Monday, February 20, 2012

TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO SỰ CÔNG BẰNG .
 
Thưa các bạn ,
Ở các nước theo NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN , tỉnh trưởng , bộ trưởng , thủ tướng ,và kể cả tổng thống nếu sai trái thì sẽ NHANH CHÓNG bị cất chức/truất phế và sau đó sẽ chịu sự điều tra của một cơ quan tư pháp ĐỘC LẬP . Đó là chưa kể sự soi rọi LIÊN TỤC của quyền thứ tư : BÁO CHÍ .
Ông tổng thống Đức đã phải từ chức vì lợi dụng chức vụ để
mượn tiền mua nhà . Đó là nhờ sự phanh phui của vài tờ báo Đức ; vì báo chí , theo như truyền thống , luôn luôn là TAI MẮT của nhân dân . Tuy nhiên ở một số nước - không chịu hội nhập trào lưu cùng thế giới - báo chí vẫn còn phải làm theo sự CHỈ ĐẠO của chính quyền !!!
Trong vụ Tiên Lãng , ông Nguyễn văn Thành , bí thư TP Hải phòng và một số lãnh đạo khác đã coi thường dư luận và chà đạp lên pháp luật , chẳng qua các ông ấy nghĩ rằng mình vẫn còn một HẬU THUẨN rất lớn mạnh ở sau lưng mình !!!
Đất nước mình nó như vậy rồi !
TRONG KHI ĐÓ :
Ngày 17/2/12, Tổng thống Đức Christian Wulff đã chính thức tuyên bố từ chức, sau vụ bê bối vay nợ cá nhân xảy ra từ năm 2008, thời ông còn là Thống đốc của bang Hạ Saxony. Phát biểu tại lâu đài Bellevue, ông Wulff đã nhắc tới “sự tin tưởng” của dân chúng đối với ông “đã giảm sút”. Và vì lý do đó, ông “không thể tiếp tục cương vị này”, dù thề rằng mình vô tội, dù khẳng định đây chỉ là “vấn đề cá nhân”.
“Trách nhiệm đảm bảo công bằng” cho dân chúng là một trong những nội dung quan trọng nhất của lời tuyên thệ đối với bất kỳ Tổng thống Đức nào. Và lẽ công bằng nhất dành cho một Nguyên thủ Quốc gia, như ông Wulff, là TỪ CHỨC khi niềm tin của dân chúng đối với ông bị tổn hại.
Giới hạn niềm tin, là thứ không được quy định trong Luật, nhưng lại rất rõ ràng và là một ràng buộc đối với mọi chính quyền, mọi quan chức.
VN đang "nắm dao đằng lưởi"! 

Như các bác đều biết :
      Sau khi đánh cho “Mỹ cút , ngụy nhào” , VN lúc đó giống như Tôn hành Giả trong Tây du Ký “coi trời bằng vung” vì lúc đó lực lượng QS của VN đứng vào thứ tư trên thế giới .
      Ông Lê Duẩn sau đó , muốn bình thường hóa với Mỷ nhưng lại đặt điều kiện (Mỷ phải bồi thường chiến tranh tới vài tỷ đô) : Mỷ thì ko muốn có điều kiện gì hết . Sau đó , VN thay đổi lập trường thì Mỷ đả bắt với TQ rồi (theo ông Trần quang Cơ trên BBC) .
      Sau khi đánh nhau “bươu đầu sứt trán” với TQ từ 1979 , 84 và kéo dài đến 88 thì VN đả tìm cách bình thường hóa với TQ sau khi thấy LX và khối CS Đông Âu sụp đổ .
      Khi thương thuyết với kẻ thù ở thế yếu như vậy thì ngay cả đứa bé lên ba củng biết VN đả NHƯỢNG BỘ rất nhiều . Tuy ko ai biết hết nhửng gì mà 2 bên đả cam kết trong mật nghị Thành Đô nhưng qua một vài bí mật được tiết lộ bởi ông Cơ thì ta thấy các ông chóp bu cả hai đảng đả MẶT CÃ với nhau nhiều thứ - mà cả ông Cơ củng ko biết (xin xem hồi ký Trần quang Cơ) . Đến nổi BT ngoại giao lúc đó đả nói “Bắc thuộc lần thứ ba” .
      Một khi VN đả KHẤU ĐẦU với TQ thì chẳng khác nào Tôn hành Giả chấp nhận để cho Phật Tổ chụp vòng Kim Cô lên đầu của mình . Ngoan ngoản thì ko sao ; cứng đầu , chống đối Phật tổ thì sẻ bị vòng Kim Cô siết cho bể đầu .
     Do vậy , từ là một nước đả từng đánh thắng 2 đế quốc sừng sỏ , từng là “lương tâm của nhân loại” , VN hiện nay rất HÈN YẾU đối với TQ , thua cả anh chàng hải đảo Phi luật Tân với toàn vủ khí thời đệ nhị thế chiến .
VN có mua vũ khí hiện đại của Nga , v.v... thì chỉ ĐÁNH LỪA được nhửng người dể tin mà thôi .
     Thứ nhứt , vì mọi ĐỘNG TĨNH lớn nhỏ , đặc biệt về quân sự , của VN thì TÌNH BÁO TQ ĐỀU BIẾT . Ví dụ : có 1 lần , một máy bay VN bị rơi khi huấn luyện mà Tân hoa Xả đả loan tin đó TRƯỚC cả báo chí VN ; như vậy chứng tỏ tình báo TQ đả có mặt ở khắp mọi nơi .
      Thứ hai , đây mới là điều quan trọng , TQ đả dùng nhửng mưu kế (như MUA CHUỘC , MỸ NHÂN KẾ , v.v...) để khống chế các nhà lảnh đạo trước đây và hiện nay của VN khiến họ không dám bướng bỉnh , cứng đầu với TQ . Vì chỉ cần bướng bỉnh , cứng đầu với TQ , họ sẻ tung hình ảnh hay bằng cớ thì chết cả lủ .
       Tôi không nói quá đáng đâu : mọi quyết định quan trọng , ở VN đều phải được TQ cho phép . Hay nói rỏ , muốn quyết định điều gì quan trọng VN gần như đều phải THỈNH THỊ Ý KIẾN của TQ – như đả TỪNG LÀM trong thập niên 1950-60 theo ông Hoàng văn Hoan , phó chủ tịch quốc hội VN thời đó .
       Vì một lẻ rất đơn giản , các nhà lãnh đạo VN đang “nắm dao đằng lưởi” .

