Sunday, May 20, 2018

Cảnh Sát Quốc Gia VNCH



"Bên cạnh những điều không hay, bên lề những hành động khiếm khuyết, miền Nam Việt Nam được thừa hưởng một Xã hội Nhân Văn (Humane Society) tuy có thua thiệt về chiến lược, chiến thuật trên diễn đàn chính trị, nhưng may mắn thay, tính  nhân bản (humanistic character) vẫn được duy trì cho đến năm 1975 . 
https://kontumquetoi.com/2016/10/11/hoi-uc-cua-nu-ca-sijulie-quang/
Viết để nhớ 30-4 , trận đánh tại cầu Bà Tồn - Hồ tỉnh Tâm - CCB E 207
Tài Trần : qua bài viết của CCB này , ông cho biết danh sách các LS rất nhiều thiếu sót , đặc biệt là các CCB gốc miền Nam .
=====

Sáng 30 tháng 4(2012), theo thói quen tôi lên mạng đọc báo. Điều quan tâm số 1 của tôi là sự căng thẳng Nam – Bắc Triều và xung đột Biển Đông giữa Trung Quốc – Philippines về biển đảo. Theo tài liệu mà tôi biết, quần đảo Trường Sa rộng 250.000Km2 , với khoảng 130 hòn đảo nhỏ, đảo san hô, các rặng san hô và các mỏm đá ngầm, nơi đang có sự tranh chấp quyết liệt giữa Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines, Brunei. Về quan hệ Việt - Trung thì thái độ của hai bên về chủ quyền biển đảo đã quá rõ qua các công bố ngoại giao mỗi nước, bởi chủ quyền pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa và Trường Sa là quá rõ; Trung Quốc dẫu thế nào cũng không thể bao biện được trước công ước quốc tế về biển đảo, bản đồ hình lưỡi bò của họ chỉ là sự ngang ngược của tư tư tưởng bá quyền Đại Hán.

Nhớ sáng 29 tháng 4 bà xã tôi hỏi, 30 tháng tư anh muốn ăn món gì thì nói. Như vậy là bà xã còn nhớ tới tôi với tư cách là cựu chiến binh, nên tôi trả lời, “ăn uống bình thường thôi, có gì vui đâu mà ăn mừng, biết bao nhiêu người chết trong cuộc chiến thì vui cái nỗi gì”. Thế nhưng bà xã vẫn ra chợ tìm mua cho được một con gà mái dầu còn tơ về nấu cháo. Tôi lôi chai rượu ngâm cao ngựa trắng ra, nhưng sau một lúc đắn đo, tôi quyết định đóng nắp chai lại. Nhà chỉ mình tôi là đàn ông thì uống với ai bây giờ. Trà tam rượu tứ, nhà tôi một bà vợ, một bà con, duy mình tôi thủ phận đàn ông, làm sao mở chiến trường. Mời bạn thì nhà nhỏ như bụm tay, lấy đâu ra chỗ mà mời.

Trưa 30 tháng 4, đúng 11g30, giờ mà cách đây 37 năm, tại xã Tân Hiệp huyện Châu Thành- Tiền Giang- tôi nghe tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên Đài phát thanh Sài Gòn, tôi mở danh sách liệt sĩ của trung đoàn ra xem(E207), với hy vọng mình sẽ nhớ ra một vài đồng đội cũ. Danh sách này do Phạm Văn Thông gởi cho tôi, có tất cả 451 liệt sĩ, tính từ năm 1969, thế nhưng trong danh sách, số liệt sĩ trước 1972 chỉ có 6 người (do thất lạc hết), như vậy là từ 1972 trung đoàn tôi có 445 người hy sinh, toàn là người Miền Bắc. Tôi rà đi rà lại mấy lần, chẳng thấy ai là người Miền Nam. Điều này khiến tôi nghi ngờ.

Thứ nhất, anh Hai Mai tiểu đoàn trưởng(D1- E207), hy sinh năm 1974 trong lần điều nghiên chốt Gãy Kinh Nhất là người Đồng Tháp, không có tên trong danh sách.

Thứ hai, anh Biên Chính trị viên phó tiểu đoàn, hy sinh năm 1974 trong tận đánh đồn Cái Xơ ở Tân Thành Hồng Ngự Đồng Tháp cũng không thấy tên.

Thứ ba, trận đồn Cái Xơ, nguyên tổ chống tăng của tiểu đoàn tôi(D1) hy sinh hết, chưa kể anh em ở các đại đội, mà danh sách chỉ có 22 liệt sĩ, lại chỉ ghi là E207, và hy sinh vì tao ngộ, có vẻ như là bị bỏ sót khá nhiều.

Thứ tư, trận chống càn tại bờ bao xã Mỹ Hòa, theo danh sách tiểu đoàn tôi hy sinh 13 người thì có vẻ quá xa với thực tế, bởi lúc đó tôi là trợ lý quân lực tiểu đoàn, hầu như đêm nào tôi cũng cùng trinh sát vượt vòng vây đem thương binh và tử sĩ về cứ trung đoàn tại Kinh Chuối, rồi ngay trong đêm lại chở đạn dược về cho tiểu đoàn, tôi nhớ như in là trước khi vào trận, tiểu đoàn tôi còn 203 người, và lúc được lệnh phá vây rút về Kinh Chuối, tiểu đoàn tôi chỉ còn 103 người, như vậy nếu trừ thương binh thì số hy sinh cũng phải vài chục người mới đúng, bởi ròng rả gần một tháng, tiểu đoàn tôi ngày nào cũng bị mưa pháo 105 và 155 ly vài trận, chưa kể bị máy bay ném bom, trực thăng sút rốc két, bị bộ binh trung đoàn 10 có xe tăng yểm trợ tấn công, bộ đội hy sinh nhiều lắm. Bản thân tôi cũng dính miễng pháo lăm nhăm phần mềm. Có lần bị đứt mạch máu chủ dưới gan bàn chân, máu ra nhiều tới hoa cả mắt. Tôi nhớ trong trận Mỹ Hòa này, chỉ thương binh quá nặng mới được đưa về tuyến sau, bởi việc thoát vòng vây ra ngoài là cực kì nguy hiểm.

Như vậy, số danh sách liệt sĩ hy sinh của E207 trong một thời gian dài, mà chỉ có 551 người thì không thể là số chính xác được, mà rất có thể chỉ là số nhỏ liệt sĩ mà ta còn giữ được danh sách, bởi vì như vụ Hoành B hỏa lực của tiểu đoàn tôi hy sinh lúc làm nhiệm vụ bám lộ khi có sự biến ném lựu đạn vào nhà dân tại Vàm Cống- Lấp Vò- Đồng Tháp- sau 30.4.1975 , tôi cũng không thấy trong danh sách. Và sáng 30 tháng tư năm 1975, một chiến sĩ thuộc trung đội do tôi chỉ huy , được phân công ở lại giữ đồ trong trận đánh cường tập ban đêm tại ấp 4 xã Phú Nhuận Đông- Cai Lậy- Tiền Giang, bị dính mảnh pháo vào sọ não hy sinh, cũng không thấy trong danh sách, nhưng trung đội trưởng Nguyễn Văn Thơ(cùng C3 với tôi) hy sinh trong trận này lại có tên trong danh sách. Và năm 1977, anh Trường (C trưởng- người cùng học khóa huấn luyện hạ sĩ quan với tôi ở Mai Sưu) hy sinh ở biên giới Tây Nam- đâu đó bên bờ sông Trăng- Hồng Ngự- Đồng Tháp- tôi cũng không thấy tên trong danh sách.

