hôn nhân vào những năm đầu thập niên 1980. Một vài năm sau đó, ông đã có những bài viết đầu tiên được đăng trên tạp chí khoa học với chủ đề về sự tha thứ, trong đó xem xét vai trò của sự tha thứ trong liệu pháp hàn gắn các cặp vợ chồng.
“Một trong những nghiên cứu sinh của tôi tại thời điểm đó đã quan tâm đến chủ đề này, và chúng tôi bắt đầu nhìn nhận nó như là một đề tài khoa học, và việc nghiên cứu đã khởi sự”, ông nói. “Năm 1996, mẹ tôi đã bị sát hại, điều đó phần nào trở thành một phép thử và và sau đó thực sự đã làm tôi phải chú ý nhiều hơn đối với sự tha thứ”.

Phải tha thứ như thế nào

Theo tiến sĩ Worthington, một trong những trở ngại lớn nhất để đạt được sự tha thứ là thiếu một phương pháp thực hành.
“Tôi nghĩ mọi người thường không biết làm thế nào để tha thứ được”, ông nói. “Họ nhận được rất nhiều sự khích lệ hãy tha thứ. Nhiều người nghĩ rằng tha thứ là một điều tốt. Và bạn nghe những bài giảng giáo huấn, rồi bạn đọc các bài viết trên tạp chí rằng tha thứ là điều tốt cho sức khỏe của bạn”.
“Nhưng cũng có người nói, ‘Vâng, nếu tôi cũng có thể nhảy cao 6m trong không khí thì tốt biết mấy, chỉ là tôi lại không thể làm nổi điều đó”.
Mặc dù Worthington là một tín đồ Cơ đốc giáo, nhưng ông nói rằng không cần phải có một niềm tin vào Chúa mới có thể nhận thấy giá trị của sự tha thứ. Trong thực tế, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một mình tôn giáo thường là không đủ để đạt được một chỗ đứng cho sự tha thứ.
iStock_000049617186_Large-674x449
Theo tác giả Tiến sĩ Everett Worthington, chìa khóa đối với việc tha thứ thành công là trau dồi ý thức về sự đồng cảm, khiêm tốn, và tình thương. (camaralenta / iStock)
“Nếu bạn nghĩ rằng ‘tôi có bổn phận phải tha thứ bởi vì tôi tuân theo tôn chỉ của tôn giáo này’, vậy thì kết quả là bạn có thể tha thứ được một chút theo cách đó, chứ không nhiều. Động cơ từ bổn phận tôn giáo có vẻ không hiệu quả lắm trong việc thúc đẩy được nhiều sự tha thứ”, ông nói.

Chìa khóa cho sự tha thứ thành công là trau dồi ý thức về sự đồng cảm, khiêm tốn, và tình thương.

Theo Worthington, chìa khóa cho việc tha thứ thành công là trau dồi ý thức về sự thấu cảm, khiêm tốn, và tình thương. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tha thứ dễ đến hơn với những người quan tâm đến sự tiến bộ của người khác, hơn là chỉ chú ý đến lợi ích cá nhân.
Thông qua nghiên cứu và kinh nghiệm điều trị, Worthington đã phát triển một phương pháp để mọi người học cách tha thứ. Nó được gọi là REACH:
  1. (recall) là đại diện cho sự hồi tưởng – nhớ khi người khác đã làm bạn tổn thương, theo một cách khách quan nhất có thể.
  2. E (empathize) là về sự thông cảm, đồng cảm – cố gắng hiểu được quan điểm của người đã đổ tiếng xấu cho bạn.
  3. A (altruism) là về lòng vị tha – suy nghĩ về một lúc nào đó bạn làm tổn thương một ai đó và đã được tha thứ, sau đó hãy ban tặng món quà tha thứ ấy tới người đã làm tổn thương bạn.
  4. C (commit) là phạm lỗi – công khai tha thứ cho người làm điều sai trái với bạn.
  5. H (hold on) là kiên nhẫn – dù bạn không quên được nỗi đau, nhưng hãy nhắc nhở bản thân rằng chính mình đã lựa chọn sẽ tha thứ.
Mục tiêu của REACH là cân nhắc những cảm giác tổn thương mà không đổ lỗi cho người khác hoặc nhắc đi nhắc lại khi bị đối xử bất công. Thông tin chi tiết có sẵn trong tài liệu Word miễn phí trên trang web của Worthington.
Cuốn sách mới nhất của Worthington, “Tiến lên phía trước: 6 bước để Tha thứ cho bản thân và Thoát khỏi quá khứ”, cung cấp cái nhìn sâu sắc và nhiều cách ứng phó hơn nữa.

Tha thứ và quên đi

Một trong những khó khăn đối với nghiên cứu về sự tha thứ là việc xác lập một định nghĩa chính xác. Có nhiều điều mọi người coi là sự tha thứ nhưng thực sự lại là một cái gì đó rất khác.
“Tha thứ không phải là cách duy nhất để đối phó với những bất công mà ta trải qua. Có rất nhiều cách”, Worthington nói. “Một là sẽ chỉ chấp nhận: “Ồ, cuộc đời mà. Mình vẫn đang tiến bước”. Cách nữa là sẽ bào chữa cho những gì đã thực hiện hoặc biện minh cho những gì đã làm hoặc đổ tại ý trời – “Tôi sẽ chỉ để Chúa hạ gục chúng”. Hoặc, “tôi sẽ chuyển nó qua cho Chúa trời bởi vì nó không phải là vấn đề của tôi”.
Sự tha thứ đích thực cần có nỗ lực phi thường. “Tha thứ không phải chỉ là thôi không giữ những cảm xúc tiêu cực đối với ai đó, mà trên thực tế là bắt đầu trở lại nhìn nhận [người ấy] là một người có giá trị – là một người mà có thể cải biến được” Worthington nói.
Ý niệm muốn tìm ra giá trị ở người khác thường chẳng ăn nhập gì với văn hóa hiện đại, trong một xã hội có tính cạnh tranh cao và phân cực về quan điểm chính trị như hiện nay. Nhưng Worthington tin rằng những thay đổi lớn có thể thành hiện thực nếu tích cực khuyến khích nhận thức về sự tha thứ. Nghiên cứu gần đây của ông còn coi sự tha thứ là một sáng kiến ​​cho sức khỏe cộng đồng.
“Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn rơi vào một cộng đồng, giả dụ như ở thành phố New York, và bạn chỉ cần có một chiến dịch nâng cao nhận thức chung thế là bạn đã khiến cho cả thành phố này đổ dồn sự chú ý vào việc tha thứ?”, ông nói. “Nếu có một mối quan hệ chặt chẽ giữa liều lượng (tha thứ) và phản ứng, thì những người được tiếp xúc rất nhiều với sự tha thứ và nghiêm túc muốn tha thứ, sẽ có thể đạt được sự tha thứ”.

Khi các trường học thực hiện các chiến dịch nâng cao nhận thức về sự tha thứ, thì hầu hết mọi người trong trường nhìn thấy những lợi ích tích cực về sức khỏe tinh thần và thể chất.

Những thí nghiệm như vậy đã xảy ra trong các trường đại học. Đối với các trường đã chấp thuận các chiến dịch nâng cao nhận thức về sự tha thứ thì hầu hết mọi người trong trường đều nhìn thấy những lợi ích tích cực về sức khỏe tâm thần và thể chất.

Tìm kiếm sự hỗ trợ

Khoa học cho thấy rằng nếu ôm giữ một mối ác cảm thì có thể gây ra bệnh tật. Nhưng đối với một người nào đó đã được chẩn đoán là đang ở một tình trạng nghiêm trọng, thì việc nhận ra khả năng để tha thứ và buông bỏ càng trở nên quan trọng hơn.
Theo Katherine Puckett, nhân viên bệnh lý xã hội và giám đốc quốc gia về Y học Tâm hồn–Thể xác tại các Trung tâm Điều trị Ung thư của Mỹ (CTCA), bệnh nhân được hưởng lợi khi hiểu biết về những gì họ bị mất nếu cứ ôm giữ nỗi tức giận trong lòng.
iStock_000024897413_Large-674x449
Phát triển các mối quan hệ hỗ trợ là một trong những bước đầu tiên để đạt được sự tha thứ. (monkeybusinessimages / iStock)
“Khi chúng ta bị căng thẳng, có những điều thực sự tiêu cực xảy ra trong cơ thể”, Puckett cho biết. “Cơ thể cảm nhận sự căng thẳng đó như là một mối đe dọa cho sự sinh tồn của chúng ta. Có sự phóng thích khoảng 1.400 các chất hóa học khác nhau trào lan khắp cơ thể khi chúng ta đang ở trong một tâm trạng căng thẳng. Khi người ta đang ở trong tâm thái không tha thứ, tức là họ đang gặp rắc rối trong việc buông bỏ oán giận, thì họ đang sống trong một tình trạng mà các kích thích tố (hormone) đang ngừng hoạt động”.
Theo Puckett, phát triển các mối quan hệ hỗ trợ là một trong những bước đầu tiên để giúp bệnh nhân đạt được sự tha thứ.
“Chúng tôi muốn sẽ có thể giải thích những gì chúng ta đang trải qua”, bà nói. “Khi có rất nhiều tổn thương và đau đớn, sẽ khó mà học được cách buông bỏ đi điều đó, đặc biệt là khi không có sự giúp đỡ nào cả”.

Nhận dạng sự thù hận

Hiểu được nguyên nhân của lòng hận thù đòi hỏi phải tự suy nghĩ và phản ánh để nhận ra nguồn gốc của những cảm xúc tiêu cực. Khi tìm cách hiểu được hiện trạng của mình, các bệnh nhân ung thư có thể chỉ ra một loạt những thứ để đổ lỗi, chẳng hạn như những mối quan hệ xấu, bị người cha ngược đãi, hoặc do công việc có độ căng thẳng cao. Xác định nguồn gốc của sự tổn thương là một bước quan trọng trong quá trình buông bỏ.
Nhiều lần, bệnh nhân cần giúp đỡ trong việc tha thứ cho bản thân mình. Một phần lớn của chương trình tha thứ (forgiveness) tại Trung tâm Điều trị Ung thư của Mỹ (CTCA) là giúp cho bệnh nhân nhìn nhận giá trị của sự tự chăm sóc. Puckett muốn mọi người đối xử tốt với bản thân như cách họ đối xử với một người bạn tốt nhất.
“Rất nhiều khi mọi người cảm thấy họ không xứng đáng có được hạnh phúc, hoặc là họ không đáng được thoát khỏi tội lỗi hay sự oán giận”, cô nói. “Đó chỉ là cách sống khác nhau của mỗi người. Họ chưa có kinh nghiệm làm những điều tốt đẹp để chăm sóc bản thân. Đó là một tiến trình học hỏi, nhưng nó rất đáng giá. Tôi nghĩ điều này rất hiệu quả”.
Dwayne Bratcher (57 tuổi), bệnh nhân của CTCA cho biết, tự tha thứ đóng vai trò lớn trong quá trình chữa bệnh của ông. Khi ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, ông ngượng ngùng khi bị một “bệnh phụ nữ” và xấu hổ vì ông đã hút thuốc lá hơn 20 năm. Bratcher cũng tự mô tả bản thân là một người “tham công tiếc việc”. Trước khi đến CTCA, ông đã tiết kiệm được tới 970 giờ nghỉ ốm đau. Tất cả những gì ông nghĩ đến chỉ là công việc của mình.
“Tôi đã phải tha thứ cho bản thân mình vì đã không dành nhiều thời gian cùng với gia đình. Kể từ khi tôi bị ung thư hồi năm ngoái, điều đó làm cho tôi và gia đình tôi gần nhau hơn”, ông nói. “Bây giờ tôi nói chuyện với con gái của tôi mỗi ngày, trong khi trước đó điều duy nhất trong tâm trí của tôi chỉ là công việc”.

