Wednesday, September 29, 2021

 Mahathir bin Mohamad (Jawiمحضير بن محمد‎, IPA: [mahaðɪ(r) mohamad]; born 10 July 1925) is a Malaysian politician, statesman, author, and doctor who served as the 4th and 7th prime minister of Malaysia, holding office from July 1981 to October 2003 and later from May 2018 to March 2020 for a cumulative total of 24 years, making him the country's longest-serving prime minister. Before his promotion to the premiership, he served as Deputy Prime Minister and in other Cabinet positions.


MAHATHIR = 41514512 = 23 = 5

BIN = 215 = 8

MOHAMAD = 4751414 = 26 = 8

Tuesday, September 28, 2021

ÔNG BÀ ĐẶNG VĂN THÀNH-HUỲNH BÍCH NGỌC QUA LĂNG KÍNH CỦA LTS

                            



1/ Dựa vào tên khai sanh.

ĐẶNG = 4153 = 13 = 4

VĂN = 615 = 12 = 3

THÀNH = 45155 = 20 = 2

Vì 4 + 3 + 2 nhỏ hơn 10 nên ta phải cộng: 13 + 12 + 20 = 45. Theo LTS, số 45 cùng nghĩa với số 27, cực kỳ may mắn. Sau đây là ý nghĩa của số này.

Gậy chỉ huy

Đây là một số xuất sắc, hài hòa, và may mắn của can đảm và quyền lực, với một nét quyến rũ (a touch of enchantment). Số này phù hộ cho người hay thực thể mà nó đại diện với một hứa hẹn về quyền lực và chỉ huy. Nó bảo đảm rằng các phần thưởng lớn sẽ đến từ những công việc hữu ích/có kết quả (productive labor), trí tuệ (intellect), và tưởng tượng, rằng những năng lực (faculty) sáng tạo đã gieo mầm tốt sẽ chắc chắn gặt hái một vụ mùa tốt (reap a rich harvest). Những ai hay thực thể đại diện bởi số 27 sẽ luôn luôn tiến hành những ý nghĩ và dự định riêng của họ, ko bị dọa nạt (intimidate) hay ảnh hưởng bởi ý kiến khác biệt hay chống đối từ kẻ khác. Đây là số do NGHIỆP TỐT, đã đạt được từ nhiều kiếp trước.

Dịch từ trang 261 của sách Linda Goodman's Star Signs.

2/ Dựa vào tên khai sanh của vợ ông.

HUỲNH = 56155 = 22 = giữ nguyên

BÍCH = 2135 = 11 = giữ nguyên

NGỌC = 5373 = 18 = 9

Cộng lại: 22 11 9 = 42. Theo LTS, số 42 đồng nghĩa với số 24, cực kỳ may mắn. Sau đây là ý nghĩa của số này.

TÌNH YÊU - TIỀN - SỰ SÁNG TẠO

1/ Người hoặc thực thể này là những người hưởng phúc đức, mà họ đã tạo ra từ nhiều kiếp trước. Họ được sự giúp đỡ cũng như có bạn bè giữ QUYỀN CAO , CHỨC TRỌNG. Họ đạt THÀNH CÔNG LỚN về tài chánh, và có được hạnh phúc trong tình yêu. Họ thành đạt trong các ngành văn chương, luật pháp, nghệ thuật, và có sự hấp dẫn mãnh liệt đối với người khác phái.

2/ a. Họ không nên BUÔNG THẢ, ĐAM MÊ trong các thú vui trần thế và có một sự KIÊU CĂNG nào đó trong tình yêu, trong những vấn đề tài chánh, nghề nghiệp; bởi vì mọi thứ đều đến với họ DỄ DÀNG NHƯ TRỞ BÀN TAY.

b. Nên khôn ngoan nhớ rằng nếu thực thể hay cá nhân này quá BUÔNG THẢ trong kiếp này, họ sẽ mang số 18 hay một ngày sinh xấu trong kiếp sau.

c. Người hay thực thể này không nên làm hỏng những ích lợi của số 23 hoặc 24, và cũng không nên để sự may mắn này dẫn đến sự ÍCH KỶ hoặc một thái độ COI THƯỜNG những giá trị tâm linh.

d. Phải nên tránh sự CÁM DỖ của đắm say trong nhục dục lệch lạc; cũng như khuynh hướng SA ĐỌA DƯỚI MỌI HÌNH THỨC (the temptation to indulge in promiscuity must be avoided; likewise a tendency to overindulgence of all kinds).

(Dịch từ trang 202 của sách Linda Goodman's Star signs)


Sunday, September 26, 2021

    



Chụp năm 1954 tại rạp Ciros ở Hà Nội sau ngày
 thủ đô được tiếp thu. Ảnh Mao trên cả HCM 
và Malenkov- thay thế Stalin trong thời gian
ngắn, sau đó làm thủ tướng từ 3/1953-2/1955. 

Đại bác phòng không 37 ly của TC diễn hành ngày 
thủ đô Hà Nội được tiếp thu.  
 


Saturday, September 25, 2021

 Thảm họa của dự án địa ốc Bel-Air


Năm 2011, Mohamed Hadid đã trả 1.9 triệu cho lô đất trên đỉnh đồi ở khu vực Bel-Air. Sau khi nộp đơn để xin phát triển, y đã lập tức nhận chống đối mạnh mẽ từ các láng giềng vì họ nghĩ rằng công trình này quá lớn và ảnh hưởng cảnh quan cả khu vực. Mohamed vẫn tiến hành xây phân nửa của biệt phủ (mansion) rộng 40.000 ft vuông, tương đương khoảng 3716 m2 có tên "Tàu Không Gian Enterprise". Công trình này bị kết tội (allegedly) đã vi phạm nhiều luật của tp và ko đúng (ignored) dự án đã được chấp thuận. Dự án ban đầu nhằm xây một tòa nhà rộng 11.300 ft vuông, tương đương khoảng 1.049 m2 và chiều cao là 30 ft, khoảng 9 m; nhưng y đã xây cao 24.9 m. Ông cũng xây một phòng chiếu IMAX ngầm dưới đất với 70 chỗ ngồi nhưng ko giấy phép. Ông cũng xây một từng ngầm với nhiều phòng ngủ mà ko phép xây dựng... và nhiều vi phạm khác. 





                                    



Wednesday, September 22, 2021

 "Số này không có ý nghĩa riêng của nó, nhưng ngoài việc có cùng tác động của số 24 (một số rất may mắn.-- người dịch) – còn có ma lực (magic) của tình yêu, mức độ/kích cỡ (extent) của sự độc đáo và sáng tạo, và những hứa hẹn của thành công sau cùng (eventual) về tài chính thì sâu rộng hơn (deepened and increased). Do có số 3 kép, nguời có tên bằng 33 thì may mắn hơn trong mọi mặt (every way) khi dính dáng tới việc hùn hạp hay làm ăn hài hòa ở dạng nào đó với nguời khác phái, điều này áp dụng trong nghề nghiệp cũng như những quan hệ lãng mạn và hôn nhân. Đây là số huởng NGHIỆP QUẢ TỐT TỪ KIẾP TRƯỚC. Nguời mang số 33 đuợc khuyên không nên lạm dụng sự may mắn gây kinh ngạc (astounding luck) này sẽ đến với họ vào một lúc nào đó (sometime) trong cuộc đời khi họ để sự may mắn này làm cho họ luời biếng, tin tuởng quá mức, và cảm giác tự tôn (superiority). Khi tinh thần hài huớc và khiêm tốn (humility) thật sự đi cùng với tác động của số 33, thì số này sẽ là số may mắn một cách kỳ lạ (wonderfully)"./.

Dịch từ trang 206 của sách Linda Goodman's Star Signs.


CHA ĐẺ CỦA DISNEYLAND-WALT DISNEY QUA LĂNG KÍNH CỦA LTS 



 Walter Elias Disney sinh ngày 5-12-1901-15/12/1966) là một doanh nhân (entrepreneur), người làm phim hoạt họa, văn sĩ, diễn viên lồng tiếng (voice actor), đạo diễn phim. Một người tiên phong trong kỹ nghệ phim hoạt họa Mỹ, ông đã đóng góp một số phát triển cho việc sản xuất phim hoạt họa. Là một nhà sản xuất phim, ông đã đạt kỷ lục về giải Oscar với 22 giải trên 55 lần được đề nghị. Ông cũng được hai Giải Thành tựu Đặc biệt Golden Globe và một Giải Emmy và nhiều giải khác. Một số phim của ông đã được lưu trữ trong thư viện quốc hội Mỹ. 

1/ Dù tên khai sanh của ông là Walter Elias Disney, nhưng tên thường dùng lại là Walt Disney.

WALT = 6134 = 14 = 5

DISNEY = 413551 = 19 = 10 = 1

Vì 5 + 1 = 8 nhỏ hơn 10 nên ta phải cộng: 14 + 19  = 33. 

Sau đây là ý nghĩa của số này.

"Số này không có ý nghĩa riêng của nó, nhưng ngoài việc mang đến sự tác động/ảnh huởng của số 24 (một số rất may mắn.-- người dịch) – còn có ma lực (magic) của tình yêu, mức độ/kích cở (extent) của sự độc đáo và sáng tạo, và những hứa hẹn của thành công sau cùng (eventual) về tài chính thì sâu rộng hơn (deepened and increased) số 24. Do có số 3 kép, nguời có tên bằng 33 thì may mắn hơn trong mọi mặt (every way) khi dính dáng tới việc hùn hạp hay làm ăn hài hòa ở dạng nào đó với nguời khác phái, điều này áp dụng trong nghề nghiệp cũng như những quan hệ lãng mạn và hôn nhân. Đây là số huởng NGHIỆP QUẢ TỐT TỪ KIẾP TRƯỚC. Nguời mang số 33 đuợc khuyên không nên lạm dụng sự may mắn gây kinh ngạc (astounding luck) này sẽ đến với họ vào một lúc nào đó (sometime) trong cuộc đời khi họ để sự may mắn này làm cho họ luời biếng, tin tuởng quá mức, và cảm giác tự tôn (superiority). Khi tinh thần hài huớc và khiêm tốn (humility) thật sự đi cùng với tác động của số 33, thì số này sẽ là số may mắn một cách kỳ lạ (wonderfully)"./.

2/ Phân tách tên của khu giải trí.

DISNEYLAND = 4 1 3 5 5 1 + 3 1 5 4 = 32. Sau đây là ý nghĩa của số này.

Sự giao tiếp (Communication)
Số này có quyền lực phi thuờng (magical power) ảnh huởng hay tác động đến quần chúng (sway masses of people) cũng như số 14, có sự giúp đỡ từ những nguời có địa vị cao cũng như số 23. Thêm vào đó là khả năng bẩm sinh lôi cuốn/thu hút đuợc (charm) kẻ khác bằng tài ăn nói có sức hấp dẫn mạnh mẽ (magnetic), và điều rõ ràng rằng tại sao số 32 đôi khi đuợc biết như, qua cách hiện đại hóa sự tuợng trưng của nguời xưa, là “quyền lực của chính trị gia“ (the politician's vibration). Sự phức tạp của ngành quảng cáo, viết văn, ấn loát, truyền thanh, và truyền hình không phải luôn luôn, nhưng thuờng trở thành dễ dàng (are an open book) cho nguời số 32, vì họ có khuynh huớng làm việc tốt duới áp lực. Nhưng cũng có một cảnh báo đáng ghi nhớ (a warning note sounded) bên trong âm điệu có vẻ êm ái này ( seemingly happy melody). 32 là một số rất may mắn nếu nguời, mà nó thay thế , giữ đuợc lập truờng kiên định (inflexibly) đối với những ý kiến và phán đoán của họ trong cả hai lãnh vực: nghệ thuật hay những thứ trừu tuợng và những thứ cụ thể (in both artistic or intangible matters and material matters). Nếu không là như vậy, những kế hoạch của họ có nguy cơ (are liable) bị làm hỏng (to be wrecked) bởi sự ngoan cố (stubbornness) và đần độn (stupidity) từ kẻ khác./.

===================

Đọc thêm: Walter Elias Disney (/ˈdɪzni/;[2] December 5, 1901 – December 15, 1966) was an American entrepreneur, animator, writer, voice actor, and film producer. A pioneer of the American animation industry, he introduced several developments in the production of cartoons. As a film producer, he holds the record for most Academy Awards earned by an individual, having won 22 Oscars from 59 nominations. He was presented with two Golden Globe Special Achievement Awards and an Emmy Award, among other honors. Several of his films are included in the National Film Registry by the Library of Congress.


Tuesday, September 21, 2021

 Emmanuelle Béart (born 14 August 1963)[1] is a French film and television actress, who has appeared in over 60 film and television productions since 1972. An eight-time César Award nominee, she won the César Award for Best Supporting Actress for the 1986 film Manon des Sources. Her other film roles include La Belle Noiseuse (1991), A Heart in Winter (1992), Nelly and Mr. Arnaud (1995), Mission: Impossible (1996) and 8 Women (2002).

EMMANUELLE = 5441565335 = 41 = 5

BEART = 25124 = 14 = 5

Monday, September 13, 2021

Ý nghĩa của số 9 

1 / Số 9 rung động với sao Hỏa (Mars). Nó tượng trưng cho hành động năng nổ (aggressive action), sự hiểu thấu (penetration), sự can đảm và xung đột. 9 cũng là số của sự độc đáo và sáng kiến (initiative). . . cũng như những nét tương phản của sự dễ tổn thương và sự ngây thơ (naivete).

Một người hay một thực thể được ảnh hưởng bởi số 9 nếu được sanh vào ngày 9, 18, hay 27 của bất cứ bất cứ tháng nào trong năm. Điều này cũng áp dụng cho tên của người hay thực thể cộng lại bằng 9. 

Những đặc tính của số 9 cũng sẽ tương tác với cá tánh của người và thực thể đó tùy vào các con giáp trong tử vi Tây phương của người hay thực thể đó . 