Vẫn biết chiến tranh ác liệt, việc quản lý hồ sơ sổ sách rất khó, nên danh sách liệt sĩ mà Phạm Văn Thông gởi cho tôi, tôi cũng chỉ biết có được như vậy là may lắm; chỉ thương cho anh em mình đã nằm xuống mà thôi.

Thú thật là càng đọc danh sách liệt sĩ tôi càng buồn, vì trong mấy trăm liệt sĩ, tôi chỉ còn nhớ mặt được vài người, như Nguyễn Xuân Kiệm, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Mỹ; vì họ là những người rất gần với tôi trong những năm tháng chiến trận, cùng đồng cam cộng khổ với nhau. Sự ra đi vào cõi vĩnh hằng của họ, tôi đều đã viết, nhưng khi đọc danh sách liệt sĩ, thấy tên tuổi của họ đập vào mắt, tự nhiên tôi muốn nhắc lại vài chi tiết, để ai đọc mà biết về họ, có thể hiểu thêm được phần nào.

Nguyễn Văn Mỹ hy sinh ở bờ bao Mỹ Hòa, thuộc xã Mỹ An tỉnh Kiến Phong cũ, trong trận chống càn ròng rả một tháng trời, vào khoảng thời gian tháng 9 năm 1974. Lúc đó Mỹ là A trưởng thông tin vô tuyến điện của tiểu đoàn (trước đây tôi nguyên là A trưởng- B thông tin của D1- E207), hầm chữ A của Mỹ rất gần hầm chữ A của tôi, và miệng hầm hình chữ Z nơi Mỹ ngồi trực máy PRC25 mở về hướng miệng hầm của tôi. Buổi sáng cánh sườn hướng ra ngoài rừng tràm ngập nước, phía cánh đồng đưng rộng ngút ngát nối tới cứ trung đoàn ở kinh Chuối, nơi K bộ chúng tôi cố thủ(vốn là cánh yếu nhất, vì chỉ có các trợ lý tài vụ, trợ lý quân khí, trợ lý dân vận, trợ lý quân nhu, trợ lý quân y, trợ lý chính trị, trợ lý tác chiến, và vũ khí thì chỉ có tiểu liên AK với lựu đạn), bất ngờ bị một đơn vị lính biệt kích trung đoàn 10 đột kích. Tôi nhớ là mới mờ sáng, tôi cầm nắp bình toong inox ra bờ bao phía hướng về cánh rừng tràm ngập nước múc nước đánh răng, khi nhìn lên, tôi thấy có ba tên lính cầm tiểu liên cực nhanh xuất hiện trong rừng. Chúng bị nước ngập tới ngực, nên tên nào cũng phải cầm súng cao trên đầu, nòng súng hướng lên trời. Cả ba có vẻ đang lần tới hướng có hầm cố thủ của tiểu đoàn trưởng, nên chúng không phát hiện ra tôi. Nhờ vậy tôi vòng theo mấy bụi hoa mua, nhoài được về hầm của mình, lấy súng và bắn xối xả hàng loạt. Các hầm khác của các trợ lý cũng lập tức nổ súng về hướng súng của tôi. Toán lính đang tìm cách đột kích của sư 7 hoàn toàn rơi vào thế bị động bất lợi, vì chúng phải lội trong nước ngập, nên phải lùi lại chống trả. Chúng tôi tuy ít người, nhưng lại toàn là lính thiện chiến, nên hầu như anh em chỉ bắn nhịp hai, nên đối phương dễ nhận ra là đã đụng với những người đã từng trải chiến trận(vì lính mới thường bắn nhịp dài nhiều viên đạn, và nhịp bắn không đều do thiếu kinh nghiệm, có khi còn bắn tắc cú từng viên một). Hình như Mỹ biết lực lượng K bộ của tiểu đoàn quá mỏng, nên đã gọi C2 chi viện. Bởi vậy khi nghe trung liên RBD khạc đạn xối xả, cùng với tiếng nổ chát chúa của B40, toán lính đột kích đã phải rút lui, gọi pháo 105 và hỏa lực của M113, M48 bắn vào chúng tôi như dội bão. Đến khoảng 9h00 sáng thì trận địa hoàn toàn yên tỉnh. Mỹ ngồi cầm tổ hợp ở miệng hầm, nhìn tôi cười rất tươi, với nụ cười sáng lóa đầy rạng rỡ mà tôi sẽ không bao giờ quên được. Bất chợt tụi phản lực F4 ào ào kéo tới, chúi xuống bờ bao nơi K bộ của tiểu đoàn chốt giữ dội bom. Ngay loạt bom đầu, tôi thấy Mỹ đang ngồi chồm hổm bổng lật ngược, hai ống chân bị mảnh bom tiện đứt đưa lên trời, máu xối ra phùn phụt. Dứt loạt bom, tôi nhào sang với Mỹ thì anh đã tắt thở, có lẽ vì choáng mạch máu quá nhanh. Bàn tay trái của Mỹ lúc đó vẫn cầm chắc tổ hợp, máy PRC25 vẫn đang trong chế độ liên lạc với các đại đội. (Xin nói rõ là lúc này Nguyễn Văn Thơ, quê Yên Giã- Quế Võ- Hà Bắc, vẫn còn là trợ lý tài vụ của tiểu đoàn, hầm cố thủ cách tôi hai hầm, và sát với hầm của tiểu đoàn trưởng Hai Mai). Còn Mỹ, tức Nguyễn Văn Mỹ, sinh 1955 ở Đại Hóa, Tân Yên- Hà Bắc. Anh ra đi khi chỉ mới 19 tuổi.