Hỗ trợ tinh thần

Không còn e ngại về bệnh tật của mình, hiện nay Bratcher tham gia vào các lĩnh vực hoạt động của những người bị bệnh ung thư vú và rất cởi mở khi nói chuyện về nó. “Một khi tôi đã tha thứ cho bản thân mình để sống cùng căn bệnh ung thư vú, tôi có thể nói chuyện với bất cứ ai”, ông cho biết.
Bratcher coi bệnh tật của mình là một tiếng chuông cảnh tỉnh và cho biết bệnh ung thư của ông là một phước lành, trong cái rủi có cái may. Phần lớn sự hỗ trợ mà ông nhận được đều đến từ nhà thờ. “Tôi đã có toàn bộ một cộng đoàn giáo hội đang cầu nguyện cho tôi được khá lên. Việc đó đã giúp tôi rất nhiều”, ông nói.
Đối với những người không có một cộng đồng tâm linh nào hỗ trợ, CTCA đề nghị có một giáo sĩ không thuộc giáo phái nào để hỗ trợ cho những bệnh nhân này. Theo Carl Williamson, người quản lý của đội ngũ mục sư chăm sóc tại Trung tâm y tế khu vực miền Trung Tây của CTCA, những giáo sĩ có thể cho bệnh nhân một cơ hội để chia sẻ cảm giác tội lỗi, xấu hổ và oán giận của họ mà không phán xét gì cả.
“Bệnh nhân ung thư thường thấy khó tha thứ cho bản thân mình bởi vì họ đang đi qua trải nghiệm này, vốn gây ra rất nhiều căng thẳng về tài chính và tình cảm lên gia đình” Williamson nói. “Bởi vì chúng tôi cung cấp sự hỗ trợ cho họ, họ có thể buông bỏ rất nhiều những gì họ đang ôm giữ”.
Đôi khi các bệnh nhân nói rằng họ giận Chúa, nhưng hầu hết đều là vấn đề về gia đình. Dù vấn đề gì đi nữa, các giáo sĩ có thể trở thành một người ủng hộ bằng cách truyền tải những nhu cầu cụ thể của bệnh nhân cho những người còn lại của nhóm chăm sóc, hoặc họ có thể chỉ đơn giản là giữ bí mật trong sự tâm sự riêng tư.
“Gần đây một trong những giáo sĩ của chúng tôi đã kể với tôi rằng một bệnh nhân chia sẻ với anh một điều mà cô ta chưa bao giờ chia sẻ với bất cứ ai khác”, Williamson nói. “Anh ta là người duy nhất biết những gì cô ấy đang trải qua”.
Tha thứ rốt cuộc là một sự quyết định, nhưng có thể mất nhiều năm nỗ lực mới đạt đến đó. Một số bệnh nhân có thể không bao giờ đạt được sự tha thứ, nhưng Puckett nói rằng điều quan trọng là vẫn phải kiên nhẫn với họ.
“Để tha thứ, những con người khác nhau phải mất lượng thời gian khác nhau, và có lẽ một số người không bao giờ hoàn toàn đến được đỉnh điểm của sự buông xả và tha thứ”, cô nói. “Nhưng nếu họ cảm thấy có sự hỗ trợ đồng hành, điều đó sẽ làm lắng dịu bất kể căng thẳng nào mà họ đang gặp phải”.

Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè

Saturday, July 25, 2015

Trước năm 1975 VNCH không có cột mốc biên giới với Cam Bốt, rất người dân Việt sống bên Cam Bốt dọc theo biên giới với VNCH nhưng không có đụng chạm với nhau, bởi vì họ là người họ hàng với nhau cả trăm năm nay sống bên này và bên kia biên giới, hoặc là theo các tàu bè lên tận Tonle Sap sinh sống đánh cá mang về lại Việt Nam để bán..

Riêng tại Nam Vang thì có chừng vài ngàn người Việt sinh sống hầu hết là không công nhận VNCH và không chịu trực thuộc của Tòa Đại Sứ VNCH tại Nam Vang, mà trực thuộc vào Tòa Đại Sứ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam & Chính phủ lâm thời Miền Nam Việt Nam. Chỉ có chừng chục thương gia và chừng chục nhân viên Tòa Đại Sứ VNCH ở Nam Vang vào đầu năm 1970.

Trước khi đảo chánh Shihanouk (lúc đó đang dưỡng bệnh ở France) thì ngày 8.03.1973 Lon Nol ban tối hậu thư cho Phạm Đồng là trong vòng 72 tiếng đồng hồ thì quân đội chính qui Bắc Việt và VC phải rút khỏi lãnh thổ của Cam Bốt vô điều kiện. Nhưng Hà Nội không trả lời từ đó làm cho giới sinh viên học sinh Cam Bốt nổi giận biểu tình ở Svay Rieng. Đến ngày 11.03.1970 Hà Nội cũng chưa chịu trả lời thì sinh viên học sinh biểu tình ở Nam Vang đánh phá vào Tòa đại Sứ của Băc Việt và của Chính phủ lâm thời MNVN, chứ không có đụng đến Tòa Đại Sứ VNCH ở Nam Vang.

Đồng thời người dân Việt thân cs Bắc Việt ở Nam Vang từng được Shihanouk che trở bị sinh viên học sinh Cam Bốt bắt dồn vào một sân vận động ở Nam Vang để bị bắt làm con tin. Ngày 16.03.1970 Phạm văn Đồng gởi điện tín đến Hoàng tử Sirik Matak đòi bồi thường thiệt hại cho tòa đại sứ và bắt Sirik Matak phải xin lỗi (mà chẳng đề cập đến "kiều bào" Việt sống ở Nam Vang, tiếng Việt NCH không có danh từ "kiều bào"). Thế là sinh viên học sinh bắt đầu đánh đập "kiều bào" trong sân vận động ở Nam Vang.

Trước tình trạng đó thì vào ngày 18.03.1970 Ông Trần Văn Lắm Bộ trưởng Ngoại giao VNCH lúc đó mới ra lệnh đóng cửa Tòa đại sứ VNCH ở Nam Vang, xin Ông Thiệu cho không quân ở Biên Hòa đưa một tiểu đội nhảy dù với trực thăng (sơn mày đen xử dụng cho các cuộc hành quân bí mật) và Chinook đến một trường tiểu học Công giáo ngoại ô Nam Vang để di tản chừng 45 người nhân viên Tòa đại sứ, đại sứ VNCH ở Nam Vang và những thương gia người Việt về Biên Hòa.

Chỉ có 1 vụ cáp duồn là vào giữa tháng 3 năm 1970, chứ không có 2 vụ cáp duồn.

Trong tháng 4 năm 1970 thì tình hình ở Cam Bốt chưa rõ ràng, Hoa Kỳ và VNCH còn đang chờ tín hiệu từ Mạc Tư Khoa là Kossygin và Breschnew sẽ tuyên bố gì. Kết quả là Shihanouk không nhận được sự ủng hộ của Liên Sô.

Đầu tháng 5.1970 Hoa Kỳ & VNCH đưa quân vào Cam Bốt là dưới sự đồng ý của Lon Nol & Sirik Matak cũng như người dân Cam Bốt để phá hủy các xào huyệt, mật khu, cục R của chính qui Bắc Việt & VC, đánh đuổi quân cs, rồi sau đó cuối tháng 6 như đã cam kết thì rút quân trở về VNCH. Quân đội Cam Bốt lúc đó không tham dự vào cuộc hành quân hổn hợp Hoa Kỳ-VNCH trên nước họ, ngược lại họ còn tán thưởng vui mừng khi nhìn thấy quân đội Hoa Kỳ & VNCH như là Đồng Minh.

Hận thù giữa người VNCH với người Cam Bốt không có, cũng không có trạm thu thuế hay cửa phòng quan thuế...

Trả lời

Wednesday, July 22, 2015

CHỮ NHỤC, THEO CỤ MẠNH TỬ .
Bài này tôi đã gửi đến Tuổi Trẻ online và Vietnamnet .
  
Mạnh Tử đã nói : " Việc lớn nhứt , quan trọng nhất của một người không gì hơn chữ NHỤC " . Vì sao ? Vì hiểu được chữ nhục này , ta có thể sửa đổi được tất cả các lỗi lầm . Nếu không hiểu được chữ nhục , ta sẽ phóng túng làm càn , đánh mất nhân cách , không khác gì cầm thú . Những lời trên chính là bí quyết chân chánh để sửa lổi . (Trích từ sách Làm Chủ Vận Mệnh của Viên Liễu Phàm đời nhà Minh bên Trung Quốc ) .

