Saturday, June 22, 2019

NGUYỄN THÀNH TRÍ - NGÀY THÁNG KHÔNG QUÊN .

Sau đây là chuyện Tháng Tư Đen, trích từ hồi ký "Ngày Tháng Không Quên", của Đại Tá Nguyễn Thành Trí (tư lịnh phó SĐ TQLC -- Tài) kể về những ngày giờ sau cùng của binh chủng mũ xanh thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
*
Khoảng 09:30 ngày 28-4-75, giờ tuyến phòng thủ của hai Lữ đoàn đều bị pháo kích. Trước tuyến LĐ 258/TQLC địch cho chiến xa dẫn đường, bộ binh theo sau, tiến vào vị trí của TĐ 6/TQLC. Một phần khu vực của TĐ 4/TQLC cũng bị tấn công. Cùng lúc, sư đoàn 304 CSBV cũng tấn công vào tuyến của LĐ 468/TQLC. Các tiểu đoàn thuộc LĐ 468/TQLC đã sử dụng pháo binh tác xạ chính xác vào đội hình của địch khiến chúng phải chạy lui về phía sau. Ta bắt được một tù binh thuộc một đơn vị của SĐ 304 CSBV. Riêng bên LĐ 258/TQLC, địch cũng không thể tiến lên được trước hỏa lực mạnh mẽ của chiến xa và bộ binh của ta. Phi cơ lên vùng yểm trợ và oanh kích hữu hiệu vào đội hình của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Địch đã phải rút lui về phía Đông, bỏ lại hai chiến xa do chiến xa ta bắn cháy. Theo cung từ của các tù binh bị bắt, lực lượng tấn công gồm Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 270) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 266). Hai trung đoàn này thuộc sư đoàn 341 CSBV.
Khoảng 14:00 giờ, Tướng Lân gọi điện thoại hỏi tôi về tình hình tại Biên Hòa ra sao. Tôi trình ông biết là tuyến phòng thủ của hai Lữ đoàn đang chịu áp lực nặng nề của Sư đoàn 341 và 304 CSBV. Cho tới giờ này anh em vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu. Trong dịp này ông lưu ý tôi hãy chuẩn bị tư tưởng vì có thể SĐ/TQLC sẽ phối hợp với "lực lượng bạn" (?) để bảo vệ an ninh trục lộ từ Biên Hòa về Vũng Tàu. Ông không nói thêm mục đích của công tác nói trên cũng như từ đâu có lệnh đó. Tôi không thể hỏi thêm gì dài dòng vì đang trên đường dây điện thoại và nhận thấy mọi việc cần phải được giữ bí mật trong lúc này. Trước khi chấm dứt điện thoại, Tướng Lân khuyên tôi nên đưa gia đình ra Vũng Tàu, ông sẽ lo liệu trong trường hợp phải di tản. Tôi cám ơn về sự quan tâm của ông, nhưng tôi chưa có ý định cho gia đình đi trong lúc này. Tôi suy nghĩ miên man về những gì Tướng Lân vừa cho biết liên quan đến việc bảo vệ an ninh Quốc lộ 15. Trên thực tế cả Quân đoàn 2 CSBV gồm 3 Sư đoàn đang kiểm soát phần lớn Quốc lộ 15 đi Vũng Tàu. Muốn giải tỏa cần phải có một lực lượng lớn hơn và hành quân trong nhiều ngày với hỏa lực yểm trợ hùng hậu. Mặt khác phải có kế hoạch ngăn chặn Quân đoàn 4 tấn công vào Biên Hòa trên Quốc lộ 1, chưa kể Quân đoàn này còn có khả năng tăng cường cho Quân đoàn 2 CSBV trên Quốc lộ 15 bất cứ lúc nào.
Khoảng 15:00 giờ, Đại tá Lương, Tham mưu trưởng QĐ III, báo cho tôi biết là BTL/QĐ sẽ di chuyển về trại BCH Thiết giáp ở Gò Vấp vào lúc 16:00 giờ. Trước khi rời Biên Hòa ông muốn biết bên TQLC có cần gì không. Ông cho biết thêm là Trung tâm hành quân Quân đoàn vẫn còn để lại một toán nhỏ để làm việc. Tôi cám ơn ông và cho biết chúng tôi chưa cần gì bây giờ.
Buổi tối thì nghe tin Tổng thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ cho Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên bố rằng ông muốn hòa giải, tôn trọng Hiệp định ngưng bắn 1973, và đề nghị ngưng bắn để thương thuyết… Làm sao Cộng Sản chịu ngồi xuống thương thuyết khi chúng đang ở thế mạnh?
Ngày 29-4-75, tôi được lệnh đến họp tại BTL/SĐ18BB vào lúc 12:00 giờ. Hiện diện gồm có Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, Tướng Đảo, Tư lệnh SĐ18BB, Tướng Khôi, Tư lệnh LĐ3KB, và tôi. Sau khi nghe qua phần trình bày của các vị Tư lệnh và tôi, Tướng Toàn chỉ thị cho các đơn vị rút về gần Biên Hòa và Long Bình để tuyến phòng thủ được bảo vệ chặt chẽ và hữu hiệu hơn. Để có sự thống nhất chỉ huy, do hai LĐ/TQLC khi về vị trí mới thì nằm trong khu vực trách nhiệm của cả LĐ3KB ở phía Bắc và SĐ18BB ở phía Nam, nên LĐ 258/TQLC sẽ được tăng phái cho LĐ3KB và LĐ 468/TQLC sẽ được tăng phái cho SĐ18BB. Tướng Toàn lưu ý thêm là tôi vẫn chịu trách nhiệm chỉ huy cho đến khi nào các LĐ/TQLC về đến vị trí mới đầy đủ; khi đó phải báo cho ông biết.
Về đến BCH tôi chưa kịp mời các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ đến họp về việc rút quân thì địch lại mở cuộc tấn công vào khu vực của TĐ 6 và TĐ 16/TQLC. Lần tấn công này của địch có vẻ mạnh mẽ hơn. BCH nhẹ SĐ/TQLC liền xin phi cơ lên vùng yểm trợ đồng thời ra lệnh cho liên đoàn BĐQ sẵn sàng tiếp ứng trong trường hợp cần thiết. Sau vài giờ kịch chiến, địch thấy không thể nào phá được tuyến chặn của ta hai bên Quốc lộ 1, trong khi bị phi cơ ta oanh kích trúng phía sau đội hình nên chúng đành phải rút lui. Trước tuyến của TĐ/16 TQLC địch bỏ lại hai chiến xa còn đang bốc cháy.
Khoảng 15:30 giờ, tôi họp các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ để phổ biến kế hoạch rút quân và tái phối trí để bảo vệ căn cứ Long Bình và thị trấn Biên Hòa. Các LĐ/TQLC phải đoạn chiến và rút về phía sau từ 10 đến 12 cây số. Liên đoàn BĐQ di chuyển vào bên trong căn cứ Long Bình, tiếp tục làm trừ bị. Thành phần chiến xa tăng phái cho các đơn vị không gì thay đổi. BCH nhẹ SĐ và BCH/LĐ/468 vẫn đóng tại chỗ. Sau khi các LĐ/TQLC về đến tuyến phòng thủ mới thì sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của LĐ3KB (đối với LĐ 258/TQLC) và SĐ18BB (đối với LĐ 468/TQLC). Phải có kế hoạch yểm trợ Pháo binh bắn chận khi cần thiết trong lúc rút quân. Tôi lưu ý các đơn vị trưởng là địch đang tấn công dữ dội vào hai Đại đội Nhảy dù có nhiệm vụ bảo vệ cầu Đồng Nai và căn cứ Hải quân cách Long Bình vài cây số về hướng Tây Nam.
Khoảng 18:00 giờ, sau nhiều lần phản công tái chiếm một vài vị trí đã bị mất, hai Đại đội Nhảy dù đã phải rút lui trước lực lượng đông đảo của đơn vị thuộc đoàn 116 đặc công của địch. Đường về Sài Gòn trên xa lộ qua cầu Đồng Nai đã bị cắt. Giờ đây chỉ còn lại chiếc cầu Đại Hàn duy nhất bắc qua sông Đồng Nai trên Quốc lộ 1 còn sử dụng được để về Sài Gòn, do hai Đại đội Nhảy dù khác đang bảo vệ.

Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images)
Khi cầu xa lộ Đồng Nai bị chiếm, lực lượng Địa phương quân có nhiệm vụ canh gác các cổng ra vào, kho tiếp liệu, kho đạn… trong căn cứ Long Bình đã tự động rời bỏ vị trí, nhất là khi địch pháo kích vào dữ dội. Một vài cuộc chạm súng giữa một số binh sĩ giữ an ninh còn lại với các toán đặc công địch đã xảy ra tại một vài địa điểm khác nhau trong căn cứ. Lúc bấy giờ thật khó lòng mà xác định được nơi nào là bạn, nơi nào là địch. Tôi gọi điện thoại cho Đại tá chỉ huy trưởng căn cứ Long Bình nhưng không ai trả lời. Tôi gọi qua Trung tâm hành quân QĐ III tại Biên Hòa (toán liên lạc) để thông báo về tình trạng an ninh trong căn cứ Long Bình không còn kiểm soát được nữa và yêu cầu trình lên thượng cấp để có biện pháp trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Một sĩ quan tại Trung tâm hành quân cho biết không còn ai có thẩm quyền tại đây; anh nói thêm Tướng Toàn đã lên trực thăng lúc 15:00 giờ và BTL/QĐ III ở Gò Vấp cũng không ai biết ông hiện đang ở đâu. Lúc bấy giờ nhiều tiếng súng nổ vang về hướng Biên Hòa. BCH nhẹ SĐ báo cho tôi biết một lực lượng địch đang tấn công vào phía Bắc sân bay Biên Hòa. Độ hơn nửa giờ thì địch bị lực lượng LĐ3KB và BĐQ đẩy lui.
Trước đi trời tối BCH nhẹ SĐ và BCH/LĐ 468/TQLC di chuyển về khu vực gần cổng trại (có lẽ là CC Long Bình -- Tài) , cửa đi ra thị trấn Biên Hòa để việc phòng thủ được dễ dàng hơn đồng thời cũng kiểm soát được cổng ra vào quan trọng này. BCH Liên đoàn BĐQ cũng di chuyển theo về gần đó. Tại khu vực này một số văn phòng làm việc vẫn còn để máy lạnh, điện vẫn bật sáng, các máy điện thoại vẫn còn có thể sử dụng được bình thường, nhưng nhân viên chẳng còn ai cả. Mọi thứ vẫn còn bày biện trong văn phòng hay trên bàn làm việc chứng tỏ nhân viên đã rời khỏi nơi này không lâu lắm. Bức ảnh chụp gia đình của một Hạ sĩ quan Mỹ vẫn còn để nguyên trên một nóc tủ đựng hồ sơ, có lẽ trong lúc gấp rút anh ta đã quên mang theo bức ảnh kỷ niệm này.
Trong buổi họp lúc 12:00 giờ, khi nhận được lệnh rút khỏi tuyến phòng thủ về bảo vệ vòng đai gần Biên Hòa và Long Bình, chắc ai cũng tự hiểu rằng đây mới chỉ là giai đoạn một. Giai đoạn kế tiếp sẽ có thể là phòng thủ phía Tây sông Đồng Nai, rồi từ đó nếu tình hình nặng hơn, sẽ rút về quanh Sài Gòn. Nhưng giờ đây SĐ18BB, TQLC, LĐ3KB và các đơn vị khác trong khu vực, sẽ phải tự quyết định cách hành động tùy theo sự biến chuyển của tình hình, nhưng chắc chắn không thể nằm lại vòng đai phòng thủ lâu hơn khi không có cấp cao hơn để chịu trách nhiệm về sự thống nhất chỉ huy.
Trong những ngày qua nỗ lực của Quân đoàn 4 CSBV trên Quốc lộ 1 có phần mạnh mẽ và tập trung hơn do nhu cầu cấp bách của Quân đoàn này phải kết hợp kịp thời với các cánh quân từ các hướng khác để cùng tiến về tổng công kích Thủ đô Sài Gòn. Quân đoàn này tập trung 3 Sư đoàn cứ đánh thẳng từ Đông sang Tây với ý định sau khi chiếm Trảng Bom thì tiếp tục tiến về Biên Hòa và Long Bình rồi sau đó về Sài Gòn. Trong khi áp lực của Quân đoàn 2 CSBV trên Quốc lộ 15 chỉ mạnh mẽ tại khu vực Trường thiết giáp trong lúc đầu với Sư đoàn 304, nhưng không thể nào tiến xa hơn về hướng Long Bình vì gặp phải tuyến phòng thủ của LĐ 468/TQLC và lực lượng Thiết giáp. Riêng Sư đoàn 3 và 325 CSBV thì lo tấn công Long Thành và Bà Rịa. Sau khi chiếm được Long Thành thì Sư đoàn 325 CSBV phải tiếp tục băng qua Quốc lộ 15 tiến về hướng Tây Nam để chiếm Nhơn Trạch mà chúng đã có kế hoạch sẽ đặt pháo 130 ly tại đây bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trong khi Sư đoàn 3 CSBV sau khi chiếm Bà Rịa thì tiếp tục triển khai đội hình về hướng Vũng Tàu.
Trong một ký sự lịch sử của Sư đoàn 7 CSBV (Binh đoàn Cửu Long) do nhà xuất bản Quân Đội nhân dân ấn hành tại Hà Nội năm 1986, có ghi đoạn nói về nhiệm vụ của Quân đoàn 4 CSBV như sau: "0 giờ ngày 30 tháng 4 cuộc tổng công kích vào Sài Gòn sẽ bắt đầu. Để cùng với tất cả các cánh quân tiến về Sài Gòn, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết tâm đánh chiếm khu liên hợp công nghiệp Biên Hòa trước 0 giờ đêm nay. Sư đoàn 6 được lệnh bỏ các vị trí, các căn cứ còn lại ở Hố Nai, tiến đánh bên trái đường số 1, đánh chiếm Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 Ngụy và cầu Ghềnh, thọc sang bên kia sông chiếm đầu cầu giữ bàn đạp. Sư đoàn 341 chiếm sân bay Biên Hòa, Sư đoàn 7 không chờ sang bên kia cầu mới tác chiến, mà phải đột phá tiếp trại tù Hố Nai, đục phăng cái lá chắn của địch ở Tam Hiệp, cố gắng đưa hết đội hình sang bờ Tây sông Đồng Nai trong đêm nay"… Xem qua đoạn trên, ta thấy lực lượng địch tấn công Hố Nai trong mấy ngày qua gồm các đơn vị của 3 Sư đoàn khác nhau xa luân chiến: đầu tiên là Sư đoàn 341, kế tiếp là Sư đoàn 6 và cuối cùng là Sư đoàn 7 CSBV. Nhưng chúng không thể nào vượt qua nổi tuyến phòng thủ của LĐ 258 và lực lượng chiến xa của LĐ3KB.
Khi thấy LĐ 258 và 468/TQLC đoạn chiến để rút về vòng đai Biên Hòa và Long Bình vào buổi chiều, địch đưa chiến xa và Bộ binh tiến vào Hố Nai trong đội hình tác chiến. Chúng tưởng rằng lực lượng phòng thủ đã rút về phía Tây sông Đồng Nai để lập tuyến phòng thủ ở đây. Không ngờ chưa ra khỏi thị trấn Hố Nai thì đã bị lực lượng phòng thủ chận đánh vào lúc 23:00 giờ. Trong ký sự lịch sử của Sư đoàn 7 CSBV có đoạn ghi trận đánh này như sau: "Bộ đội ta tiến lên trong màn đêm mưa pháo địch. Khi Trung đoàn 3 Sư đoàn 6 ra khỏi Hố Nai, tiến về Nam Biên Hòa, thì Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 165 (đây là Trung đoàn 165 của Sư đoàn 7, xin đừng lầm với Trung đoàn 165 của sư đoàn 312 mà ta đã đụng độ nhiều lần ở Quảng Trị năm 1972-1975) có 4 xe tăng dẫn đầu, thuộc phân đội đi đầu của Sư đoàn, cũng bắt đầu tiến vào Hố Nai. Đội hình lọt vào giữa hai dãy phố. Trung đoàn trưởng ra lệnh cho xe tăng nổ máy vọt lên. Nhưng bốn chiếc xe tăng vừa tiến lên được một đoạn thì bổng từ hai bên sườn và cả trước mặt nhiều chớp lửa xanh lè lóe lên, từng quả đạn đỏ lừ vun vút lao tới bốn chiếc xe tăng ta. Trung đoàn trưởng lệnh súng cối 120 ly, pháo 85 ly giá súng bắn trả. Bốn khẩu pháo xe tăng cũng nhả đạn, nhưng mới bắn được vài quả đạn thì ba chiếc trúng hỏa tiển chống tăng của địch bốc cháy… Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Trung đoàn trưởng vừa báo cáo xin chỉ thị của Sư đoàn vừa tổ chức đội phá phòng tuyến… Sư đoàn trưởng phóng xe Honda tới hỏi luôn: "Tình hình ra sao rồi? Gặp khó khăn phải không? Một thằng tù binh vừa khai trước mặt Trung đoàn là LĐ 258 lính thủy đánh bộ. Chủ yếu là Tiểu đoàn 6 với 60 xe tăng của Lữ kỴ binh 3 đấy". Trung đoàn trưởng Trần Quang Diệu báo cáo vắn tắt tình hình rồi trình bày ý định tác chiến của Trung đoàn. Sư đoàn trưởng gật đầu: "Tổ chức đánh ngay đi không muộn". Nhưng cũng như các cuộc tấn công trước, địch cuối cùng cũng phải rút lui về Đông với thiệt hại nặng nề mà không thể nào "đục phăng cái lá chắn" của lực lượng phòng thủ.
Khoảng 03:00 giờ ngày 30-4-75, LĐ 258/TQLC báo cho BCH nhẹ SĐ một số chiến xa của LĐ3KB chạy qua cầu Đại Hàn để qua phía tây sông Đồng Nai và xin ý kiến. Tôi trả lời hãy giữ liên lạc chặt chẽ với LĐ3 KB và thi hành theo sự điều động của LĐ3KB (vì LĐ 258/TQLC đang được tăng phái cho LĐ3 KB), tuy nhiên phải báo cáo mọi diễn tiến cho BCH nhẹ SĐ/TQLC để tiện theo dõi. Lúc bấy giờ BCH nhẹ SĐ, BCH/LĐ 468 TQLC và Liên đoàn BĐQ vẫn còn đóng trong căn cứ Long Bình. Tình hình có vẻ lắng dịu trong tiếng pháo kích cầm chừng của địch.
Khoảng 03:30 giờ, LĐ 258/TQLC báo cáo bắt đầu di chuyển về phía Tây cùng với một số chiến xa của LĐ3KB và sẽ bố trí bên phía Tây sông Đồng Nai. Tôi gọi qua BTL/SĐ18BB để gặp Tướng Đảo, nhưng không ai trả lời. Tôi ra lệnh cho LĐ 258/TQLC để lại một Tiểu đoàn bảo vệ phía Đông cầu Đại Hàn cho đến khi LĐ 468/TQLC và Liên đoàn BĐQ rút qua hết.
Khoảng 06:30 giờ, khi các đơn vị thuộc LĐ 468/TQLC qua gần hết cầu Đồng Nai thì BCH nhẹ SĐ, BCH/LĐ 468/TQLC và Liên đoàn BĐQ bắt đầu di chuyển qua phía Tây Sông Đồng Nai. Hai Đại đội Nhảy dù vẫn còn canh gác cầu này. Điều đặc biệt là địch không còn mở ra cuộc tấn công nào nữa mặc dù các đơn vị của ta quan sát vẫn thấy chúng thấp thoáng cách khoảng 3 cây số về hướng Đông. Vào lúc này qua hệ thống máy ANPRC-25, LĐ 468/TQLC liên lạc được với SĐ18 BB và được biết Tướng Đảo cùng với lực lượng của ông đang bố trí tại nghĩa trang quân đội trên xa lộ, cách cầu Đồng Nai hơn bốn cây số về hướng Tây Nam. Trong khi tôi băn khoăn chờ đợi xem có lệnh gì kế tiếp thì Trung tá Huỳnh Văn Lượm, Lữ đoàn phó LĐ 258/TQLC đến gặp tôi trên Quốc lộ 1 gần đầu cầu Đại Hàn và cho tôi biết Bộ tổng tham mưu nhờ LĐ3KB làm trung gian chuyển lệnh cho các đơn vị như sau: TQLC về căn cứ Sóng Thần (CCST), LĐ3KB về Gò Vấp chờ lệnh tiếp. Không nghe nói lệnh cho SĐ18BB như thế nào, có lẽ Sư đoàn này nhận lệnh thẳng từ Bộ tổng tham mưu rồi. (Lúc bấy giờ Trung tướng Vĩnh Lộc là Tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Ông vừa nhận chức vụ này vào chiều hôm qua.)
Tôi cảm thấy có điều gì không ổn bởi lẽ trong khi chiến trường đang sôi động, khoảng hơn 16 Sư đoàn địch đang siết chặt vòng vây vào Sài Gòn từ nhiều hướng, sao lại có lệnh cho TQLC về căn cứ Sóng Thần, hậu cứ của Sư đoàn? BTL/QĐ III giờ đây coi như không còn ai có thẩm quyền giải quyết được gì nữa. BCH nhẹ SĐ/TQLC thông báo lệnh này cho Liên đoàn BĐQ và yêu cầu Liên đoàn này liên lạc với các đơn vị liên hệ để có phương tiện di chuyển đến nơi nào tùy nghi. Nhiệm vụ tăng phái của Liên đoàn BĐQ cho BCH nhẹ SĐ/TQLC được coi như chấm dứt kể từ giờ phút ấy.
Tôi không nắm vững được tình hình của SĐ 5BB ở hướng Tây Bắc Biên Hòa lúc bấy giờ ra sao. Nếu như cả Quân đoàn 1 CSBV tiếp tục ép xuống phía Nam dọc theo Quốc lộ 13, thì SĐ5 BB sẽ khó lòng giữ được Bến Cát: Tỉnh Bình Dương, quận Lái Thiêu rồi sẽ mất. Cộng quân sẽ nhanh chóng tiến chiếm ngã ba Lái Thiêu và Quốc lộ 1. Căn cứ Sóng Thần nằm giữa Biên Hòa (phía Đông) và Lái Thiêu (phía Tây) sẽ trở thành một mục tiêu hoàn toàn bị cô lập. Sau khi thảo luận với các cấp chỉ huy của hai Lữ đoàn và một vài Tiểu đoàn đang có mặt, tôi ra lệnh cho LĐ 258/TQLC đưa một thành phần về thẳng trại Lê Thánh Tôn, bản doanh của BTL/SĐ/TQLC tại Sài Gòn, như là thành phần tiên phong để chuẩn bị nơi đóng quân cho các đơn vị. Sở dĩ chúng tôi có sự lựa chọn này là vì các lý do như sau: thứ nhất là để tránh trở thành mục tiêu bị cô lập tại căn cứ Sóng Thần như đã nói ở trên. Nếu địch tấn công và ta phải chống trả để cố thủ, thì các trại gia binh chung quanh đó sẽ phải gánh chịu hậu quả vô cùng tai hại. Tại Sài Gòn vẫn có các trại sau đây mà các đơn vị TQLC có thể về tạm đóng quân: đó là trại Lê Thánh Tôn, trại Nguyễn Văn Nho và trại Cửu Long. Thứ hai là các thương bệnh binh đang điều trị tại bệnh viện Lê Hữu Sanh, tức bệnh viện của SĐ/TQLC tại CCST, cũng cần được di tản về Sài Gòn để họ được an toàn hơn. Thứ ba là nếu như Sài Gòn thất thủ, TQLC có thể rút về V4CT tương đối dễ dàng để cùng với lực lượng Quân đoàn IV tiếp tục chiến đấu.

Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images)
Đoàn xe chở thành phần về Sài Gòn do Thiếu tá Quách Ngọc Lâm, trưởng ban 4 LĐ 258/TQLC chỉ huy. Trong khi không thể liên lạc được với BTL/QĐIII và Bộ tổng tham mưu, BCH nhẹ SĐ/TQLC tạm có cách giải quyết riêng hầu tránh được mọi nguy hiểm cho các đơn vị được chừng nào hay chừng ấy. Do quân xa tập trung được có hạn, nên các đơn vị của hai Lữ đoàn chỉ sử dụng được những phương tiện hiện có trong tay, tiếp tục chuyển quân về căn cứ Sóng Thần theo phương cách con thoi, sau đó sẽ có kế hoạch di chuyển về Sài Gòn. Vấn đề là làm sao rời khỏi phía Tây sông Đồng Nai càng nhanh càng tốt để tránh thiệt hại do địch pháo kích. Thời gian di chuyển từ Biên Hòa về CCST khoảng 30 phút theo đội hình đoàn xe.
Khoảng 09:30 giờ, BCH nhẹ SĐ/TQLC về đến CC Sóng Thần. Tôi ngạc nhiên khi thấy đoàn xe của Thiếu tá Lâm còn đang đậu trên xa lộ trước cổng CCST, binh sĩ xuống xe bố trí hai bên đường. Thiếu tá Lâm chạy đến cho tôi biết là có cuộc đụng độ dữ dội giữa địch và lực lượng ta tại khu vực ngã ba Lái Thiêu - Quốc lộ 1 và cầu Bình Triệu. Do đó đoàn xe phải quay đầu trở lại. Tôi cảm thấy đầy lo âu và thất vọng.
Toán Quân cảnh và binh sĩ canh gác nơi cổng ra vào CCST vẫn làm việc bình thường, quân phục gọn gàng, trông thật hùng dũng và kỷ luật, thể hiện tác phong đứng đắn của những chiến sĩ trong Binh chủng Mũ xanh. Tại BCH/CCST tôi gặp Trung tá Hoàng Ngọc Bảo, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Truyền tin TQLC, Thiếu tá Tô Văn Cấp, Chỉ huy phó CCST và một số anh em sĩ quan khác. Mọi người tỏ ra đăm chiêu nhưng sau đó có vẻ yên tâm khi thấy các đơn vị hành quân di chuyển về càng lúc càng đông đảo. Tôi tìm cách gọi điện thoại về Vũng Tàu để trình cho Tướng Lân về tình hình đang xảy ra tại Biên Hòa cũng như tại CCST, nhưng đường dây không còn liên lạc được nữa.
Khoảng 10:00 giờ hơn, Trung tá Bảo từ ngoài cửa văn phòng bước nhanh vào và bằng một giọng trầm hẳn xuống, buồn bã, đầy xúc động, anh báo cho tôi: "Trình Đại tá mình đầu hàng rồi!" Tôi sửng sốt hỏi lại ngay: "Hả? Anh nói sao?" Trung tá Bảo nói tiếp: "Tổng Thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên cáo yêu cầu Quân lực VNCH hãy ở tại chỗ, tránh nổ súng và chờ lực lượng giải phóng đến bàn giao".
Tin sét đánh ngang tai. Tôi bàng hoàng không biết phải nói gì với mọi người đang có mặt, dù chỉ một câu thật ngắn ngủi; bởi quả tình tôi chưa hề chuẩn bị một chút tâm tư hay suy nghĩ nào cho những phản ứng trước một sự thật phũ phàng đến như thế; bởi mới hôm qua đây, bao nhiêu anh em vừa mới nằm xuống nơi chiến trường phía Đông không xa lắm, cũng chỉ vì hai chữ "DANH DỰ - TỔ QUỐC"; bởi hai chữ "đầu hàng" hay những cụm từ tương đương với ý nghĩa đó, không bao giờ có trong bất cứ binh thư sách vở nào nơi các quân trường… Nhưng biết làm sao đây, bao nhiêu anh em đang nhìn tôi như chờ đợi một giải đáp.
Tôi cho mời tất cả các đơn vị trưởng đang có mặt trong căn cứ đến họp để chính thức thông báo về lời tuyên cáo của Tổng thống Dương Văn Minh. Trước mặt mọi người tôi có vài lời vắn tắt như sau: "Chắc các anh em đã nghe lời tuyên cáo của Tổng thống, cũng là vị Tổng tư lệnh tối cao của Quân lực VNCH. Chúng ta không thể làm gì hơn. Vi là quân nhân, chúng ta phải tuân theo kỷ luật. Yêu cầu các anh em hãy cố gắng tiếp tục đưa đơn vị của mình về CCST, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, đồng thời giải thích cho họ rõ những điều tôi vừa nói để tránh mọi trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra. Sau đó anh em có thể cho đơn vị giá súng vào kho và ra về với gia đình. Tôi xin gởi đến tất cả các anh em và gia đình lời chúc bình an và nhiều may mắn. Xin cám ơn tất cả anh em về sự chiến đấu anh dũng và không mệt mỏi trên mặt trận phía Đông Biên Hòa trong những ngày vừa qua"… Có những cặp mắt buồn bã nhìn nhau im lặng… và tôi cũng đã nghẹn ngào, không thể nói thêm được gì hơn.
Tôi nhờ Trung tá Bảo gọi bệnh viện Lê Hữu Sanh để tôi hỏi thăm về tình trạng thương bệnh binh ra sao. Một Y tá cho biết Bác sĩ Trần Công Hiệp, Y sĩ trưởng bệnh viện, hiện đang chữa trị cho các thương binh ở khu giải phẫu. Không muốn làm phiền Bác sĩ Hiệp trong lúc ông đang bận săn sóc thương binh, tôi hỏi anh Y tá số thương binh tại bệnh viện hiện giờ là bao nhiêu. Anh cho biết là khoảng gần tám chục người, không kể trên mười thương binh khác trong tình trạng nặng, được chuyển từ mặt trận Biên Hòa về khuya hôm qua và đã được khẩn cấp đưa đi bệnh viện Cộng Hòa điều trị. Bác sĩ Hiệp và các Y tá nam cũng như nữ, vẫn còn tận tụy săn sóc thương binh cho đến giờ phút cuối cùng này. Họ đã chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm, lương tâm của những chiến sĩ quân y TQLC. Sự hiện diện của họ trong lúc này đã xoa dịu phần nào nỗi đau trên thể xác lẫn tâm hồn của các thương bệnh binh. Bên cạnh những bàn tay "Từ mẫu" ấy, các thương bệnh binh hẳn cũng đã tìm được chút niềm an ủi, cảm thấy ấm lòng trong giờ phút đau buồn và tủi nhục nhất của đất nước.
Đến trưa thì Bác sĩ Hiệp cho phép các thương bệnh binh và y tá được rời khỏi bệnh viện Lê Hữu Sanh. Các thương binh, kẻ chống nạng, người trên xe lăn, các y tá và bệnh binh còn đi được, thì dắt díu hoặc cõng những thương binh khác, đã nhất quyết rời khỏi bệnh viện vì không muốn chờ kẻ thù đến sỉ nhục hay hành hạ mình. Vâng! Đã đến lúc những thương binh TQLC nói riêng và QLVNCH nói chung, thấy cần phải thể hiện tính khí khái, lòng can đảm và làm bất cứ điều gì mà họ có thể làm được, để bảo vệ danh dự và uy tín của tập thể, mặc dù họ biết chính họ là những kẻ thua thiệt hơn ai hết.
Trong giờ phút đầy lo âu và tuyệt vọng này, làm sao quên được những chiến hữu của chúng tôi hiện đang bị bắt làm tù binh hay còn lẩn trốn nơi nào đó ngoài Thừa Thiên và Đà Nẵng. Họ sẽ nghĩ gì khi biết rằng QLVNCH giờ này đã phải ngẩn ngơ buông súng, đầu hàng một cách nhục nhã theo lệnh của Tổng thống VNCH. Họ còn bám víu vào niềm hy vọng nào để tiếp tục phấn đấu trong hoàn cảnh đầy tối tăm ấy? Vợ con và gia đình họ rồi sẽ ra sao? Và cũng mỉa may thay, tôi cũng chưa có được câu trả lời nào dứt khoát cho trường hợp của chính bản thân mình…
Khoảng 15:30 giờ, Trung tá Bảo đến khuyên tôi nên ra về vì Căn Cứ Sóng Thần lúc ấy cũng đã vắng vẻ. Chúng tôi cùng một số anh em khác lên chiếc xe Jeep của Trung tá Bảo và hướng ra cổng trại. Điếm canh và vọng gác nơi cổng ra vào CCST lúc bấy giờ cũng đã bỏ trống…
Mũ Xanh Nguyễn Thành Trí

PHÍA SAU MẶT TRẬN

25 Tháng Ba 201812:47 SA(Xem: 5723)
                

chien-tranh-viet-nam-photo George McArthur
Chiến tranh Việt nam - photo George McArthur

Đây là lần thứ 27, gia đình tôi mừng Lễ Tạ Ơn tại Hoa-Kỳ. Tiết trời đã ở cuối thu. Những cây sồi dọc hai bên đường, tàn lá phủ màu đỏ, màu vàng, dưới bầu trời xanh lơ tạo nên bức tranh tuyệt vời. Tạo-Hóa quả là một danh họa đại tài! Công sở nghỉ, hãng xưởng nghỉ, trường học cũng đóng cửa nên các con, các cháu có dịp họp mặt đông đủ trong phòng khách của căn nhà nhỏ . Đại gia đình chúng tôi ba thế hệ, hòa mình vào không khí vui vẻ, đầm ấm, trong khi bên ngoài, ngọn gió heo may se lạnh thổi về, đong đưa cành lá .
            Hàng năm, cứ đến dịp Lễ Tạ Ơn, báo chí đăng nhiều bài viết, các cơ quan truyền thanh, truyền hình dành nhiều thời lượng để nói về ý nghĩa, nguồn gốc của lễ hội này. Đây cũng là thời điểm  của “ mùa mua sắm” nên các cơ sở thương mại đưa ra nhiều quảng cáo hấp dẫn để thu hút khách hàng.  Nhớ lại, đầu mùa Xuân năm 1990, sau mười lăm năm sống trong tủi nhục, đọa đầy, phân biệt đối xử; gia đình bẩy người, vợ chồng tôi và năm đứa con, như có phép lạ, được đến định cư tỵ nạn tại thành phố lớn hàng thứ tư của Liên Bang Mỹ, có tên gọi thân thương“thành phố nắng ấm tình nồng” và tám tháng sau, đón mừng Lễ Tạ Ơn lần đầu tiên .
        Rời quê hương yêu dấu, mang tâm trạng của người bị lưu đày biệt xứ, không hy vọng có ngày trở về, đến sinh sống trên một đất nước hoàn toàn xa lạ, từ tiếng nói, con người, phong tục tập quán v .v.Làm sao  tránh được những hoang mang, lo lắng, ưu tư. Chúng tôi đã bỏ lại tất cả ngoại trừ nghị lực và quyết tâm. Có thể nói gia đình tôi đã khởi đi từ dưới số không. Con đường trước mặt có biết bao chông gai, vất vả. Với tuổi đời đã ngoài năm mươi, lại gánh chịu thương tật trong thời gian bị giam cầm ở miền Bắc Việt Nam; nhưng vì trách nhiệm dẫn dắt một gia đình lớn, giống như “ thuyền trưởng trong chuyến hải hành” nên dù cho khó khăn đến đâu, vất vả thế nào và  không có chọn lựa nào khác, chúng tôi phải quyết tâm vượt qua, hướng về phía trước để có thể đứng vững trên đôi chân của mình nơi xứ người …
      Thoắt đã trên một phần tư thế kỷ! Hơn hai mươi bảy năm trong dòng sinh hoạt của xã hội mới, phải “vật lộn” với công việc  để kiếm “đô la”. Cũng vì ý nghĩa này mà mấy ông nhà văn, nhà báo, một chút ái ngại và châm biếm, phong cho những người mhư chúng tôi danh hiệu “đô vật”. Đành rằng đó là sự thực nhưng nghe sao  xót xa quá chừng! …Ôi biết bao kỷ niệm!  Khi vui, lúc buồn.  Đã  bao lần hồi hộp lo sợ, căng thẳng khi đối diện với nhiều vụ tấn công của những tên “côn đồ xấu xí có vũ trang”.   Cũng có lúc cảm thấy sung sướng và thầm tạ ơn Trời, tạ ơn Người đã cho gia đình tôi có cơ hội được …”sống”, như  khi tham dự  lễ tốt nghiệp ở các trường trung học, đại học và những dịp tổ chức  lễ  thành hôn cho các con …
Người ta thường nói người già hay tìm về dĩ vãng và thích sống trong kỷ niệm.  Có những kỷ niệm mờ nhạt dần theo thời gian, nhưng cũng có những kỷ niệm là dấu ấn hằn sâu, tồn tại, đồng hành tới cuối đời. Trong căn phòng nhỏ tràn đầy không khí vui tươi đầm ấm và an bình của ngày lễ hội, tôi lâng lâng, mơ màng nhớ về những kỷ niệm xa xưa. Cũng vào dịp cuối thu, hơn năm mươi năm về trước, đúng vào hạ tuần tháng mười một 1965, tính ra tôi mới về phục vụ tại Đại đội Quân Nhu thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh được hơn hai tháng, sau khi tốt nghiệp khóa 19 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ-Đức. Đơn vị của tôi nằm trong  vòng đai căn cứ Phú Lợi, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, 5km phía đông tỉnh lỵ Bình-Dương.Thời điểm này người dân Mỹ đang nô nức hân hoan mừng Lễ Tạ Ơn.  Thực sự lúc ấy tôi không có một ấn tượng nào về lễ hội này.  Hơn nữa, đất nước nhỏ bé của tôi, nhỏ bé nhưng khổ nạn triền miên nên người dân làm gì có thì giờ nghĩ đến những lễ hội đặc biệt ở một xứ sở quá xa như Hoa-Kỳ.  Ngoài việc lao động cực khổ để mưu sinh, người dân nước tôi còn phải đối diện với thảm họa chiến tranh mỗi ngày thêm ác liệt trên khắp chiến trường miền Nam.  Đặc biệt năm 1965, tình hình chính trị cũng như quân sự tại miền Nam rất xáo trộn và đi vào ngã rẽ bất lợi. Từ việc  chính phủ dân sự giao quyền điều hành đất nước cho quân đội đến những trận giao tranh, đụng độ lớn ngoài chiến trường khiến người dân lo lắng hơn và càng thấy  bất an trong cuộc sống.  Cũng từ năm 1965, nếu không có sự can thiệp trực tiếp của binh đội tác chiến Mỹ, không biết số phận Miền Nam Việt-Nam đã đi về đâu ?...
 Sáng hôm ấy, buổi họp tham mưu trên Sư-Đoàn kết thúc sớm hơn thường lệ.  Ông đại đội trưởng, Đại Úy Hà, về tập họp đơn vị, thông báo lệnh của Sư-Đoàn chỉ thị Đại Đội Quân Nhu của chúng tôi phải đưa ngay Trung Đội Chung Sự và tất cả túi đựng xác hiện có lên vùng hành quân gấp; đồng thời phải cử sĩ quan thường trực tại đó để chỉ huy và liên lạc. Lúc bấy giờ, Đại Đội Quân Nhu Sư-Đoàn, theo bảng cấp số có 3 sĩ quan: Đại Đội Trưởng (cấp số Đại Úy), Đại Đội Phó (cấp số Trung Úy) và Sĩ Quan Tiếp Liệu kiêm Thanh Tra (cấp số Trung Úy). Trung Đội Trưởng là các Hạ sĩ Quan.  Có lẽ vì hiểu được công tác lần này rất quan trọng, hơn nữa ông Tư Lệnh Sư-Đoàn và một số trưởng phòng đang có mặt tại vùng hành quân, nên Đại Úy Hà yêu cầu Chuẩn Úy Lành, khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị, về đơn vị trước tôi một năm, hiện là Đại Đội Phó và tôi, cũng Chuẩn Úy, Sĩ Quan Tiếp Liệu kiêm Thanh Tra, mới về đơn vị đươc hơn hai tháng,  cùng theo ông lên vùng xảy ra chiến sự.
 Sau một tiếng đồng hồ chuẩn bị, chúng tôi có mặt tại sân bay dã chiến Phú-Lợi .  Không biết sân bay thiết lập từ bao giờ, rất đơn sơ.  Cả ngàn tấm vỉ sắt ráp lại thành một phi đạo theo hướng bắc nam, dài khoảng hơn một ki-lô-mét, nằm phía trong vòng đai phòng thủ ngoài  cùng của căn cứ.  Căn nhà tiền chế dùng làm “phòng đợi”, bên hông phi đạo, có chừng mươi  hành khách, quân nhân có, dân sự có; không nghe tiếng nói cười ồn ào, ai nấy nét mặt đăm chiêu, lo lắng. Ông Đại Đội Trưởng bận liên lạc với Sư Đoàn trong khi Chuẩn Úy Lành, tôi, và trung đội Chung Sự của Thượng Sĩ Quang, có tăng cường thêm một số quân nhân của trung đội khác, tất cả trên ba chục người tập trung bên ngoài căn nhà tiền chế cùng quân trang dụng và hai trăm túi đựng xác.
  Đã hơn chín giờ sáng, bầu trời như có mây có khói quyện trong ánh nắng cuối thu . Trên những vùng cỏ xanh dọc theo phi đạo, vẫn còn lấp lánh những hạt sương . Bất ngờ,  từ hướng bắc xa xa, âm thanh quen thuộc của cánh quạt trực thăng vọng về, mỗi lúc một lớn dần. Vài quân xa loại nhỏ đang tiến vào sân bay. Lại thêm một chiếc xe jeep hồng thập tự của Đại Đội Quân Y hối hả theo sau . Mọi người hướng lên bầu trời. Một chiếc trực thăng lao tới, đảo một vòng cung nhỏ, hạ thấp cao độ rồi từ từ đậu kế bên phi đạo, trên nền xi măng rộng có chữ H thật lớn sơn màu trắng, phía trước chúng tôi.  Cánh quạt trực thăng chưa ngừng hẳn, xe jeep hồng thập tự tiến lại, quay đuôi xe đến gần cửa phi cơ.  Rất nhanh nhẹn và nhịp nhàng, hai quân nhân của Đại Đội Quân Y mang chiếc “băng ca” đến nhận thương binh.  Có nhiều người lại gần phi cơ.  Người thương binh không kêu la rên rỉ, mặt xạm đen, nằm bất động như đang ngủ say. Có vết máu thấm qua nhiều lớp vải băng quấn quanh đầu. Bộ quân phục tác chiến trên người chưa bị nhàu nát, với hai bông mai bạc(Trung Tá) vẫn còn gắn trên cổ áo; một bàn chân mang vớ (tất) màu trắng, bàn chân kia đã xỏ trong giầy da cao cổ nhưng chưa cột dây. Có những tiếng khóc, nức nở nghẹn ngào …Không ai ngờ rằng người thương binh nằm trên “ băng ca” ấy là vị Trung Tá Trung Đoàn Trưởng, đã tử thương vì trúng mảnh đạn pháo của địch, được đưa gấp từ mặt trận về…..Xe hồng thập tự và đoàn xe chở thân nhân người  “vừa nằm xuống” vội vã rời sân bay. Chứng kiến trực thăng đưa về một vị chỉ huy chiến trường bị tử thương, trong tư thế chưa sẵn sàng chiến đấu và nhìn những túi đựng xác lạnh lùng vô cảm nằm trên bãi cỏ, tôi thấy bùi ngùi xót xa .  Một chút bâng khuâng, tôi nghĩ về trận chiến đang xẩy ra trên vùng hành quân . . .
Hơn mười giờ sáng, phi cơ vận tải quân sự loại nhẹ đổ chúng tôi xuống sân bay đồn điền cao su Michelin, khoảng hai cây số bắc thị trấn Dầu-Tiếng, quận lỵ của quận Trị-Tâm, cách tỉnh lỵ Bình-Dương trên năm mươi cây số. Đại Úy Tấn, Trưởng phòng Tư Sư-Đoàn, chờ đợi tại sân bay và chỉ định nơi tạm trú cho đơn vị tôi tại Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Sư-Đoàn, nằm sát thị trấn.  Ông cũng nhắc lại lệnh của cấp trên là đơn vị chúng tôi phải vào ngay vùng mới xảy ra trận đánh đêm qua, để thu lượm thi hài các quân nhân tử trận.  Ông cho biết thêm chiến sự lắng dịu, địch đã rút lui từ tờ mờ sáng. Hiện có lực lượng Biệt Động Quân đang lo việc an ninh xung quanh, họ sẽ ra khỏi vùng lúc 5 giờ chiều. Sau đó, ông giới thiệu Trung Úy Hậu thuộc Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ của Trung Đoàn 7, người sẽ liên lạc với chúng tôi trong thời gian công tác .
Sân bay của đồn điền giờ này rất đông quân nhân. Có những nhóm nhỏ năm ba người dân thường tụ tập, bàn tán. Họ là gia đình của những quân nhân tham dự trận đánh đêm qua, lặn lội từ xa, đến đây trông ngóng tin tức người thân . Những tiếng rít xé rách không gian của oanh tạc cơ truy quét địch quân, những tiếng ì ầm của bom đạn còn vang vọng lại. Ông Đại Tá Tư-Lệnh Sư-Đoàn mang kính đen, ngồi bất động trên xe jeep, hướng ra phi đạo. Trong khi chờ trực thăng đưa vào địa điểm công tác, Trung Úy Hậu tâm sự: Đúng một tuần lễ trước đây, Trung-Đoàn 7 đã lập công lớn, đánh tan một trung đoàn địch và đêm qua tổ chức lễ khao quân. Nào ngờ địch tái phối trí, bất thần tấn công phục thù vào lúc mọi người đang  “say sưa” trong chiến thắng. Địch khởi sự tiến đánh lúc hai giờ sáng. Vẫn chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung. Mở màn là những trận mưa pháo. Không biết địch có cài tiền sát viên nội tuyến hay chăng, mà phần lớn đạn pháo của địch rơi rất gần Bộ Chỉ Huy và các đơn vị bảo vệ xung quanh . Sau đó  địch tấn công phá vỡ tuyến phòng thủ phía đông và bắc, tạo thành hai mũi nhọn, tiến thẳng vào. Trung Úy Hậu ngừng kể vì lúc ấy có đoàn trực thăng xuất hiện trên bầu trời và ít phút sau, Đại Úy Tấn phòng tư, Đại Úy Hà, Trung Úy Hậu và chúng tôi đã nhanh chóng ngồi trên bốn chiếc trực thăng đưa  đến địa điểm công tác, nơi mà đêm qua đã tổ chức tiệc khao quân mừng chiến thắng. Từ trực thăng nhìn xuống, rừng cao su bạt ngàn phía dưới, chia thành những lô tựa như ô vuông của một bàn cờ. Có những làn mây trắng mỏng lướt trên ngọn cây.  Khu vực này nằm trong tầm súng cối từ Dầu Tiếng, có tên gọi khá đặc biệt “làng 13 Bis”,nơi sinh sống của những người phu cạo mủ của đồn điền. Họ nằm trong số hàng chục ngàn người được thuê mướn từ miền Bắc, miền Trung, dưới thời Pháp thuộc, từ nửa đầu thế kỷ hai mươi, đưa vào phục vụ cho các đồn điền cao su ở miền Nam Việt Nam với tên gọi “dân mộ phu Nam Kỳ”. Cái tên gọi làng 13bis, dĩ nhiên với những ai tham dự trận đánh năm nào, nếu còn sống sót, chắc không thể quên. Riêng tôi, mấy chục năm sau, dù cuộc chiến đã đi vào dĩ vãng, vẫn chưa tìm hiểu tại sao lại có tên làng 13Bis? Tôi cũng chưa có dịp đặt chân đến làng 13Bis lần thứ hai. Không biết địa danh này và con số 13 có liên hệ gì đến số phận của những người đã nằm xuống ?
 Trực thăng hạ cánh trên con đường đất phân ranh lô cao su, thả chúng tôi xuống rồi bay đi.  Đã có gần chục chiếc xe vận tải dân sự mui trần, được trưng dụng, đậu trên đường để chở thi hài ra sân bay. Hai bên thành xe và hai bên cánh cửa phòng lái tài xế, có sơn tên công ty cao su.  Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn đặt trong căn nhà gạch lớn, nằm giữa bãi cỏ rộng, sát đường đất phân lô; xung quanh có pháo đài và ụ chắn bằng bao đựng cát. Hai bên và phía sau tòa nhà là rừng cao su thẳng hàng cao vút. Đó đây, thấp thoáng trong rừng cao su, vẫn còn những cụm khói vươn lên, nhưng không qua khỏi tàn cây.
Chúng tôi chia thành 5 toán,  từ trung tâm là chỗ đậu xe vận tải, đi dần ra vòng đai bên ngoài. Trong tầm nhìn một vòng tròn bán kính khoảng hơn trăm mét, quanh nơi đặt Bộ Chỉ Huy, hàng trăm xác nằm la liệt dọc theo đường mương hai bên con đường đất, dưới gốc cao su, trên miệng hố cá nhân, trong đám cỏ xanh.  Rải rác quanh đây có những xác địch chưa kịp mang đi. Dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, cảnh tượng ấy vẫn còn nguyên trong trí nhớ. Chúng tôi bắt tay ngay vào việc thu lượm. Có xác nằm sấp, úp mặt xuống đất, một tay bám vào chiếc nón sắt dùng làm nồi đựng gạo, chưa kịp nấu thành cơm.  Có xác nằm ngửa,  tay chân dang rộng, đôi mắt còn hé mở, như muốn nhìn thêm lần nữa cảnh vật trên trần thế. Có những xác nằm đè lên nhau giống hình chữ thập. Cũng có xác phần thân thể phía dưới còn trong hố cá nhân, đầu, mình và hai tay trên mặt đất, trong tư thế sẵn sàng nhả đạn . Có xác gục đầu, bó gối, chết trong hố cá nhân, phải khó khăn  mới đưa lên được. Lại có xác ngồi  tựa lưng vào gốc cây, đầu ngả sang một bên, như đang ngủ gục. Xúc động hơn nữa là khi lượm những xác không còn nguyên vẹn. Nhưng rất may, chúng tôi gom lại được những phần thiếu sót như cánh tay hoặc những ống chân  v.v vướng trên các cành cây cao su hoặc trong đám cỏ gần đó. Không biết có văn bản nào quy định tư thế một người khi lìa trần?  Nằm sấp, nằm ngửa, nằm nghiêng..? Lại còn y phục nữa? Quần áo che thân đầy đủ hay…giống như một số xác địch để lại chiến trường, chỉ một chiếc áo bà ba đen ngắn tay và một chiếc quần đùi màu đen khi ra mặt  trận, để đổi lấy danh xưng anh hùng “sinh bắc tử nam” hoặc âm thầm làm phân bón những gốc cao su!  Bên cạnh những xác người, trận địa còn vương vãi lăn lóc những chiếc nón sắt, những đôi giầy trận, những chiếc gà men đựng cơm v.v. Đặc biệt có vài ba đôi giầy phụ nữ gót cao và  những chiếc ví da xách tay loang vết máu … . Năm ấy tôi đã 26 tuổi; không phải lần đầu trong đời nhìn thấy xác chết. Tôi vẫn nhớ nạn đói xảy ra ở miền Bắc Việt Nam năm 1945 mà người ta gọi là nạn đói tháng Ba năm Ất Dậu, cướp đi cả triệu mạng sống.  Tôi đã thấy người chết được rắc vôi, phủ bằng tấm chiếu hoặc tấm vỉ đan bằng cói trên những xe bò, do người kéo đi chôn.  Đến cuối thập niên 1940, vì tò mò theo người lớn đi xem đội “Việt Hùng” của Việt Minh xử những người mà họ gọi là “Cường Hào Ác Bá”, tôi đã thấy những xác người bị cắt ngang cuống họng, có xác bị móc hai mắt, nằm phơi mình trên bờ ruộng, bờ ao.  Thuở ấy, tuy là một đứa bé, chưa biết biểu lộ xúc cảm trước cảnh thương tâm, nhưng hình ảnh các tử thi đã in vào trí não. Gần hơn nữa, chỉ ít tháng trước ngày mãn khóa, khi còn là Sinh Viên Sĩ Quan, chương trình huấn luyện có những buổi đến thăm viếng và thưc tập ở đơn vị Chung Sự, nằm trong Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp  (Lúc đó chưa có Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa). Thực tình cờ, tháng 6-1965 chúng tôi theo lịch huấn luyện, đến thăm nghĩa trang đúng vào thời điểm xảy ra trận chiến Đồng-Xoài, cách Saigon khoảng tám mươi cây số về hướng đông bắc, thuộc tỉnh Phước-Long.  Phòng lạnh để ướp xác đầy ắp, không còn chỗ trống.  Thi hài quân nhân tử trận mang về, chờ tẩm liệm, phải để tạm trong nhà quàn, phòng tang lễ, ngoài hành lang v.v. Trở lại quân trường, trong phòng ăn của sinh viên; bữa cơm trưa hôm ấy, nằm giữa những cọng giá xào, nổi bật màu nâu tím và bóng láng của những miếng gan heo, tôi liên tưởng đến màu da của các thi hài trong phòng lạnh ướp xác ở nghĩa trang nên không thể thản nhiên nuốt trôi hạt cơm …
Tốc độ thu lượm khá nhanh và gọn vì các thi hài  nằm xung quanh  Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn rất gần nơi đoàn xe đang đậu. Hơn nữa tử thi còn mềm nên khi để vào túi đựng xác, có thể đặt nằm ngay ngắn, kéo “phẹc mơ tuya”, di chuyển và để lên xe vận tải dễ dàng.  Đại Úy Tấn phòng Tư và Đại Úy Hà cũng phụ đưa túi xác đến gần xe. Nhưng chưa lượm hết tử thi quanh Bộ Chỉ Huy và đơn vị phòng thủ phía trong, số túi xác mang theo chỉ còn một nửa .  Đã hai giờ trưa . Đại Úy Tấn và đại Úy Hà được một trực thăng  đón ra Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Trung Úy Hậu Trung đoàn 7 ở lại làm việc cùng chúng tôi.  Trước khi đi, hai ông yêu cầu công tác thu lượm tiến hành nhanh hơn và tập trung lên xe vận tải, di chuyển ra sân bay trước 5 giờ.  Đại Úý Tấn còn cho biết sẽ xin Quân Nhu bổ sung túi đựng xác. Bổ sung túi đựng xác !! Câu nói này tôi nghe chưa quen ! Quân Nhu không là đơn vị trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường . Quân Nhu lo cho quân nhân từ ngày đầu tiên nhập ngũ . Thực phẩm, quần áo, mùng mền v.v. là những nhu cầu trước tiên. Phải ăn no mặc ấm mới có sức đánh giặc. Khi hy sinh đền nợ nước, Quân nhu sẽ lo nơi yên nghỉ cuối cùng, mồ yên mả đẹp. Thông thường, các đơn vị chỉ xin tiếp liệu phẩm ngành Quân Nhu như gạo, lương khô, quân trang, xăng dầu v.v. Thực hiếm khi nghe có binh đoàn  xin bổ sung túi đựng xác,  món hàng có chỉ danh “ đẹp” nhưng chẳng ai thích nhắc đến và dĩ nhiên không ai muốn sử dụng nó ...
Chúng tôi mỗi lúc một đi xa đoàn xe vận tải. Hình như khiêng một người còn sống nhẹ hơn khiêng một xác chết bất động nên công việc thu lượm có chậm hơn trước.  Ra tới vòng đai phòng thủ thứ nhứt, túi đựng xác đã hết. Công việc  tạm ngừng và tất cả thi hài đã chất lên xe. Kiểm điểm lại quân số xong, chúng tôi nhanh chóng phân chia đứng trên các xe vận tải rời khỏi khu vực này. Trời cuối thu, ngày ngắn dần. Những đám mây xám đục di chuyển chậm chạp trên bầu trời. Cảnh vật đang chìm dần vào hoàng hôn. Khi đoàn xe về đến sân bay, hai phi cơ vận tải quân sự đã chờ sẵn. Chia thành hai toán, chúng tôi lại khiêng túi xác từ xe tải chất vào trong phi cơ, xếp ngay hàng thẳng lối xong, trời đã tối . Hai phi cơ rời Dầu Tiếng, bay về phi trường quân sự Tân Sơn Nhất .  Đại Úy Hà đã theo trực thăng về đơn vị từ chiều, giao lại chúng tôi dưới sự điều động trực tiếp của Đại Úy Tấn phòng Tư. Thị trấn Dầu-Tiếng xa xôi hẻo lánh, mới 8 giờ tối mà như khuya lắm.  Mọi người mệt mỏi chìm vào giấc ngủ sau khi dùng một trong hai khẩu phần lương khô mang theo.
  Sáng hôm sau, chúng tôi ra sân bay nhận thêm một trăm túi đựng xác. Đồng thời nhận thêm một trăm poncho(áo mưa), từ Đại Đội gửi lên để phòng hờ khi cần. Hôm nay chỉ có Trung Úy Hậu thuộc Trung Đoàn 7 đi cùng chúng tôi. Trước khi khởi hành, Đại Úy Tấn Phòng Tư Sư Đoàn yêu cầu việc thu lượm phải hoàn tất trong ngày hôm nay. Đoàn trực thăng đưa chúng tôi vào vùng sớm hơn hôm qua trong khi những  xe vận tải đã vào làng 13bis từ mờ sáng .
Hôm nay việc thu lượm khó khăn hơn vì tầm hoạt động rộng và đoạn đường đem thi hài ra xe vận  tải xa hơn. Chúng tôi vẫn chia thành toán, từ trung tâm, tiến dần ra tuyến phòng thủ thứ hai. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp xác địch quân giữa đám cỏ dại. Lực lượng Biệt Động Quân còn hoạt động ngoài xa và trên bầu trời, một chiếc máy bay quan sát  chao lượn. Đã hơn hai giờ trưa. Gần sáu tiếng đồng hồ liên tục, như một cái máy, nào lượm xác cho vào túi, nào gói xác trong áo mưa, rồi khiêng xác di chuyển trên mặt đất không bằng phẳng và chất lên xe vận tải. Túi đựng xác và áo mưa cũng săp hết. Phòng Tư Sư Đoàn nhận được báo cáo, chỉ thị chúng tôi tiếp tục, dù không còn túi đựng, và phải đưa thi hài về càng nhiều càng tốt. Cho dù thực sự thấm mệt, nhưng đây là nhiệm vụ, chúng tôi phải hoàn thành một cách tốt đẹp nhất.Trong đầu óc chúng tôi giờ này chỉ nghĩ đến lượm xác và lượm xác . Chúng tôi không còn biểu lộ cảm xúc trước những người vừa nằm xuống. Mắt chúng tôi mờ đi không phải do những giọt lệ thương cảm mà do những giọt mồ hôi. Cứ đưa thi hài ra xe vận tải, mất cánh tay, mất bàn chân, mất ….dù không nguyên vẹn, vẫn phải đưa về…
Trời đã xế chiều, mặt trời xuống dần, chúng tôi được lệnh ra khỏi vùng dù chưa đi tới vòng đai ngoài xa nữa. Đoàn xe chở thi hài về đến sân bay đồn điền gần thị trấn Dầu-Tiếng, trời đã tối . Một vài ngọn đèn điện không đủ sáng , Sư đoàn điều động năm sáu chiếc quân xa nổ máy và rọi đèn để  chúng tôi làm việc. Tại sân bay, cũng như tối hôm qua, chúng tôi chia thành hai toán, mỗi toán phụ trách chuyển xác vào trong lòng một  máy bay. Lần lượt túi đựng xác xếp lên trước rồi tới áo mưa “gói” xác, rồi tới các thi hài  không có gì bao bọc. Thoạt đầu xếp thành hàng lớp ngay ngắn, nhưng vì số lượng nhiều, phải tranh thủ thời gian nên chúng tôi được lệnh cứ chất vào đầy phi cơ. Lúc này, thực khó khăn cho chúng tôi, xác tử thi đã bắt đầu phân hủy, bốc mùi hôi thối nồng nặc. Đã có những dòng nước từ thi hài thấm qua quân phục, chảy lan trên sàn xe, sàn tầu bay, đọng trên mặt đất, nền phi đạo . Các quân nhân phải thay phiên, luân chuyển, khi thì trong khoang tàu, khi thì ở dưới đất để thay đổi không khí trong buồng phổi. Dĩ nhiên chúng tôi không thu lượm xác địch quân. Nhưng không ngờ, trong lúc mệt mỏi, các toán đã sơ ý lượm hai “xác lạ” chở về sân bay và đã phát hiện kịp thời trước khi đưa vào phi cơ . Chính quyền địa phương sau đó giải quyết những xác này. Cuối  cùng tất cả những thi hài thu lượm từ trận địa ngày hôm nay, ngày kết thúc, kể cả thi hài không có gì gói ghém, bao bọc đã được chất trên hai vận tải cơ, chuẩn bị đưa về sân bay Tân Sơn Nhất. Đại Úy Tấn để chúng tôi chọn lựa : theo máy bay chở xác về Tân Sơn Nhất hoặc chờ vài ba ngày có máy bay khác lên đón. Sau cùng chúng tôi quyết định theo máy bay về Saigon ngay tối hôm đó. Chỉ sau một giờ bay, phi cơ hạ cánh. Ra khỏi máy bay, tôi tưởng như mình vừa thoát khỏi âm ty địa ngục, dù chưa biết âm ty địa ngục như thế nào!  Sau khi làm vài động tác hit thở, tôi đã tỉnh táo hơn, dễ chịu hơn. Suốt chặng đường bay một tiếng đồng hồ ngồi chung con tàu đầy xác người đã bốc mùi hôi thối , chiếc khăn tay luôn che mũi và miệng, quả thực chúng tôi choáng váng nhận ra không sợ phải sống cạnh xác người mà sợ mùi bốc ra từ xác người đã rữa nát ấy…
Sáng sớm hôm sau, đơn vị cho xe đón chúng tôi về Phú-Lợi . Riêng tôi, công  việc đầu tiên là vứt bỏ ngay, không thương tiếc tất cả y phục, giầy vớ v.v mặc trên người. Thế mà cả tuần lễ sau, tôi vẫn thấy hình như mùi “đặc biệt”, khó diễn tả, từ xác người đã bị phân hủy ấy, vần còn bám trên người tôi, vẫn còn quanh quẩn đâu đó….
Thời gian trôi nhanh, trên nửa thế kỷ qua đi, tôi vẫn không quên kỷ niệm cuộc “hành quân”đầu tiên trong đời binh nghiệp tại làng 13Bis. Hình ảnh những  thi hài dù được thu lượm về hay còn nằm phơi mình dưới nắng mưa ngoài trận địa, hoặc được chôn vùi một cách đơn sơ trong rừng sâu khiến tôi tự hỏi tất cả những hy sinh của họ đã được đền bù xứng đáng chưa? Đem thể xác yếu như “cây sậy” của họ thách thức bom đạn, để phục vụ một lý tưởng nào quá xa xôi và mơ hồ, liệu có tàn nhẫn không? Những danh hiệu, những mỹ từ, những truy phong, truy tặng v.v có đủ để đánh đổi mạng sống của họ hay chăng? Dù gì đi nữa, một điều chắc chắn là thân xác những người đã hy sinh ấy nay đã thành “cát bụi”…Và không biết ba mươi năm chiến tranh Việt Nam 1945-1975 mà nhiều người gọi là cuộc chiến tranh “phúc đức”, có bao nhiêu triệu người dân Việt trở thành cát bụi ?

Triệu-Vũmùa Tạ Ơn 2017.