Nguyễn Văn Thơ, sinh Năm 1950, quê Yên Giã- Quế Võ- Hà Bắc, hy sinh trong trận đánh ấp Trung (ấp 4), xã Phú Nhuận Đông- Cai Lậy- Tiền Giang, ngày 19 tháng 4 năm 1975, lúc đang giữ chức B trưởng B2 thuộc C3- D1 do anh Tùng làm chính trị viên đại đội. Lúc tôi còn làm trợ lý tác chiến kiêm trợ lý quân lực thì Thơ là trợ lý tài vụ của tiểu đoàn. Thời kỳ cắm trụ ở bờ bao Mỹ Hòa, có lần tôi đã cùng về bờ bao kinh Chuối nạp báo cáo cho E bộ chung với Thơ- và đây là lần đầu tiên tôi được biết thế nào là bia con cọp(tiger), do Thơ chiêu đãi. Khi vào chiến dịch Hồ Chí Minh, cả tôi và Thơ đều được điều về C3 làm trung đội trưởng- Thơ là B trưởng B2, tôi là B trưởng B1. Trong trận đánh ấp Trung, theo phương án tác chiến ban đầu, trung đội của tôi đánh vòng ngoài, trung đội của Thơ đánh thọc sâu; nhưng khi tiền nhập sát cánh quân trung đoàn 10 bộ binh sư 7 đóng giã ngoại ở ấp Trung, vào khoảng gần 11h00 đêm, dưới trời mưa lâm râm, anh Tùng đổi phương án, chuyển trung đội của tôi sang đánh thọc sâu, trung đội của Thơ đánh vòng ngoài, vì Thơ cận nặng tới 7 đi ốp, sợ không thấy đường dẫn trung đội đánh thọc sâu. Không may là đội hình C2 do du kích dẫn đường bị lạc, đã tiền nhập ngay sau lưng C3 của chúng tôi. Theo phương án tác chiến chung, khi các cánh quân đã tiếp cận đối phương ở ấp Trung, nếu phát hiện mục tiêu thì tấn công ngay, không chờ pháo lệnh, các cánh quân còn lại, nghe tiếng sung thì tấn công thẳng vào mục tiêu đối phương đang giã ngoại tại ấp Trung. Bởi vậy trong đêm mùa mưa tối hù tối hịt, khi C2 phát hiện sự di chuyển của trung đội Thơ đang triển khai bao vây vòng ngoài, họ lập tức nổ súng, vì lầm tưởng là đối phương vận động. Lúc tiếng súng vang lên, pháo lệnh của trung đoàn cũng điểm hỏa sáng rực trên trời. Tất cả các cánh quân hiệp đồng chiến đấu của sư đoàn đều đồng loạt nổ súng, nhắm thẳng trung tâm ấp Trung tấn công. Mũi đánh thọc sâu của trung đội tôi, nong theo con mương cạn tiến thẳng vào đội hình đóng giã ngoại của lính trung đoàn 10. Trên đầu các loại đạn nhọn réo rít veo véo như xé gió. Nghe cả tiếng B40 nổ chát chúa. Tôi biết ngay là quân ta đang nện vào lưng C3 chúng tôi, và trung đội Thơ đánh vòng ngoài sẽ lãnh đủ, nên tôi nói với Phương(Hà Tây) đi máy PRC25 cùng trung đội tôi, kêu C2 dừng nổ súng, nong theo con mương cùng trung đội tôi đang đánh thọc sâu mà tiến. Thế nhưng Phương loay hoay mãi vẫn không bắt được liên lạc. Vốn là A trưởng thông tin vô tuyến điện của Phương, biết chàng tân binh đang rối trí, tôi nói phương đọc mật mã số nhà để tôi bẻ cò lên máy, vì đêm tối mò mò, lại tiếng súng đạn gầm thét, chớp nhoáng loa lóa, Phương là lính mới nên rất thiếu kinh nghiệm. Bắt được sóng máy đi theo C2 tôi hét lên, “C2 đang vỗ lưng C3, chuyển sang thọc sâu đi!”. Tất cả chỉ hơn 10 phút, nhưng chừng đó cũng đã quá đủ. Đến khoảng 5h00 sáng, trung đội tôi giáp mặt một tốp bộ đội của trung đoàn 24, tại một ngôi nhà dân, trong nhà vứt lỏng chỏng mấy cái ba lô của lính. Một anh bộ đội E24 nói với tôi, dưới gầm giường có hầm, có thể lính E10 sư 7 trốn dưới đó, để anh ném lựu đạn xuống tiêu diệt. Nghi dưới hầm có dân, nên tôi nói bừa rằng, tôi là mũi trưởng mũi thọc sâu của D1, để tôi quyết định. Quả nhiên khi tôi gọi, thì dưới hầm lủ khủ ngoi lên hơn sáu, bảy người gì đó, có hai vợ chồng và mấy đứa con nhỏ, họ cho tôi biết lính trung đoàn 10 chạy hết rồi. Cùng lúc đó Phương cũng cho tôi biết, đã có lệnh rút khỏi ấp Trung để tránh phi pháo và bom ném hủy diệt.

Trên đường rút ra ngoài, ngang qua một cây dừa cụt ngọn, tôi nhìn thấy Thơ nằm úp sấp dưới gốc dừa, hai tay vả xuống mặt đất, khẩu AK nằm ngay bên cạnh. Cúi xuống, tôi thấy bụng Thơ rách toang, toàn bộ ruột gan tim phổi mất sạch. Xốc Thơ lên lưng, tôi cõng anh chạy ra ngoài. Chàng trai Hà Bắc béo tròn vốn nặng hơn 60 kg, bây giờ nhẹ hẩng, máu nhểu xuống người tôi từng giọt. Khi giao Thơ cho dân công, anh vẫn còn đeo cái kính cận dày cộp trên mắt. Lúc ấy Thơ đã 25 tuổi.

Nguyễn Xuân Kiệm, sinh 1953 tại Cao Xá- Tân Yên- Hà Bắc, hy sinh ngày 10 tháng 4 năm 1975, tại ấp 7 xã Mỹ Thành Nam- Cai Lậy- Tiền Giang, trong trận đánh cầu Bà Tồn. Kiệm trúng đạn 12ly7 của xe nồi đồng, và ra đi ngay trước mắt tôi, nên tôi rất nhớ. Trong trận đánh cầu để ngăn không cho sư 21 lên tăng viện cho Sài Gòn, trung đội của tôi được lệnh bám sát quốc lộ 4, yểm trợ cho đặc công phá cầu. Trong trận này, tiểu đoàn chúng tôi bị pháo các loại của đối phương dập rất dữ vào đội hình. Riêng trung đội tôi được lệnh bám mặt lộ, nên hầu như tất cả chúng tôi đều phơi lưng dưới mưa pháo. Nhưng khổ nhất là khi đụng hai chiếc xe nồi đồng tới chi viện, thi nhau xối trọng liên ằng ặc như điên như cuồng. Lúc này Kiệm đang giữ một khẩu DKZ57 chúng tôi thu được của đối phương, nên tôi lệnh cho Kiệm tiếp cận sát mặt lộ để diệt xe. Kiệm ôm súng bám sát mặt lộ dưới sự bắn yểm trợ của cả trung đội, nhưng có lẽ do vị trí nằm thấp, nên viên đạn đầu tiên bắn ra đã bay vọt trên đầu xe, thấy rõ lửa đạn vút sáng rực cao hơn xe cả gang tay. Khi chiếc xe thứ hai lao tới, rút kinh nghiệm lần trước, Kiệm ngồi hẳn dậy trong tư thế quỳ bắn. Lúc này đèn dù và pháo sáng của đối phương sáng rực cả một vùng hai bên quốc lộ, bởi vậy chiếc xe thứ nhất khi quay lại đã nhìn thấy Kiệm ngồi cao ngời ngợi, bắn xối vào anh cả tràng trọng liên 12ly7. Đạn của lính chốt đầu cầu cũng bắn xối về phía Kiệm như vãi trấu. Tôi thấy rất rõ Kiệm bị hất lên cao, ngã vật sang một bên. Khi chúng tôi đem được Kiệm ra khỏi mép quốc lộ, cũng là lúc chúng tôi nhận được lệnh rút lui, vì có lệnh cấp trên dừng lại không phá cầu, để xe tăng của ta có thể tiến về giải phóng Miền Tây. Tại điểm tập kết, chúng tôi mượn chiếu của một gia đình nông dân, đặt kiệm nằm giữa sân, lúc này hình như đã hơn 2h00 sáng gì đó, tôi nhìn rõ một viên 12ly7 bắn xuyên qua ngực phải của Kiệm, nổ trổ ra sau lưng vết toác to như miệng chén. Tôi và anh Thái chính trị viên tiểu đoàn ngồi quỳ xuống bên Kiệm, Kiệm từ từ mở mắt nhìn lên, và nói thều thào rất nhỏ, “liệu em có được kết nạp vào Đảng không anh Thái”. Anh Thái vừa khóc vừa nói, “đồng chí là đảng viên của Đảng”. Kiệm nghe xong, cả hai mắt đều ứa lệ, đầu ngật sang một bên, rồi ra đi vĩnh viễn. Lúc đó, Kiệm đã vào tuổi 22, tuổi rất đẹp của đời người.

danh sách liệt sĩ E207 trong trận đánh cầu Bà Tồn lộ 4
1- Nguyễn Văn Quyết E 207 - sinh 1952 – xã Ngọc Vân - Tân Yên Hà Bắc, hy sinh 10/04/1975 tại ấp 7, Mỹ Thành Nam Cai Lậy Bắc Mỹ Tho

2- Nguyễn Xuân Kiệm D1,- E 207- sinh 1953 - xã Cao Xá -Tân Yên - Hà Bắc hy sinh 10/04/1975 tại ấp 7, Mỹ Thành Nam Cai Lậy Bắc Mỹ Tho