Quan hệ Việt Trung trong cuộc chiến VN . 

    Người xưa có các câu : “sự thật sẽ giải thoát chúng ta” , “không thể lấy bàn tay che mặt trời” và “không có lửa , sao có khói” .
    - “Nếu buộc phải ngửi cứt thì nên ngửi cứt Tây , không nên ngửi cứt Tàu” (ông HCM đã trả lời trong một phỏng vấn của một nhà báo phương Tây . Đúng là ghét của nào trời cho của nấy !) .

      Tài Trần: Trước đây , trên đài BBC đã có bài nói về sự tham dự của quân TC trong trận Điện biên phủ 1954 – do các viên chức TC phổ biến .
       Bài dưới đây dịch từ quyển Looking Back on the Vietnam War của William Head , ấn bản 1993 (từ trang 106-114) . (Tác giả W. Head đã dựa vào các tài liệu mà một phần lấy từ báo chí chính thức của TC) . Theo tôi nghĩ bài viết này đã nêu được nguyên nhân chánh dẫn đến thái độ trịch thượng và đàn anh của TC trong thời gian qua .
      Ba dấu chấm trong ngoặc (…) tượng trưng cho những đoạn nói về chính trị giửa hai phe trong cuộc chiến VN , tôi xin lược bỏ vì nghĩ rằng điều này không làm thay đổi ý tưởng của tác giả W. Head .

==========


               TRUNG CỘNG ĐÃ DỒN HẾT TIỀN CƯỢC VÀO HÀ NỘI

       “ Trong những năm đầu của thập niên 1960 , Bắc VN đã là một trong những đồng minh về chính trị và quân sự thân thiết nhứt của Bắc kinh (BK) . Khi cuộc khẩu chiến giữa TC và LX leo thang , và khi LX dưới thời Krushchev nhích từng bước tiến tới sự không can dự vào cuộc xung đột đang leo thang ở Đông dương thì Hà Nội (HN) ngày càng ngã theo BK . Vào khoảng đầu năm 1964 , HN đã thực sự đứng hẳn về TC khi phong trào CS quốc tế đã tách làm hai nhánh . Khi Krushchev mất chức và Mạc tư Khoa theo đuổi một chánh sách can thiệp mạnh hơn dưới thời Kosygin và Brezhnev , thì dù cho HN đã cố gắng giữ khoảng cách bằng nhau đối với hai đàn anh nhưng quan hệ HN-BK vẫn luôn luôn thắm thiết . Theo lời ông Hoàng văn Hoan (từng là phó chủ tịch quốc hội VN) , cho tới năm 1968 , HN luôn THỈNH THỊ ý kiến BK trước khi quyết định một việc gì quan trọng (4) . Tóm lại Mỹ đã lâm chiến với một trong những đồng minh thân thiết nhứt của TC . Ảnh minh họa : 