Kính thưa quý báo ,

Nhân đọc bài các cơ quan VN đã tiết kiệm như thế nào , tôi xin kể về sự tiết kiệm ngân sách trong cơ quan nhà nước cũng như các cá nhân trên thế giới .Cái gì của kẻ khác nếu hay thì ta nên nghiên cứu học tập chứ đừng vì kỳ thị, thành kiến , lợi ích cục bộ hay mặc cảm mà không dám áp dụng . Vì không có nỗi nhục nào lớn hơn khi cứ phải tiếp tục là một nước nghèo nàn , lạc hậu , dân trí thấp kém , trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt từng giờ từng phút trên thế giới ngày nay .
Ở nước Đức , bà thủ tướng Angela Merkel , sau khi rời công sở thì tự lái xe riêng của mình đi mua sắm hay việc riêng v.v... Bà nói bà rất khó khăn khi tìm chổ đậu xe . Mà chúng ta đều biết Đức là một trong hai nền kinh tế hùng mạnh nhất Âu châu , trong nhóm G-8 .
Riêng Nam Hàn ( South Korea ) trong giai đoạn xây dựng đất nước (thập niên 70 , 80 , 90) họ đã bắt buộc các cơ quan nhà nước phải dùng xe hơi sản xuất trong nước . Thời gian đó cả nước được cổ võ phải xử dụng hàng nội địa dù cho phẩm chất không bằng hàng ngoại . Báo đăng tin một nam hướng dẩn viên du lịch , chỉ vì có một gói thuốc lá ngoại để trong túi áo sau một chuyến hướng dẩn khách nước ngoài mà bị đuổi việc . Vì vậy củng không lạ gì khi khởi đi từ một nền kinh tế không hơn gì Việt nam trước năm 1975 , nay họ trở thành một trong những cường quốc về kinh tế ở Á châu mặc dù tài nguyên của họ không bằng VN như nhập cảng toàn bộ xăng dầu tiêu thụ trong nước , v.v...
Trong hệ thống chuyên chở của quân đội Mỹ ở Việt Nam trước 1975 , chỉ có các tướng lãnh giử chức chỉ huy mới có xe riêng có tài xế để đi lại . Mọi sĩ quan từ thiếu tá đến đại tá đều dùng xe taxi của quân đội ; mỗi ngày xe taxi đến nhà đón họ đến nơi làm việc và đến chiều lại đón họ về nhà . Còn sỉ quan cấp nhỏ và binh sỉ thì dùng xe buýt của quân đội . Họ đả lập một trung tâm điều động xe cộ (motor pool) để quản lý hoạt động của các loại xe . Ngoài giờ làm việc thì các SQ này phải bỏ tiền túi để kêu taxi hay xe xích lô để đi . Vì tổ chức khoa học như vậy họ tiết kiệm ngân sách rất nhiều về việc trả tiền thuê tài xế , mua xe và xăng nhớt ; ngoài ra còn giảm bớt lưu lượng xe cộ lưu thông trong thành phố .
Còn rất nhiều chuyện về tiết kiệm của nhửng người giàu có trên thế giới . Tôi thường được ba tôi kể về một người bạn ( xin được dấu tên ) là doanh nhân rất giàu có trước 1975 ở Sài Gòn . Ông này mỗi lần xé một tờ lịch thì giử lại để dùng lại mặt sau của tờ lịch . Ông này đã vừa tiết kiệm và đi trước mọi người về bảo vệ môi trường mặc dù trước 1975 , vấn đề này chưa bức xúc như bây giờ ; nó hiện nay là câu nói đầu môi chót lưởi của các lãnh tụ thế giới .
Do đó tôi xin có thiển ý như sau . Việc quản lý kinh tế trong nước phải nên tổ chức một cách khoa học , chứ đừng ỷ lại vào tài nguyên thiên nhiên dồi dào rồi hoang phí vì tài nguyên này nay mai sẻ cạn kiệt . Phải thực hành cần- kiệm -liêm -chính vì nước ta vẫn còn nghèo . Phải tập trung vào việc đào tạo và nâng cao kiến thức cho mọi thành phần trong xã hội hầu bắt kịp thế giới , nhất là cho giới trẻ vì đó là tài nguyên quí giá và không bị hao mòn . Phải lắng nghe ý kiến của dân để biết nỗi bức xúc của họ . ( Tôi được biết mổi tuần dù quốc sự đa đoan , quốc vương của xứ Á -Rập Sê -Út giàu có đều để riêng một ngày để trực tiếp tiếp dân ) .Nếu không cố gắng thực hiện được những điều này thì sẽ hoang tưởng khi nghĩ rằng nước ta có thể sẽ là một trong những cường quốc về kinh tế của thế giới . Vì một số nước và vùng lãnh thổ hùng mạnh về kinh tế lại không phải nhờ thiên nhiên ưu đải ( Nhật , Đức , Nam Hàn , Singapore , Đài loan , Hongkong , v.v... ) nhưng do nhờ quản lý kinh tế tốt và có nền khoa học và giáo dục tiên tiến , đẳng cấp quốc tế .
Là một người sống tha hương nhưng luôn luôn nghĩ rằng đến tương lai dân tộc , tôi xin chia xẻ những kinh nghiệm trên cho quí báo . Kính chào qúi báo ,

Ngày 9/7/2008 .
ÔNG CHA TA ĐỜI XƯA ĐÃ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG NHƯ THẾ NÀO ? 



Nguồn : Việt Nam Văn Hóa Sử Cương , được viết năm 1938 bởi cụ Đào Duy-Anh .

       I/ Ở sách đã dẩn , sau khi mô tả cách tuyển lựa quan lại dưới các triều đại phong kiến Việt Nam , ở trang 149 cụ đã viết về những quyền hạnquyền lợi của các quan như sau :
       "... Các quan tại triều là những người giúp đở vua mà đãm đang quốc chính . Các quan ngoại chức (coi các tỉnh , phủ , huyện , châu ) là những người vâng mệnh thay mặt vua để cai trị nhân dân . Bởi thế nên các quan cũng như vua , người dân thường gọi là cha mẹ dân . So với dân , các quan là một hạng người có những đặc quyền xứng đáng với tư cách “dân chi phụ mẫu” . Quan không phải chịu thuế thân ; ngoài tiền lương quan còn có tiền dưỡng liêm (cấp cho các quan địa phương những khi họ túng thiếu để họ khỏi nhũng lạm của dân) cùng lộc điền (ruộng cấp cho những người có tước lộc) . Người nào xâm phạm đến danh dự hay sinh mệnh của ông quan thì bị xử tội nặng hơn là xâm phạm người thường ; mưu hại ông quan từ ngũ phẩm trở lên là một tội thập ác (1). Quan lại phạm tội , phải có chiếu vua thì pháp quan mới được thẩm vấn . Cha mẹ quan lại cũng được phong phẩm hàm ngang với con . Đó là lược cử một ít các quyền rỏ ràng khiến quan lại tuy không phải là một giai cấp quí tộc mà cũng là một hạng người cao quí được thiên hạ tôn kính và thèm thuồng . Bởi thế người nào cho con đi học cũng hy vọng cho nó được làm quan , mà đứa trẻ đương để trái đào mới cắp sách đi học cũng đã hoài bảo một ông quan trong mộng tưởng" .
        II/ Ở trang 150 , cụ lại cho ta thấy cách phòng chống tham nhũng dưới thời phong kiến :
        " Quan lại tuy có nhiều đặc quyền , song cũng không phải ở trên pháp luật . Nhà vua sợ các quan lạm dụng những đặc quyền ấy mà vũ uy tác tệ , cho nên đã đặt nhiều điều lệ để chế tài các quan . Ví dụ pháp luật cấm quan địa phương không được thụ nhiệm ở tỉnh nhà , hay ở nơi cách tỉnh nhà dưới 500 dặm để cho thân thích bằng hửu khỏi cậy thế cậy thần mà làm ngang ; cấm không được lấy vợ trong trị hạt vì sợ gia đình nhà vợ nhũng nhiễu ; cấm không cho tậu ruộng vườn cửa ở trong trị hạt , vì sợ quan hiếp bách kẻ trị hạt để mua rẻ ; cấm không được tư giao với đàn bà con gái trị hạt để đừng treo gương xấu cho nhân dân ; cấm quan lại hồi hưu không được lui tới cửa công để thỉnh thác cầu cạnh . Ngoài ra còn nhiều trừng trị các quan hối lộ và nịch chức , nếu thi hành cho nghiêm mật thì cũng có thể tránh được những tệ tham quan ô lại mà ta thường thấy làm cực khổ nhân dân" . 

Nhận xét : tôi nghĩ ngày xưa , do bị ràng buộc hay chế tài bởi những điều lệ như trên ,  các quan ít hay khó tham nhũng như bây giờ . Thế mới thấy tổ tiên ta khi đặt ra các điều lệ này đã rất cao kiến . Nếu luật này ngày nay được áp dụng ở Việt Nam , chắc ít ai chịu đi làm quan !!!
 
Chú thích : (1) Thập ác là 10 tội lớn . Mưu loạn (mưu làm hại xã tắc) ; mưu đại nghịch (phá hủy lăng miếu) ; mưu phản (theo địch mà phản quốc) ; ác nghịch (đánh hay giết cha mẹ ông bà) ; bất đạo (giết ba người vô tội trong một họ , hay cắt da thịt người sống để làm thuốc độc hoặc bùa …) ; đại bất kính (thất kính đối với vua , như ăn trộm đồ thờ ở lăng miếu , đồ xa giá của vua …) ; bất hiếu (chưởi mắng hay nói xấu cha mẹ ông bà , không để tang cha mẹ ông bà …) ; bất mục (mưu sát hay là bán bà con trong hàng ty thôi trở lên …) ; bất nghĩa (dân giết cha mẹ của quan , binh lính và hạ lại giết quan trên …) ; nội loạn (tức là loạn luân) .

Số 13 và định mạng của VNCH .
- Trong cái họa có chứa cái phúc -- Kinh Dịch .
TT Thiệu , TT Khiêm và tướng Phú , ba người ra quyết định rút bỏ cao nguyên Trung phần , dẫn đến sự sụp đổ của VNCH , đều có tên bằng số 13 .


 "Số 13 không xấu như nhiều người nghĩ . Người xưa nói ai biết xử dụng số này sẽ có được quyền lực và sự phục tùng từ kẻ khác . Số 13 liên quan đến quyền lực và nếu điều này được dùng vào mục đích vị kỷ thì sẽ mang sự hủy diệt cho chính nó “ . (Trang 251-252 của Linda Goodman's Sun Signs) . Các nhân vật mang số 13 trên đây đều có nhiều quyền lực nhưng vì chỉ biết lo cho mình nên cuối cùng họ đã hủy diệt sự nghiệp và đất nước mà họ đã từng sống chết bảo vệ . Trừ tướng Phú tự sát , hai vị còn lại đã sống lưu vong ở nước ngoài – thân bại , danh liệt , cô đơn , tủi nhục – trong những năm cuối đời .
C2 / Cũng theo bà Goodman , thì “ hình ảnh tượng trưng cho số 13 là bộ xương , là thần chết , tay cầm lưỡi hái , đang tàn sát biết bao con người còn rất trẻ , đang chen lấn dẫm đạp lên nhau , tìm cách thoát thân trên một cánh đồng cỏ mới mọc . “ Một cảnh tượng gần như tương tự một cách kỳ lạ đã xảy ra tại tỉnh lỵ Cheo Reo , nơi mà dân thường và các đơn vị Thiết giáp , Pháo Binh , v.v... của VNCH đã dồn cụt trên một diện tích nhỏ hẹp và đã bị tàn sát trong tức tưởi bởi những trận mưa pháo chính xác và kinh hồn của bộ đội CSBV . Một bà vợ lính Biệt động quân sau khi tới Tuy Hòa nghỉ dưỡng một tuần đã đi ngược đường lên tỉnh lộ 7 để tìm chồng con bị thất lạc . Chị cho biết “. . . ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy , những bộ xương người còn vương vãi đó đây , bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường . Cả một vùng xông mùi tử khí . Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số . . . “ . (Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân của Phạm Tín An Ninh) . 