3- Đỗ Lê Văn D1,- E 207- sinh 1955 - Thường Tín - Hà Tây- sau trận chiến tại lộ 4 bà Tồn không về, mất tích

4- Ngô Văn Long D1,- E 207- sinh 1955 - xã Tô Hiệu - Thường Tín - Hà Tây sau trận chiến tại lộ 4 bà Tồn không về, mất tích

Nói thêm về trận đánh cầu Bà Tồn .
Nhiệm vụ đại đội trưởng phân công cho trung đội 1 của tôi là bám sát mặt quốc lộ 4, tìm cách đánh chặn xung lực tăng viện từ Cai Lậy hoặc từ Đồng Tâm xuống, bảo vệ cho đặc công bám phía dưới hai trụ cầu giữa sông đặt bộc phá.
Theo phương án tác chiến ban đầu, đối phương chỉ có một đơn vị bảo an đóng ở hai đầu cầu, nhưng khi chúng tôi tiếp cận mục tiêu, lại chạm trán với trung đoàn 10 sư 7 vừa thua trận ở đâu đó, kéo về hai đầu cầu đóng giã ngoại trong nhà dân. Bởi vậy, để bám được mặt quốc lộ, chúng tôi đã phải nổ súng đánh địch ngay từ khi tiếp cận với khu vực có nhà dân ở cả hai đầu cầu. Do vậy khi chúng tôi ra được quốc lộ, thì dân ở cả hai bên đầu cầu đều đã chạỵ hết. Lính trung đoàn 10 cũng rút hết sang bên kia lộ, bắn trả lại chúng tôi rất quyết liệt. Hai chiếc xe nồi đồng mà trung đội tôi được lệnh bắn diệt, rất có thể là xe tại chỗ của trung đoàn 10. Vì mặt lộ cao hơn mặt đất nhà dân rất nhiều, nên đạn nhọn của cả hai bên đều rất khó bắn được vào nhau. Chủ yếu chúng tôi phải chịu đựng hỏa lực của pháo 105 ly và 155 ly, cùng đạn trọng liên bắn ra từ hai chiếc xe nồi đồng, cùng hỏa lực từ lô cốt đầu cầu của lính bảo an.
Ở cấp độ trung đội, tôi không biết được cục diện toàn bộ của trận đánh, chỉ biết khi tôi cho người lên kéo được Kiệm đang bị thương nặng từ sát mép lộ xuống nơi chúng tôi chốt giữ trước nhà dân, thì có lệnh ngừng bắn, tìm cách đưa bộ đội rút nhanh về điểm tập kết. Cả tiểu đoàn phải rút ra ngoài trong mưa pháo bắn xối xả. Tuy nhiên số thương vong thì tôi không nắm được cụ thể. Tôi chỉ biết, xác của Kiệm sau đó được giao cho dân công, và dân công dùng xuồng chở đi đâu đó, còn chúng tôi lại lui về đóng quân sát chốt Gãy Kinh Nhất, trên bờ hữu ngạn kinh Cổ Cò.

Admin: Kính Thưa anh Hồ Tĩnh Tâm, thưa bạn đọc,

Danh sách Liệt sỹ chúng tôi hiện có là tài liệu báo cáo thương vong theo từng tháng của trung đoàn báo cáo về quân khu (viết tay), hiện còn lưu lại tại Phòng chính sách quân khu 9. các bạn cũng biết, trong chiến tranh, sau mỗi trận đánh, các đại đội làm danh sách gửi về tiều đoàn, rồi tiểu đoàn gửi về trung đoàn, trung đoàn tập hợp rồi gửi về cấp trên. đơn vị tôi hoạt động trên địa bàn rrộng lớn gồm các tỉnh Đồng tháp, Long an, Tiền giang, do vậy việc báo cáo quân số thương vong, không đầy đủ hoặc thất lạc, do vậy đến nay , tài liệu lưu tại Phòng Chính sách quân khu 9 chỉ có vậy thôi, chúng tôi cũng đang tiếp tục sưu tầm qua các đồng đội còn sống sót đến ngay nay.

Một điều nữa là các đồng chí quê ở phía nam trong trung đoàn rất ít, chủ yếu lá các đồng chí chỉ huy từ cấp tiểu đoàn trỡ lên được đào tạo từ ngoài Bắc đưa về, còn chiến sỹ thì rất ít. Mặt khác, các đồng chí quê ở phía Nam, thường thì chỉ có tên và chức vụ, quy định là không ghi quê gốc, đề phòng danh sách lọt vào tay địch, chúng sẽ trả thù gia đình và người thân đồng chí đó. vì thế trong danh sách, các bạn chỉ thấy tên tuổi, ngày hy sinh mà không có quê quán.

Trân trọng

Pham văn thông
https://www.facebook.com/trananhtu19/posts/2462640073749804



đọc2
truyện ngắn

QUẢ BÁO

Đỗ Trường3
Đỗ Trường
18953052_1965777600366485_3117192163994660223_n
Trình chơi Âm thanh