. .
     Trọng lượng của quyền lợi của TC tại bắc VN đã được phản ảnh qua quy mô của hổ trợ của TC đối với HN trong cuộc chiến . Theo BK , giửa 1950 và 1978 , TC đã cung cấp chiến cụ tương đương với hơn 20 TỈ ĐÔ LA cho bắc VN . Số lượng này gồm vũ khí , đạn dược , và quân trang quân dụng đủ trang bị cho 2 triệu binh sĩ . Chỉ trong năm 1962 thôi , nhằm nâng cấp khả năng chiến đấu cho lực lượng CS tại nam VN để đối phó với những cố gắng chống du kích của Mỹ và VNCH , TC đã cung cấp 90.000 súng máy và súng trường . Theo những tiết lộ sau cuộc chiến , TC đã cung cấp sự hổ trợ SỐNG CÒN  cho bộ máy hậu cần (tiếp vận) của bắc VN gồm việc cung cấp hơn 30.000 xe tải , 2 triệu tấn xăng dầu , và sửa chữa 900 km đường xe lửa . TC cũng cung cấp cho HN một số lượng lớn đường ray , đầu máy và toa xe lửa ; đã trang bị toàn bộ cho vài trăm nhà máy cho bắc VN ; và đã cung cấp hơn 300 triệu mét vuông vãi và 5 triệu tấn gạo ; cộng với một số lượng lớn lao những mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của dân chúng bắc VN . (Thời gian đi tù ở miền Bắc từ 1977-81 , tôi nhận thấy các nông cụ trong các trại tù đều sản xuất tại TQ ; lương khô 701 , quần áo , mền , kể cả quần đùi cho tù ; áo khoác dài mùa đông 2 lớp cho CA cũng của TC .- Tài) . TC cũng cho HN ngoại tệ mạnh tương đương vài trăm triệu đô (6) .
. . .
       Có thêm những sự kiện quan trọng nói lên sự hổ trợ mạnh mẽ của TC cho HN trong giai đoạn giữa thập niên 1960 (12) .
      Thứ nhứt , vào MÙA XUÂN 1966 , gần 50.000 lính TC đã có mặt tại bắc VN để điều khiển súng phòng không , điều hành công tác hậu cần và sửa chữa các tổn thất do bom gây ra . Theo thống kế chính thức của TC , giữa tháng mười 1965 và tháng ba 1968 (khi quân TC đã rút đi) có tổng cộng hơn 320.000 quân TC đã phục vụ tại bắc VN với năm cao nhứt lên tới 170.000 người (13) . Không quân của bắc VN đã xử dụng các sân bay ở nam TC . Một hệ thống ra-đa bao gồm các trạm ở nam TC đã được lập để bảo vệ không phận bắc VN cũng như theo dõi và cung cấp các hoạt động của không quân Mỹ cho KQ của bắc VN .

Ảnh minh họa : 

     Thứ hai , các đơn vị giải phóng quân của TC được đưa vào bắc VN vẫn mặc quân phục chính quy , giữ nguyên phù hiệu của đơn vị và đã xữ dụng cách liên lạc thông tin không có độ an ninh cao . Họ cố tình cho người Mỹ biết ý định và quyết tâm của họ trong cuộc chiến VN .
     Thứ ba , trong một số trường hợp , máy bay TC đã giao chiến với máy bay Mỹ khi họ lỡ xâm nhập vào không phận TC để truy kích đối phương : BK cho biết đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ và gây hư hại cho 2 chiếc khác . Dù cho thông tin này cũng như thông tin về số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên bắc VN bởi máy bay bắc VN – nhưng do phi công TC lái – không được một nguồn tin độc lập kiểm chứng , nhưng điều này có thể đã xảy ra .
     Theo những báo cáo sau này của TC , thương vong của quân TC , phục vụ tại bắc VN , do bom Mỹ gây ra khoảng 20.000 người gồm chết và bị thương .
    Thứ tư , quân TC đã xây một khu phức hợp lớn lao , với hầm hào kiên cố tại Yên Bái (khoảng 140 km tây bắc HN) , nằm trên đường xe lửa từ Côn Minh đến HN dọc theo sông Hồng . Khu phức hợp này với những súng cao xạ đặt trong hang cũng như trên đường ray cộng với một phi đạo lớn , hình như được thiết kế để làm một thủ đô dự phòng trong trường hợp HN bị thất thủ bởi một cuộc tấn công của quân Mỹ và VNCH , hoặc để làm một căn cứ cho quân TC trong trường hợp quân TC can thiệp ồ ạt và công khai vào cuộc chiến VN .
. . .
    Vào cuối năm 1967 , vùng đệm/cấm bay , đối với phi công Mỹ , dọc theo biên giới Trung-Việt đã thu hẹp còn 5 km . Để đáp lại sự bành trướng này của KQ Mỹ , số sư đoàn phòng không của TC ở bắc VN đã tăng từ hai lên ba (24) . “

CHÚ THÍCH :
4 . Hoàng văn Hoan , “Sự phản bội tình hữu nghị Việt-Trung của Lê Duẫn “ , sách bằng tiếng Hoa , (BK : nhà xuất bản Nhân dân , 1982) .
6 . Hoàng văn Hoan , “Không được phép bóp méo sự thật về tình hữu nghị Việt-Trung trong thời chiến” , (BK : Nhân dân nhật báo , ngày 27/11/1979) : trang 1 , 5 .
12 . Allen Whiting , The Chinese Calculus of Deterrence , 1975 : trang 170-95 .
13. Nhân dân Nhật báo , BK , ngày 21/11/1979 : trang 4 .
24 . Theo thư của Allen Whiting gửi cho tác giả , ngày 9/4/1991 .