C3 / Bà Goodman lại nói  “ số này cũng cảnh báo về chuyện không ai ngờ được lại sẽ xảy ra “ .
Nào ai học được chữ ngờ vì miền Nam Việt Nam đã sụp đổ quá nhanh , với hàng trăm ngàn người vào tù , các đợt cải tạo tư sản , đổi tiền , v.v... ; hàng triệu người phải bỏ nước ra đi mà gần nữa triệu đã chết , mất tích vì hải tặc , vì CA/bộ đội biên phòng , hoặc vùi xác trong biển sâu v.v... Một số lớn phụ nữ còn bị hảm hiếp , làm nô lệ tình dục bởi hải tặc Thái .
C4 /  Bà còn nói thêm “ Số 13 cũng là số của đổi đời (upheaval) , để cho người ta có thể làm được điều hoàn toàn mới – mà trước đó không ai làm được . Số này dính liền với thiên tài – cũng như với các nhà thám hiểm – là số phá vở những gì có tính chính thống và là những khám phá trên mọi lãnh vực “ .
 Sau biến cố bi thảm 30 tháng 4 , người Việt đã có mặt hầu như khắp thế giới mà phần lớn là các nước phương Tây , giàu có . Đa số đã có cuộc sống ổn định , sung túc thậm chí có người thành triệu-triệu phú . Những người đến Mỹ , nếu trên 18 tuổi *** thì thi vào ĐH cộng đồng , hoặc vừa đi làm vừa đi học nghành nghề , để mong tiến xa hơn nữa vì nhà nước giúp đỡ tài chánh cho họ dù đã ở tuổi 70 hay cao hơn . Còn trẻ em thì được chăm sóc y tế toàn diện đến ít nhứt là 18 tuổi và được hấp thụ một nền giáo dục miễn phí – tiên tiến , phóng khoáng , kích thích tính sáng tạo và tự lập nơi các em . Đây là những điều mà ở VN ngày nay , đất nước của câu nói “vì lợi ích trăm năm ta trồng người “ có nằm mơ cũng không thấy . Thật tội nghiệp cho đa số trẻ em VN .
     Một số người đã giữ chức vụ chóp bu trong các nghành kỹ thuật cao hay chỉ dành cho phái nam như nữ kỹ sư Dương Nguyệt Ánh , người chế bom áp nhiệt dùng phá hang động ở A Phú Hãn . Hay nữ phi công Elizabeth Phạm (ba cô là bác sĩ ở Seattle) phục vụ trong Thủy quân Lục chiến Mỹ , v.v... (Trong cuộc chiến VN , tuy rất ác liệt nhưng phụ nữ dù tình nguyện , cũng chỉ phục vụ ở hậu cứ  hay các thành phố để làm y tá , cán sự xã hội , v.v..) .Tóm lại nhân tài VN ở hải ngoại đã nở rộ như hoa mai mùa xuân , đây là niềm an ủi cho người đã phải đau khổ rời bỏ quê hương , và cũng là niềm hãnh diện cho họ ; đúng như lời người xưa “ trong cái họa có che dấu cái phúc “ .
     *** Trước 1975 ở VNCH , ngoài một số ít được học bổng do quá xuất sắc , thành phần còn lại chỉ có thể du học với điều kiện học giỏi , hợp lệ tình trạng quân dịch và tự túc mọi chi phí . Cũng có một số rất ít được du học vì là con ông cháu cha. (Bản thân người viết bài , gia đình rất giàu nhưng do học dở nên không thể du học ; mải đến năm 47 tuổi mới được sang Mỹ nhờ tốt nghiệp đại học “lao động cải tạo” 6 năm ở VN ! .
 

Monday, July 20, 2015

Tôi hay nói với bạn bè : tôi không giỏi hay làm ra tiền bằng nhiều người khác nhưng tôi rất hảnh diện vì luôn giúp đở hay nghĩ đến những kẻ dốt (hay nghèo hơn tôi) hay đang "sa cơ thất thế" . Ảnh : Anastasia Lin, sẽ là đại diện của CND dự hoa hậu thế giới 2015 tại TQ . Cô tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền tại TQ dù cha cô đang bị chính quyền đe dọa .

Sunday, July 19, 2015

Vì sao cách mạng ở Trung Quốc đã thực sự bắt đầu?



Tourists dressed in Red Army uniforms visit Mao Zedong’s former guerilla base in Jinggangshan, Central China, on Sept. 21, 2012. (Peter Parks/AFP/Getty Images)
Khách du lịch mặc đồng phục Hồng quân khi thăm căn cứ du kích Mao Trạch Đông từng hoạt động tại Tỉnh Cương Sơn, miền trung  Trung Quốc, vào ngày 21 tháng 9, 2012. (Peter Parks / AFP / Getty Images)
Là một tổ chức được thành lập để không ngừng làm cách mạng, Đảng Cộng sản Trung Quốc mỉa mai thay lại sợ điều đó. Nhưng cách mạng lại đang được tiến hành ở Trung Quốc, và đây là xu thế không thể đảo ngược.
Một trong những mâu thuẫn chủ yếu của chế độ hiện nay là mối quan hệ giữa hệ tư tưởng nền tảng và thực tế xã hội. Học sinh Trung Quốc phải tham gia vào những bài học chính trị về tư tưởng Mác xít (hoặc ít nhất là sự vận dụng tư tưởng Mác xít của Đảng Cộng sản Trung Quốc), Tư tưởng Mao Trạch Đông, học thuyết của Đặng Tiểu Bình và của những lãnh đạo khác của Đảng.
Thực tế, tầng lớp giàu có và nắm quyền ở Trung Quốc được đảm bảo đặc quyền khi duy trì hệ tư tưởng của Mác và Mao Trạch Đông. Đó là một dạng bảo hiểm chính trị cùng với Đảng Cộng sản, và là điểm tựa cho tính chính thống của chế độ.
Nhưng với người nghèo – chiếm khoảng 60% trong 1,4 tỉ dân của Trung Quốc – học thuyết của Đảng mang lại những lợi ích hết sức hạn chế. Và khoảng cách giàu nghèo sẽ luôn tăng khi những tỉ phủ tiếp tục tước đoạt vô độ của cải của xã hội, trong khi người nghèo bị ngăn cản tiến lên những bậc thang xã hội – và đây là một cấu trúc bất biến trong gần 20 năm qua.
Theo học thuyết Mác xít chính thống, Đảng Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã biến chất thành giai cấp tư sản bóc lột, vốn là mục tiêu chính của cách mạng vô sản. Người dân ở dưới đáy xã hội giờ đây có quyền lật đổ Đảng Cộng sản, tổ chức chuyên chế tệ hại nhất trong lịch sử.
Trong khi học thuyết tư tưởng của Đảng hiện có tác dụng như một con dao hai lưỡi, Trung ương Đảng sẽ không bao giờ từ bỏ nó. Cựu lãnh đảo Đảng Đặng Tiểu Bình mở cửa nền kinh tế và tiến hành những cải cách khác nhưng ông ta chưa bao giờ chối bỏ chủ nghĩa Mác và Tư tưởng Mao Trạch Đông.

Mong muốn có một lãnh đạo cách mạng

Người dân Trung Quốc muốn một cuộc cách mạng nhưng không phải kiểu cách mạng của chủ nghĩa Mác. Họ đã từ bỏ vũ khí lý luận của chủ nghĩa Mác, và thay thế bằng những giá trị dân chủ phổ quát.
Một số tìm kiếm cách mạng dân chủ toàn diện: tự do ngôn luận, tự do hội họp phải được công nhận ngay lập tức. Những người khác hi vọng lật đổ Đảng Cộng sản, cho phép mọi người tiếp cận bình đẳng với của cải, và muốn giữ hiến pháp của đảng dưới danh nghĩa duy trì  “sự ổn định xã hội”. Nhóm sau thể hiện nguyện vọng với khẩu hiệu “ cách mạng dân chủ”, nhưng gần như chắc chắn họ là những người có liên hệ với chế độ.
Mặc dù ngày càng có nhiều học thuyết cách mạng và nhiều nhóm quần chúng có tiềm năng tham gia – chỉ cần lướt qua Twitter và Weibo là đã có thể tìm thấy nhiều bài viết bày tỏ mong muốn cách mạng – vấn đề còn lại là chưa có một tổ chức hay một lãnh tụ nào có thể lãnh đạo cuộc cách mạng này. Vì nếu tra cứu lịch sử thành lập  của Đảng Cộng sản thì có thể thấy rằng Đảng có sự nhạy cảm một cách cực đoan với các tổ chức.
“Theo dõi, giải tán, bắt giữ” – đó là chính sách mà Đảng Cộng sản kiềm chế bất kỳ tổ chức nào ở Trung Quốc.  Để đạt được mục đích này, những kẻ báo tin được cài vào những câu lạc bộ sách, các tổ chức phi lợi nhuận, trường đại học; các tổ chức dân sự và tổ chức hỗ trợ phi chính phủ của nước ngoài, ví dụ  tổ chức Sáng kiến Mở rộng Hiến pháp và Thư viện Nông thôn Trung Quốc, đã bị đóng cửa; và các nhà hoạt động – thậm chí còn ít được biết đến như Hứa Chí Vĩnh, Ngô Cam, và những người khác – bị bắt giữ, và bị hạn chế tự do sau khi được phóng thích.

Không thể ngăn cản

Bất chấp mọi kiểm duyệt nghiêm ngặt, Đảng Cộng sản vẫn thất bại trong việc ngăn chặn một nhà lãnh đạo chính trị khởi xướng một cuộc cách mạng trong quần chúng nhân dân.
Cựu quan chức Bạc Hi Lai từng là một nhân vật nổi tiếng của đại chúng khi ông ta điều hành Trùng Khánh từ năm 2007 đến 2012. Ông Bạc tuyên truyền tư tưởng cánh tả của Mao Trạch Đông và khởi xướng những chiến dịch theo phong cách của Cách mạng Văn hóa như “hát những ca khúc đỏ và đập tan các băng đảng đen”, nhất thời chấn hưng tinh thần cộng sản bị trì trệ trong quần chúng nhân dân ở Trùng Khánh. Nhiều Đảng viên và người dân bị thuyết phục bởi tài hùng biện của ông Bạc và tin rằng ông ta là vị lãnh đạo sẽ bảo vệ lợi ích của họ.
Bởi vì Đảng Cộng sản không chấp nhận đấu tranh nội bộ, nên khi danh tiếng của ông Bạc đang đi lên lãnh đạo Tập Cận Bình đã thanh trừng ông Bạc vì có “ hành vi vô tổ chức” và tham nhũng.
Nhưng ông Tập không thể dập tắt hi vọng này một cách triệt để. Quần chúng nhân dân đã trải qua cảm giác đi theo một nhà lãnh đạo nổi tiếng và có sức hút, và phong trào cách mạng này đã sẵn sàng xuất hiện tại bất cứ thời điểm nào.