Nhát dao chém ngang cổ hắn. Một dòng máu phụt ra như cổ gà bị cắt tiết, phun đầy vào những tờ giấy viết loằng ngoằng quảng cáo, dịch vụ trong ký túc xá, loang lổ thật khủng khiếp. Bước chân chạy trốn của những sát thủ ình ịch, tiếng xe rồ đi man dại. Hắn lảo đảo cố bước tiếp lên bậc thang, hai tay cào, víu vào tường như muốn hét lên cầu cứu, nhưng không thành tiếng. Hắn đổ xuống như một khúc chuối, lăn tới chân cuối cùng cầu thang. Để lại những vết máu tím ngắt, đen ngòm như cuộc đời ngắn ngủi của hắn đã đi qua.
Hắn đã tắt thở thực sự. Người bảo vệ cư xá hối hả gọi điện cho cảnh sát, cứu thương. Hai tay ông run rẩy, nói không thành lời. Chỉ mươi, mười lăm phút sau, xe cảnh sát kéo còi, xe thùng, cùng đàn chó nghiệp vụ v.v…kéo đến, làm náo động cả cái thành phố này. Cảnh sát khám trong người tử thi thấy có rất nhiều hộ chiếu với những tên tuổi khác nhau. 
Vậy kẻ chết là ai? …
Người cảnh sát lật đi lật lại những cuốn hộ chiếu, đem so với gương mặt kẻ chết . Những câu hỏi đặt ra, tại sao hắn lại bị những người đồng hương của mình chém chết ngay ban ngày, và ở nơi tập thể đông người đến như vây?..
Hắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình có quyền thế. Bố hắn là một lãnh đạo đầu tỉnh . Ông đã từng khét tiếng là xạ thủ rồi đến sát thủ ngày ông còn là anh lính quèn. Ông đã được đảng, nhà nước ta phong danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ . Sau năm 1975, ông được giải ngũ về địa phương, rồi leo lên cái chức cao nhất nhì tỉnh này. Hắn đã được chiều chuộng từ thuở bé. Lớn lên lại ngang tàng hơn, ra đường ai cũng phải nể sợ hắn. Cũng nhờ cái uy thế của bố, mà hắn được vào thẳng trường trung học của thị xã, dù chưa tốt nghiệp cấp hai trường làng. Đang học dở dang, hắn bị nhà trường đuổi, vì can tội đánh thầy giáo trong giờ học. Sợ mất mặt, và đề phòng những việc tầy đình tiếp theo, ảnh hưởng đến điạ vị của mình, bố hắn vội gửi hắn vào đội quân xuất khẩu lao động.
Sang nước bạn, hắn nghĩ sẽ được tự do, càn quấy. Nhưng hắn đã lầm, sang đây không còn chỗ dựa, cũng chẳng được ai kính nể, nuông chiều như những ngày còn ở quê. Do vậy, hắn cảm thấy hẫng hụt, uất ức, nuôi lòng hận thù tất cả mọi người xung quanh. Từ đó, hắn đã nung nấu một ý nghĩ, phải tạo dựng cho mình là một đàn anh chị trong cái cộng đồng người Việt này. Và quả thật, mấy năm sau hắn đã làm đuợc. Một bang hội cướp giật, bảo kê do hắn cầm đầu, dọc các thành phố, làng xã vùng phía Bắc, không ai là không biết tiếng, và đều run sợ trước hắn. Khi hắn đến, mọi người đều phải nộp tiền theo yêu cầu. Các cửa hàng cửa hiệu của những người cùng mang giống nòi, đều phải nộp tiền cho hắn. Nếu có chút phản kháng, chắc chắn không sớm thì muộn cũng sẽ bị chém chết, hoặc chặt tay chân cảnh cáo. Nhẹ nhất cũng bị trận đòn bê sê lết ở trong rừng rậm nào đó. Và có lẽ sợ nhất là những người lao động sắp sửa về phép, nếu như hắn hoặc đàn em biết được. Ôi thôi, số tiền dành dụm bao năm bán sức lao động sẽ đi tong.
Hắn tung hoành như đấng sinh thành đang cỡi trên đầu những người dân khốn khổ ở quê. Trong cái cộng đồng bé nhỏ này, hắn đã đặt ra luật lệ riêng, buộc mọi người phải tuân thủ. Nhiều lúc hứng trí, hắn tự so sánh mình với bố ở quê không biết ai hơn ai? Sau những phi vụ trấn lột, sau những chiến công huy hoàng ấy của hắn, người ta cũng tìm thấy trong hành trang còn lại là những bức thư tin tưởng vào tài năng của người cha đối với hắn.
Đố ai có trong người đến hai, ba cuốn hộ chiếu, tên tuổi khác nhau, đều được sở ngoại kiều cấp giấy phép tạm trú hoặc thường trú, nhưng mà hắn có, và cũng chỉ có y mới làm được điều đó. Qủa thật, nói hắn là kẻ thần thông cũng chẳng sai. Hắn ở đâu chẳng ai rõ, hiện đang dùng cuốn hộ chiếu nào? Mang tên gì cũng chẳng ai hay. Và chẳng ai nhớ rõ, hắn đã trấn lột bao lần và chém giết bao người. Mọi người chỉ biết rằng, hắn là một đại ca lớn ở vùng phía đông bắc nước Đức này. Cứ thấy túi người khác có tiền là hắn đến rất đúng lúc, rồi ra đi bất tử. Nếu có câu hỏi, với tất cả những người Việt rằng, có sợ bọn đầu trọc, bọn khủng bố người nước ngoài không? Có lẽ họ trả lời rằng không sợ bằng băng nhóm của y.
Vậy đấy, hắn sống như một đấng anh hùng. Mọi người đi làm, hoặc đi chợ buôn bán, gom nhặt, ki cóp từng xu từng hào, còn hắn đi xe đẹp, để đi hái ra hàng ngàn, hàng chục ngàn từ túi những người cặm cụi, chắt bóp trong lao động.
Và thực sự cái gì đến sẽ đến, như các cụ thường nói: “Kẻ gieo gió ắt gặt bão, con giun xéo lắm phải quằn“. Đó là sự kết thúc, hắn đã phải trả bằng mạng sống của mình. Nhát dao của sự phẫn uất đã chém vào cổ hắn, phải chăng cũng là nhát dao mà y đã tự chém vào chính mình. Cái chết đó như một cơ lốc mạnh làm chông chênh chiếc ghế của cha hắn và cũng là hồi chuông báo tử ngày cận kề của kẻ đang sống trên đầu trên cổ của những người dân lương thiện.
Leipzig mùa hè 1994
Đỗ Trường

Nơi nằm lại của những người lính ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn

Sau 41 năm, rất nhiều người lính ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn sáng 30/4 vẫn đang nằm lại nơi đó, trên quốc lộ 22.
3 chiếc xe tăng T-54 cháy tại Ngã tư Bảy Hiền sáng 30/4. Ảnh: Corbis
3 chiếc xe tăng T-54 cháy tại Ngã tư Bảy Hiền sáng 30/4. Ảnh: Corbis
10h45 ngày 30/4/1975, xe tăng của quân giải phóng xô đổ cổng dinh Độc Lập. Trưa cùng ngày, trên sóng phát thanh, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Trong suốt những giờ khắc ấy, cách Dinh Độc Lập 5km, ở Lăng Cha Cả, có 3 chiếc xe tăng T-54 vẫn đang cháy.
Đó là những chiếc tăng của trung đoàn 24 trong trận đánh lớn cuối cùng trước cửa ngõ Sài Gòn. Tấm ảnh 3 chiếc tăng nằm cạnh nhau ở Ngã tư Bảy Hiền, được phóng viên của hãng Corbis chụp lại, đã trở thành một biểu tượng của sự khốc liệt đến tận giờ chót của cuộc chiến tranh.
Bộ tổng tham mưu chỉ còn vài ông tướng. Quân đội VNCH rối loạn và tan rã. Những người có thể xuất kích một chiếc máy bay quân sự khi ấy, tưởng như sẽ chọn giải pháp tối ưu: tìm cách đưa gia đình sang căn cứ quân sự U-Tapao bên Thái hoặc bay ra biển. Nhưng hận thù nhen nhóm đến tận phút cuối cùng.
Trong buổi sáng ngày 30/4, theo lệnh của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, quyền tư lệnh không quân, vẫn có một phi đội A-37 xuất kích từ sân bay Trà Nóc, Cần Thơ ném bom đoàn tăng đang tiến vào Sài Gòn. Tại đó, Liên đoàn 81 biệt kích dù vẫn chiến đấu bảo vệ Tân Sơn Nhất. Đạn chống tăng M-72 vẫn phóng ra từ sân thượng các toà nhà quanh khu vực Ngã tư Bảy Hiền.
Những chiếc T-54 ở Ngã tư Bảy Hiền cháy tới tận trưa. Nhiều thường dân đã chết trong những trận chiến phút cuối.
Trong số những người đã ngã xuống trên dọc quốc lộ 22 vào buổi sáng ngày 30/4 ấy – có các chiến sỹ tăng của hai trung đoàn chủ lực E24 (sư đoàn 10) và E275 (quân đoàn 3). Họ chết cháy trong những chiếc tăng.
41 năm qua, rất nhiều người vẫn nằm đó, trên quốc lộ 22, nơi họ đã ngã xuống. Nhiều người trong số họ, được cải táng và chăm nom bởi một gia đình  người lính bên kia chiến tuyến.
Nơi nằm lại của những người lính ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn - ảnh 1Bà Út Hiệp đã gắn bó với nghĩa trang Tân Xuân gần 30 năm.
27 năm trông mộ lính
Nghĩa trang liệt sỹ xã Tân Xuân, một buổi chiều tháng 4 năm 2016. Một người phụ nữ băng qua đường với bó nhang trên tay. Mở cổng, người phụ nữ gày guộc tiến vào nghĩa trang trong ánh sáng nhập nhoạng của hoàng hôn và khói nhang nghi ngút. Bà bắt đầu hô to ra bốn bề.
“Các chú các bác về hưởng chút nhang cho ấm cúng các chú các bác ơi” – tiếng người phụ nữ ngân dài giữa những hàng mộ. Bà cắm bó nhang lên lư, rồi rót ba chén nước.
Thi hài của những người lính E24 và E273 ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn được tập kết ở nhà máy dệt Vinatexco (Nhà máy dệt Thắng Lợi), ngay gần Ngã tư Bảy Hiền – bộ tổng tham mưu hậu phương thời kỳ sau giải phóng.
Số phận như cố tình sắp đặt, người cải táng họ là ông Nguyễn Văn Bắc – một cựu thành viên Liên đoàn 5 Biệt động quân VNCH – và người em dâu, bà Út Hiệp.
Ngày 30/4/1975, họ đón đoàn quân tiến vào Sài Gòn trong tâm lý hoảng sợ. Ông Bắc đã từ chối cầm súng trong những ngày cuối của cuộc chiến. Ông bỏ căn cứ, sau khi phát hiện ra rằng bộ đội đang tới. Bà Út Hiệp trốn dưới hầm, đóng chặt cửa nhà vì "sợ lắm".
Bà chẳng ngờ rằng sau này, mình lại trở thành người chăm lo cho những anh bộ đội ấy. Như một sự cứu chuộc cho những hận thù phút cuối mà bà không gây ra.
Bà Út Hiệp vẫn nhớ lần đầu tiên gặp gỡ “các anh, các chú” khi bà mới 18. Nhà bà có nghề bốc mộ gia truyền. Sau chiến tranh, mấy anh em cùng đi làm công việc này. Nhìn hài cốt đã quen, nhưng đến tận năm 1981, khi có quyết định cải táng các liệt sỹ ở khu vực nhà máy dệt, lần đầu tiên Út Hiệp nhìn thấy những bộ hài cốt. Chỉ cần đào đất lên là nhìn thấy. Những bộ hài cốt được cuốn trong những tấm vải, với một mảnh gỗ nhỏ ghi vắn tắt tên tuổi và quê quán của người chết.
Nghĩa trang liệt sỹ xã Tân Xuân, nằm ngay mặt đường quốc lộ 22, dù không chủ trương trở thành nơi chôn cất thi hài của những liệt sỹ mất ngày 30/4, nhưng bởi trận đánh khốc liệt cuối cùng ở Lăng Cha Cả, ngẫu nhiên thành điểm hẹn của các anh. Những hàng mộ liên tiếp ghi ngày 30/4. Cả những người mất đầu tháng 5 vì bị thương trước cửa ngõ. Phần lớn là lính tăng. Bà Út Hiệp nhớ chính xác vị trí từng ngôi mộ. Bà biết dưới mộ nào có bao nhiêu bộ hài cốt. Có mộ có cả chục bộ, dù chỉ ghi tên một người.
Nơi nằm lại của những người lính ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn - ảnh 2Bà Hiệp sống trong một túp lều lụp xụp dựng gần nghĩa trang.
Người phụ nữ gày gò không tài nào diễn đạt được tại sao mình lại gắn bó với cái nghĩa trang này như thế. Bà chỉ nhớ, lúc bà và ông Bắc đưa các anh về đây, nghĩa trang chỉ có những nấm mộ đất đầy cỏ, trâu bò ra vào. Bà chỉ tự thấy tội nghiệp, kiến nghị với chính quyền cho mình làm cỏ, xua trâu bò, rồi người ta giao bà làm luôn. Đã 27 năm.
Lương chỉ hơn một triệu, không có biên chế trong uỷ ban, người quản trang giờ sống trong một túp lều dựng bằng tôn gần nghĩa trang. Không biết gọi là “lều” hay là “nhà”, bởi tường mái bằng tôn nhưng sàn thì lát đá: là đá làm mộ đầu thừa đuôi thẹo bà Út nhặt nhạnh về. Hỏi tại sao bà không đi tìm công việc khác để trang trải cuộc sống, bà lắc đầu. Cũng thử đi rồi, nhưng nhớ mấy bác mấy chú lắm, tội nghiệp nữa, mình đi thì đâu có ai nhang khói cho đâu, rồi cỏ mọc nữa. Làm đâu cũng chỉ được mấy ngày, rồi lại thấy tội các chú, quay về thắp nhang. Nhang 20 ngàn một bó, phải chia ra thắp làm mấy ngày, chứ tiền lương xã trả không đủ tiền mua nhang.
“Cuộc sống khó khăn lắm, nhưng các chú phù hộ nên đủ 2 bữa mỗi ngày” – bà Hiệp nhớ. Bà bám trụ nghĩa trang với một niềm tin như thế. Bữa nào túng quá, bà lại khấn các chú, rồi ra nghĩa trang. Kiểu gì cũng có một đoàn đi viếng mộ, sẽ lại cho bà miếng bánh miếng nước.
Và đến bây giờ, khi cơ cực đã thành nước mắt, khi hỏi đến gia cảnh là khóc, vẫn chưa ngày nào bà Hiệp nghĩ mình bỏ nghĩa trang. “Các chú cũng như người thân của mình vậy. Nghĩ tội lắm”.
Theo VNE
GẦN 300 SINH VIÊN ĐH XÂY DỰNG HÀ NỘI CHẾT TẠI ẤP ĐÁ BIÊN NGÀY 3-4/10/1973 .
Tài Trần : lực lượng VNCH tấn công vào Ấp Đá Biên là tiểu đoàn 2 trung đoàn 10 sư đoàn 7 bộ binh . Hôm đó vì đi phép nên tôi ko dự trận này nhưng nghe lính kể lại : do bộ đội đóng quân trên rừng tràm (treo võng , phơi quần áo , nấu nướng , v.v...) nên đã bị 1 trực thăng trông thấy . Vì đây là vùng hoạt động của trung đoàn 10 nên TĐ tôi đã được trực thăng đổ quân xuống sau khi trực thăng võ trang bắn phá khu vực . Lính kể lại , khi nhảy xuống chỉ thu lượm súng vì ko còn ai chống cự . Lính nhà bếp , dù ko mang súng vẫn kiếm được súng . 
Ngày 11/3/75 , TĐ tôi đã lọt ổ phục kích của trung đoàn 207 CSBV này trên đường đi tiếp viện đồn Ngã Sáu . Kỳ đó TĐ bị thiệt hại nặng , chết nhiều sq , hsq và binh sĩ .
Sau đây là thư của 1 sv đh xây dựng Hà Nội .
"Một ngày đầu năm 2012, tôi tình cờ quen biết các cựu chiến binh trung đoàn 207, nhận lời cùng họ về miền Tây thăm lại chiến trường xưa. Nơi ấy vào hai ngày 3-4/10/1973 đã diễn ra trận đánh khủng khiếp, đúng hơn là cuộc phá vây trong tình thế quân ta hoàn toàn cô lập và bị động. Giữa đầm nước mênh mông, lưa thưa những gốc tràm, mỗi người lính E207 giống như bia thịt cho pháo, trực thăng và những cây súng bắn tỉa của đối phương thả sức tiêu diệt. Đêm trước lúc lên đường, tôi ngồi đọc tài liệu của anh Phan Xuân Thi kể lại mà lòng như xát muối. Họ - những người lính tử trận năm ấy - đa phần là sinh viên trẻ măng của trường Đại học Xây dựng, một số khác đến từ các trường Đại học Bách khoa, Thủy lợi, Sư phạm…  Tận thẳm sâu trong ký ức, hình ảnh những ngày hè nóng bỏng năm 1972 ở Hà Nội lại hiện về. Hồi đó, theo lệnh tổng động viên toàn miền Bắc nên hàng vạn sinh viên các trường đại học, các kỹ sư trẻ ở cơ quan nghiên cứu và các Bộ, Ngành đều nhập ngũ, ào ạt ra chiến trường, náo động cả thủ đô Hà Nội. Họ chỉ được huấn luyện qua loa, kinh nghiệm chiến trường không có nên cái chết đến nhanh, nhiều khôn kể xiết. Em trai thứ sáu của tôi nằm trong số đó, hy sinh ngày 5/8 âm lịch năm 1972 ở xã Quế Bình, huyện Hiệp Đức, Quảng Nam. Cũng năm ấy, hàng ngàn sinh viên, kỹ sư trẻ chết ở thành cổ Quảng Trị, rồi còn biết bao liệt sĩ sinh viên nằm xuống rải rác khắp các chiến trường khốc liệt. Nhưng có lẽ cái chết ngây thơ của gần 300 lính trẻ sinh viên thuộc E207 ở ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước, huyện Mộc Hóa tỉnh Kiến Tường cũ (nay là huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An) năm 1973 mới là điển hình của sự mất quân vì những lý do lãng xẹt trong chiến tranh cứ ám ảnh tôi suốt đêm. Sáng, tôi thức dậy từ 4h00, chuẩn bị hành trang kịp ra điểm hẹn vào lúc 5h00. Cùng đi với tôi về ấp Đá Biên có các ông Phan Xuân Thi, Phạm Văn Thông,  trong Ban liên lạc cựu chiến binh trung đoàn 207, các nhà báo trẻ Phùng Nguyên (báo Tiền Phong), Đoàn Mai Hương (báo Sài Gòn Giải Phóng) và chị Ngô Thị Thúy Hằng ở Trung tâm thông tin về liệt sĩ (MARIN) mới từ Hà Nội vào. Dọc đường, các cựu chiến binh thay nhau hồi tưởng lại sự kiện bi thảm xảy ra trong hai ngày 3-4 tháng 10 năm 1973, tức ngày 8-9/9 âm lịch năm Quý Sửu. Chuyện kể rằng, E207 là trung đoàn độc lập thuộc Quân khu 8 vừa thành lập, quân số đa phần là sinh viên, đóng quân ở khu vực Mỏ Vẹt, giáp biên giới Căm-pu-chia thì ngày 2/10/1973 nhận lệnh hành quân bí mật về Đồng Tháp Mười chuẩn bị đánh lớn. Rạng sáng ngày 3/10 bộ phận đi trước của đơn vị gồm trung đoàn bộ và tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 3 tạm dừng chân ở bãi tràm ngập nước ở ấp Đá Biên, thuộc vùng đối phương kiểm soát. Lính ta trong lúc nghỉ hồn nhiên phơi quần áo, rủ nhau đun nước pha trà và vì không có kinh nghiệm, lộ khói đun trà, võng nằm buộc túm vào ngọn cây tràm non vô tình vạch tán lá hở hoác cho máy bay trinh sát của đối phương phát hiện. Lập tức hai trận địa pháo của địch ở Kiến Bình và Tuyên Thạnh thi nhau nhả đạn, gom quân ta vào giữa vòng vây nhỏ hẹp cho trực thăng quần đảo bắn tỉa từng người, sau đó xe lội nước đổ quân trên quốc lộ 12 bao vây từ bốn phía. Trận đánh phá vây ác liệt kéo dài sang ngày 4/10, ta thoát được ra ngoài, nhưng 450 người bị vây chỉ còn lại 250 người, hy sinh 200 người, vài người bị địch bắt. Có 2 người bị thương nặng, lội nước ẩn nấp trong bãi tràm “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”, may mắn được dân địa phương cứu chữa là Trần Oanh, hiện sống ở Cần Thơ và Nguyễn Lập, hiện sống ở Thanh Hóa. Riêng tiểu đoàn 2 đi sau chặn hậu, không bị bao vây nên được an toàn. Vài ngày sau, ta cử một nhóm 9 người do lính trinh sát Phạm Hậu chỉ huy quay lại tìm kiếm được khoảng 80 thi thể đã bị trương thối, gói xác từng người vào bao ni lon rồi buộc tạm dưới gốc tràm, chờ khi nước rút sẽ nhờ du kích địa phương chôn cất, nhưng vì nhiều lý do, họ cũng không thực hiện được. Bãi tràm ngập nước quanh ấp Đá Biên vì thế trôi dạt, lẩn quất rất nhiều hài cốt lính trẻ sinh viên của trung đoàn 207. Ông Tư Tờ kể rằng, hồi đó còn nhỏ, rất mê đi tìm mũ cối, có lần lượm được mũ thì rụng rời phát hoảng vì bên trong mũ còn nguyên đầu lâu của lính. Sau năm 1975, khi dân khẩn hoang hay vật đất làm nhà thường gặp hài cốt liệt sĩ. Đồn rằng lính ngoài Bắc chết trận oan uổng, bị bỏ rơi, hài cốt trôi dạt không ai còn được nguyên vẹn nên rất thiêng, thường về báo mộng cho dân địa phương kêu đói hoặc thi thể đau đớn mắc kẹt giữa lùm cây trong bãi tràm. Ai có lòng làm cơm cúng lính Bắc đều được lính phù hộ. Có người trong ấp khi gom củi khô và lá tràm đốt lấy tro bón ruộng, vô tình đốt lẫn cả hài cốt, bị hồn ma lính về phạt vạ mắc bệnh tâm thần chữa mãi không khỏi. Lời đồn huyễn hoặc trong dân ấp Đá Biên còn chưa rõ thực hư, nhưng riêng chuyện xảy ra với gia đình ông Tư Tờ thì không thể phủ nhận. Ông năm nay 51 tuổi, vợ là chị Tiết, sinh được 4 con (3 gái, 1 trai). Con gái đầu của ông tên Nguyệt, sinh năm Tân Dậu (1981). Năm 1990, ông Tư Tờ làm ruộng phát hiện thấy 3 bộ hài cốt không còn nguyên vẹn, bùi ngùi cảm thương đem chôn cất tử tế và thầm khấn với hồn ma lính có linh thiêng thì phù hộ cho gia đình vụ mùa bội thu, nếu được 500 giạ thóc sẽ lập miếu thờ cúng hương hồn tất cả mấy trăm người tử trận. Năm ấy quả nhiên ông Tư Tờ trúng vụ mùa lớn, đạt hơn 500 giạ thóc, nhưng ông mải làm ăn nên quên mất lời hứa. Bé Nguyệt mới 9 tuổi đời, đang khỏe mạnh bỗng lăn ra ốm, chữa chạy khắp các bệnh viện không khỏi. Ông ân hận vội lập một miếu thờ thì ít ngày sau bé Nguyệt lành bệnh. Từ đó ông và dân làng đặt tên cho miếu thờ là miếu “Bắc Bỏ” (bộ đội người Bắc chết bỏ xác nơi đây), không ai nói ra thành lời, nhưng thầm suy tôn các liệt sĩ làm “Thành hoàng làng đội mũ cối”. Lúc đầu miếu thờ còn nhỏ, lợp gianh lá cỏ, cột và khung mái làm bằng mấy cây gỗ tràm khẳng khiu, dựng trên mô đất rộng chừng 20 m2. Sau này, mỗi năm gia đình ông Tư Tờ cùng bà con trong ấp vật đất đắp bồi nên khuôn đất rộng cả trăm m2, cất lại ngôi miếu to cao hơn, lợp mái tôn vừa làm nơi thờ cúng liệt sĩ, vừa làm chỗ cho dân đi làm ruộng có chỗ nghỉ chân hay trú mưa, tránh nắng. Hơn 20 năm, ngôi miếu đơn sơ ấy tồn tại giữa vùng quê nghèo Đá Biên, các cựu chiến binh trung đoàn 207 và thân nhân của 291 liệt sĩ không hề hay biết…   Đoàn chúng tôi về tới bến đò gần thị trấn Thạnh Hóa, bên bờ kênh 79, còn gọi là kênh Võ Văn Kiệt vì chính ông là người chủ xướng việc đào kênh năm 1979, chia lũ cho mấy huyện của Long An, Đồng Tháp và mở ra tuyến giao thông đường thủy chuyên chở vật tư, phân bón, sản phẩm nông nghiệp quanh vùng rất tiện lợi. Ông Tư Tờ đã đi xuồng tam bản, trực sẵn ở bến chờ đón khách. Từ thị trấn vào ấp Đá Biên xa chừng 3 km đường chim bay, nhưng phải đi xuồng dọc kênh 79 khoảng 4km rồi rẽ vào Rạch Giữa hơn 500m nữa mới đến nhà ông Tư Tờ. Đá Biên là ấp thuần nông trồng lúa, dân nghèo xơ xác. Mỗi gia đình dựng nhà trên một mô đất biệt lập, bao quanh là tràm và nước. Việc đi lại trong ấp, đi làm đồng, việc học của con trẻ hay giao lưu với bên ngoài…, tất cả đều dựa vào chiếc xuồng tam bản. Kiếp người ở đây thật đúng như như câu ngạn ngữ địa phương “sống ngâm da, chết ngâm xương”. Gia đình Tư Tờ cấy lúa được hơn 10 công, mỗi năm trừ chi phí sản xuất, ăn uống đạm bạc chỉ còn được 10-15 triệu đồng, không đủ chi dùng cho bao việc lớn nhỏ trong nhà, nói chi đến lúc ốm đau, ma chay, cưới hỏi… Nghèo là vậy, nhưng dân ấp Đá Biên ai cũng giàu lòng nhân hậu, thủy chung, hiếu khách. Chúng tôi nghỉ ngơi chốc lát rồi tiếp tục lên xuồng đi thăm miếu Bắc Bỏ, cách nhà chừng 300 mét. Tới nơi, tôi nghẹn ngào nhìn ngôi miếu thờ thực ra chỉ là cái lán lợp tôn, bốn bề trống hoác. Bao quanh lán lưa thưa vài gốc cây tràm làm bóng mát cho hương hồn gần 300 liệt sĩ. Bệ thờ vỉa vài hàng gạch, trên láng xi măng, đặt bát nhang lớn và đồ tế lễ. Phía sau bệ thờ dựng một tấm tôn, treo lá quốc kỳ, dưới bầy ba khung ảnh của các liệt sĩ sinh viên trường Đại học Xây dựng (xem ảnh, từ trái sang phải): Nguyễn Đình Lựu quê Hải Phòng và Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Tế quê Hà Nội. Đó là kỷ vật của ba gia đình gần đây biết tin về miếu Bắc Bỏ đã tìm về thắp nhang bái vọng người thân, gửi ảnh nhờ ông Tư Tờ cúng giỗ vào ngày 8/9 âm lịch hàng năm. Nguyễn Mạnh Sơn trong ảnh có gương mặt tuấn tú, trẻ đẹp như diễn viên điện ảnh. Tôi quỳ xuống thẫn thờ ngắm 3 bức ảnh, nước mắt cứ trào ra mặn ướt. Đã 39 năm kể từ ngày các anh hy sinh, rất nhiều gia đình thân nhân của 291 liệt sĩ vẫn lang thang khắp nơi tìm mộ. Gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Tế đã tốn hàng trăm triệu đồng đi tìm theo sự chỉ dẫn của ba nhà ngoại cảm nghe nói đều rất nổi tiếng, nhưng kết quả xét nghiệm ADN lại cho biết họ đã mang nhầm về quê bộ hài cốt liệt sĩ vô danh từ nghĩa trang Tam Nông ở tỉnh Đồng Tháp! Trong hoang mang, đau đớn tột cùng, họ tình cờ gặp được ông Phạm Xuân Thi mới biết người thân của mình chết trận ở Đá Biên. Ngày 27/7/2011, khi ông Thi cùng gia đình liệt sĩ Tế tìm về đây lại càng thêm đau đớn biết thêm rằng, ngôi miếu Bắc Bỏ thờ “những Thành hoàng làng đội mũ cối” đã có từ năm 1990 ở cõi đời nhiều nghịch cảnh, lắm sự oái oăm này… Đắm chìm trong nỗi ưu tư, tôi bàng hoàng theo mọi người về nhà ông Tư Tờ nghỉ ngơi, ăn cơm trưa. Trong bữa ăn tôi được ông Trần Văn Dũng cho biết, nguyện vọng tha thiết của tập thể cựu chiến binh trung đoàn 207 và nhân dân ấp Đá Biên muốn Ban liên lạc đứng ra tổ chức quyên góp xây ngôi miếu Bắc Bỏ thật đàng hoàng để tưởng nhớ 200 liệt sĩ sinh viên thân xác tan rữa vào bãi tràm ngập nước, xương cốt trôi dạt quanh mảnh đất Đá Biên nghèo đói (chính xác là năm 1992, Phòng lao động thương binh huyện Mộc Hoá do bà Phạm Thị Đấu làm trưởng phòng đã cho người về thu gom nhưng chỉ được một ít xương đặt vừa 9 cái tiểu, đem về nghĩa trang huyện Mộc Hoá xây mộ tập thể). Ông Phạm Văn Thông còn khoe, mấy tháng qua Ban liên lạc đã quyên góp hòm hòm được 100 triệu đồng, tạm đủ để cạp đất, san nền, còn UBND huyện Thạnh Hóa cũng đã đồng ý cấp đất xây miếu. Theo quy hoạch của tỉnh và huyện, sắp tới sẽ mở con đường từ thị trấn qua ấp Đá Biên, khi ấy miếu thờ sẽ thành điểm du lịch tâm linh về nguồn rất có giá trị lịch sử - văn hóa của địa phương. Tôi chân tình góp ý với ba ông bạn cựu chiến binh Thi- Thông- Dũng rằng 100 triệu chưa chắc đủ đóng kè, cạp đất, tôn nền, nhưng ta cứ phải làm ngay, càng nhanh càng tốt. Có được khuôn viên rồi, ta vừa làm vừa quyên góp tiếp vì biết đâu sau ngày mở đường sẽ có nhiều thay đổi vô lý bất ngờ, không ai lường được…  Rời đất Đá Biên, ngồi trên xe tôi miên man suy nghĩ. Mấy năm qua phong trào xây tượng đài, chùa miếu nở rộ khắp nơi, có công trình tốn hàng trăm tỷ đồng, lẽ nào một ngôi miếu Bắc Bỏ cho gần 300 liệt sĩ E207 chết tức tưởi giữa rừng tràm chúng ta không cùng nhau xây được? Tôi viết mấy dòng cảm hoài gửi lên mạng như một nhu cầu được chia sẻ và hy vọng các nhà hảo tâm, đặc biệt là các doanh nhân xuất thân từ sinh viên trường Đại học Xây dựng, đã từng nhập ngũ năm 1972 sẽ nhiệt tình ủng hộ cho công trình này cả về chất xám và tiền bạc. Mọi sự liên hệ xin gửi về địa chỉ Ban liên lạc cựu chiến binh trung đoàn 207, do ông Phạm Văn Thông, Phó Ban liên lạc  làm đại diện- Email: phamvanthong1154@gmail.com ;  Mob: 0908314929 - Tài khoản: 1130100201008, Ngân hàng MB (NH Quân Đội), Phòng giao dịch Thống Nhất, Tp Hồ Chí Minh. Ngàn lời tri ân và cảm tạ!                                                             Đêm SG 13/01/2012                                                                      VNT
http://e207.net.vn/bai-vit/bai-vit-v-e207/ky-niem-kho-quen/2441-mt-ngay-u-nam-hc-2012