2 / 12 con giáp theo tử vi Tây phương:

Miên Dương (Aries) từ 20/3 đến 20/4. Kim Ngưu (Taurus)  từ 20/4 đến 21/5. Song Nam (Gemini) từ 21/5 đến 21/6. Bắc Giải (Cancer) từ 21/6 đến 22/7. Hải Sư (Leo) từ 22/7 đến 23/8. Xử Nữ (Virgo) từ 23/8 đến 23/9. Thiên Xứng (Libra) từ 23/9 đến 23/10. Hổ Cáp (Scorpio) từ 23/10 đến 22/11. Nhân Mã (Sagittarius) từ 22/11 đến 21/12 . Nam Dương (Capricorn) từ 21/12 đến 20/1. Bảo Bình (Aquarius) từ 20/1 đến 19/2. Song Ngư (Pisces) từ 19/2 đến 20/3. 


3 / Nếu con giáp theo tử vi Tây phương của bạn là:

Miên Dương: số 9 sẽ gia tăng cường độ của con giáp này.

Thiên Xứng: số 9 đôi khi đối nghịch với con giáp này, nhưng với cố gắng , có thể cân bằng với tính cách của con giáp này.

Hải Sư, Song Nam, Nhân Mã, Bảo Bình : số 9 sẻ hài hòa với những con giáp này .

Nam Dương, Bắc Giải, Kim Ngưu, Xử Nữ, Hổ Cáp, và Song Ngư: Số 9 sẻ tương phản gay gắt với phần cơ bản của những con giáp này. Khi  đặc tính của số 9 xuất hiện vào một dịp nào đó ở người thuộc những con giáp này, tánh tình của họ lúc ấy không bình thường, nếu so với đặc tính của con giáp của họ, làm cho chính họ cũng như người khác ngạc nhiên.


4/ Ý nghĩa của số 9: 


Định nghĩa sau đây của số 9 áp dụng cho người cũng như các thực thể (entity). Người số 9 không phải là cứng đầu/ngoan cố (stubborn), nhưng họ có quyết tâm  phải đạt được cái gì họ muốn, và đó là sự khác biệt. Sự cứng đầu/ngoan cố phản ứng (react) và sự quyết tâm bắt đầu/khởi động (initiate). Số 9 mang lại cho họ  khuynh hướng HAY BỐC ĐỒNG (impulsive) và có những quyết định chớp nhoáng (snap decision), sau đó lại hối tiếc  (regretted). Mặc dù sự tức giận này (temper) sẽ xuất hiện hơi thường xuyên, những người này nhanh chóng tha thứ và quên một tổn thương/xúc phạm (injury). Đối với kẻ thù, họ dễ bị tổn thuơng bởi vì bản năng đầu tiên của họ là tin vào mọi người. Vì họ thẳng thắng (direct) như vậy đối với họ, họ cũng trông đợi những người khác cũng như vậy - và thường những người khác lại không. Sự không thẳng thắng (deviousness)  và mánh mung (manipulation) luôn luôn gây sốc đối với người số 9. Như một định luật chung, họ không có những tính chất như vậy, và sự bất lương (dishonesty) thường xảy ra cho họ gần như mọi lúc (catches them off guard nearly every time),  cho đến khi họ học cách nên cẩn thận hơn. 


Một trong những đức tính hữu ích nhứt của số 9 là khả năng đi thẳng vào cốt lõi của một vấn đề thay vì phải đi vòng vo (indulging of circumlocution) và quá trình phân tích chậm chạp. Sao Hỏa, sao chiếu mệnh của số 9 cho phép những người này đi thẳng vào vấn đề một cách nhanh chóng, và cũng chính điều này khiến họ cực kỳ thiếu kiên nhẫn đối những người suy nghĩ chậm chạp, và cũng làm cho họ khó lấy cảm tình của đám đông (which doesn’t help them win popularity contests). Thật vậy, sự mất kiên nhẫn với lỗi lầm của người khác và thói quen nhanh chóng đi thẳng vào vấn đề là một trong những tính tình mà họ cảm thấy khó làm chủ.


Khẩu hiệu (catch phrase) quen thuộc “bạn sẽ có được những gì bạn thấy" mô tả một cách hoàn hảo cá tính (personality) của người số 9 (khi nó xuất hiện để tương tác với với con giáp theo tử vi Tây phương) bởi vì họ hoàn toàn không có sự lươn lẹo (guile). Họ không thích có những kế hoạch/chiến lược (strategy) phức tạp hoặc có những mưu mẹo (play game) để đạt những gì họ muốn từ kẻ khác. Họ chỉ cần yêu cầu là có ngay cái họ muốn (It’s so much easier to simply demand what that want). Vì sự thẳng thắng/trực tiếp (straightforwardness) như vậy thường không được nghĩ tới  bởi người khác, người số 9 thường đạt được những gì họ muốn qua việc gây bất ngờ cho đối phương (by catching the opposition by surprise). Nhiều người xúc động (are touched) bởi sự dễ bị tổn thương (visible vulnerability) và tính tình như trẻ con (childlike quality) của người số 9, và cảm thấy phải bảo vệ (feel protective) đối với họ; trong khi đó những người khác lại xem những tính tình này là điên rồ/khùng (foolish), và đây là một trong những lý do khiến người số 9 ít khi được thật sự tôn trọng (truly respected) bởi các bạn bè và đồng nghiệp - cho tới khi tính nóng nảy của sao Hỏa (Mars) và tinh thần can đảm của họ xuất hiện (comes forth), như một tiếng kèn xung trận (battle cry), và những người đã đánh giá thấp năng lực thuần khiết (pure energy) của người số 9 sẽ phải thụt lui một bước vì sốc và ngạc nhiên.


Họ cũng có một khuynh hướng mạnh mẽ là thích khoe khoang/hư danh/kiêu căng (strong tendency toward vanity). Ít nhứt cũng ở bề ngoài/diện mạo của họ. Nhưng người số 9 không phải là thích khoe khoang/tự phụ, ngay cả dù cho họ nhìn nhận rằng gần như họ thường xuyên quan tâm đến bề ngoài của họ (even though they are admittedly almost constantly concerned with their appearance). Nguồn gốc thật sự của thái độ này là nỗi sợ bị từ chối/loại bỏ (fear of rejection), bởi vì, bên dưới vẻ gan lỳ này (all their bravado), trong nội tâm của người số 9, họ đang run rẩy vì thiếu tự tin (inwardly tremble with a lack of confidence). Dù họ có thể tỏ ra rất quả quyết (self-assertive), họ cần sự tái bảo đảm liên tục rằng họ được thích - kính trọng - thán phục - và yêu ( liked - respected - admired - and loved). Với sự khăng khăng/nhất định (pushiness) và dáng vẻ độc lập (independent air), họ đang che dấu sự rất mong manh của họ (they’re secretly very unsure of themselves). Rộng lượng/dễ tha thứ đối với một  lỗi lầm và thông thường tiêu tiền hoang phí (trừ phi con giáp theo tử vi Tây phương của họ xóa bỏ tính tình này trong phần lớn thời gian . . . mặc dù nó vẫn hiện hữu trong một số cơ hội hiếm hoi trong bất cứ ai thuộc nhóm số 9). (Generous to a fault and normally extravagant (unless the Sun Sign cancels this trait most of the time . . . although it will still be evident on rare occasions in anyone born as Number 9). Người số 9 không cần ai dạy cho họ cách ban tặng/giúp đỡ kẻ khác. Bản năng đầu tiên của họ là cho, là buông xả/không luyến tiếc (let go), và là sống vô tư không cần biết đến ngày mai (let tomorrow take care of itself)./. 

(Dịch từ quyển Linda Goodman’s Star Signs từ trang 244-247) . 

San Jose ngày 15 tháng 2 năm 2010 - mùng 2 Tết Canh Dần - lúc 9:35 tối. Sửa lại ngày Sep 13 2021.

 Ý NGHĨA CỦA SỐ 8

Số 8 rung động với sao Thổ (Saturn). Nó tượng trưng cho sự khôn ngoan, học hỏi qua kinh nghiệm, sự ổn định, kiên nhẫn, và trách nhiệm. Số 8 cũng là số của an toàn  tài chánh, sự cẩn thận/đề phòng, sự hạn chế (restriction), tự chế và tự chủ (self-discipline and self-control). 

Một người hoặc thực thể chịu ảnh hưởng bởi số 8 nếu sinh vào ngày 8, 17, hoặc 26 trong tháng (các tên họ cộng lại bằng như vậy cũng chịu ảnh huởng bởi số 8) .

Số 8 tuơng tác với 12 con giáp (tuổi) trong tử vi tây phuơng:

- Capricorn (tuổi Nam dương): Số 8 sẽ gia tăng cường độ những cá tính của tuổi này. 

- Cancer (tuổi Bắc Giải): Số 8 đôi khi đối nghịch với tuổi này, nhưng với cố gắng, có thể cân bằng với bản tính tuổi này.

- Pisces, Scorpio, Virgo, Taurus (tuổi  Song ngư, Hổ cáp, Xử nữ, Kim ngưu):  Số 8 hòa hợp tốt với các tuổi này.

- Aries, Libra, Gemini, Leo, Sagittarius, Aquarius (tuổi Miên dương, Thiên xứng, Song nam, Hải sư, Nhân mã, Bảo bình): Số 8 tương phản gay gắt với bản tính của những tuổi này. Thỉnh thoảng những đặc tính của số 8 xuất hiện nơi  người thuộc các tuổi này, tánh tình lúc đó của họ sẽ bất thuờng, nếu so với tánh tình thuờng lệ của nguời thuộc các tuổi  này; (những đặc tính này) sẽ gây ngạc nhiên nơi người khác, cũng như chính nguời số 8. 

   TÍNH TÌNH CỦA NHÓM SỐ 8 

Định nghĩa sau đây của số 8 áp dụng cho nguời và thực thể. Nguời số 8 trầm lặng (quiet), dè dặt (reserved), và nhút nhát. Họ tỏ ra không kiên  quyết lắm (they don't obviously push ahead), nhưng từ từ và chắc chắn họ sẽ đi đến  mục tiêu, và không gì có thể ngăn họ đạt đuợc tham vọng của họ. Sự nhút nhát và ít nói (reticence) là bình phong cho một nỗ lực cuồng nhiệt (intense drive) để đạt đỉnh cao trong nghề nghiệp (profession or career). Họ là thày giáo và nhà tư vấn xuất sắc, phần lớn họ có thể thành công trong  hoạt động chánh trị đầy gai gốc (tough game of politics), mặc dù thỉnh thoảng cũng gặp thất bại (although now and then there's a sour apple in the barrel) – và họ vuợt trội (excel) ở bất cứ điều gì đòi hỏi kiên nhẫn và sự suy diễn thông minh (intelligent deduction).

Những nguời ảnh huởng bởi số 8 có thể có sức khỏe xấu khi thơ ấu, nhưng họ trở nên khỏe mạnh hơn khi truởng thành (maturity), và đàn ông và đàn bà số 8 thuờng sống lâu. Họ chịu khó (are willing) chờ đợi cho tới khi kế hoạch thành công, và họ dùng thời gian chờ đợi một cách khôn ngoan (wisely). Rất ít khi thấy nguời số 8 trì hoản (procrastinating of “goofing off”). Họ có một ý thức bẩm sinh (inborn sense) về bổn phận (duty) và trách nhiệm, (điều này) không cho phép họ có một thái độ bất cẩn (careless) đối với điều gì mà họ trông đợi. 

Phần lớn nhửng nguời sanh duới ảnh huởng của số 8 thì đáng tin cậy (reliable) như cái đồng hồ to để đứng  (grand-father clock), và cũng ấm áp  gần gủi  như cái mền bông (quilt) hay chăn bông (conforter) của bà (grandma).

Họ giàu tính hài huớc (rich sense of humour), nhưng bạn phải canh chừng mới thấy đuợc, vì (điều này) rất khó thấyvà không bao giờ lộ rõ (subtle and never obvious). Họ làm như  không để ý bất cứ điều gì (behave as if they don't care a peanut) mà mọi nguời nghĩ về họ, và họ cũng có vẻ không đón nhận các lời khen (be turned off by compliments), tuy vậy, trong nội tâm (inwardly) họ để ý/quan tâm rất nhiều đến những gì mà nguời khác nghĩ về họ, và nếu nhửng lời khen này thành thật, họ bí mật đón chào chúng, mặc dù họ sẽ dấu niềm vui của họ, vì sợ rằng họ có thể bị xem là yếu đuối (be considered weak). Bị coi như yếu đuối chắc chắn  phải là điều cuối cùng mà họ muốn xảy ra (the very last thing they want to happen) .

Dù cho  tác động của số 8, giống như tất cả số đơn (từ 1 đến 9)  của các ngày sanh, luôn luôn tuơng tác với con giáp (theo tử vi tử phuơng) của nguời đó, những đặc tính (trait) cuả số 8  không luôn luôn có mặt – mà chỉ xuất hiện đôi khi (on occasion) – thì  phần lớn nguời số 8 có những đặc  tính rất sâu sắc và mãnh liệt (very deep and intense natures) và sức mạnh nội tâm lớn lao (great inner strength). Những đặc tính trên thuờng đóng một vai trò quan trọng trong những biến cố của cuộc đời của nguời này (in life's drama), và nhiều phen là công cụ của Định Mệnh (instrument of Fate)  đối với kẻ khác. Họ có khuynh huớng tiến tới cuồng tín (fanaticism) trong tôn giáo, và họ sẽ bám chặt một cách kiên cuờng (relentlessly) vào điều mà họ tin tuởng, bất chấp mọi chống đối (in the face of all opposition). Họ có nhiều nguời yêu mến họ, nhưng cũng có nhiều kẻ thù sâu đậm (bitter enemy). 

Mặc dù nguời số 8 có vẻ (appear)  lạnh lùng và không thổ lộ tâm tình (cold and undemonstrative) với những nguời họ yêu và tin tuởng, nhưng họ lại có thể tỏ ra trìu mến trong sự bẽn lẽn (shyly affectionate) và nhiệt tình  hết lòng (warmly devoted). Họ thuờng cô đơn, và họ khát khao (needing desperately) đuợc yêu, và họ có thể chấp nhận hy sinh lớn lao (great sacrifice) cho một lý tuởng, một tham vọng, hoặc cho những nguời trông cậy (depend) vào họ. Dù đã lớn tuổi, họ vẫn trẻ trung ở diện mạo cũng như tánh tình (they grow younger in appearance and behavior as they grow older) – ở độ tuổi 50, họ có dáng vẻ và hành động với sự trẻ trung hơn cả lúc họ 20 tuổi (they look and act younger at fifty than they did when they were twenty). Họ có đòi hỏi cao (they're as demanding) đối với chính họ cũng như đối với nguời khác, nhưng dù cho họ có bày tỏ tất cả thái độ khôn ngoan và truởng thành  (maturity), tự-chủ (self-control), và kỷ luật, quả tim của nguời số 8 vẫn cô đơn và khát khao (longing), và họ cần biết rằng đeo đuổi hạnh phúc không phải là tội lỗi.

(Dịch xong lúc 11:26 sáng ngày 03/04/2010 từ trang 243-244 của quyển Linda Goodman's Star Signs. Sửa lại ngày Sep 13 2021).


Số 3 rung động cùng nhịp với sao Jupiter (Sao Mộc). Số này tượng trưng cho chủ nghĩa lý tưởng (idealism), học vấn cao (higher education), du lịch nước ngoài, và tôn giáo. 3 là số của sự lạc quan, di chuyển, sự bành trướng/mở rộng.

Một người hay thực thực thể chịu ảnh hưởng bởi số 3 nếu sanh vào ngày 3, 12, 21, và 30 trong tháng. Người hay thực thể sanh ngày 3 (như TT Diệm) được đánh dấu (stamped) bởi dấu ấn ĐẶC TRƯNG (distinctive) của số 3. Cũng như vậy đối với những người sanh ngày 12, 21, và 30 trong tháng, nhưng những người này lại CHỊU THÊM tác động của các số 12, 21, và 30. Điều này cũng đúng đối với tên cộng lại bằng 3, 12, 21, và 30.


Những đặc điểm của số 3 sẽ định kỳ biểu lộ (periodically exhibited) bởi người hay thực thể số 3, và sẽ tương tác với nhân cách của người hay thực thể đó theo nhiều cách khác nhau, tùy theo tuổi theo tử vi Tây phương của họ.


Nếu tuổi theo tử vi tây phương của bạn là:


- Sagittarius (Nhân mã): Số 3 sẽ gia tăng cường độ cá tính/tính nết  (personality) của tuổi này.


- Gemini (Song nam): Số 3 đôi khi đối nghịch với cá tính của tuổi này, nhưng, với cố gắng, có thể được dùng để cân bằng với bản tính/bản chất/tính tình (nature) của tuổi này.


- Aries, Leo, Aquarius, Libra (Miên dương, Hải sư, Bảo bình, Thiên xứng): Số 3 sẽ hài hòa với cá tính của tuổi này.


- Pisces, Virgo, Capricorn, Scorpio, Taurus, Cancer (Song ngư, Xử nữ, Nam dương, Hổ cáp, Kim ngưu, Bắc giải): Số 3 sẽ tương phản gay gắt với cá tính căn bản của những tuổi này. Khi thỉnh thoảng nó xuất hiện trong cá tính của những người này, tánh tình của họ sẽ bất thường, nếu so với cá tính thường ngày của họ; và tánh tình này sẽ gây ngạc nhiên những kẻ khác, và thường gây ngạc nhiên cho cả chính họ.


                                                                          TÍNH TÍNH CỦA NGƯỜI THUỘC NHÓM 3 


Định nghĩa sau đây của số 3 áp dụng cho người và thực thể. Người số 3 đặt mỗi hành động (ngay cả khi họ hướng dẫn sai/misguided và hành động này là tiêu cực) trên nền tảng của một lý tưởng lớn lao (great ideal). Họ coi trọng sự thật (aim high for truth), không gì ngoài sự thật sẽ thỏa mãn họ, dù đó là việc tìm kiếm sự thật của một cuộc tình, tình bạn, nghề nghiệp, chính trị, hay tôn giáo. Họ không dễ dàng bị đình hoãn/trì hoãn (put off by) bởi những câu trả lời thoái thác/lẩn tránh (evasive) hoặc sự lừa dối (deception), và họ có thể phát hiện ra (spot) một sự lừa dối (lie), một sự bóp méo (distortion), sự không thành thật/lương thiện (dishonesty) cách xa cả dặm. Một số người trong họ đạt được mục tiêu của sự thật, một số khác bị lạc đường/lạc hướng (misled) khi tin tưởng vào những ảo tưởng của chính họ, nhưng họ không ngừng tìm kiếm. Người số 3 thì độc lập một cách mãnh liệt (fiercely), tìm kiếm sự hoàn toàn tự do về phát biểu và di chuyển, và không thể bị ràng buộc (cannot be tied down). Du lịch là một tất yếu tuyệt đối (absolute necessity), qua việc đi cùng với những người khác để thăm viếng thế giới (mingling with others and seeing  the world), qua việc học hỏi mọi thứ để sao có thể biết mọi đất nước và con người, mọi khái niệm về kiến thức (intellectual concept), mọi triết học.


Họ có khuynh hướng nhìn vào khía cạnh tươi sáng của mọi việc, và sự lạc quan của họ có tính lây lan (contagious). Ngay cả người thuộc tuổi Nam Dương với ngày sanh là 3 (như TT Diệm) sẽ gây sốc cho chính họ khi thỉnh thoảng họ có những bộc phát của sự lạc quan tuyệt đối (sheer Pollyanna optimism).


Bởi vì sự tìm kiếm sự thật đầy sáng chói này, người số 3 hoặc là một kẻ theo chủ nghĩa hoài nghi (agnostic), một kẻ vô thần, hay mãnh liệt HIẾN DÂNG (intensely devoted) cho một nguyên tắc tôn giáo, ví dụ: nữ tu, mục sư (minister), thầy tu/tăng (monk) , giáo sĩ Do thái (rabbi), thầy tu (priest). TÔN GIÁO là một phần quan trọng trong cuộc đời của người hay thực thể số 3, dù cho tôn giáo đó được họ chấp nhận một cách nhiệt thành, cuồng tín hay bị họ từ chối một cách cay đắng (whether religion is fervently, fanatically accepted or bitterly rejected). Thái độ của họ không bao giờ trung lập.


Sự thách đố về thể chất (physical challenge) truyền cảm hứng (inspires) cho người hay thực thể số 3; vì vậy thể thao đóng một vai trò quan trọng. Người số 3 với  ngôn ngữ thẳng thắn/toạc móng heo sẽ gây sửng sốt (cho bạn) (shockingly blunt of speech), họ lại bộc trực/thật thà đối với một lỗi lầm (candid to a fault), và họ (cảm thấy) bị xúc phạm/lăng nhục đối với sự lừa dối/trò hai mặt dưới mọi hình thức (and outraged at duplicity of any kind). Họ chân thật yêu mến súc vật (genuine love for animals) và có một khuynh hướng mạnh mẽ bảo vệ người bị áp bức (underdog human) cũng với sự tấm lòng trung thành/trung kiên mà họ đã bày tỏ với chó, ngựa và những thú cưng khác của họ (the same loyalty they show to their dogs, horses, and other pets). Họ có sự lãnh đạm/thờ ơ đặc trưng đối với quan hệ gia đình (a marked indifference to family ties), và hôn nhân chỉ hạnh phúc khi được hoàn toàn tự do (marriage works only when freedom is total). Người số 3 có liên quan/liên kết với những thử thách về sức mạnh  thể chất (tests of physical strength), cờ bạc, trò chơi may rủi, như ở các sòng bạc hoặc ở sàn của thị trường chứng khoán. Người hay thực thế số 3 sẽ đánh cá/cuợc hầu  như trên mọi thứ (take a chance or bet on just about anything). Tính lạc quan sôi nổi của họ có tính lây lan gây khoái cảm (their bubbing optimism is delightfully contagious).


Người hay thực thể số 3 thường biểu lộ một sự pha trộn không đều giữa một triết gia khôn ngoan và một anh hề vô tư lự (an odd blend of the wise philosopher and the happy-go-lucky clown), đôi khi họ thiếu ý thức trách nhiệm. Một số nào đó trong các mục đích, giấc mơ, và tham vọng thì quan trọng (đối với họ), một số khác thì tầm phào/hảo huyền/vớ vẩn (others are silly and frivolous). Theo đuổi một nền giáo dục/học vấn là chuyện quan trọng (matters a great deal) đối với người số 3, và họ cảm giác bị tan nát (they are crushed) khi họ bị từ chối vào một viện nghiên cứu (they’re denied the halls of higher learning) vì bất cứ lý do gì. Họ sẽ trở thành luật sư xuất sắc, bởi vì sao Mộc (Jupiter), đại diện bởi số 3, thống trị  ngành luật ./.


Dịch xong lúc 11:03 tối ngày 04-06-2010, từ trang 230-232 của quyển Linda Goodman’s Star Signs.


Sửa lại ngày Sep 13 2021.

Sunday, September 12, 2021

 NGUYỄN = 7

TẤN = 415 = 10 = 1

TẠO = 417 = 12 = 3

THÁI LAN VÀ VIỆT NAM QUA LĂNG KÍNH CỦA LTS


Hoàng hậu Sirikit của Thái: thuở nhỏ theo cha là ĐS Thái ở Anh. Lúc đó bà 13 tuổi và học piano, tiếng Anh và Pháp. Sau đó gia đình đến Đan Mạch và Pháp, tại đây bà học nhạc. Tại Paris, bà gặp vua Bhumibol Adulyadej. Hai người thành hôn tại Bangkok tháng 4/1950 lúc bà chưa tới 18. Sau đó 2 người về Thụy Sĩ để tiếp tục học.

Thay thế các chữ bằng trị số tương ứng, ta có.

1/ THAILAND = 45113154 = 24 = rất may mắn.

TÌNH YÊU - TIỀN - SỰ SÁNG TẠO

1/ Người hoặc thực thể này là những người hưởng phúc đức, mà họ đã tạo ra từ nhiều kiếp trước. Họ được sự giúp đỡ cũng như có bạn bè giữ QUYỀN CAO , CHỨC TRỌNG. Họ đạt THÀNH CÔNG LỚN về tài chánh, và có được hạnh phúc trong tình yêu. Họ thành đạt trong các ngành văn chương, luật pháp, nghệ thuật, và có sự hấp dẫn mãnh liệt đối với người khác phái.

2/ a. Họ không nên BUÔNG THẢ, ĐAM MÊ trong các thú vui trần thế và có một sự KIÊU CĂNG nào đó trong tình yêu, trong những vấn đề tài chánh, nghề nghiệp; bởi vì mọi thứ đều đến với họ DỄ DÀNG NHƯ TRỞ BÀN TAY.

b. Nên khôn ngoan nhớ rằng nếu thực thể hay cá nhân này quá BUÔNG THẢ trong kiếp này, họ sẽ mang số 18 hay một ngày sinh xấu trong kiếp sau.

c. Người hay thực thể này không nên làm hỏng những ích lợi của số 23 hoặc 24, và cũng không nên để sự may mắn này dẫn đến sự ÍCH KỶ hoặc một thái độ COI THƯỜNG những giá trị tâm linh.

d. Phải nên tránh sự CÁM DỖ của đắm say trong nhục dục lệch lạc; cũng như khuynh hướng SA ĐỌA DƯỚI MỌI HÌNH THỨC (the temptation to indulge in promiscuity must be avoided; likewise a tendency to overindulgence of all kinds).

(Dịch từ trang 202 của sách Linda Goodman's Star signs)

2/ VIỆT NAM:

VIET = 6154 = 16 = 7

NAM = 514 = 10 = 1 

Vì 7 cộng 1 nhỏ hơn 10 nên ta phải cộng 16 với 10 sẽ bằng 26. Đây là một số xấu, thuộc nhóm trả nợ dồn, gồm các số 4-8-13-17-22-26 và 31. Sau đây là ý nghĩa của số này. 

SỰ HÙN HẠP LÀM ĂN (PARTNERSHIPS)
Số kép nầy sẽ rung động, bằng một cách lạ kỳ, đưa tới một quyền lực độc đáo của thân ái/tử tế (kind power), (quyền này) đặt căn bản trên lòng nhân đạo (compassion) và sự không ích kỷ, với khả năng giúp đỡ những nguời khác, nhưng không luôn luôn giúp đuợc bản thân mình. Số 26 thì đầy mâu thuẫn. Nó cảnh báo về những nguy hiểm, thất vọng (disappointment), và thất bại, đặc biệt liên quan đến những tham vọng, gây ra (brought about) thông qua sự cố vấn sai lầm, liên kết với những kẻ khác, và những sự hùn hạp làm ăn không khéo chọn/không thích hợp (unhappy) dù lớn hay nhỏ. Nếu 26 là số kép của tên, điều tốt nhứt là đổi tên để có một ảnh huởng may mắn hơn. Nếu 26 là ngày sanh, và vì vậy không thể thay đổi, nguời này nên tránh hùn hạp làm ăn, và nên đeo đuổi nghề nghiệp một mình, không nghe theo sự cố vấn dù cho đầy thiện ý (well-intended) từ những kẻ khác, nhưng chỉ theo những linh cảm (hunch) và trực giác cá nhân – mặc dù những điều này nên đuợc tìm hiểu cẩn thận truớc khi hành động. Nguời số 26 nên ngay lập tức bắt đầu ổn định lợi tức, tiết kiệm tiền, không nên có thói quen tiêu xài hoang phí (behave in a extravagant manner) hoặc đầu tư dựa vào ý kẻ khác. Hãy đầu tư vào chính tuơng lai của bạn, hãy rộng luợng với kẻ khác, đặc biệt là nguời đang hoạn nạn (in need), nhưng cũng xây dựng một nền tảng vững chắc cho tuơng lai của chính bạn. Nếu tên cộng lại bằng 26, hay nếu bạn sanh vào ngày 26, bạn nên cẩn thận đọc phần nói về số 4 và 8 ở cuối chương này. (2 cộng 6 bằng 8, do đó 26 = 8). Đây là lời khuyên quan trọng nhứt cho bạn-- hay bất cứ ai bạn biết mà tên bằng 4 hay 8, hay ai sanh vào ngày 8 tây--hay bất cứ ngày nào rút gọn thành 4 hay 8, như là 13, 17, 22, 26 và 31. 
Dịch từ trang 203 của Linda Goodman's Star Signs.

San Jose ngày 29 tháng 3 năm 2010.

Saturday, September 11, 2021

Nữ diễn viên Jun Ji-hun qua lăng kính LTS. 

Jun Ji-hyun (born Wang Ji-hyun on 30 October 1981), also known by her English name Gianna Jun.

                                      

   

                       







1/ Tên khai sanh: Wang Ji-hun  

WANG = 6153 = 15 = 6

JI-HUN = 11565 = 18 = 9

Cộng lại: 6 + 9 = 15 = rất may mắn. 

Sau đây là ý nghĩa của số này.

NHÀ ẢO THUẬT (THE MAGICIAN)

15 là số có ý nghĩa huyền bí (esoteric) sâu xa, của sự rung động của thuật giả kim (alchemy) qua đó tất cả ma thuật được bày tỏ (all magic is manifested). Số này cực kỳ may mắn và mang theo nó đặc tính làm say mê kẻ khác (essence of enchantment). 15 đi đôi với tài hùng biện, sự khéo ăn khéo nói, và những tài năng về âm nhạc, nghệ thuật, và kịch nghệ. Số này ban cho (bestows upon) người mang số này một tính khí bất ngờ hay đầy kịch tính (dramatic temperament) và sự hấp dẫn hay thu hút (charisma) cá nhân mạnh mẽ và kỳ lạ. Số 15 đặc biệt may mắn vì nhận được tiền, quà tặng, những giúp đỡ từ những kẻ khác, vì số này có sự thu hút mạnh mẽ đối với tính vị tha của người khác. Tuy nhiên, không hoa hồng nào lại không có gai, và người xưa cảnh báo rằng số 15 sẽ điều khiển những mức thấp của khoa huyền bí học (lower level of occultism) khi nó liên kết với số 4 hoặc 8. Những người như thế sẽ có thể dùng ma thuật (black magic), thôi miên, và sự dẫn dụ về tinh thần – để thực hiện mục tiêu của họ. Do đó, nếu 15 là ngày sanh, là tên cộng là 4, 13, 22, hoặc 31, thì bạn nên đổi tên sao cho nó bằng một số có thể thu nhỏ bằng 1, như số 10 hoặc 19. Nếu ngày sanh là 15, và tên bằng 8, 17, hoặc 26, thì bạn nên đổi tên sao cho nó bằng 6 hay 24. Nếu tên bằng 15, và bạn lại sanh ngày 4, 8, 13, 17, 22, 26, và 31, bạn nên đổi tên thành 6 hay 24. Ngoài sự cảnh báo trên, số 15 rất may mắn. Nếu bạn sanh ngày 15, và tên cũng bằng 15, bạn được ban cho khả năng mang hạnh phúc đến kẻ khác và đưa ánh sáng vào nơi tối tăm, với điều kiện là bạn không dùng tác động kỳ diệu và may mắn này cho các mục đích vị kỷ./.

Dịch từ quyển Linda Goodman’s Sun Signs nơi trang 252-253.

2/ Nghệ danh: Jun Ji-hun

JUN = 165 = 12 = 3

JI-HUN = 11565 = 18 = 9

Cộng lại: 3 9 = 12. 



 Ý NGHĩA CỦA SỐ 8

Số 8 rung động với sao Thổ (Saturn). Nó tượng trưng cho sự khôn ngoan  học hỏi qua kinh nghiệm, sự ổn định, kiên nhẫn, và trách nhiệm. Số 8 cũng là số của an toàn  tài chánh, sự cẩn thận /đề phòng, sự hạn chế (restriction), tự chế và tự chủ (self-discipline and self-control). 

Một người hoặc thực thể chịu ảnh hưởng bởi số 8 nếu sinh vào ngày 8, 17, hoặc 26 trong tháng (các tên họ cộng lại bằng như vậy cũng chịu ảnh huởng bởi số 8) .

Số 8 tuơng tác với 12 con giáp (tuổi) trong tử vi tây phuơng:

- Capricorn (tuổi Nam dương): Số 8 sẽ gia tăng cường độ những cá tính của tuổi này. 

- Cancer (tuổi Bắc Giải): Số 8 đôi khi đối nghịch với tuổi này, nhưng với cố gắng, có thể cân bằng với bản tính tuổi này.

- Pisces, Scorpio, Virgo, Taurus (tuổi  Song ngưu, Hổ cáp, Xử nữ, Thiên/Kim ngưu):  Số 8 hòa hợp tốt với các tuổi này.

- Aries, Libra, Gemini, Leo, Sagittarius, Aquarius (tuổi Miên dương, Thiên xứng, Song nam, Hải sư, Nhân mã, Bảo bình): Số 8 tương phản gay gắt với bản tính của những tuổi này. Thỉnh thoảng những đặc tính của số 8 xuất hiện nơi  người thuộc các tuổi này, tánh tình lúc đó của họ sẽ bất thuờng, nếu so với tánh tình thuờng lệ của nguời thuộc các tuổi  này; (những đặc tính này) sẽ gây ngạc nhiên nơi người khác, cũng như chính nguời số 8. 

    TÍNH TÌNH CỦA NHÓM SỐ 8 

Định nghĩa sau đây của số 8 áp dụng cho nguời và thực thể. Nguời số 8 trầm lặng (quiet), dè dặt (reserved), và nhút nhát. Họ tỏ ra không kiên quyết lắm (they don't obviously push ahead), nhưng từ từ và chắc chắn họ sẽ đi đến mục tiêu, và không gì có thể ngăn họ đạt đuợc tham vọng của họ. Sự nhút nhát và ít nói (reticence) là bình phong cho một nỗ lực cuồng nhiệt (intense drive) để đạt đỉnh cao trong nghề nghiệp (profession or career). Họ là thày giáo và nhà tư vấn xuất sắc, phần lớn họ có thể thành công trong hoạt động chánh trị đầy gai gốc (tough game of politics), mặc dù thỉnh thoảng cũng gặp thất bại (although now and then there's a sour apple in the barrel) – và họ vuợt trội (excel) ở bất cứ điều gì đòi hỏi kiên nhẫn và sự suy diễn thông minh (intelligent deduction).

Những nguời ảnh huởng bởi số 8 có thể có sức khỏe xấu khi thơ ấu, nhưng họ trở nên khỏe mạnh hơn khi truởng thành (maturity), và đàn ông và đàn bà số 8 thuờng sống lâu. Họ chịu khó (are willing) chờ đợi cho tới khi kế hoạch thành công, và họ dùng thời gian chờ đợi một cách khôn ngoan (wisely). Rất ít khi thấy nguời số 8 trì hoản (procrastinating of “goofing off”). Họ có một ý thức bẩm sinh (inborn sense) về bổn phận (duty) và trách nhiệm, (điều này) không cho phép họ có một thái độ bất cẩn (careless) đối với điều gì mà họ trông đợi. 

Phần lớn những nguời sanh duới ảnh huởng của số 8 thì đáng tin cậy (reliable) như cái đồng hồ to để đứng  (grand-father clock), và cũng ấm áp  gần gủi như cái mền bông (quilt) hay chăn bông (conforter) của bà nội/ngoại (grandma).

Họ giàu tính hài huớc (rich sense of humour), nhưng bạn phải canh chừng mới thấy đuợc, vì (điều này) rất khó thấy và không bao giờ lộ rõ (subtle and never obvious). Họ làm như  không để ý bất cứ điều gì (behave as if they don't care a peanut) mà mọi nguời nghĩ về họ, và họ cũng có vẻ không đón nhận các lời khen (be turned off by compliments), tuy vậy, trong nội tâm (inwardly) họ để ý/quan tâm rất nhiều đến những gì mà nguời khác nghĩ về họ, và nếu những lời khen này thành thật, họ bí mật đón chào chúng, mặc dù họ sẽ dấu niềm vui của họ, vì sợ rằng họ có thể bị xem là yếu đuối (be considered weak). Bị coi như yếu đuối chắc chắn  phải là điều cuối cùng mà họ muốn xảy ra (the very last thing they want to happen).

Dù cho  tác động của số 8, giống như tất cả số đơn (từ 1 đến 9)  của các ngày sanh, luôn luôn tuơng tác với con giáp (theo tử vi tử phuơng) của nguời đó, những đặc tính (traits) cuả số 8 không luôn luôn có mặt – mà   chỉ xuất hiện đôi khi (on occasion)  – thì  phần lớn nguời số 8 có những đặc  tính rất sâu sắc và mãnh liệt (very deep and intense natures) và sức mạnh nội tâm lớn lao (great inner strength). Những đặc tính trên thuờng đóng một vai trò quan trọng trong những biến cố của cuộc đời của nguời này (in life's drama), và nhiều phen là công cụ của Định Mệnh (instrument of Fate)  đối với kẻ khác. Họ có khuynh huớng tiến tới cuồng tín (fanaticism) trong tôn giáo, và họ sẽ bám chặt một cách kiên cuờng (relentlessly) vào điều mà họ tin tuởng, bất chấp mọi chống đối (in the face of all opposition). Họ có nhiều nguời yêu mến họ, nhưng cũng có nhiều kẻ thù sâu đậm ( bitter enemies) . 

Mặc dù nguời số 8 có vẻ (appear)  lạnh lùng và không thổ lộ tâm tình (cold and undemonstrative) với những nguời họ yêu và tin tuởng, nhưng họ lại có thể tỏ ra trìu mến trong  sự  bẽn lẽn (shyly affectionate) và nhiệt tình  hết lòng (warmly devoted). Họ thuờng cô đơn , và họ khát khao  (needing desperately) đuợc yêu , và họ có thể chấp nhận hy sinh lớn lao (great sacrifices) cho một lý tuởng , một tham vọng , hoặc cho những nguời trông cậy (depend)  vào họ . Dù đã lớn tuổi , họ vẫn trẻ trung ở diện mạo cũng như tánh tình (they grow younger in appearance  and behavior as they grow older) – ở  độ tuổi  50 , họ có dáng vẻ và hành động với sự trẻ trung hơn cả lúc họ 20 tuổi (they look and act younger at fifty than they did when they were twenty) . Họ có đòi hỏi cao (they're as demanding) đối với chính họ cũng như đối với nguời khác , nhưng dù cho họ có bày tỏ  tất cả thái độ  khôn ngoan và  truởng thành  (maturity) , tự-chủ (self-control) , và kỷ luật , quả tim của nguời số 8 vẫn cô đơn và khát khao (longing) , và họ cần biết rằng đeo đuổi hạnh phúc không phải là tội lỗi .

(Dịch xong lúc 11:26 sáng ngày 03/04/2010 từ trang 243-244 của quyển Linda Goodman's Star Signs).


 Ý nghỉa của số 3

Số 3 rung động cùng nhịp với sao Jupiter (Sao Mộc) . Số này tượng trưng cho chủ nghỉa lý tưởng (idealism) , học vấn cao (higher education) , du lịch nước ngoài , và tôn giáo . 3 là số của sự lạc quan , di chuyển , sự bành trướng/mở rộng .

Một người hay thực thực thể chịu ảnh hưởng bởi số 3 nếu sanh vào ngày 3 , 12 , 21 , và 30 trong tháng . Người hay thực thể sanh ngày 3 được đánh dấu (stamped) bởi dấu ấn đặc trưng của số 3 . Củng như vậy đối với nhửng người sanh ngày 12 , 21 , và 30 trong tháng ,nhưng nhửng người này lại chịu thêm tác động của các số 12 , 21 , và 30 . Điều này củng đúng đối với tên cộng lại bằng 3 , 12 , 21 , và 30 .

Nhửng đặc điểm của số 3 sẻ định kỳ biểu lộ (periodically exhibited) bởi người hay thực thể số 3 , và sẻ tương tác với nhân cách của người hay thực thể đó theo nhiều cách khác nhau , tùy theo tuổi theo tử vi Tây phương của họ .

Nếu tuổi theo tử vi tây phương của bạn là :

Sagittarius (Nhân mảo) : Số 3 sẻ gia tăng cường độ cá tính /tính nết  (personality)  của tuổi này .

Gemini (Song nam) : Số 3 đôi khi đối nghịch với cá tính của tuổi này , nhưng , với cố gắng , có thể được dùng để cân  bằng với bản tính/bản chất/tính tình (nature)  của tuổi này .

Aries , Leo , Aquarius , Libra (Miên dương , Hải sư , Bảo bình , Thiên xứng ) : Số 3 sẻ hài hòa với cá tính của tuổi này .

Pisces , Virgo , Capricorn , Scorpio , Taurus , Cancer (Song ngư , Xử ngử , Nam dương , Hổ cáp , Kim ngưu , Bắc giải ) : Số 3 sẻ tương phản gay gắt với cá tính căn bản của nhửng tuổi này . Khi thỉnh thoảng nó xuất hiện trong cá tính của nhửng người này , tánh tình của họ sẻ bất thường , nếu so với cá tính thường ngày của họ ; và tánh tình này sẻ gây ngạc nhiên nhửng nhửng kẻ khác , và thường gây ngạc nhiên cho cả chính họ .

                                                                          

                                              TÍNH TÍNH CỦA NGƯỜI THUỘC NHÓM 3 

Định nghỉa sau đây của số 3 áp dụng cho người và thực thể  . Người số 3 đặt mổi hành động (ngay cả khi họ hướng dẩn sai/misguided và hành động này là tiêu cực) trên nền tảng của một lý tưởng lớn lao (great ideal)  . Họ coi trọng sự thật  (aim high for truth) , không gì ngoài sự thật sẻ thỏa mản họ , dù đó là việc tìm kiếm sự thật của một cuộc tình , tình bạn , nghề nghiệp , chính trị , hay tôn giáo . Họ không dể dàng bị đình hoản/trì hoản  (put off by)  bởi nhửng câu trả lời thoái thác/lẩn tránh (evasive) hoặc sự lừa dối (deception) , và họ có thể phát hiện ra (spot) một sự lừa dối (lie) , một sự bóp méo (distortion) , sự không thành thật/lương thiện (dishonesty) cách xa cả dặm . Một số người trong họ đạt được mục tiêu của sự thật , một số khác bị lạc đường/lạc hướng (misled) khi tin tưởng vào nhửng ảo tưởng của chính họ , nhưng họ không ngừng tìm kiếm . Người số 3 thì độc lập một cách mảnh liệt (fiercely) , tìm kiếm sự hoàn toàn tự do về phát biểu và di chuyển , và không thể bị ràng buộc (cannot be tied down) . Du lịch là một tất yếu tuyệt đối (absolute necessity) , qua việc đi cùng với nhửng người khác  để thăm viếng thế giới (mingling with others and seeing  the world) , qua việc học hỏi mọi thứ để sao có thể biết mọi đất nước và con người , mọi khái niệm về kiến thức (intellectual concept) , mọi triết học .

Họ có khuynh hướng nhìn vào khía cạnh tươi sáng của mọi việc , và sự lạc quan của họ có tính lây lan (contagious) . Ngay cả người thuộc tuổi Nam Dương (Capricorn) với ngày sanh là 3 sẻ gây sốc cho chính họ khi thỉnh thoảng họ có nhửng bộc phát của sự hoàn toàn lạc quan .

Bởi vì sự tìm kiếm sự thật đầy sáng chói này , người số 3 hoặc  là một kẻ theo chủ nghỉa hoài nghi (agnostic) , một kẻ vô thần , hay mảnh liệt dành hết /hiến dâng (intensely devoted) cho một nguyên tắc tôn giáo , ví dụ : nử tu , mục sư (ministers) , thầy tu /tăng (monks) , giáo sỉ Do thái (rabbi) , thầy tu (priests) . Tôn giáo là một phần quan trọng trong cuộc đời của người hay thực thể số 3 , dù cho tôn giáo đó được họ chấp nhận một cách nhiệt thành , cuồng tín hay bị họ từ chối một cách cay đắng (whether religion is fervently , fanatically accepted or bitterly rejected) . Thái độ của họ không bao giờ trung lập .

Sự thách đố về thể chất (physical challenge) truyền cảm hứng (inspires) cho người hay thực thể số 3 ; vì vậy thể thao đóng một vai trò quan trọng . Người số 3 với  ngôn ngử thẳng thắn/toạt móng heo sẻ gây sửng sốt (cho bạn) (shockingly blunt of speech ) , họ lại bộc trực/thật thà đối với một lổi lầm (candid to a fault) , và họ (cảm thấy) bị xúc phạm/ lăng nhục đối với sự lừa dối/trò hai mặt  dưới mọi hình thức (and outraged at duplicity of any kind) . Họ chân thật yêu mến súc vật (genuine love for animals) và có một khuynh hướng mạnh mẻ bảo vệ người bị áp bức (underdog human)  củng với sự tấm lòng trung thành/trung kiên mà họ đả bày tỏ với chó , ngựa và nhửng thú cưng khác của họ (the same loyalty they show to their dogs , horses , and other pets) . Họ có sự lảnh đạm/thờ ơ đặc trưng đối với quan hệ gia đình (a marked indifference to family ties) , và hôn nhân chỉ hạnh phúc khi được hoàn toàn tự do (marriage works only when freedom is total) . Người số 3 có liên quan /liên kết với nhửng thử thách về sức mạnh  thể chất (tests of physical strength) , cờ bạc , trò chơi may rủi , như ở các sòng bạc hoặc ở sàn của thị trường chứng khoán . Người hay thực thế số 3 sẻ đánh cá/cuợc hầu  như trên mọi thứ (take a chance or bet on just about anything) . Tính lạc quan sôi nổi của họ có tính lây lan gây khoái cảm (their bubbing optimism is delightfully contagious) .

Người hay thực thể số 3 thường biểu lộ một sự pha trộn không đều giửa một triết gia khôn ngoan và một anh hề vô tư lự (an odd blend of the wise philosopher and the happy-go-lucky clown) , đôi khi họ thiếu ý thức trách nhiệm . Một số nào đó trong các mục đích , giấc mơ , và tham vọng thì quan trọng (đối với họ) , một số khác thì tầm phào/hảo huyền /vớ vẩn (others are silly and frivolous) . Theo đuổi một nền giáo dục/học vấn là chuyện quan trọng (matters a great deal) đối với người số 3 , và họ cảm giác bị tan nát (they are crushed) khi họ bị từ chối vào một viện nghiên cứu (they’re denied the halls of higher learning)  vì bất cứ lý do gì . Họ sẻ trở thành  luật sư xuất sắc  , bởi vì sao Mộc (Jupiter) , đại diện bởi số 3 , thống trị  ngành  luật ./.

             (Dịch xong lúc 11:03 tối ngày 04-06-2010 , từ trang 230-232 của quyển Linda Goodman’s Star Signs) . 


 Adolf Hitler (German: [ˈadɔlf ˈhɪtlɐ] (About this soundlisten); 20 April 1889 – 30 April 1945) was an Austrian-born German politician who was the dictator of Germany from 1933 to 1945. He rose to power as the leader of the Nazi Party,[a] becoming Chancellor in 1933 and then assuming the title of Führer und Reichskanzler in 1934.[b] During his dictatorship, he initiated World War II in Europe by invading Poland on 1 September 1939. He was closely involved in military operations throughout the war and was central to the perpetration of the Holocaust, the genocide of about six million Jews and millions of other victims.

ADOLF = 14738 = 23 = 5

 HITLER = 514352 = 20 = 2 

Vì 5 + 2 = 7 nhỏ hơn 10 nên ta phải cộng: 23 với 20, thành 43. 

Eva Anna Paula Hitler (née Braun; 6 February 1912 – 30 April 1945) was the longtime companion of Adolf Hitler and was, for fewer than 40 hours, his wife. 

eva = 561 = 12 = 3

braun = 22165 = 16 = 7

bánh xe định mạng

Wednesday, September 8, 2021

Beyonce Giselle Knowles[a]


September 4, 1981 (age 40)

HoustonTexas, U.S.

BEYONNCE = 25175535 = 33
KNOWLES = 2576353 = 31 = 4

Tuesday, September 7, 2021

 Nguyễn Cơ Thạch tên khai sinh là Phạm Văn Cương, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1921 tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông tham gia Tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên Phản đế tại Nam Định (1937–1939), bị thực dân Pháp bỏ tù tại Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1940-1945).

Monday, September 6, 2021

 Sinh ngày 25/2/1973.

PHAN = 8515 =19 = 1

VĂN = 615 = 12 = 3

MÃI = 411 = 6

Cộng lại: 1 3 6 = 10 = bánh xe định mạng. 

  Kính dâng Thầy Hoàng Tiến Bảo

                                                                           (Cố Giáo Sư Trường Y Sàigòn trước 1975)

 

LỜI PHI LỘ: Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.

                                              Đào Như – Bác sĩ Đào Trong Thể    

         

                                                                                     ***  

 

Võ Thành Phụng! Bây giờ anh ở đâu? Còn khỏe không? Dù sao đi nữa, khi anh đọc được những dòng hồi kí ngắn của tôi sau đây về Nội Trú Bịnh Viện Bình Dân những năm 68-70, anh cũng không đến nổi giận tôi. Mà có giận, cũng chả sao. Biết làm sao bây giờ. Viết về Nội Trú Bình Dân trong khoảng thời gian trên, mà không có Võ Thành Phụng thì chán chết, mất đi hứng thú như buổi lễ tốt nghiệp Trường Y Sàigòn mà không có Vũ Sexy!

    Võ Thành Phụng không phải là gương mặt gồ ghề nhất, nổi nhất, trong hàng ngũ Nội Trú Bình Dân thời ấy, nhưng anh là gương mặt đặc biệt. Anh vào nội trú vào năm 66-67 đúng vào lúc phái bộ AMA của Mỹ tại Sàigòn (AMA-SAIGON) quan tâm đến cơ cấu tổ chức của Trưởng Y Saigòn. Họ rất thành khẩn muốn chấn chỉnh lại Trường Y Saigon từ cơ cấu tổ chức đến chương trình giảng dạy (curriculum) của trường. Nhưng họ cũng biết rằng không dể gì làm chuyện đó, khi ảnh hưởng của Tây còn quá mạnh. Còn Trường Y Saigon lúc đó còn chủ quan, chưa học được bài học của sự sụp đổ của Đệ Nhất Cộng Hòa, cái chết của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và hai bào đệ của ông, không chịu hiểu rằng khó mà cưỡng lại ý muốn của người Mỹ, nhất là những ý muốn của AMA tại Sàigòn (AMA-SAIGON) trong trường hợp này xem chừng rất có lý. Chúng ta phải hiểu người Mỹ chứ. Họ làm sao vui vẻ được khi họ bỏ tiền ra xây cất một Trường Y Saigon đẹp, thiết bị tối tân và tiến bộ, để rồi các ông giáo sư người Pháp và giáo sư người Việt thân Pháp dạy sinh viên Y khoa Saigòn với ngôn ngữ Pháp và dạy theo chương trình và tư tưởng Pháp. Nhưng ngặt một điều là, Trường Y Saigòn và bịnh viện Bình dân Saigòn liên hệ với nhau như anh em sanh đôi. Ai cũng biết, tiền thân của bịnh viện Bình Dân Sàigòn là bịnh viện Phù Doãn, Hà nôi. Nhưng trước 75, mấy ai trong chúng ta được biết Bịnh Viện Bình Dân Sàigòn là bịnh viện duy nhất trực thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục Sàigòn. Bịnh viện Bình dân Saigòn liên hệ mật thiết với Trường Y Saigon. Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trưởng Khối Phẫu Thuật của bịnh viện Bình Dân còn được gọi là Khối Phẫu Thuật “B”, Ông cũng là Khoa Trưởng Trường Y Sàigon. Những bịnh viện khác: Chợ Rẫy, Nguyễn Văn Học, Nhi Đồng, Từ Dủ, Hùng Vương, Hồng Bàng, Chơ Quán...đều trực thuộc bộ Y-tế. Giáo sư Trần Quang Đệ, Trưởng Khối Phẫu Thuật của bịnh viện Chợ Rẫy, còn được gọi là Khối Phẩu Thuật “A”, trực thuộc bộ Y tế. Giáo sư Trần Quang Đệ lại cũng là Viện Trưởng Viện Đại Học Saigon. Viện Đại Học Sàigon trực thuộc Bô Quốc Gia Giáo Dục, đứng trên chóp bu Trường Y Saigòn. Hai khối phẫu thuật “A” và “B” lớn nhất của Saigòn thời ấy làm việc riêng rẻ, không hề liên hệ hay hợp tác với nhau trong một công trình nghiên cứu nào cả. Mỗi người một giang sơn, việc ai nấy lo. Hai ông Trưởng Khối Phẫu thuật “A”và”B” không nhìn nhau qua một đường thẳng, mà họ phải nhìn nhau qua một đường chéo ngoằn ngoèo. Đó là cái lối sắp xếp tréo cẳng ngỗng như vậy của mấy quan Tây thực dân trước khi họ rút.

     Không hiểu, bàng quan thiên hạ thì sao, bản thân tôi, mãi đến năm 1989 tôi mới biết được những điều kỳ bí ở trên là nhờ tôi đọc quyển sách: SAIGON MEDICAL SCHOOL do ba                                                                                                                                                         người viết: C.H.William Ruhe M.D, Norman William Hoover M.D. và Ira Singer PhD, Hội Đoàn Bác Sĩ Mỹ, AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988. Chắc các bạn còn nhớ Bác sĩ: Norman W. Hoover? Có một thời ông ta dược coi như là Dean của Trưòng Y Sàigòn. Chúng ta luôn luôn nhớ câu nói ‘để đời’ của giáo sư Nguyễn Hữu trước khi ông rời khỏi khu Nội trú Bình dân, đi Pháp: “Có Nguyễn Hữu thì không có Hoover, có Hoover thì không có Nguyễn Hữu”! Có người nào đó vô tình diễn dịch câu ấy thoát ý: “Có Tây thì không có Mỹ, có Mỹ thì không có Tây”. Đó là hậu quả của sắc luật do ông Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ ban hành: bãi bỏ chức năng Khoa Trưởng Trường Y, thế vào đó bằng một ủy ban (Faculty Committee) gồm có 5 người do ông ta chỉ định! Nhận định về sắc luật này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết:

     “Dean Phạm Bieu Tam, MD, a man who was revered for his academic achievement, he had been the first and only Dean of the University Of Saigon Faculty of Medicine, and he had held office for 13 years, was removed by governmental fiat in violation of the charter of the University, on the pretext that he favored the use of foreign language for instruction..” (1)

     Cách chức một giáo sư Khoa Trưởng sau 13 năm tựu chức, có nhiều uy tín và được nhiều người mến mộ và kinh phục, chỉ vì ông ta cho phép được dùng tiếng ngoại quốc để giảng dạy. Ai cũng hiểu đó không phải là lý do chính đáng. Chắc chắn phải có những thúc đẩy, những áp lực khác sau lưng Tướng Kỳ. Chín năm sau, chính Tướng Kỳ thú nhận, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL tiết lộ:

     “Nine years later he was to write: ‘It appeared lately that the background of the Coup de Faculté was more complex and it would need some research for anyone to have a clear picture! (2)

      Sắc luật của Tướng Kỳ (3-1967) ra đời vô tình trùng hợp với sư có mặt của Hobbart A. Reimann, MD, tại Saigon, tháng 2-1967...Tháng 6-1967, Norman W.Hoover, bác sĩ phẫu thuật chấn thương và chỉnh trực của trường y thời danh, Mayo Clinic, thuộc bang Minnesota Mỹ đến Saigon. Bác sĩ Hoover liền được chỉ định thay thế bác sĩ Reimann làm giám đốc (Field Director) của AMA-SAIGON. Nhân đây tôi muốn giới thiệu một vài dòng về thân thế và tầm cỡ của bác sĩ Norman W. Hoover. Muốn biết rõ thân thế và tầm cỡ của một người nào, điều thìch hợp nhất là chúng ta chỉ cần biết qua thân thế và sự nghiệp của người mà họ thay thế. Tôi muốn nói để biết rõ bác sĩ.Hoover chúng ta chỉ cần biết thân thế và sự nghiệp của bác sĩ Reimann, giám đốc AMA

-SAIGON lúc ấy mà bác sĩ Hoover thay thế. Nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL lược thuật thân thế của bác sĩ Reimann như sau:

      “The First Field Director (AMA-SAIGON) was Hobart A. Reimann, MD, who had a long and distinguished career as professor of medicine at the Minnesota, Jefferson, and Hahnemann medical colleges, and experience abroad with the China Medical Board at Peking Union Medical College, and in Lebanon, Indonesia, Iran, Afghanistan, and Honduras ...His arrival in Saigon (February 1967) coincided with important changes in medical administration ordered by Prime Minister Nguyen Cao Ky (3-1967). The Dean of the medical school was dismissed and replaced by a faculty committee...” (3)

       Hobbart A. Reimann, MD, bề thế kinh nghiệm, dạn dày như vậy mà vẫn bị Norman W. Hoover, MD, thay thế. Như thế thì ta biết Hoover, MD, là ‘tay cự phách’ như thế nào! Tôi và các Nội-trú bịnh viện Bình Dân của những năm 68-70 vinh dự được bác sĩ Norman W. Hoover và Giáo sư bác sĩ Hoàng Tiến Bảo trường Y Saigon, cầm tay chỉ dạy kỹ thuật điều trị bịnh lao cột sống (Pott’s Disease) bằng phẫu thuật (Hogdson’s Operation). Tôi được giáo sư bác sĩ Norman W. Hoover gửi tặng quyển sách SAIGON MEDICAL SCHOOL vào năm 1989 từ văn phòng AMA ở đường Dearborn, Chicago. 

       Sau sắc luật của Tướng Kỳ, là cú Mậu Thân. Saigòn hổn loạn và Trường Y thật xô bồ, kẻ lên người xuống, chà đạp nhau. Kẻ theo Tây, người theo Mỹ. Ai hơn, ai thua thì không biết, chỉ có sinh viên Trường Y bị thiệt thòi: Trường đóng cửa liên miên. Lợi dụng sinh viên, bên này bắt chẹt bên kia, bãi khóa đình công dài dài. Bịnh viện Bình Dân được xây cất giữa Quận Ba Saigòn, trên đường Phan Thanh Giản, gần chợ Vườn Chuối và khu Bàn Cờ, một khu đông dân nhất của Saigòn thuở ấy. Nằm giữa một “Saigòn Tạp Pín Lù” vào thời ấy, bịnh viện Bình Dân làm sao tránh khỏi ảnh hưởng của thời cuộc. Dù vậy, khu nội trú cửa Bịnh viện Bình dân lúc nào cũng hoạt động hăng say, chặt chẽ, nghiêm túc.

      Vâng, Võ Thành Phụng là một gương mặt đặc biệt! Không đặc biệt sao được? Anh là người Nam, dám làm nội trú của Khoa Chấn Thương và Chỉnh Trực tại bịnh viện Bình Dân và “patron” của anh là Giáo sư Thạc Sĩ Trần Ngọc Ninh, một Conservator người Bắc, ông cũng là đương nhiệm Bộ Trưởng-Văn Hóa. Tôi là bạn chí thân với Võ Thành Phụng từ thời năm PCB. Tuy nhiên sau này tôi ở lại lớp nhiều lần cho nên khi Võ Thành Phụng vào Nội trú, tôi còn ở năm thứ Ba. Võ thành Phụng là người sống tự lập. Những năm anh học y khoa anh sống bằng nghề précepteur, kèm trẻ tại tư gia các gia đinh người Pháp tại Saigon. Anh được trả lương rất là hậu hỉ. Những năm 61-63, tôi biết, khi đó, tiền anh kiếm bằng nghề dạy học được lắm, gần bằng lương bộ-trưởng cùng thời. Dĩ nhiên anh phải là rất xuất sắc về Toán. Anh rất đam mê về khoa học. Những cô đầm học trò của anh thuôc thế hệ Yé Yé thời đó, thật xinh đẹp. Có cô sau một năm học trở thành người yêu của thầy. Cũng YéYé, cũng ra riết lắm! 

     Tôi nhớ lại, tôi được nhận làm nội trú ủy nhiệm vào khỏang đầu năm học 69, sau khi tôi bị tai nạn xe Jeep nhà binh Mỹ cán gẫy kín xuơng đủa và sai khớp cổ chân trái, hồi cuối Mậu Thân. Lúc ấy tôi đang học năm thứ tư. Tôi được Thầy Hoàng Tiên Bảo điều trị. Nhớ ơn Thầy và cũng vì bản thân đã một lần chịu đựng tai biến của chấn thương, nên đầu năm thứ năm tôi xin đầu quân làm nội trú ủy nhiệm  khu  chấn  thương  và  chỉnh  trực  tại bịnh viện  Bình Dân.  Khi được nhận làm nội trú ủy nhiêm, tôi tìm hiểu ngay những sinh viên nội trú đang ở trong khu nội trú (dorm) bịnh viện Bình Dân. Tôi rất ngạc nhiên bác sĩ Nghiêm Đạo Đại và ông lão làng nội trú Võ Thành Phụng vẫn còn trong dorm nội trú Bình dân. Khi gia nhập vào khu nội trú, tôi luôn nhớ nhập tâm là tôi là người lớn tuổi nhất trong khu nội trú và tôi cũng là người duy nhầt là nội trú ủy nhiệm (interne fonctionnel) tất cả anh em đều nội trú thực thụ (interne titulaire). Biết phận mình, tôi rất thủ thế. Tôi được may mắn, bác sĩ nguyên nội trú, Nghiêm Đạo Đại, cho tôi vô ở cùng chung phòng với anh. Nội trú Võ Thành Phụng liên tiếp nhiều năm được bầu làm chủ tịch, “xếp sòng” của khu nội trú. Anh cũng là ‘ông bầu” của những cuộc vui của khu nội trú. Giáo sư Đào Đức Hoành là người trực tiếp chịu trách nhiệm tinh thần và tổ chức của Khu Nội Trú Bình Dân. Dĩ nhiên giáo sư Đào Đức Hoành nhiều khi phải đối phó chật vật với nội trú Võ thành Phụng, một trưởng khu nội trú chịu chơi và quá cởi mở! Anh em nội trú cho tôi hay, trước đó, giáo sư Đào Đức Hoành nhiều lần khiển trách nội trú Võ Thành Phụng là anh đã tổ chức những cuộc vui cuối năm trong khu nội trú với Vũ Sexy, anh làm bại hoại và suy đồi đạo đức của sinh viên nội trú. Nhưng nói là nói vậy, sau đó giáo sư Đào Đức Hoành lúc nào cũng quí nội trú Võ Thành Phụng, một nội trú tài ba và tận tụy của bịnh viện Bình Dân trong mấy năm qua. Còn về Võ Thành Phụng, anh ấy bảo với anh em: “Thầy là cha mẹ răn đe con cái, là chuyện thường. ‘Moi’ muốn làm sao cho anh em mình vui là được rồi”. Đó là trật tự sẵn có, được sắp xếp trong nhiều năm của khu nôi trú Bình dân, trước khi tôi dọn vào hồi tháng 8/1969…

     Tôi cũng xin nói thêm về anh lao công của khu nội trú Bình dân, anh Tư Dược. Tư Được nom có vẻ gầy, chân đi hàng hai, răng hô, anh đem một vợ và ba con nhét vào trong một phòng 6 mét vuông, dành cho y công, ăn và ở trong bịnh viện luôn! Tư Được chăm sóc vệ sinh của khu nội trú và đồng thời anh cũng chăm sóc cà phê buổi ăn sáng, ăn trưa và ăn tối của sinh viên nội trú. Cà phê của anh làm cho chúng tôi uống, thật đặc biệt. Nếu nó đắng thì cũng may vì nếu ai có chút tâm hồn lãng mạn khi nghe ‘Ly Cà Phê Đắng’ thì cũng thích thích. Đằng này không. Nó chua và chát, mầu đen sẫm, uống vào nghe nó nhờ nhợ. Nhưng uống mãi rồi cũng quen và chúng tôi cho nó một cái tên nghe rất thời trang:’Cà Phê Tư Được

     Cũng như toàn thể sinh viên nội trú thuộc bịnh viện Bình dân trong những năm 67, 68, 69, nội trú Võ Thành Phụng làm việc thật là hăng say. Anh chấp hành nghiêm chỉnh những phương án điều trị của các giáo sư cho bịnh nhân, anh chăm sóc và chịu trách nhiệm Phòng Ngoại Chẩn của Chấn Thương và Chỉnh trực. Anh thăm bịnh phòng thuộc khu phận sự bác sĩ Patron của anh. Trong những ‘ca’ mổ chọn lọc (elective surgery) dành cho giáo sư ‘patron’ của anh, nội trú Võ Thành Phụng bao giờ cũng vô phòng mổ trước, lo sửa soạn bịnh nhân cẩn thận. Anh luôn luôn là người ‘First Aid’ cho ông ta trong những ‘ca’ mổ của ông ta tại bịnh viện Bình dân, cũng như những bịnh viện tư ở ngoài: Saint Paul, Triều Châu, Sùng Chính v.v. Những sinh viên nội trú của Khu Ung Thư, Giải phẩu Tổng quát, Tiết niệu cũng làm như vậy tương xứng với Patron của họ. Tôi thấy anh cũng như tất cả các sinh viên nội trú khác, tất bật túi bụi cả ngày, chạy từ bệnh phòng, lên phòng mổ, chăm nom phòng ngoại chẩn, phụ các giáo sư dạy lâm sàng cho các sinh viên đi thực tập. Anh cũng là chuyên viên thuyết trình những Cas Presentation. Trong những dịp tổ chức hội hè: cuộc vui cuối năm, Giáng sinh, Tết nhất, hay những dịp Lễ Tốt Nghiệp Y Khoa Saigòn mà không có Võ Thành Phụng nhúng tay vào là chắc chắn mất vui. Anh là “ông bầu” của những tiết mục hấp dẫn, nhất là Vũ Sexy. Anh thường hay say li bì. Mỗi chiều, cứ đúng sáu giờ chiều và không phải trực, anh lên phòng nội trú, tắm rửa, ăn diện vào, lái chiếc Lambretta ra ngòai ăn tối ở một nhà hàng nào đó. Sau đó ghé thăm em út. Khuya nào anh về cũng say mèm. Bước vào lầu nội trú là anh la ó om xòm! Năm đầu còn có người dám chỉ trích anh, hay phàn nàn, nhưng sau rồi anh em cũng quen.Vã lại càng về sau các nội trú mới, càng kính nể anh, vì ai cũng biết cái tánh hay say rượu rất dể thương của anh. Chỉ có tôi là bạn lâu đời của anh, tôi chưa hề thấy anh ấy say sưa lần nào. Về chuyện này, anh hoàn toàn giữ kín với tôi. Còn vấn đề bạn gái thì anh ấy chân thành công khai. Vào những tối cuối tháng mười năm 70, tôi không hiểu tại sao Võ Thành Phụng say li bì, khuya nào cũng say và la ó om sòm. Có một tối anh về lúc khuya, anh say khước dựng chiếc xe Lambretta không nỗi. Bước vào lầu ba, lầu nội trú, anh la ó om xòm, Rồi một lúc, vào khoảng 5 phút sau, anh vào phòng anh, anh im bặt. Tôi sợ anh ấy, có khi quá chén anh bị trụy tim mạch không chừng. Tôi bèn xô cửa phòng anh bước vào. Võ Thành Phụng đang ngồi bên cạnh bóng đèn chong thức, hai tay ôm đầu. Nghe bước chân tôi, anh ngước mắt nhìn tôi, bất ngờ anh hỏi:

‘Toi’ có biết hồi trưa này?

-  Hồi trưa này là sao?

-  Hồi trưa này một nhóm sinh viên y và có cả các thầy giáo nữa họ có ý kéo đến văn phòng khoa trưởng Phan Tấn Tước, hình như họ làm áp lực muốn ông ấy. .. đi!

 - ‘Moi’ biết ‘toi’ quí giáo sư PhanTấn Tước!

Võ Thành Phụng vụt đứng dậy, chạm phải cây đèn. Cây đèn chao chao rồi ngã xướng chân giường. Anh quát lớn:

- Trời ơi! Thích hay không thích! Quý hay không quí cái mẹ gì! Từ ngày bãi nhiệm giáo sư Phạm Biểu Tâm đến bây giờ, kẻ lên người xuống, máu đổ thịt rơi. Hai giáo sư bị giết chết chỉ trong vòng hai tháng. Họ ném một sinh viên từ trên lầu xưống. Chết ngắt! Bây giờ họ muốn gì? Họ muốn gì? Họ muốn giềt những ai nữa đây? Họ muốn giết các Thầy còn lại nữa sao? Anh quát tháo ầm ỉ. Anh đuổi tôi ra khỏi phòng. Anh ngồi xuống hai tay bưng mặt khóc rưng rưng. Tôi đến dựng lại cây đèn, dìu anh đến nằm trên giường, kéo chăn đắp ấm cho anh. Anh nghiêng người, tôi thấy quần anh ướt. Anh say quá rồi. Tôi thương anh vô hạn. Tôi đi nhẹ vế phòng, lên giường nằm, cố ru giấc ngủ. Bây giờ là hơn hai giờ sáng. Tôi nghe Nghiêm Đạo Đại đang ngon giấc. Anh thở thật đều. Anh đang ngủ, một giấc ngủ vô cùng bình yên. Tôi nghĩ về Nghiêm Đạo Đại…Tôi nghĩ về Võ Thành Phụng…Hai người đều là những con người ưu tú của ‘Xã-Hội-Sinh Viên Y-Khoa Saigon’thời ấy, thông minh, kiệt xuất, thương người, hy sinh cho sự nghiệp Y học. Nhưng tại sao bề ngòai các anh khác nhau nhiều quá. Người thì có đời sống hài hòa an lạc, kẻ thi có cuộc sống đầy xôn xao giao động. Tôi đi vào giấc ngủ với một thoáng bâng khuâng. Sáng hôm sau, nhìn đồng hồ thấy đã hơn 8 giờ, bác sĩ Nghiêm Đạo Đại đã xuống thăm bịnh phòng từ sáng sớm, tôi vội mặc áo chạy qua phòng nội trú Võ Thành Phụng xem sao?. Tôi thấy anh chàng trong áo blouse trắng, thơm phức. Anh ngước mắt nhìn tôi. Tôi bảo:                    

- ‘Moi’ đến mời ‘toi’ một chầu “Cà phê Tư Được” đây.

Võ Thành Phụng đi theo tôi, vừa cúi xuống rót cà phê, anh vừa nhìn xuống lầu nơi bãi đậu xe. Anh la lớn:

- Không được! Tên nào nghịch quá trời, xô xe lambretta của ‘moi’ ngã.

- ‘Toi’ có chắc không? Hồi khuya đêm qua, ‘ông’ ngất ngưỡng trở về, dựng xe đâu có nổi!

- Đêm qua ‘moi’ về sớm, ngủ hết biết!

Và anh vụt chạy xuống lầu. Tôi nhìn theo anh. Tôi mừng. Anh không còn nhớ những gì xảy ra trong đêm qua.

 

      Sau gần 40 năm, khi ngồi lại viết đến giai đọan này tôi vẫn còn ngậm ngùi khi nghĩ về Võ Thành Phụng, người bạn chí thân của thời tuổi trẻ. Tôi hồi tưởng lại những gì xảy tại Trường Y Sàigòn trong những năm tháng 67-70 và sau đó. Những thay đổi, những xáo trộn của nhà trường đã ảnh hưởng tai hại và đau thương trong trên tâm hồn người sinh viên y khoa thuở đó.  Giáo sư Phạm Biểu Tâm, một vị lương y mẩu mực, được mọi người ngưỡng vọng, sau 13 năm giử chức Khoa Trưởng Trường Y, bị bãi nhiệm năm 67. Một ủy ban gồm năm người do tướng Kỳ chỉ định, thay thế ông. Ba tháng sau có một cuộc bình bầu giữa năm người trong ủy ban đó: giáo sư Ngô Gia Hy, giáo sư Trần Anh, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, giáo sư Lê Minh Trí và bác sĩ Nguyễn Thế Minh. Kết quả: giáo sư Ngô Gia Hy đắc cử làm Khoa Trưởng trường Y Saigòn vào tháng 5 năm1967. Theo lời tường thuật của nhóm tác giả  SAIGON MEDICAL SCHOOL, hai tháng sau, vào tháng 7/67 giáo sư Ngô Gia Hy tuyên bố sẽ ra tranh cứ Thượng Nghị Sĩ Sàigòn, ông liền bị tố cáo là kẻ dùng chức năng Khoa Trưởng Trường Y để mưu đồ chính trị. Ông bị truất quyền khoa trưởng trong vòng ba tháng. Bác sĩ Vũ Thị Thoa, đương nhiệm Phó Khoa lên làm Khoa trưởng lâm thời. Ba tháng sau, tháng 10/67 giáo sư Ngô Gia Hy thất cử Thương Nghi Sĩ, ông trở lại làm Khoa Trưởng trường Y Saigòn. Lần trở lại này, uy tín của ông sụp đổ.

      Chắc chúng ta ai cũng thắc mắc về “sắc luật” của Tướng Kỳ 1967, vi phạm nền tự trị Đại học, bãi chức Khoa Trưởng Trường Y và thế vào bằng một ủy ban gồm có 5 người do ông ta chỉ định. Nhất định phải có kẻ hoạt đầu chính trị đứng sau lưng Tướng Kỳ. Hay cũng có thể có ‘bàn tay lông lá’ nào đó bắt buộc Tướng Kỳ phải chấp nhận “planning” như vậy. Theo nhóm tác giả của SAIGON MEDICAL SCHOOL, chính Bác sĩ Lê Minh Trí tự nhận mình là kẻ đứng sau Tướng Kỳ trong vụ này:

      “The fact was an ambitious young man, Lê Minh Trí - MD, claimed to be, and was, the instigator. He believed that medical education in Vietnam had to be changed, knew many of changes that needed to be made, and believe that they could be made quickly only by removal of those who self-interest seemed to be serve by the status quo” (4)

.      Bác sĩ Lê minh Trí mới vừa từ Mỹ về, sau 6 năm tu nghiệp y khoa tại Mỹ. Cũng như các bác sĩ khác đi tu nghiệp lâu năm tại Mỹ, ông cũng được cấp bằng PhD tại Mỹ. Bác sĩ Lê Minh Trí mới trở về Trường Y Sàigòn, chiếc áo ông mặc chưa kịp ráo mồ hôi, mà ông đã có tên sẵn trong danh sách Ngũ Đầu Chế của Tướng Kỳ. Lạ thật! Liệu những lập luận ở trên của nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover, và Singer PhD về bác sĩ Lê Minh Trí có đúng sự thật không? Hay đó chỉ là giả thiết, tệ hơn nữa, nếu đó là sự bịa đặt? Chắc có lẽ cũng vì thế, cùng ý nghĩ đó, chín năm sau, trong một phút ăn năn, Tướng Kỳ hy vọng sau này sẽ có ai soi rọi lại làm sáng tỏ vấn đề phức tạp này:

    “It appeared lately that the background of the ‘Coup de Faculté’ was more complex and it would need some research for anyone to have a clear picture ..” 

 

- Ngày 29/1/68, biến cố Mậu thân, tòan thể Đại học Saigòn đóng cửa. Tất cả sinh viên đi học Quân Sư Học Đường.

- Ngày 1 tháng 4/ 68 Đại học Saigòn mở cửa lại.

- Ngày 2/5/68, Mậu Thân đợt 2, Trường lại đóng cửa!

- Ngày 18/6/68 trưòng mở cửa lại.  Niên khóa năm đó kết thúc muộn vào ngày 15 / 8/ 68..

- Tháng 9/68, theo lời tường thuật của nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL, bác sĩ Lê Minh Trí được Tướng Kỳ bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Cùng thời gian đó Viện Trưởng Viện Đại học Saigòn, giáo sư Trần Quang Đệ đi nghỉ hè ở Pháp. Cũng như mọi năm trước, giáo sư Trần Quang Đệ có thói quen hay ở lại nấn ná bên Pháp một thời gian khá lâu, sau mỗi vụ nghỉ hè. Với tư cách Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Bác sĩ Lê Minh Trí cách chức giáo sư Trần Quang Đệ, nguyên Viện Trưởng Viện Đại Đọc Saigòn, tố cáo ông ta là kẻ đào nhiệm. Bác sĩ Lê Minh Trí liền chỉ định giáo sư Trần Anh lên làm Viện Trưởng Viện Đại Học Sàigòn. Giáo sư Trần Anh lúc đó cũng đã thay thế giáo sư Nguyễn Hữu làm giám đốc Viện Cơ Thể Học.

 - Ngày 1/11/68 lại một cuộc vận động bầu bán cái ghế Khoa Trưởng Trường Y Saigon! Người đắc cử lại là Bác sĩ Phan Tấn Tước, giáo sư phụ giảng (professeur délégué). Theo nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL: “Ông ta là một người ít được nhiều người biết đến”. Ngày bác sĩ Phan Tấn Tước nhậm chức, nhóm tác giả  SAIGON MEDICAL SCHOOL viết :“he came into office as a dark horse .”!(5)Thật sự, tôi không hiểu họ muốn nói gì về bác sĩ Phan Tấn Tước qua từ “dark horse”. Dù sao sự ‘Lên Ngôi Khoa Trưởng’ của bác sĩ Phan Tấn Tước cũng tạo được một tình thế ổn định hành chánh cho Trường Y Saigòn, tuy là một sự ổn định tạm bợ.

- Ngày 6/1/69 bác sĩ Lê Minh Trí, đương kim Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Sàigòn bị ám sát chết. Nói về cái chết của Bác sĩ Lê Minh Trí, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết: “Bác sĩ Lê Minh Trí là người trẻ, tham vọng, ăn nói không biết kiềm chế, đi lại không cần bảo vệ”. Và lạ lùng thay, nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover và Ira Singer Ph.D viết thêm một điều mà chúng ta chưa hề nghe nói đến bao giờ: “bác sĩ Lê Minh Trí tự hào về quá khứ của ông: Ông đã được rèn luyện thành một chiến sĩ du kích trong rừng sâu theo phong tràoViệt Minh, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp”! Nhắc về sự kiện này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết:

      “Dr Trí had been away from Vietnam for 6 years taking graduate training in the US ..He was proud to have been a trained guerilla in the jungle fighters with the Viet Minh during the war with the French. He was fearless. He spoke without restraint and traveled without protection...” (6)   

     Sau đó hai tháng, bác sĩ Trần Anh, Viện Trưởng Viện Đại Học Sàigòn, giám đốc Viện Cơ Thể Học Saigòn, bị ám sát chết cách nhà ông 100 mét, lúc ông đang đi bộ từ Trường Y trở về nhà ông trong khu Đại Học Xá Minh Mạng.

     Một bầu không khí khủng hoảng và lo sợ phủ xuống Trường Y Sàigòn. Ai ai cũng hiểu cái chết của giáo sư Bộ Trưởng Lê Minh Trí và Giáo sư Trần Anh, Viện Trưởng viện đại học Saigòn, đều có liên quan đến sự can thiệp của phái bộ AMA-SAIGON của Mỹ vào nội tình Trường Y Saigon. Nhất là người ta nhớ lại, cách đó không lâu, trong thời gian giáo sư Ngô Gia Hy còn làm Khoa Trưởng, cùng tại Trường Y Saigon một nam sinh viên y khoa năm thứ tư bị ném xuống từ lầu cao, từ lầu Bio-Chemistry. Người sinh viên ấy chết không kịp trăn trối được một lời!.Nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết về những suy nghĩ của ban giảng huấn Trường Y Sàigòn như sau: “Sau đó một thời gian dài, ban giảng huấn người Việt của trường Y Saigon tỏ vẻ sợ sệt và lạnh nhạt với phái bộ Mỹ/ AMA-SAIGON ”. Nói về cái chết của bộ trưởng Bác sĩ Lê Minh Trí và Viên Trưởng viện Đại Học Saigon bác sĩ Trần Anh và thái độ nghi kỵ sợ sệt của ban giảng huấn người Việt Trường Y Saigon đối với nhân viên Tổ chức AMA-SAIGON lúc đó, nhóm tác giả ‘SAIGON MEDICAL SCHOOL’viết:

      “The stability within the facility was uneasy at best and fell entirely on January 6, 1969, with the assassination of the Minister of Education, Dr Tri. A grenade was thrown into his automobile. Just two months later Dr Anh, the Rector of the University was killed by multiple gunshot inflicted at closed range while he walks from his from the medical school to his home one block away. The mystery that surrounded the two assassinations produced an atmosphere of apprehension throughout the medical school. It had particular significance to AMA because it was generally concluded that the assassinations, by whatever by opposing force, were related to the medical school changes to which the U.S. had contributed. The Faculty of Medicine asked that the project continue but that it operates as unobtrusively as possible, since no one knew what part association with Americans may have played in the fate of DR Tri and Anh. For a long time afterward, the Vietnamese Faculty show restraint in its association with Americans” (7)

       Liền sau đó có nhiều biến cố và nhiều khủng hoảng xảy ra liên tiếp tại Trường Y Saigon. Những ngày thi cuối năm phải dời đổi nhiều lần...Ngày thi cuối năm của niên khóa 1970 được ấn định vào ngày 10 /8/70. Nhưng vào thời khỏang này sư liên hệ giữa giáo sư khoa trưởng Phan Tấn Tước và ban giảng huấn Trường Y Sàigòn trở nên suy đồi. Ban giảng huấn và một số sinh viên yêu cầu giáo sư Khoa Trưởng phải từ nhiệm. Giáo sư Phan Tấn Tước từ chối. Lại bãi khóa đình công, không thi cử. Mãi đến tháng Nov/70 cuộc thi cuối năm mới bắt đầu, sau khi biết chắc giáo sư khoa trưởng Phan tấn Tước sẽ từ nhiệm.

- Tháng 12/70: Bác sĩ giáo sư Đào Hữu Anh, đương kim phó khoa trưởng lên làm Khoa trưởng lâm thời Trường Y Saigòn, cũng là lúc bác sĩ giáo sư Phan Tấn Tước từ nhiệm.

   Bác sĩ Đào Hữu Anh là một nhân vật trầm mặc, kín đáo. Ông là giáo sư Chủ nhiệm Khoa Cơ Thể Bệnh Học-AnatomyPathology, Trưởng phòng xét nghiệm Anapath của Trường Y Saigon. Sau những năm tu nghiệp ở Mỹ, ông trở lại trường Y Saigòn vào những năm 60. Sau đó không hiểu từ thế lực nào, hay là vì ông có quá khứ đạo đức y học tốt, giáo sư bác sĩ Đào Hữu Anh luôn luôn ‘nắm chặt’chức Phó Khoa trường Y Saigòn cho đến ngày 30/4/75. 

- Tháng 12/71 bác sĩ giáo sư Đặng Văn Chiếu được bình bầu lên làm Khoa Trưởng Trường Y Sàigon. Đánh dấu giai đoạn lịch sử này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL hạ bút:

        “At the end of 1971 there was hope for internal stability in the medical school with the election of Đang Van Chieu, MD, as Dean, Dr Chieu, Professor and Chairman of Department of Neurological Surgery was elected as a favorite of both sides and not concession of either. With his entry into office in January 1972 there seemed to be real promise of prolonged period of cooperation” (8)

     Những lời phát biểu ở trên của nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover và Ira Singer PhD có vẻ chủ quan phấn nào khi họ bảo giáo sự Đặng Văn Chiếu được bình bầu làm khoa trưởng Trường Y là do sự ủng hộ của cả hai phía Việt và Mỹ chứ không phải do sự nhường nhịn của bên này hoặc bên kia. Thật sự, giáo sư Đặng Văn Chiếu, người Nam, ông vốn dĩ điềm đạm, hòa nhã, ông được mọi người và sinh viên mến chuộng, ông được sự ủng hô của cả hai phía Việt cũng như Mỹ, nhất là từ phía phái bộ AMA-SAIGON. Thật sự, vào thời khoảng giáo sư Đặng văn Chiếu lên làm khoa trưởng, vào tháng 12/1971, lúc ấy tất cả ban giảng huấn người Việt cũng như sinh viên Trường Y Saigòn, hoàn toàn mệt mõi, khiếp sợ, chán chường trước mọi sự thay đổi và chết choc. Trường Y Saigon đã trả giá quá đắt cho sự can thiệp đẩm máu của phái bộ AMA-SAIGON, bằng cái chết của hai giáo sư Lê minh Trí, Trần Anh và sinh mạng của hai sinh viên y khoa ‘rớt’ từ lầu cao xuống trong sân của Trường Y Saigon. Ho chết không trối trăn được một lời. Tinh thần Trường Y Saigòn vào thời điểm này coi như đã thuần. Mọi người đều hy vọng ngày giáo sư Đặng Văn Chiếu nhậm chức khoa trưởng Trưởng Trường Y Saigon, tháng 12/1971 sẽ mở đầu một thời kỳ hòa bình, ổn định, hợp tác về lâu về dài giữa Trường Y Saigon và phái bộ AMA-SAIGON. Sau ngày nhậm chức của giáo sư Đặng Văn Chiếu, cũng có những xáo trộn trộn. Nhưng giáo sư Đặng Văn Chiếu đều vượt qua những xáo trộn ấy nhờ sự ủng hộ tích cực của Mỹ và Việt. Giáo sư Đặng Văn Chiếu vẫn là Khoa trưởng Trường Y Sàigòn đến năm 1974. Ngày Saigòn thất thủ. Giáo sư Đặng Văn Chiếu và gia đình được di chuyển sang Mỹ an toàn.

 

      Bây giờ nhớ lại cái chết tức tưởi của thầy và bạn, chúng ta vô cùng thương tiếc họ. Đồng thời chúng ta cũng thật sự kiêu hãnh về truyền thống Trường Y Saigòn và bịnh viện Bình Dân, luôn luôn gìn giữ nếp cao đẹp, mặc dầu dưới bất cứ áp lực của thời thế có tệ hại cách mấy đi nữa, sinh viên Trường Y vẫn tiếp tục đi học và đi thực tâp tại các bịnh viện, trừ những khi sinh viên Saigòn phải tham dự Huấn Luyện Quân Sự Học đường. Sinh viên nội trú, các bác sĩ, các giáo sư, luôn luôn có mặt trong bịnh viện, bên cạnh bệnh nhân, cũng như tiếp tục học hỏi, giảng dạy và theo đuổi những công trình nghiên cứu. Tại bịnh viện Bình Dân, các giáo sư, các bác sĩ cùng tập thể nội trú, các sinh viên y, luôn luôn qui tụ xung quanh thầy Phạm biểu Tâm, (dù choThầy đang tại chức khoa trưởng hay bị bãi nhiệm), và các giáo sư Ngô Gia Hy, giáo sư Trần Ngọc Ninh, giáo sư Hòang Tiến Bảo, giáo sư Đào Dức Hoành…tích cực công tác phẫu thuật, giảng dạy, nghiên cứu, ngày cũng như đêm. Những năm 68, 69, 70 là những năm Khu Phẩu Thuật “B” bịnh viện Bình Dân phát triển những cơ sở kỹ thuật tiến bộ mới. Các sinh viên nội trú ngoại (surgical) phần nhiều tụ tâp về đây. Bác sĩ Norman William Hoover, bác sĩ phẩu thuật chuyên về Chấn Thưong Chỉnh Trực tại Trường Y thời danh của Mỹ, Mayo Clinic, tại Minnosota. Ông ta đến Viêt nam 1967 thay thế bác sĩ Reimann làm Giám Đốc (Field Director) của AMA-SAIGON. Ông đến Bịnh viện Bình Dân, hợp tác với Giáo Sư Hoàng Tiến bảo, giáo sư Trần ngọc Ninh, nội trú Võ Thành Phụng phát triển công trình nghiên cứu mới về phẫu thuật trong điều trị Lao Cột Sống: Hogdson’s Operation (9). Giáo sư Trần Ngọc Ninh, giáo sư Hoàng Tiến Bảo với sự công tác của nội trú Võ Thành Phụng kiện toàn phẫu thuật thay thế khóp háng (Hip Release), khớp gối (knee release) và đóng đinh cổ xương đùi (Smith Petterson Nailing), đóng đinh gẫy kín xương chầy. Giáo sư Hòang Tiến Bảo cùng các cộng sự viên của ông, nội trú Nguyễn Quang theo đuổi công trình nghiên cứu Bướu Các Phần Mềm (Tumeurs des Parties molles) và thẩm định tánh chất của Bướu Tế Bào Lớn (Giant cell Tumors). Tôi cũng được vinh dự tham gia trong các công trình kể trên của khu Chấn thương và Chỉnh Trực mặc dầu một vai trò thứ yếu. Cùng trong những năm này tại Khu Ung Thư bịnh viện Bình Dân, Giáo sư Đào Đức Hòanh tận lực phát triển kỹ thuật giải phẫu Wertheim, và Halsted (10) đến độ nhuần nhuyễn tân kỳ với sư cộng tác của Bác sĩ Dương, nội trú Nguyễn Chấn Hùng và sau đó là nội trú Lâm văn Năm. Ở khu giải phẩu tổng quát của giáo sư Phạm Biểu Tâm, với sự cộng tác của bác sĩ Huấn, bác sĩ Tuyến, bác sĩ Lân, bác sỹ Nghiêm Đạo Đại, và nội Trú Văn Kỳ Chương. Khu tiết niệu của giáo sư Ngô Gia Hy, với nội trú  Đặng Phú Ân, Nguyễn Hiệp và tất cả các khu khác đều theo đuổi những công trình nghiên cứu và phát triển chuyên biệt. Nhận xét về những dữ kiện này, phái bộ AMA Sàigòn đành phải thú nhận sự thật như sau::

     “War and Politics obviously interfered with the process of medical education in Vietnam. Nevertheless, medical students continued to apply themselves and continue to learn medicine even during the most serious disruptions…Perhaps this provides evidences that students continue to seek knowledge at any opportunity if available, even though adverse conditions interfere with the regular teaching process”(11)

 

     “Tại Việt Nam Chiến tranh và Chính trị gây ra nhiều cản trở trong việc Giáo Dục Y khoa… Mặc dầu vậy, tập thể sinh viên Y khoa vẫn tiếp tục học hỏi trao dồi ngay cả những lúc mà Chiến tranh và Chính trị gây ra tình trạng xáo trộn và thật tê hại…Có thể nói rằng người sinh viên trường Y Saigon luôn luôn tìm tòi học hỏi ở bất cứ cơ hội thuận tiện nào, ngay cả những lúc trong những điều kiện tiêu cực khó khăn cho việc giảng dạy”

      Có điều làm chúng ta ngạc nhiên, trong phần bạt hậu (Epilogue) của SAIGON MEDICAL SCHOOL các tác giả kiêu hãnh khi họ lập lại lời khen tặng của báo chí của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khen tặng họ vào ngày 1/5/1975:

        “The Americans are not very good at fighting a war, but they do know how to build a very good medical school ”(12)

      Vâng, người Mỹ biết làm thế nào để xây dựng một Trường Y tân kỳ, tiến bộ về kỹ thuật. Nhưng người Mỹ xây dựng Trường Y Saigòn bằng sự can thiệp đẩm máu vào nội bộ tổ chức của Trường Y Saigòn một cách quá tệ hại. Viết tới đây, mặc dầu tôi đã là công dân Mỹ hơn 20 năm, tôi vẫn thấy mình chưa vượt khỏi cái bóng của quá khứ, chưa vượt khỏi số phận người dân của quốc gia nhược tiểu, bị đô hộ, bị cai trị.

                                                                            

      Thời gian nhanh như bóng câu qua cửa! Mới đó mà anh em nội trú Bình Dân Saigon những

năm 68-70 xa nhau gần 40 năm! Biết bao vật đổi sao dời. Biết bao mất mát không gì đền bù nổi.

-  Cách đây mấy năm, Thầy Phạm Biểu Tâm qua đời tại Cali.

-  Thầy Đặng văn Chiếu vừa qua đời vào ngày 27/6/2004, tại Cerratos, California

-  Thầy Ngô Gia Hy vừa qua đời tại TPHCM vào ngày 26/10/04!

-  Thầy Hoàng Tiến Bảo vừa qua đời vào ngày 20/1/2008 tại Alhambra / California

-  Giáo sư Nguyễn Hữu cũng vừa qua đời tạ Brest- Phápvào ngày 15 tháng 10 năm 2008

-  Bác sỉ Trần Minh Tùng, người anh đầu đàn khả kính và thân thiết của chúng ta cũng vừa qua đời tại Cali vào ngày 22 tháng 10 năm 2008…

      Còn ai nữa trong các Thầy, trong các bạn bè đã ra đi trong sự lãng quên của chúng ta? Cuộc đời và Chiến tranh, chúng ta đã mất hút nhau trong màu khói lửa.

      Võ Thành Phụng! Bây giờ anh anh ở đâu? Anh còn khoẻ không? Anh vẫn tiếp tục dạy học tại trường Y Saigòn? Anh vẫn trao dồi phẫu thuật hằng ngày? Anh còn có những đêm say sướt mướt nữa không? Còn có ai để anh chia sẻ trong cơn say? Tôi lúc nào cũng nghĩ về anh. Tôi luôn luôn nuối tiếc, những năm tháng nội trú tại Binh viện Bình Dân Sàigòn 68-70 như “Thời Vàng Son” trong cuộc sống của chúng ta, của bạn bè cùng thế hệ. Biết bao nhiêu thay đổi ở ngoài đời, biết bao nhiêu thay đổi trên ghế Khoa Trưởng Trừơng Y Saigòn, trong những năm tháng đó! Ấy thế mà mỗi khi các giáo sư, các bác sĩ, các sinh viên nội trú, các sinh viên y khoa bước vào phía trong cánh cửa của bịnh viện Bình dân, luôn luôn với một tâm hồn không bao giờ thay đổi, tình nghĩa trước sau như một, cùng nhau đoàn kết, phục vụ bịnh nhân, nghiên cứu phát triển ngành nghề. Thầy trò, anh em, gắng bó, cùng dìu dằt nhau đi qua những chặn đường khó khăn của lịch sử, của đất nước.  

     Võ Thành Phụng, tôi mong anh còn khoẻ. Tôi mong anh đọc đuợc những dòng bút kí ngắn này. Mong các thầy, anh em chúng ta, những ai còn sống sót sẽ gặp lại nhau trên quê hương Việt Nam.../

 

ĐÀO NHƯ

(Bác sĩ Đào Trọng Thể)                                         

 

Oak park, Illinois, USA

            4/21/05

Cập nhật lân cuối vào ngày:14-7-2016

(ngày sinh thứ 80 của tác giả)

         Đào   Như

(Bác sĩ Đào Trọng Thể)

thetrongdao2000@yahoo.com

 

NB: Bác sĩ Võ Thành Phụng, Giao sư Đầu Ngành Chấn Thương và Chỉnh Trực trường Y Saigon đã qua đời tại Saigon vào năm 2011.   

 

GHI CHÚ


 ( 1)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54

 

(2)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang  54

 

 (3)- SaigonMedical School, Edi.  1988, trang  39

 

 (4)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54

 

 (5)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 56

 

 (6)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54

 

 (7)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 56

 

 (8)- Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 58

 

 (9)- Hogdson’s Operation: Kỹ thuật phẫu thuật của bác sĩ Hogdson trong điều trị lao cột sống

        thực hiện đầu tiên tại HongKong. Chính bác sĩ Norman W. Hoover là người đầu tiên truyền

        bá và giảng dạy phương pháp này tại Orthopedic Department Bịnh viện Bình Dân Saigon

        năm 1968 cho các nội-trú.

 

 (10)- Wertheim: Phẫu thuật cắt bỏ tử cung, phần phụ và hạch trong điều trị ung thư tử    cung

        Halsted: phẫu thuật cắt bỏ nhủ hoa cơ bắp kế cận và hạch trong điều trị ung thư vú.

 

  (11)- Saigon Medical School, Edit.1988 - trang 60

 

  (12)- Saigon Medical School, Edit, 1988 - trang 259