Cuối triều Thanh

Kể từ khi giải Nobel Hòa bình được trao cho nhà bất đồng chính kiến người Trung Quốc Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) năm 2010, Đảng Cộng sản khước từ triệt để mọi cải cách, và Bắc Kinh đặc biệt nhạy cảm với bất cứ ám chỉ nào liên quan đến “cách mạng”.
Ấn phẩm ngày 14 tháng 6 năm nay của Nhân dân Nhật báo có 5 bài viết nhấn mạnh mối nguy hại sâu sắc của “những cuộc cách mạng màu” – là những phong trào dẫn đến sự lật đổ những chính phủ áp bức nhân dân – và cho rằng hệ thống dân chủ không thể cưỡng bức áp dụng vào Trung Quốc. Các bài viết nói rằng Trung Quốc phải cảnh giác với sự xâm nhập và lan rộng của “cách mạng màu”, của các lực lượng phương Tây “thù địch”  chưa bao giờ từ bỏ ý định phá hoại và lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc, và Trung Quốc phải xóa bỏ niềm tin “mê tín” vào chế độ phương Tây và Tây phương hóa.
Chính quyền Trung Quốc vẫn duy trì chiến lược sử dụng tiền để mua và tăng cường “ổn định xã hội” nhưng nó sẽ không hiệu quả khi kinh tế Trung Quốc bị trì trệ và thất nghiệp đang trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội. Thực tế, cụm từ “ cách mạng” bắt đầu xuất hiện trên mạng Internet của Trung Quốc với tần suất tăng dần.
Một xu hướng cách mạng đã bắt đầu. Tình hình vẫn chưa tiến xa vì sự cảnh giác cao độ của Đảng trong việc theo dõi và đàn áp những ý kiến bất đồng
Đảng Cộng sản Trung Quốc nên nhún nhường để bảo đảm sự an toàn và nếu họ suy nghĩ cho lợi ích tương lai của đất nước. Nếu không, Đảng sẽ đối mặt với hai cuộc cách mạng có khả năng xảy ra: một cuộc cách mạng màu được lãnh đạo bởi tầng lớp trung lưu và trí thức lãnh đạo, hoặc một cuộc cách mạng bạo lực, bạo động vô sản với nòng cốt là tầng lớp nhân dân nghèo.
Liệu Trung Quốc có còn cơ hội để cải thiện? Có lẽ là không. Tình hình hiện tại sẽ phát triển nhanh chóng và diễn biến tương tự như những năm cuối của triều Thanh khi cách mạng đã lật đổ chế độ phong kiến cai trị.

Trước những diễn biến tiếp theo

Chế độ sụp đổ khi có đảo chính, khủng hoảng tài chính, một xung đột nghiêm trọng giữa quan chức và người dân, bạo lực thường xuyên, phản kháng gây chết người hoặc một cuộc xâm lăng. Đôi khi những nhân tố này xảy ra cùng một lúc.
Nhân tố dễ thúc đẩy cách mạng nhất ở Trung Quốc là khủng hoảng tài chính. Trung Quốc đã ban hành một vài chính sách tài chính để cứu vãn thị trường chứng khoán, nhưng hiệu quả từ những chính sách này vẫn cần được xem xét. Tình trạng nền kinh tế thế giới là cực kỳ khó đoán, và có thể gây ảnh hưởng lớn đến Trung Quốc.
Trong khi đó, xu thế cách mạng vẫn tiếp tục – chậm rãi nhưng chắc chắn. Xã hội Trung Quốc đang bị xói mòn, vì nhà nước sử dụng bừa bãi những nguồn lực xã hội, tạo ra mâu thuẫn giữa các tầng lớp, và suy đồi đạo đức. Theo thời gian, cách mạng trong nhân dân lớn dần lên, và chờ cơ hội để bùng phát.
Ai là người chịu trách nhiệm cho tình trạng này? Tất nhiên là Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trật tự xã hội bình thường bị đảo lộn khi Đảng Cộng sản xóa bỏ sự tư hữu, chuyển từ tư hữu sang công hữu. Sử dụng tài nguyên quốc gia để thúc đẩy công hữu, những gia đình “đỏ” và các quan chức nhanh chóng trở thành những triệu phú và tỉ phú, trong khi Trung Quốc trở thành quốc gia có nhiều người sống trong nghèo khổ nhất và cũng là quốc gia có nhiều người giàu có dựa trên bóc lột người nghèo nhất.
Lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc là những năm tháng nô dịch và lừa dối nhân dân, cũng như đàn áp và tiêu diệt những ý kiến bất đồng. Đảng không muốn bất cứ ai dùng bạo lực cách mạng để lật đổ nó, cho dù học thuyết của Đảng Cộng sản là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng bạo lực cách mạng. Và bất chấp Đảng mong muốn như thế nào, cách mạng ở Trung Quốc đã bắt đầu.
Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè

SỰ ĐỔ VỠ ĐANG ĐẾN VỚI TRUNG HOA



Bài viết của Dr. Shambaugh hiện là Giáo sư về Quan hệ Quốc tế đồng thời giữ chức vụ Giám đốc chương trình Chính sách Trung Quốc tại Đại học George Washington, ông cũng là cộng tác viên cao cấp của Viện Brookings. Những cuốn sách của ông về Trung Quốc gồm “ ĐCS Trung Quốc : sự hao mòn và sự thích ứng”(“China’s Communist Party: Atrophy and Adaptation” and, most recently,) và gần đây nhất là cuốn “ Trung Quốc toàn cầu hóa : một thế lực cục bộ”(“China Goes Global: The Partial Power.”).


GS Divid Shambaugh là một trong số vài chục học giả think tank của Hoa Kỳ, ông cùng với các quan chức phục vụ trong Bộ Quốc phòng Mỹ, CIA, Bộ Ngoại giao, và Hội đồng an ninh quốc gia, làm ra chính sách của Mỹ đối với châu Á, và đặc biệt là đối với Trung Quốc.

Hôm trước mình có đưa nó lên facebook, nay thấy Vietstudy có bài dịch của ông Phạm Gia Minh, nên mang về lưu lại trên blog để bà con đọc chơi nhen. Há há,



Ván bài cuối cùng của ĐCS Trung Quốc đã bắt đầu khi mà những biện pháp tàn nhẫn của Tập Cận Bình chỉ có thể đưa đất nước tiến gần tới tình huống nguy kịch.

Hôm thứ năm tuần này Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc thường niên vừa nhóm họp theo nghi thức đã trở nên quen thuộc. Ước chừng 3 000 đại biểu “ được bầu chọn” trên khắp mọi miền đất nước – từ những nhóm thiểu số trang phục sặc sỡ tới các tỷ phú lịch lãm sẽ gặp mặt trong thời gian một tuần để thảo luận về tình hình đất nước và dường như điều này tạo ra ấn tượng rằng họ đang tham gia vào đời sống chính trị của quốc gia.

Một số người nhìn nhận cuộc tụ họp đầy ấn tượng này là một chỉ dấu cho sức mạnh của hệ thống chính trị Trung Quốc, tuy nhiên thực chất nó lại che dấu những điểm yếu nghiêm trọng. Các chiêu trò chính trị ở Trung Quốc xưa nay thường được ngụy trang dưới lớp vỏ đầy kịch tính với những sự kiện dàn dựng trên sân khấu cho thấy dường như Quốc hội trao quyền lực bền vững cho ĐCS Trung Quốc. Cán bộ nhà nước cũng như dân thường đều biết rằng họ phải tuân thủ những nghi thức đó, tức là phải vui vẻ tham gia và nhắc lại như vẹt các khẩu hiệu chính thức. Lối hành xử như vậy ở Trung Quốc có cái tên là "biểu thái" (biaotai – biểu lộ thái độ), thực ra nó có ý nghĩa chỉ hơn một chút hành động phục tùng mang tính tượng trưng. 

Nếu không để ý tới vẻ bên ngoài thì về thực chất ĐCS Trung Quốc đang rất suy yếu và không ai biết điều này hơn chính Đảng. Con người đầy quyền lực của Trung Hoa - Tập Cận Bình đang hy vọng rằng các biện pháp trừng trị thẳng tay bất đồng chính kiến và tham nhũng sẽ giúp chống đỡ một sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của Đảng.  Tập Cận Bình xác định rằng phải tránh trở thành một Gorbachov của Trung Hoa bởi lẽ Gorbachov đã điều hành sự tan rã của Đảng CS LX. Thế nhưng thay vì trở thành nhân vật tương phản với Gorbachov, Tập Cận Bình kết cục có thể lại tạo ra cùng một hậu quả. Sự chuyên quyền của họ Tập gây sang chấn nghiêm trọng toàn bộ hệ thống xã hội Trung Quốc và đang đưa đất nước tới gần tình huống nguy kịch.

Dự đoán sự ra đi của các chế độ chuyên chế luôn là việc đầy rủi ro, phi phỏng. Một số chuyên gia Phương Tây nhìn trước sự sụp đổ của Liên Xô trước khi nó xảy ra vào năm 1991; tuy nhiên CIA lại hoàn toàn bỏ qua việc này. Sự tan rã của các quốc gia cộng sản Đông Âu hai năm trước đó cũng đã từng bị chế nhạo như một suy nghĩ mơ mộng của những kẻ chống cộng cho tới khi việc này trở thành hiện thực. Các cuộc “cách mạng màu” trong thời kỳ hậu Liên Xô ở Gruzia, Ucrain và Kyrgyzstan từ năm 2003 tới 2005 cũng như cuộc nổi dậy mùa Xuân Ả Rập năm 2011 đều bùng nổ ngoài mọi dự đoán.

Các nhà quan sát tình hình Trung Quốc đang rất để ý tới những dấu hiệu có tính chất làm lộ chân tướng mục ruỗng và suy đồi của chế độ đang diễn ra kể từ khi xảy ra sự kiện trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989, khi mà chế độ đã trên bờ suy vong. Từ thời điểm đó đến nay một số nhà Trung Hoa học đã đánh cược uy tín nghề nghiệp của mình khi khẳng định rằng sự sụp đổ của ĐCS Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo là không thể tránh khỏi. Những người khác thì tỏ ra thận trọng hơn, trong đó có tôi. Thế nhưng thời thế ở Trung Quốc đã thay đổi và những phân tích của chúng ta cũng cần bám sát thời cuộc.

Ván bài cuối cùng với sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc đã bắt đầu, tôi tin là như vậy và điều này đã tiến triển xa hơn cái mức mà nhiều người suy nghĩ. Tất nhiên chúng ta không biết con đường đi từ nay cho tới khi nó kết thúc sẽ có hình dạng ra sao. Có thể nó sẽ rất không ổn định và lộn xộn nhưng cho tới khi hệ thống bắt đầu tháo gỡ các nút thắt một cách rõ ràng,rành mạch thì các yếu tố nội tại vẫn tiếp tục đóng vai trò và vì vậy chúng sẽ ảnh hưởng tới bộ mặt của sự ổn định.

Sự cầm quyền của ĐCS Trung Quốc khó có thể kết thúc một cách êm ả. Một sự kiện đơn lẻ khó có thể gây nên sự khép lại hòa bình của một chế độ. Điều dễ xảy ra hơn đó là sự ra đi của nó sẽ kéo dài, hỗn độn và bạo lực. Tôi không loại trừ khả năng Tập Cận Bình bị hạ bệ trong cuộc tranh giành quyền lực hoặc bởi một cú đảo chính cung đình (un coup d’état). Chiến dịch chống tham nhũng hăng hái của họ Tập đã trở thành tiêu điểm tuần này của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc cho thấy ông đang dùng quá đà sở đoản của mình và chọc tức một cách sâu sắc các cử tri là những nhân vật chủ chốt trong Đảng, Nhà nước, quân đội và giới kinh doanh.

Người Trung Hoa có câu ngạn ngữ, waiying, neiruan- ngoài cứng, trong mềm. Tập Cận Bình là một nhà lãnh đạo quả thực là mạnh mẽ, tràn đầy sức thuyết phục và tự tin. Thế nhưng nhân cách cứng rắn đó lại đi ngược với hệ thống Đảng và chính trị vốn hết sức mong manh trong nội bộ. Chúng ta hãy cùng xem xét 5 dấu hiệu có tính thuyết phục thể hiện tính dễ tổn thương của chế độ và yếu kém của hệ thống Đảng CS Trung Quốc. 

Thứ nhất, giới tinh hoa của nền kinh tế Trung Quốc đang đặt một chân bên ngoài cửa nhà và họ luôn sẵn sàng rời bỏ hàng loạt nếu như hệ thống thực sự bắt đầu sụp đổ. Năm 2014 Viện nghiên cứu Hurun ở Thượng hải chuyên theo dõi vấn đề người giàu Trung Quốc đã kết luận rằng 64% người có của Trung Quốc đã di cư hoặc đang lên kế hoạch di cư khỏi Trung Quốc. Người giàu Trung Quốc gửi con cái đi học ở nước ngoài với con số kỷ lục (bản thân sự việc này đã là một cáo trạng về chất lượng của hệ thống Đại học Trung Quốc).

Ngay trong tuần này báo chí đăng tin các đặc vụ Liên bang đã lục soát một số địa điểm ở Nam California nơi mà chính quyền Mỹ khẳng định rằng chúng có liên quan tới loại hình kinh doanh du lịch đạt giá trị nhiều triệu USD nhằm đưa hàng ngàn sản phụ Trung Quốc sang sinh con tại Mỹ để rồi sau đó quay trở lại Trung Quốc với đứa con là công dân Hoa Kỳ.

Người giàu Trung Quốc còn mua bất động sản ở nước ngoài ở quy mô và mức giá kỷ lục, họ chuyển tài sản ra nước ngoài, thường là những nơi được coi là dễ trốn thuế và mượn các công ty làm bình phong.

Trong khi đó, Bắc kinh đang nỗ lực đưa về nước số lượng lớn những kẻ chạy trốn mang tiền ra sống ở nước ngoài. Một khi mà giới tinh hoa của đất nước – trong đó có nhiều đảng viên CS rời bỏ tổ quốc với số lượng lớn thì chính nó đã cho thấy dấu hiệu xác đáng về sự mất lòng tin vào chế độ và tương lai của đất nước.

Thứ hai, khi lên cầm quyền năm 2012 Tập Cận Bình đã mạnh mẽ tăng cường làn sóng trấn áp chính trị vốn đã được khởi động từ năm 2009 trên khắp Trung Quốc. Mục tiêu hay đối tượng được ngắm tới là báo chí, truyền thông xã hội, phim ảnh, văn hóa - nghệ thuật, các nhóm tôn giáo, Internet, các nhà trí thức, người Tây Tạng và Uighur, những nhân vật bất đồng chính kiến, luật sư, các tổ chức phi chính phủ, sinh viên Đại học và lĩnh vực sách giáo khoa. Ban chấp hành Trung ương ĐCS đã ra một chỉ thị hà khắc được biết tới dưới cái tên Văn kiện số 9 phổ biến trong toàn hệ thống ĐCS từ trên xuống dưới năm 2013, yêu cầu mọi đơn vị phải truy tìm cho ra những biểu hiện tán đồng “ các giá trị phổ quát của phương Tây “ dù còn manh nha, đó là nền dân chủ pháp trị, xã hội dân sự, tự do báo chí và trào lưu kinh tế Tân-tự do (Neoliberal Economics).

Một nhà nước yên ổn và tự tin sẽ không phải tiến hành trấn áp, cấm đoán như vậy. Đó chính là triệu chứng của sự bất an và lo sợ của lãnh đạo ĐCS. 

Thứ ba, cho dù nhiều người trung thành với chế độ vẫn hành động xu thời nhưng khó bỏ qua những biểu hiện giả tạo mang tính diễn kịch đang lan khắp bộ máy chính trị trong mấy năm gần đây.

Mùa hè vừa qua, tôi là một trong số ít khách ngoại quốc (và cũng là người Mỹ duy nhất) tham dự cuộc hội thảo về “ Giấc mơ Trung Hoa” theo luận thuyết của Tập Cận Bình tại một cơ quan nghiên cứu của ĐCS Trung Quốc ở Bắc kinh. Chúng tôi ngồi suốt hai ngày, đầu óc bị tê liệt vì phải nghe liên tục hơn hai chục học giả của Đảng đọc tham luận, tuy nhiên bộ mặt của những người thuyết trình đều lạnh lùng vô cảm, ngôn ngữ cơ thể cho thấy một sự cứng nhắc và nỗi ngán ngẩm của họ rất dễ cảm nhận được từ bên ngoài. Họ làm ra vẻ phục tùng Đảng và những câu thần chú cuối cùng của lãnh đạo nhưng rõ ràng là công tác tuyên truyền đã mất hiệu lực cho nên Hoàng đế bây giờ chẳng còn y phục trên người.

Tháng 12, tôi trở lại Bắc kinh để dự cuộc hội thảo của trường Đảng trung ương, một định chế cao nhất của ĐCS trong việc đưa ra những chỉ đạo mang tính học thuyết. Và một lần nữa các quan chức cao cấp nhất của đất nước cùng các chuyên gia về chính sách đối ngoại lại đọc thuộc lòng kho khẩu hiệu, chính xác tới từng từ. Có lần trong bữa trưa, tôi ghé thăm gian hàng sách của trường, một địa chỉ dừng chân quan trọng để biết các cán bộ lãnh đạo Trung Quốc ngày nay được đào tạo điều gì. Những cuốn tuyển tập trên giá sách từ “các tác phẩm chọn lọc của Lê Nin” tới hồi ký của cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice và trên bàn ngay cửa ra vào, những cuốn sách nhỏ của Tập Cận Bình quảng bá cho chiến dịch của ông ta về “ Công tác quần chúng” - hay mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân được xếp cao chất ngất. Tôi hỏi, “ sách này bán thế nào ?” Cô bán hàng trả lời “ Ô, không bán được nhiều, chúng tôi lại mang chúng đi ấy mà”“. Độ cao của chồng sách đã cho thấy khó có thể tin được cuốn sách đó thu hút độc giả.

Thứ tư, nạn tham nhũng làm thối nát bộ máy ĐCS, chính quyền và quân đội cũng đã thâm nhập vào toàn bộ xã hội Trung Quốc ngày nay. Chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình kéo dài được lâu và cũng khốc liệt hơn những đợt trước đây nhưng không một chiến dịch nào có khả năng loại trừ vấn nạn này vì nó đã bắt rễ một cách ngoan cố vào hệ thống độc Đảng, vào mạng lưới người bảo trợ - khách hàng (mang tính Mafia – ND) và một nền kinh tế hoàn toàn thiếu vắng sự minh bạch cùng một bộ máy truyền thông do Nhà nước quản lý không mang tính thượng tôn Pháp luật.

Hơn thế nữa, chiến dịch chống tham nhũng, hối lộ của Tập Cận Bình được đưa ra nhằm thanh lọc có lựa chọn, chủ yếu nhắm vào các đồng sự và chiến hữu của cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân. Năm nay đã 88 tuổi họ Giang vẫn được đánh giá như Thái thượng Hoàng trong nền chính trị Trung Quốc. Truy quét mạng lưới đặt dưới sự bảo trợ của họ Giang trong khi ông ta còn sống là một sự mạo hiểm lớn đối với Tập Cận Bình, đặc biệt là khi ông có vẻ chưa tập hợp được phe phái gồm những chiến hữu trung thành tới mức đủ mạnh để củng cố quyền lực. Một vấn đề khác nữa là Tập Cận Bình là con trai của thế hệ đầu tiên các nhà cách mạng Trung Quốc, là một trong những “ Thái tử “ cho nên các mối liên hệ chính trị của ông ta chủ yếu được mở rộng đối với các “ Thái tử” khác. Thế hệ thứ 2 này đang bị xỉ vả công khai hiện nay ở Trung Quốc. 

Cuối cùng, nền kinh tế Trung Quốc dưới con mắt của phương Tây là một cỗ xe Gia Ga nát không thể dừng lại (thần thoại Ấn độ có chuyện chiếc xe chở vị Thánh tên Giaganat diễu trên phố và những người cuồng tín thường đổ xô vào xe để xe cán chết – ý bóng chỉ lực lượng khủng khiếp đi đến đâu gây chết chóc đến đó – ND). Nền kinh tế đó đang bị sa lầy trong một chuỗi những cái bẫy mang tính hệ thống mà không dễ thoát ra. Tháng 11/2013 Tập Cận Bình chủ tọa Hội nghị Trung ương 3 ĐCS Trung Quốc, Hội nghị đã công bố những chương trình cải cách kinh tế đồ sộ nhưng cho tới nay chúng vẫn còn nằm yên trên bệ phóng. Vâng, các khoản chi cho tiêu dùng có tăng, nạn thảm đỏ có giảm cùng với một số cải cách thuế được thực hiện nhưng nhìn chung các mục tiêu đầy tham vọng của Tập Cận Bình đã chết yểu. Chương trình cải cách đã thách thức các nhóm lợi ích hùng mạnh, cố thủ ở nơi thâm căn cố đế - đó là những doanh nghiệp nhà nước và đội ngũ quan chức Đảng ở địa phương và họ đã không úp mở ngăn cản việc thực thi cải cách.

Năm vết rạn nứt hiển hiện và ngày một gia tăng trong hệ thống quản lý Trung Quốc chỉ có thể khắc phục thông qua cải cách chính trị. Cho tới khi và chỉ khi Trung Quốc nới lỏng việc quản lý hà khắc hệ thống chính trị, quốc gia này mới có thể trở nên một xã hội sáng tạo và một nền “kinh tế tri thức” như mục tiêu cải cách mà Hội nghị trung ương 3 đã đặt ra. Chính hệ thống chính trị hiện nay mới là trở ngại chủ yếu đối với các cải cách chính trị và xã hội Trung Quốc. Nếu như Tập Cận Bình và các lãnh đạo ĐCS Trung Quốc không nới lỏng sự kìm kẹp thì họ chắc chắn sẽ phải đối mặt với số phận mà họ không mong muốn.

Trong mấy thập niên sau khi Liên Xô tan rã, giới lãnh đạo của Trung Quốc luôn bị ám ảnh bởi sự sụp đổ của người đồng chí cộng sản khổng lồ này. Hàng trăm bài phân tích của giới nghiên cứu Trung Quốc đã mổ xẻ các nguyên nhân dẫn tới sự tan rã đó.

“Giấc mơ Trung Hoa” của Tập Cận Bình trên thực tế đang cố gắng tránh cơn ác mộng Liên Xô. Vài tháng trước nhiệm kỳ lãnh đạo của mình, họ Tập đã có một bài phát biểu nội bộ về sự sụp đổ của Liên Xô, lên án sự phản bội của Gorbachov và cho rằng Moscow thiếu “ một người đàn ông đích thực” có khả năng chống lại người lãnh đạo cuối cùng mang tư tưởng cải tổ đó. Làn sóng đàn áp do Tập Cận Bình khởi xướng và chỉ đạo hiện nay cho thấy ông ta chống lại đường lối cải tổ và minh bạch kiểu Gorbachov. Thay vì cởi mở, Tập Cận Bình lại tăng cường kiểm soát tư tưởng, nền kinh tế và cả những đối thủ cạnh tranh trong nội bộ Đảng.Tuy vậy phản công và đàn áp chưa phải là lựa chọn duy nhất của họ Tập.

 Những người tiền nhiệm của ông ta như Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào lại rút ra những bài học rất khác từ sự sụp đổ của Liên Xô. Từ năm 2000 tới 2008 họ đã thể chế hóa một số chủ trương nhằm nới lỏng và cởi mở hệ thống cùng với việc thực hiện cải cách chính trị một cách thận trọng và có giới hạn. Họ đã củng cố các cấp ủy ở địa phương và đưa vào thử nghiệm việc bầu vị trí bí thư Đảng với nhiều ứng viên. Hai ông cũng đã thâu nạp nhiều doanh nhân và trí thức vào Đảng, mở rộng hiệp thương giữa Đảng và các nhóm ngoài Đảng đồng thời làm cho các biên bản họp Bộ chính trị thêm minh bạch. Họ đã cải thiện cơ chế phản hồi trong Đảng, thực thi nhiều hơn các tiêu chí tuyển chọn nhân tài để đánh giá và đề bạt, thiết lập hệ thống đào tạo ủy nhiệm cán bộ trung cấp cho toàn bộ 45 triệu người được quy hoạch nguồn. Các ông cũng đã làm cho có hiệu lực những quy chế về hưu trí, luân chuyển công chức và sĩ quan quân đội 2 năm một lần.

Trên thực tế họ Giang và họ Hồ đã suy nghĩ để quản lý sự thay đổi thay vì chống lại nó. Tuy nhiên Tập Cận Bình không chấp nhận một điểm nào cả. Kể từ năm 2009 (khi mà nhà lãnh đạo có đầu óc cởi mở trước đây là Hồ Cẩm Đào đã thay đổi đường lối và bắt đầu chính sách khẩn cấp), chính quyền Trung Quốc ngày càng trở nên bất an nên đã cho ngừng thực thi các cải cách chính trị (trừ việc cải cách đào tạo cán bộ). Những cải cách này đã được một thủ túc chính trị của Giang Trạch Dân đạo diễn, đó là Phó Chủ tịch Trung Quốc Tằng Khánh Hồng (Zeng Qinghong). Ông này đã nghỉ hưu từ 2008 nhưng hiện đang bị nghi vấn tham nhũng trong chiến dịch “ đả hổ diệt ruồi “ của họ Tập. Điều này cho thấy Tập Cận Bình thù địch với các biện pháp cải cách nhằm giảm nhẹ con bệnh của một hệ thống đang đổ nát.

Một vài chuyên gia cho rằng chiến thuật tàn nhẫn của họ Tập sẽ báo trước một xu hướng cải cách cởi mở hơn trong những năm sau này trong nhiệm kỳ của ông. Riêng tôi thì không đồng tình bởi lẽ nhà lãnh đạo này và chế độ của ông ta luôn quan niệm chính trị là một cuộc chơi có tổng bằng 0 (tức là hoặc thắng hoặc thua chứ không có tình thế cả hai cùng thắng Win- Win – ND). Do vậy nới lỏng sự quản lý theo họ, chắc chắn sẽ là một bước tiến tới sự sụp đổ của cả hệ thống trong đó có họ.

Họ còn có quan điểm theo thuyết âm mưu cho rằng Hoa Kỳ đang nỗ lực hành động nhằm lật đổ sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc. Do vậy không có chỉ dấu nào cho thấy những cải cách sẽ quay trở lại ở Trung Quốc.  
Chúng ta không thể đoán trước khi nào thì chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc sẽ sụp đổ nhưng cũng không khó để kết luận rằng chúng ta đang làm chứng cho giai đoạn cuối cùng của nó. ĐCS Trung Quốc đứng thứ 2 trên thế giới về thời gian cầm quyền (chỉ sau có Bắc Triều Tiên) và không có đảng chính trị nào có thể cầm quyền mãi.

Nhìn về phía trước, những nhà quan sát Trung Quốc cần phải tập trung sự chú ý vào các công cụ của chế độ phục vụ việc cai trị và những người được giao phó sử dụng các công cụ đó. Một số lớn công dân và đảng viên CS Trung Quốc đã lựa chọn bằng đôi chân để rời bỏ tổ quốc hoặc thể hiện hành động giả dối của mình bằng cách làm ra vẻ tuân thủ các chỉ thị của Đảng.

Chúng ta cần quan sát cái ngày mà những nhân viên tuyên truyền của chế độ và bộ máy an ninh nội bộ sẽ trở nên không nghiêm chỉnh hoặc lỏng lẻo trong việc thực thi các lệnh của Đảng - thảng hoặc khi mà họ bắt đầu trở nên đồng cảm với những kẻ bất đồng chính kiến như nhân viên an ninh Đông Đức trong cuốn phim “ Những cuộc đời của người khác”  khi anh này thông cảm với chính đối tượng bị theo dõi của mình.

Một khi sự thấu cảm của con người đã manh nha chiến thắng bộ máy cầm quyền cứng nhắc, giáo điều thì ván bài cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc mới thực sự bắt đầu.

Phạm Gia Minh dịch từ The Coming Chinese Crackup 
Wall Street Journal (WSJ 6-3-14)
Đã đăng trên Vietstudy: http://viet-studies.info/kinhte/ChinaCrackup_Shambaugh.htm 
Thăng long - Hà nội 8 tháng 3 /2015.

Để trở thành người chồng tốt hơn: Hãy nhìn vào tổng thể bức tranh

Khi chúng ta bị mất cân bằng và không thể nhìn toàn cảnh khu rừng bởi vì có quá nhiều cây trên đường đi (Eli Christman/Flickr/CC BY 2.0)
Đôi khi tập trung vào các chi tiết cụ thể là một điều tốt cho một mối quan hệ và thật tuyệt vời khi có được kỹ năng này, nhưng có khi quá tập trung vào chi tiết khiến chúng ta quên đi điểm chính yếu hoặc là làm tăng thêm gánh nặng cho chúng ta. Khi chúng ta bị mất cân bằng và không thể nhìn toàn cảnh khu rừng bởi vì có quá nhiều cây trên đường đi thì đã đến lúc bạn phải nhìn toàn bộ bức tranh từ góc nhìn rộng và xa hơn rồi đó.
Nhiều người đàn ông, trong đó có cả tôi, có thể có xu hướng rất mạnh mẽ là tập trung vào chi tiết và xem xét từng xíu một. Đây là một kỹ năng cực kỳ tốt cho các công việc như xây dựng, sửa chữa, kiểm nghiệm và mày mò khám phá. Kỹ năng này giúp chúng ta tận dụng đầy đủ khả năng tập trung vào mỗi nhân tố hay hệ thống đơn lẻ, và thông thường thì đó chính là điều tạo nên sự khác biệt giữa những người có thể “tìm ra và giải quyết vấn đề” với những người bị sự việc đó làm cho bối rối.
Giống như nhiều sự việc trong cuộc sống khi mà điểm mạnh ở một lĩnh vực nào đó lại là điểm yếu của lĩnh vực khác, khả năng phóng lớn bức tranh để nhìn vào chi tiết đôi khi khiến chúng ta mắc lỗi.

(glebchik/iStock)
Giống như nhiều sự việc trong cuộc sống khi mà điểm mạnh ở một lĩnh vực nào đó lại là điểm yếu của lĩnh vực khác (glebchik/iStock)

Chúng ta có thể để các chi tiết (hoặc sự chú ý đến chi tiết) lấn át bức tranh toàn cảnh, đặc biệt là trong các tình huống “không rõ ràng” hoặc khó xử, ví dụ như các vấn đề thường gặp trong các mối quan hệ và các khía cạnh sống động khác của cuộc sống.
Lấy ví dụ, chúng ta có thể cực kỳ thất vọng trước hành động nào đó của người bạn đời, hay bởi một thói quen nào khiến ta phải bực bội; nhưng nếu chúng ta phải đi đâu đó một vài ngày thì trước lúc được gặp lại chúng ta nhớ họ nhiều đến nỗi thói quen kia sẽ không còn là điều gì to tát nữa. Cho nên đó thực sự là do chúng ta quá để ý đến thói quen kia của đối tác mới gây ra căng thẳng, chứ không thực sự là do điều nhỏ nhặt kia.
Một cách giúp chúng ta cải thiện cách ứng xử với người vợ và học cách để trở thành người chồng tốt hơn là dành một chút thời gian để tập trung vào bức tranh lớn, toàn cảnh chứ không phải vào từng chi tiết.
Khi chúng ta không quá tập trung vào những điều tiểu tiết và nhìn từ góc nhìn rộng và xa hơn, cân nhắc các chi tiết và mối quan hệ vợ chồng một cách tổng thể thì chúng ta có thể nhận ra rằng chi tiết hay thói quen cụ thể kia thậm chí không còn là vấn đề rắc rối nữa. Có thể là khi nhìn rộng ra một chút chúng ta sẽ phát hiện ra một quy luật nào đó hoặc một nguyên nhân gốc rễ nào đó có ảnh hưởng lên tình huống đang gặp phải, mà nếu quá tập trung vào chi tiết thì chúng ta lại khó nhìn ra được, đôi khi chúng ta còn phát hiện ra một cách hiệu quả hơn để thay đổi tình hình, hơn là cứ cố gắng sửa chữa những chi tiết hay phải tìm cho ra kết quả.
(Như thường lệ, nếu điều này áp dụng cho người vợ hơn là người chồng thì bạn hãy cứ giả định tiêu đề của bài viết là: “ Làm thế nào để trở thành người vợ tốt hơn: Hãy nhìn vào tổng thể bức tranh”)
Bài được đăng lần đầu trên trang NaturalPapa.
*Hình ảnh “đôi mắt” từ nguồn Eli Christman/Flickr/CC BY 2.0
Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè

Bí ẩn về bê tông La Mã nằm trong đá núi lửa?

The inspiration for Roman concrete likely came from observing interactions between the volcanic ash at Pozzuoli and seawater in the region. (Ignacio García/CC BY-SA 2.0)
Nguồn cảm hứng làm nên bê tông La Mã có thể đến từ việc quan sát sự tương tác giữa tro núi lửa ở Pozzuoli và nước biển trong khu vực. (Ignacio García / CC BY-SA 2.0)
Các nhà khoa học đã phát hiện ra một loại đá cứng như bê tông trong lòng núi lửa ngưng hoạt động tại Ý, và cho rằng điều này có thể giải thích vì sao người La Mã có thể sáng tạo ra những hợp chất huyền thoại được sử dụng để xây dựng đền Pantheon và Đấu trường La Mã.
Tảng đá bê tông được tìm thấy ở núi lửa Campi Flegrei gần vịnh Naples.
“Điều này cho thấy có một quá trình tự nhiên hoạt động dưới bề mặt núi lửa Campi Flegrei khá tương đồng với quá trình sản xuất bê tông”, Tiziana Vanorio, một nhà địa vật lý thực nghiệm tại Đại học Stanford Khoa Trái đất, Năng lượng và Khoa học Môi trường cho biết.

Người La Mã là những nhà quan sát tự nhiên tỉ mỉ và là những nhà thực nghiệm kiệt xuất.

– Tiziana Vanorio
Campi Flegrei nằm ở trung tâm của một vùng trũng lớn, hoặc miệng núi lửa, với lỗ chỗ những hố núi lửa do những đợt phun trào trong quá khứ, và đợt phun trào gần đây nhất là cách đây gần 500 năm. Nằm gọn trong hõm chảo núi lửa này là thành phố cảng đầy màu sắc Pozzuoli, được người Hy Lạp xây dựng vào năm 600 trước Công nguyên.
Bắt đầu từ năm 1982, mặt đất bên dưới Pozzuoli bắt đầu nâng lên ở mức báo động. Trong vòng hai năm, mặt đất đã nâng lên đến hơn 6 feet (1,82 mét) – một điều chưa từng thấy ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.
“Đáy biển nâng lên làm cho vịnh Pozzuoli không còn đủ sâu cho những con tàu lớn”, Vanorio nói.
Kèm theo việc mặt đất trồi lên là những cơn động đất nhỏ càng làm cho mọi thứ tồi tệ hơn. Nhiều cơn rung lắc nhẹ không thể cảm nhận được, nhưng khi trận động đất 4 độ richter rung chuyển Pozzuoli, các quan chức buộc phải sơ tán trung tâm lịch sử của thành phố này. Chỉ qua một đêm, Pozzuoli đã trở thành một thị trấn ma.
Ở độ tuổi niên thiếu, Vanorio là một trong số 40.000 người dân buộc phải tháo chạy khỏi Pozzuoli, và định cư ở những thị trấn nằm rải rác giữa Naples và Rome. Sự kiện này đã để lại một ấn tượng mạnh trong tâm trí của Vanorio, và truyền cho cô cảm hứng theo đuổi ngành khoa học địa chất.

Các mẫu đá từ 2 dặm sâu

Vanorio – nay là trợ lý giáo sư tại Đại học Stanford – quyết định nghiên cứu xem làm thế nào mặt đất bên dưới Pozzuoli có thể chịu đựng được nhiều áp lực cong vênh trước khi nứt ra và bắt đầu những trận động đất nhỏ, áp dụng những kiến thức về sự phản ứng của đá trong lòng đất sâu đối với những thay đổi cơ học và hóa học.
“Mặt đất phồng lên ở những miệng núi lửa như Yellowstone hay Long Valley ở Hoa Kỳ, nhưng không bao giờ đến mức độ như ở Campi Flegrei. Ở những nơi khác, chỉ cần ít lực đẩy hơn nhiều là đã có thể kích hoạt những trận động đất”, Vanorio giải thích. “Ở Campi Flegrei, những trận động đất nhỏ bị trì hoãn hàng tháng mặc dù mặt đất bị biến dạng đi rất nhiều”
Để tìm hiểu lý do vì sao bề mặt miệng núi lửa có thể chịu được lực co kéo đáng kinh ngạc mà không bị nứt đột ngột, Vanorio và một cộng sự đang nghiên cứu sau tiến sĩ, Waruntorn Kanitpanyacharoen, đã tiến hành nghiên cứu những lõi đá lấy từ khu vực này.
Vào đầu những năm 1980, các nhà khoa học tiến hành một dự án khoan sâu đến 2 dặm vào lòng địa nhiệt đang hoạt động của núi lửa Campi Flegrei. Khi bộ đôi Vanorio và Kanitpanyacharoen phân tích các mẫu đất đá, họ phát hiện rằng lớp đá caprock  – lớp đá cứng nằm gần bề mặt miệng núi lửa –ở Campi Flegrei rất giàu chất pozzolana, hoặc rất nhiều tro núi lửa của khu vực.

Actinolite: Thành phần bí ẩn?

Các nhà khoa học cũng nhận thấy rằng lớp đá caprock chứa các khoáng chất tobermorite và ettringite – là những sợi khoáng được tìm thấy trong bê tông nhân tạo. Các khoáng chất này sẽ khiến đá caprock ở Campi Flegrei dẻo hơn, và sự hiện diện của nó giải thích lý do tại sao mặt đất bên dưới Pozzuoli có thể chịu được độ cong vênh đáng kể trước khi phá vỡ và nứt toác ra.
Nhưng làm thế nào tobermorite và ettringite lại xuất hiện trong lớp đá caprock?
Một lần nữa, các mũi khoan thăm dò đã cung cấp những đầu mối quan trọng. Các mẫu đá cho thấy nền móng sâu của miệng núi lửa – “bức tường” của vùng trũng hình phễu – gồm các loại đá có chứa cacbonat tương tự như đá vôi, và xen lẫn trong đá cacbonat là loại chất khoáng như những mũi kim gọi là actinolit.
“Actinolit là chìa khóa giải đáp tất cả các phản ứng hóa học khác cần phải diễn ra để tạo thành xi măng tự nhiên ở Campi Flegrei”, Kanitpanyacharoen thuộc Đại học Chulalongkorn ở Thái Lan nói.

Người La Mã là những nhà quan sát tỉ mỉ

Từ actinolit, các nhà khoa học suy luận rằng một loại phản ứng hóa học khử CO2 đã xảy ra bên dưới Campi Flegrei. Họ tin rằng sự kết hợp của nhiệt và dòng nước giàu chất khoáng luân chuyển đã khử carbon ở lớp đá móng, hình thành actinolit cũng như khí CO2.
Khi CO2 hòa lẫn với CaCO3 và khí hidro trong lớp đá móng, nó kích hoạt một chuỗi phản ứng hóa học và tạo ra một số hợp chất, một trong số đó là canxi hydroxit Ca(OH)2. Canxi hydroxit, còn được gọi là portlandite hoặc vôi tôi, là một trong hai thành phần quan trọng trong bê tông nhân tạo, kể cả bê tông La Mã.
Một cách tự nhiên, dòng dung dịch địa nhiệt lưu đã vận chuyển hợp chất này lên đến lớp đá nông hơn, nơi đây nó kết hợp với tro pozzolana trong lớp đá caprock để tạo thành một loại đá cứng như bê tông bất khả xâm phạm và có khả năng chịu lực rất lớn.
“Đây là phản ứng hóa học tương tự như cách mà Người La Mã cổ đại đã vô tình khai thác để tạo ra loại bê tông nổi tiếng của họ, nhưng ở Campi Flegrei, nó xảy ra hoàn toàn tự nhiên”, Vanorio nói.
Thực ra, Vanorio nghi ngờ rằng nguồn cảm hứng tạo nên bê tông La Mã đến từ việc quan sát sự tương tác giữa tro núi lửa ở Pozzuoli và nước biển trong khu vực. Triết gia người La Mã, Seneca, đã ghi chép lại rằng “bụi ở Puteoli [tên Latin của thành phố Pozzuoli] biến thành đá khi nó chạm vào nước.”
“Người La Mã là những nhà quan sát thiên nhiên tỉ mỉ và là những nhà thực nghiệm kiệt xuất”, Vanorio nói. “Seneca, và trước ông là Vitruvius, nhận ra rằng có điều gì đó thật đặc biệt về tro ở Pozzuoli, và người La Mã có thể đã sử ​​dụng pozzolana để tạo ra vật liệu bê tông của riêng họ, mặc dù với một nguồn đá vôi khác”.

Sự sụp đổ của Pozzuoli

Pozzuoli là cảng thương mại và quân sự chủ chốt của đế chế La Mã, và việc các tàu thuyền sử dụng pozzolana để dằn tải trọng tàu khi giao thương hạt giống từ miền Đông Địa Trung Hải là khá phổ biến. Chính nhờ điều này, tro núi lửa từ Campi Flegrei và bê tông La Mã đã được lan truyền khắp thế giới cổ đại.

Vanorio nghi ngờ rằng nguồn cảm hứng tạo nên bê tông La Mã đến từ việc quan sát sự tương tác giữa tro núi lửa ở Pozzuoli và nước biển trong khu vực.

Gần đây, các nhà khảo cổ phát hiện ra rằng các bến tàu ở Alexandria, Caesarea, và Cyprus đều được làm từ bê tông La Mã và pozzolana là một thành phần chính.
Thật thú vị khi cũng cùng một phản ứng hóa học đã tạo ra tính chất độc đáo cho lớp đá caprock ở núi lửa Campi Flegrei cũng có thể kích hoạt sự tan rã của nó. Nếu quá trình khử CO2 xảy ra quá nhiều khi một số lượng lớn nước mặn được bơm vào quy trình – một lượng dư khí CO2, khí methane và hơi nước sẽ sản sinh.
Khi những chất khí này lên đến bề mặt, chúng va chạm với lớp xi măng tự nhiên của đá caprock và đẩy lớp đá caprock lên. Đây là lý do Pozzuoli bị nâng lên vào những năm 1980. Khi lực đẩy tích tụ vượt quá sức chịu đựng của lớp đá caprock, nó sẽ bị cắt và nứt, làm nên những cơn động đất nhỏ.
Khi các chất khí và chất lỏng bốc hơi vào khí quyển, hiện tượng mặt đất trồi lên được giảm dần. Vanorio và Kanitpanyacharoen nghi ngờ rằng khi càng nhiều đá vôi tự nhiên hình thành dưới lòng đất và trồi lên đến bề mặt, lớp đá caprock bị hư hỏng sẽ được sửa chữa từ từ và vết nứt của nó “tự lành lặn” nhờ xi măng tự nhiên lấp vào.
Vanorio tin rằng điều kiện và quá trình hóa học tạo nên tính năng đặc biệt cho đá ở Campi Flegrei cũng có thể xảy ra ở các miệng núi lửa khác trên khắp thế giới. Khi các nhà khoa học thấu hiểu hơn về điều kiện và quá trình hình thành lớp đá caprock ở Campi Flegrei, họ có thể tái tạo lại nó trong phòng thí nghiệm, và thậm chí cải tiến nó để thiết kế loại bê tông bền hơn và có khả năng đàn hồi tốt hơn để chịu được chấn động và rung lắc lớn hoặc có thể tự sửa chữa khi bị hư hỏng.
“Con người đang ngày càng có nhu cầu sản xuất vật liệu và bê tông thân thiện với môi trường và có khả năng chịu lực tốt hơn”, Vanorio nói. “Ví dụ như việc chiết xuất khí đốt tự nhiên bằng công nghệ fracking (kỹ thuật dùng thủy áp bẻ gãy các lớp đá phiến thạch) có thể gây ra những thay đổi áp suất nhanh chóng khiến đường ống dẫn khí bằng bê tông không chịu được áp lực và dẫn đến rò rỉ khí ga và ô nhiễm nguồn nước”.
Nguồn: Stanford University. Tái bản từ Futurity.org với bản quyền của Creative Commons 4.0.
Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè