Monday, July 31, 2023

 

THĂM LẠI MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG ÐỂ THƯƠNG NHỚ BẠN BÈ MỘT THỜI CHINH CHIẾN CŨ

             Trên con đường thiên lý, ra khỏi Phan Thiết chừng 20 cây số về hướng bắc sẽ gặp núi Tà Dôn sát lộ và từ đó nhìn về hường biển, chỉ thấy mênh mông trời xanh cát trắng, tuyệt nhiên không có một chút gió dù rằng đại dương nằm cách không xa là mấy. Ðối với người Bình Thuận thì không ai xa lạ gì với cát, vì cát có mặt ở rất nhiều nơi trên quê hường miển biển mặn từ Cà Ná vào tới Phù My nhưng chính tại vùng này, cái mà khởi đầu từ năm 1945 trong chín năm toàn dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 trong cuộc chiến của người miền Nam, ngăn chận làn sóng đỏ cọng sản quốc tế, do Bắc Việt gây ra, thì không ai xa lạ gì với cái được gọi là mật khu Lê Hồng Phong.
 
            Ở đây, cát đã làm khổ con người vì cảnh khô hạn tận tuyệt đến nổi các nhà khoa học đã phải gọi đó là một trạng thái kỳ lạ nhất của vật chất, mang tham vọng kinh khủng là chinh phục con người, như một khúc biển tấu hoà âm bất tận, giống như cái hạnh phúc vô thường hay niềm đau không sao nói được của những người dân bị kẹt lại trong thiên đường này từ 1955-1975. Ðây là một vùng đất chết, đã được VC tuyên truyền là khu giải phóng, trong đó ngoài cái đói rách kinh thiên động địa do thiên nhiên và chiến tranh sắp đặt, còn có nổi vùi dập đọa đày trọn vẹn bởi những chủ trương chính sách triệt để sắt máu của VC trong việc không để bất cứ ai chạy lọt ra vùng tề.
 
             Trước năm 1975 ngưới dưới phố ngoại trừ là lính, ít ai dám hay héo lánh tới cõi thiên đàng này, nơi đã được nhà thơ Nguyễn bắc Sơn, một người lính từng vào khu Lê viết :
“..tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
còn ngại hành quân động Thái An
cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
mùa khô thiếu nước lính hoang mang..”
(Mật khu Lê hồng Phong-NBS).
 
            Sau ngày ngưng bắn, người dân ở đây nghèo vẫn đói,vì đất đai cứ tiếp tục bị cát sa mạc hoá cho nên chỉ trồng được dưa và dừa, trong khi đó thì thiên hạ bốn phương nưòm nượp kéo về Hòn Hồng, Hòn Rơm để thụ hưởng tiện nghi vật chất tại những nơi chốn y như cảnh thiên đàng hạ giới, được nhà nước liên danh với Tây Nhật và Việt cờ yêu nước XHCN bỏ tiền xây dựng kiếm lời. Câu chuyện người dân có nước mà phải mua nước nghe sao thảm thiết quá chừng, nhât là đối với những người từng bị bắt theo VC , khiến cho bao nhiêu ngàn người đã phải nằm xuống, làm cỏ lót đường cho thiên hạ vượt qua núi cát về phố lên cầm quyền trị nước. Nhưng dưới cái thiên đàng xã nghĩa trong 35 năm qua, với họ thì nên gọi đó là nổi bất hạnh hay may mắn ? khi những người khu Lê ngày nay tuy được sống nhưng đâu có được hồi sinh trong thế giới văn minh của loài người đang diễn ra từng phút giây tại Phan Thiết.
 
1-VỀ THĂM MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG, SAU NGÀY NGƯNG BẮN :
 
            Theo tài liệu từ Ðại Nam Nhất Thống Chí của Sử quán Triều Nguyễn và Ðịa bạ tỉnh Bình Thuận được lập ra từ đời vua Minh Mạng, do quan Hộ bộ Ðào tri Phú làm đạt điền, thì mật khu Lê Hồng Phong của tỉnh Bình Thuận, khai sinh từ đầu năm 1945 cho tới cuối tháng 4-1975, nằm trọn trong Tổng Vĩnh An, huyện Hòa Ða, phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận xưa, lúc đó có 35 làng gồm 30 thôn, 5 xã, chiếm một diện tích 2171 mẫu 652 sào. Nhưng đất thực canh không có là bao, vì phần lớn đất đai toàn động cát, núi đồi thấp, rừng thưa và nhiều khe lạch , có thể gọi là hoang phế, ngoại trừ một phần nhỏ đất ở rìa các xã Khánh Thiện, Thiện Nghiệp, Thiện Khánh trong vùng Vị Nê, nhờ có nước nhĩ nên còn có thể lập vườn trồng đa số là dừa, trầu cau và vài loại cây ăn trái. Thời VNCH (1955-1975), mật khu nằm trong hai xã Lương Sơn và Nhơn Thiện thuộc quân Hoà Ða, các xã xôi đậu Long Phú, Hoà Vinh, Tùy Hòa ( Thiện Giáo) và Thiện Nghiệp (Hải Long).
 
             Riêng VC thì chia khu Lê thành 7 xã giải phóng, dù rằng toàn vùng có dân số chưa tới ngàn người, xã không có làng mạc, thôn ổ và cuộc sống vì hầu hết dân chúng bị lùa theo các đơn vị địa phương , du kích, tiểu đoàn 480,482 và trung đoàn chính qui 812 Bắc Việt của khu 7 VC. Sau ngày ngưng bắn 1975, mật khu gộp lại thành hai xã : Hồng Phong và Hoà Thắng thuộc huyện Bắc Bình.
 
            Ðây là một vùng đất coi như khô hạn nhất VN, nằm cao hơn mặt biển từ 150-200m nên không thể đào giếng được, dù có dùng khoang máy với các mũi khoang có độ dài từ 50-90m vẫn vô hiệu, cộng thêm là độ bốc hơi nước do sức nóng từ các động cát trùng điệp gây ra, cao hơn lượng nước mưa 1200 mm của khu vực này. Trừ xã Hoà Thắng sát biển lại may mắn có được nước ngọt từ hai bầu Ông và bầu Bà, còn lại thì toàn đồi cát và những mảng rừng trống mọc toàn các loại cây lá kim như ở các sa mạc tại Phi Châu, Mông Cổ, Ả Rập.. có điều các nơi đó trời còn cho dầu bán đồi lấy gạo và nước, còn ở đây chỉ có cát để trồng dừa, dưa và khoai mì nhưng rất cằn cổi, giống như con người.
 
            Về thú cầm chỉ độc nhất có dông là sống được trong cát. Vì nước quý như vậy, nên người dân ở đây có câu chuyện tếu là sính lễ mà đàng gái đòi đàng trai, đó là nước. Hiện nay qua các kế hoạch kiếm nước như khoan giếng, tới Bầu Trắng gánh nước về uống coi như thất bai. Từ đầu năm 1999, cơ quan UNICEF của Liên Hiệp Quốc đã cho dân tại đây vay vốn để đúc lu chứa nước mưa bằng xi măng theo kiểu Thái Lan, giá 1 cái là 250.000 tiền Hồ, tương đương 15 US, có dung tích 2m3/1 cái và gia đình có 6 người thì được cấp 5 lu. Ở đây mùa mưa bắt đầu từ tháng 7-11, nước mưa nếu có mưa chỉ dùng được trong hai tháng, còn thời gian nắng hạn vẫn phải mua nước từ các nơi khác chở tới, với giá 1 đôi 40 lít là 5000 tiền Hồ. Thôi thì có như vậy còn hơn không, và người dân ở đây cũng chỉ mong được như thế để bớt đi nổi nhọc nhằn phải đi xa trên 20 km gánh về một đôi nước hay quanh năm phải mua nước từ nơi khác chở tới, trong lúc túi tiền kiếm được rất khiêm tốn qua các thu hoạch nhỏ nhoi và cằn còm từ dừa, dưa cùng khoai mì mà thôi.
 
2-MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG, THÀNH CÂY VÁCH CÁT CỦA VC :
 
            Theo các hồ sơ mật của Liên Xô, Pháp , Trung Cộng vừa được giải mật, thì Lê hồng Phong tên thật là Lê Huy Doản cùng với các bí danh khác như Hải An, Chayan và Litvinov, sinh năm 1902 tại Hưng Thông, Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Ðầu tiên Phong dấn thân vào con đường cứu nước trong mặt trận VNQPH do cụ Phan bội Châu lãnh đạo. Chính lý do này, nên mới đây CS Hà Nội bảo Phong là bạn của Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái, người đã ném bom Sa Ðiện tại Quảng Ðông năm 1924, để ám sát Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương là Merlin, khi Y đang buôn bán xương máu VN tại đây. Phong cũng được cụ Phan Bội Châu giới thiệu vào học trường Sĩ quan Hoàng Phố của THQDD nhưng sau đó phản bội bỏ theo Hồ, gia nhập Tâm Tâm Xã, một tổ chức của đảng CSQT do Hồ tùng Mậu và Lê Hồng Sơn lập tại Quảng Châu năm 1923, trước khi Lý Thuỵ ( Hồ Chí Minh) và Lâm Ðức Thụ bán đứng cụ PBC cho mật thám Pháp tại Thượng Hải để chia nhau tiền thưởng. Do trên Phong được sang Liên Xô học ở viện thợ thuyền phương đông duới bí danh Litvinov.
 
             Theo các tài liệu của Hứa Hoành và Chánh Ðạo, thì Hồ đã nhường Nguyễn Thị Minh Khai, một nử đảng viên cọng sản quốc tế đầu tiên, cùng Hồ học tại đây, để Phong lấy làm vợ. Bà này là chị ruột của Nguyễn thị Quang Thái vợ lớn của Võ nguyên Giáp, cũng là một đảng viên cọng sản bị Pháp bắt giam và đã chết thảm trong ngục năm 1942. Năm 1934, Lê hồng Phong nhận lệnh của Liên Xô, thành lập đảng CS Ðông Dương tại Thượng Hải, sau đó tại Mạc tư Khoa vào năm 1935 trong kỳ Ðại Hội 7 được bầu làm Uỷ viên dự khuyết trong ban chấp hành CSQT.
 
             Tháng 1-1940 về VN hoạt động, bị Pháp bắt tại Phan Thiết và chết ở Côn Ðảo năm 1942 còn vợ là Nguyễn thị Minh Khai cũng bị Pháp xử bắn tháng 8-1941 ở Hóc Môn, mà theo Hứa Hoành viết là do chính Hồ chí Minh đã chỉ điểm cho mật thám bắt, mục đích tiêu diệt hết cái đám cọng sản Nam Kỳ, để đảng bộ miền bắc nắm trọn quyền lảnh đạo.
 
            Do trên VC Bình Thuận mới đặt tên chiến khu tại địa phương là Lê hồng Phong. Xưa nay vào khu có nhiều đường. Trên quốc lộ số 1, có thể theo lối từ Sông Lũy hướng bắc hay men theo sườn núi Tà Dôn, nằm trong ranh giữa hai xã Long Phú (Thiện Giáo) và Nhơn Thiện ( Hòa Ða), thường được gọi là Cây Táo, ngả ba nhà ga Long Thạnh và đường nối QL1 với liên tỉnh lộ 8 gặp nhau tại huyện lỵ Ma Lâm ( Thiện Giáo). Ðây cũng là nơi trước năm 1970 từng xãy ra các cuộc đụng độ đãm máu giữa VC và các lực lượng Mỹ Việt, song song các vụ đặt mìn, đóng thuế xe đó, bộ hành xuôi ngược trên QL1. Cũng chốn này, nhà văn quân đội nổi tiếng của miền Nam là Y UYÊN, tên thật là Nguyễn văn Uy, sinh tại Bắc Việt, sĩ quan QLVNCH thuộc Tiểu Khu Bình Thuận, đã tử trận ngày 8-1-1969 tại đồn Nora ( Long Phú). Lúc sinh thời, Y Uyên có nhiều tác phẩm giá trị đã xuất bản như Bảo khô (1966), Tượng đá sườn non (1966), Quê nhà (1967), Ngựa tía (1968) và Ðuốc sậy (1969).. Riêng về hướng biển, trên tỉnh lộ 28 Phan Thiết-Mũi Né, đến xã tị nạn Thiện Nghiệp, rẽ theo đường vào Bàu Me, Bàu Tàn, Bàu Sen.. Xa hơn là Thạch Long tới Hòn Rơm, Hòn Hồng nằm trong xã Hoà Thắng, cửa khẩu giao thường và tiếp vận từ bên ngoài cho VC trong vùng.
 
            Kể lại chuyện mật khu Lê trong thời chiến tranh 1955-1975, không thể không nói tới chiến công của Trại Lực lượng đặc biệt Phi Hổ, trong đó nhà thơ Nguyễn bắc Sơn cũng đã có thời gian theo đơn vị này nhiều lần hành quân tại đây. Qua tài liệu của Trung Tá LLDB Trịnh văn Viễn hiện nay ở Texas Hoa Kỳ, từng là chỉ huy trưởng trại Phi Hổ thì trại này nằm trong xã Chợ Lầu cách thị trấn Sông Mao, một nơi có mỹ danh là Chợ Lớn Mới, vang danh một thời trước năm 1975 :
 
‘ mai ta đụng trận ta còn sống,
về ghé Sông Mao phá phách chơi
chia sớt nổi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày vui..”
( Mật khu LHP-NBS).
 
            Trại Phi Hổ nguyên là hậu cứ củ của Trung đoàn 42 bộ binh, đối mặt với mật khu Lê Hồng Phong VC. Tháng 2-1962, đại uý Trịnh văn Viễn, chỉ huy toán B3/LLDB đến công tác trong vùng, giữa lúc tình hình an ninh khu vực tồi tệ đến mức VC dám về các xã đông dân trong vùng hằng đêm để hát xướng, tuyên truyền và thu thuế, mặc dù tại đây có các đơn vị Bảo An-Dân vệ và Trung tâm huấn luyện Bảo An tại Sông Mao. Ðể ứng phó với tình hình, trại đã thành lập các đơn vị dân sự chiến đấu, ăn lương Mỹ, không có số quân do các thanh niên trong vùng, kể cả Phan Thiết tình nguyện,lên tới 1 tiểu đoàn , hành quân dưới sự hướng dẫn của toán B/LLDB.
 
             Sau này tiểu đoàn DS chiến đấu trại Phi Hổ được chính Bộ trưởng QP.Hoa Kỳ là Mc.Namara khi đến thăm Ấp chiến lược Lương Sơn, đã gọi đó là TD1 Nhảy dù LLDB do Ðại uý Trịnh văn Viễn chỉ huy tổng quát. Cũng kể từ đó, trại Phi Hổ trở thành tử thần của mật khu Lê, thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân thám sát, nhảy dù ngay chính trong lòng đất địch, gây bất an và thương vong thường xuyên cho các đơn vị VC trong vùng. Ngoài ra Trại còn phối hợp với Tỉnh Trưởng Bình Thuận lúc đó là Trung Tá Nguyễn quốc Hoàng, tổ chức thành lập các Trung đội DSCD tại các xã trong quận Phan Lý Chàm, Hoà Ða do Hoa Kỳ trả lương để họ tự bảo vệ các ấp chiến lược.
 
             Ðặc biệt nhất là tại xã Lương Son, đông dân, trù phú nằm ngay trên QL1, đối mặt vơi khu Lê, trại Phi Hổ đã tổ chức được một LL/DSCD trong đó có 1 trung đội nử biệt kích LLDB, chính lực lượng này đã góp công lớn trong việc tiêu diệt nguồn nước uống của mật khu, làm cho các đại đội địa phương VC phải rút đi nơi khác, chỉ lưu lại một trung đội hoạt động nghi binh mà thôi. Trước ngày binh biến 1-11-1963, trại Phi Hổ và TK Bình Thuận đã tổ chức một cuộc hành quân vào mật khu Lê, vưà tiêu diệt VC cũng đồng thời giải thoát số đồng bào còn bi kềm kẹt trong vùng. Tháng 3-1964, các toán LLDB hoạt động tại trại Phi Hổ được lệnh chuyển giao nhiệm vụ lại cho tiểu khu Bình Thuận, và mặt thật như ta biết là vùng này, ngoại trừ xã chiến lược Lương Sơn với sự hiện diện của TD-DSCD còn có an ninh, tất cả vùng từ Cây Táo tới Sông Lữy, Chợ Lầu rồi Vĩnh Hảo-Cà Ná trên QL1 trước năm 1970, đều là đất của CS , mặc dù sau khi LLDB rút, đã có các Trung đoàn 43 BB/Biệt lập hành quân. Sau đó là các Trung đoàn 44,53 BB và Thiết đoàn 8 kỵ binh của SD23 BB, kể thêm lực lượng Nhảy dù Hoa kỳ. Tình hình an ninh thật sự có được tại khu Lê và toàn tỉnh , bắt đầu năm 1970 khi đại tá Ngô tấn Nghĩa, trưởng phòng 2/QD2 về nhậm chức, cho tới lúc kết thúc chiến tranh vào cuối tháng 4-1975.
 
3-BẦU TRẮNG, CON DÔNG VÀ CÁ MÒI TRONG KHU LÊ :
 
            Nói tới mật khu Lê Hồng Phong, những VC về thành sau năm 1975 thường hay nói tới chuyện cá mòi của Bình Thuận. Ai cũng biết cá mòi cũng như cá nục và tất cả thủy sản trong vùng biển mặn là một ân điển trân quý của trời đất dành cho quê hương, giống như gổ súc, khoáng sản trên ngàn, khiến cho Bình Thuận nổi danh khắp nước trước đây cho tới thời VNCH là chốn rừng tiền biển bạc, nơi làm chơi ăn thiệt.
 
             Cá mòi trước năm 1954 đạt sản lượng mỗi năm từ 17.000 ố20.000 tấn. Ðang làm ăn ngon lành, không biết tự dưng biến mất hết ngoại trừ một số nhỏ còn lẩn quẩn sinh sống trong vùng biển cấm tại Hòn Rơm. Sau này các nhà khoa học giải thích, sở dĩ có hiện trạng trên vì cá mòi vốn sợ tiếng động, mà tại biển Bình Thuận từ 1955 về sau, ngành ngư nghiệp phát triển với các ngư thuyền toàn gắn động cơ, thay thế thuyền buồm xưa, cho nên cá mòi sợ di cư nơi khác, còn Hòn Hồng, Hòn Rơm thì không có ai léo hánh, vì vậy một số cá mòi về đây lập nghiệp .
 
            Về con dông, thổ ngởi của khu Lê, nay trong thiên đàng xã nghĩa cũng đã leo lên một địa vị lớn, chẳng những tại các nhà hàng ăn uống kháp vùng du lịch Cà Ná, Hòn Rơm, Mũi Né, Rạng, Ðồi Dương và thành phố Phan Thiết mà còn tiến nhanh tiến mạnh tới tận Nha Trang, Ðà Nẳng, Hà Nội và nhất là thành Hồ, với hổn danh KHỦNG LONG, được trân quý chẳng những là dân sành điệu địa phương mà còn có nhiều Tây Tà, Nhật Hàn và Việt Kiều khắp chốn. Khủng Long được bày bán quy mô trong đại tưu lầu Rồng Xanh trên đường Võ văn Tần gì đó ở Sài Gòn, với nào là dông nướng mọi, dông lột da chiên dòn,xào lăn.. Ðối với dân thành thị chưa quen, khi nhìn con dông còn sống ngọ nguậy , quả tình cũng ngán rợn nhưng bảo đãm đã nếm thử một lần thì tới già vẫn không quên vị ngọt đậm đà và dòn chắc của từng thớ thịt trắng ngần. Trước năm 1975 người ít và đủ đầy nên dông có hằng hà sa số tại các quận Bắc Bình Thuận nhưng đông đúc nhất là tại khu Lê, nơi có rừng cây thấp và sa mạc cát. Mùa nóng, dông ẩn trú kỷ dưới hang sâu chờ thời cho tới khi đầu mùa mưa vừa thắm đất, đủ làm cho cỏ chết hồi sinh, cũng là lúc nhà họ dông hoạt động, săn mồi , tỏ tình và trửng giởn. Theo từ điển thế giới động vật , thì Dông đực đặc biệt có tới hai món ăn chơi và Dông mái thì sinh nở vào khoảng thời gian mùng năm tháng năm, mỗi lần từ 4-10 trứng , dưới các hang sâu trên 1m. Dông ăn cây cỏ và các loại côn trùng như dế, cào cào, mối.. Dông đực còn gọi là dông thiềm thường nặng trên nửa ký, da có nhiều sọc đủ màu, còn con cái có nhiều chấm màu vàng, nhẹ hơn dông đực. Bắt dông cũng có nhiều cách nhưng thông thường thì đào hang, bẩy, cắm câu và đặt vòng gút. Thịt dông ăn ngon, hiền và các thợ nhậu có thể chế biến được nhiều món cũng rất khoái khẩu như bằm chiên chả, xào lăn, chiên bơ,nấu cà ri, trộn gỏi, nướng chao.. còn lính hay những người địa phương thì đơn giản hơn với món canh dông lá me non, dông xào đậu rồng, đậu ván, bông bí,mướp.. ăn cũng rất ngon miệng.Ngoài ra thịt dông nướng ,kẹp rau thơm chấm nước mắm nhĩ chanh ớt, cũng là thứ đưa cay đáng giá của lính trận hành quân trong lúc xa thành.
 
            Vào khu Lê đâu quên được BẦU ÔNG-BẦU BÀ,nằm cách QL1 tại Lương Sơn chừng 20 km, bao quanh bởi các động cát trắng cao vút. Theo bản đồ do Pháp ấn hành năm 1924 thì Bầu có tên là BÃI ÐỘNG nhưng dân chúng xưa nay vẫn quen gọi là Bầu Trắng hay hồ Ba Ðộng vì nằm giữa ba động cát lớn , thuộc thôn Bình Nhơn, tổng Vĩnh An, huyện Hòa Ða, phủ Hàm Thuận, giáp ranh với xã Hưng Nhơn, thôn Long Sơn và biển Ðông . Hiện nay sau thời gian dài bị cát xâm thực, diện tích hai bầu đã bị thu hẹp rất nhiều, chứ không còn giống như đã mô tả trong tài liệu Ðại Nam Nhất Thống Chí năm xưa ‘ Bầu Ông nhỏ hơn Bầu Bà, có chu vi 8 dặm, còn Bầu Bà rộng 12 dặm, hai bầu nằm cách nhau một đụn cát’. Trước có miểu thờ Bà Chuá động ngày nay đã biến mất, chỉ còn lại dấu vết cái nền mà thôi. Nước trong hai bầu ngọt và quanh năm mực nước không hao hụt, cân bằng hình như có mạch thông thương từ hai đáy. Ðối với Bầu Trắng, xưa nay vẫn có nhiều bí mật mà con người chưa giải thích nổi, chẳng hạn xuất xứ của bầu từ đâu mà có, là sông chết, biển cạn hay hồ tự nhiên ? và cuối cùng vì sao mà có vùng nước xoáy trên bờ biển Bình Nhơn, nay gọi là Hoà Thắng. Vũng nước này rất sâu, rộng tới 4m, từ trong lòng đất tuôn ra biển, được dân trong vùng gọi là CỬA LẤP của một con sông, đã bị cát động vùi dập, mà dấu vết còn lại là hai Bầu nước ngọt. Tại đây nhờ sự hiện diện của nước,nên có sự sống và cây xanh, dân quanh vùng ngoài nguồn nước, hải sản trong hồ còn trồng nhiều dưa hấu để ăn và bán hột. Ngoài ra còn có SEN mọc phủ kín hai mặt hồ, vì vậy người ta cũng gọi Bầu Trắng là Bầu Sen. Cây sen có tên khoa học là Nelumbium speciosum willd, có xuất xứ tại Ấn Ðộ, thuộc loại thủy sinh từ lá, bông, hạt và củ đều ăn được. Sen là một biểu tượng thiêng liêng trong các đại tôn giáo cuả Châu Á nhất là Phật giáo. Theo William viết năm 1998, thì đói với nhà Phật, sen được coi là biểu tượng cao quý nhất của sự tinh khiết, hoà bình, từ bi và vĩnh hằng vì :
“ trong đầm gì đẹp bằng sen
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn..”
(ca dao VN)
 
            Cho nên hoa sen được sử dụng nhiều nhất trong các loại hoa, dành cho mọi lễ hội của người Chấu Á, còn củ sen lại bán chạy trên thị trường. Tại Âu,Phi Mỹ và Úc châu, người ta dùng Sen để trang trí hơn làm thực phẩm, riêng các nước Trung cộng, Ðài Loan, Nhật, Ðại Hàn , Ấn Ðộ.. còn xử dụng sen làm y dược, chế biến các món tiềm thuốc bắc.. Tại VN ngày nay, Ðồng Tháp và Bình Thuận trồng nhiều sen và mỗi năm bán sang Nhật hơn 3 tấn củ sen muối, với giá cao nhất trên thị trường tính theo CIF là 343 yen/1 kg.
 
            Tại Bầu Trắng còn một món cũng không thể quên được , đó là món CHÁO TIỀU HOÀ THẮNG, nôm na là cháo Quãng Ðông của dân địa phương, quen dùng đãi bạn bè thập phương khi tới thăm khu Lê. Cháo nấu bằng các loại cá nhỏ như cá chỉ, cá trích hay cá ngân vừa đánh xong còn tươi, lạng hai bên lấy thịt, còn đầu và xương bỏ, đem ướp gia vị. Nồi cháo được nấu bằng lửa liu riu, không đặc mà cũng không lỏng quá và lúc nào cũng phải ở độ nóng. Bàn tiệc đơn sơ gồm có cá ướp, một tô đựng hành lá thái nhỏ, một chén tiêu bột, dĩa rau thơm, chén nước mắm nhĩ chanh ớt và nồi cháo trắng bốc khói nghi ngút. Cách ăn cũng giản dị, gắp cá tươi ướp bỏ vào chén, thêm hành, tiêu bột rồi múc cháo nóng đổ vào,nếu cần thì thêm chút nước mắm, cọng rau thơm, thế là vừa ăn vừa thổi, thỉnh thoảng nốc vào ngụm rượu nếp nguyên si tại bản địa, để khật khà quên tạm cuộc sống và kiếp người lận đận lao đao trong thời đại đô la và chứng khoán. Theo lời kể thì món cháo tiều này có xuất xứ từ các thương buôn người Hoa Nam, lưu lạc tới đây từ thế kỷ thứ XVIII trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Về sau do nhu cầu phát triển làm ăn, một số lớn đã dời về các đô thị nhưng cũng để lại một số hậu duệ và chính những người này tiếp tục phát huy cũng như lưu giữ món ăn của tổ tiên để lại.
 
4-RẠNG, MŨI NÉ, HÒN RƠM : CỬA NGỎ VÀO KHU LÊ :
 
            Ðường ra Rạng, Mũi Né, Hòn Rơm vào khu Lê ngày nay đã đổi khác , không còn là những thôn xóm chài lưới năm nao từ Rạng tới Mũi Né, êm đềm núp mình dưới rặng dưà xanh ven biển. Tất cả đã lột xác hoàn toàn kể cà con đường cái quan từ Phú Hài về Vị Nê luôn hành hạ con người vì cát. Bắt đầu từ tháng 3-1998, đường được mở rộng từ Phan Thiết ra tới tận khu du lịch Hòn Rơm. Trên bờ biển Hoà Thắng, nước luôn trong xanh in bóng núi màu hồng rất hùng vĩ, đứng sát mé nước, làm thành nhiều bãi bờ qua những cái tên ngộ nghĩnh như Bãi Ốc sóng biển lăn tăn, Bãi Xếp cây cồi bạt ngàn, Bãi Ghềnh bạc đầu sóng nước, Bãi Dơi đầy bóng dơi bay và xa xa Hòn Nghệ nhìn giống như thần Kim quy đang lặn hụp trên Ðông Hải trùng trùng. Ðường về thôn xưa rất đẹp, nhờ nguồn vốn của tây tà nên phẳng lỳ láng coáng, mở rộng có kè tại các động cát từ Rạng về Mũi Né, ven biển qua các di tích và thắng cảnh hửu tình như núi Cố, Bạch Hổ, đồi Bà Nài, Tháp Chàm Phố Hải, Lầu ông Hoàng, khu lăng mộ Nguyễn Thông, Ðá ông Ðiạ.
 
            .Chen lẫn trong màu xanh của biển, màu vàng trắng của cát là lớp lụa màu thiên thanh của những vườn cây trái, đồi chuối, rừng dừa.. gần như che mát lối đi và đặc biệt tạo thành một vương quốc cho các loài chim se sẽ, cu xanh ,sáo sành. Tại đây còn có loài Sóc xám, thú rừng trên lưng có sọc, ăn chuối, dừa, trái cây, sống từng cặp trên chọt ngọn dửa cao lắt lẽo, có nhiều tại thôn giữa xứ Rạng, khó ai bắt được dù bị treo giá cao, gần 1 triệu tiền hồ/1cặp. Còn Mũi Né trước năm 1975 là huyện lỵ Hải Long, xưa chỉ là một làng đánh cá nhưng phong cảnh lại rất hữu tình, từ ghềnh đá lên tới những núi cát lúc nào cũng muốn đẩy hết con người ra biển, để tự mình độc tài, độc đảng. Riêng Hòn Rơm trước năm 1975 thuộc vùng oanh kích tự do, chỉ mới được biết tới từ tháng 10-1995 khi VN có hiện tượng nhật thực hoàn toàn tại Tà Dôn và Mũi Né. Hòn Rơm trước thuộc Bình Nhơn, sau là Hoà Thắng, cách xã Thạch Long vài cây số, là cửa khẩu quan trọng để chuyển hàng tiếp tế từ Bắc Việt vào khu Lê cho cán binh bằng đường biển. Cát và đất núi ở đây đều màu đỏ làm cho con suối nhỏ cũng có tên là Suối Hồng.
 
             Hòn Rơm thật ra chỉ là một ngọn đồi thấp, nằm chơ vơ giữa một đồi cát nhô sâu ra biển, mùa mưa có chút nước làm cho cây cỏ hồi sinh, trái lại trong mùa nắng gắt, cỏ cây tàn lụn xác xơ, biến thành màu vàng , xa nhìn giống như đụn rơm khổng lồ, nên mới thành cái tên Hòn Rơm hay Hòn Hồng. Từ sau năm 1996, Mũi Né rồi Hòn Rơm bước vào kỷ nguyên mới của ngành du lịch. Cũng kể từ đó dôc theo con đường từ dốc lầu ông Hoàng ra tới Hòn Rơm mọc đầy các làng và khu du lịch từ giá bình dân tới hạng siêu sao đúng cở và món đặc sản du lịch trên cát” loại xe 2 bánh hay xe vùng Vịnh” khiến thiên hạ tứ phương ùn ùn kéo về du lịch. Tất cả tuỳ theo tiền, cao nhất cả trăm đô/1 ngày , còn bình dân thể thao thì ngủ lều ngoài bãi giá chừng 50.000 tiền hồ/1 ngày. Ngoài tiền ăn, ngủ và tắm biển, rong chơi trên cát, còn có tiền ăn nhậu hải sản quý như ốc, tôm, cua, cá và dông, tuy không giống ai nhưng mắc mõ dể sợ. Nay Bình Thuận lại mới thêm một món ăn mới “ MỰC MỘT NẮNG “, vì không còn mực tươi để mà ăn. Trước năm 1975, người Phan Thiết-Bình Thuận ăn mực khác bây giờ. mực tươi bắt được chỉ cần nhúng sơ chút nước sôi hay bỏ hấp trên nồi cơm nóng lá ăn ngay, đó là ngoài biển. Còn về nhà hay trên bến, mực chỉ cần làm sạch hắp sơ, rồi chấm với mắm gừng hay mù tạt.. Theo Nguyễn thị Huệ, chủ vựa cung cấp món “MỰC MỘT NẮNG” lớn nhất tại Phan thiết hiện nay, thì mực phải tươi và tuỳ loại, chẳng hạn như MỰC ỐNG chỉ phơi khô, MỰC NANG xuất khẩu để chế biến món Sasimi của Nhật, còn MỰC LÁ mới chính là nguyên liệu làm mực một nắng, món ăn thời thượng ngày nay tại Phan Thiết-Bình Thuận. Xuất xứ món ăn này là chủ nhân Quán Cây Bàng ở Rạng, chuyên bán các đặc sản của Phan Thiết như gõi cá mai, cá suốt, cháu hàu.. Mực một nắng được chế biến từ mực tươi mới dánh về, làm sạch rửa qua nước lợ rồi đem sấy ở nhiệt độ 43 độ C chừng 4-5 giờ, rồi bỏ vào tủ đá, hoặc đem phơi nắng phơi sương một đêm, mục đích làm cho con mực vẫn còn tươi.
 
             Hởi ơi mực một nắng hay gì gì chăng nữa đang xãy ra tại quê hương ngày nay cũng chẳng qua là một khúc tận tuyệt của xứ biển, bởi trong đó có chứa cái mặn mòi của biển, cái sương giá máu mắt cũa ngư dân và nổi vất vả trùng trùng mà kiếp người dân biển nghèo cực đã gánh chịu tự bao đời.
 
            Sinh và lớn lên tại Phan Thiết bao nhiêu ngày, rồi phải xa quê hương không hẹn ngày trở lại, thì làm sao ai chẳng nhớ và càng nhớ hơn lúc nữa đêm ngồi vơ vẫn nghĩ tới những bạn bè đã nằm xuống tại đây trước năm 1975 hay sau này khi vượt ngục VC tại Lương Sơn ..
 
 
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2010
Mường Giang

 Hai Vì Sao Băng Trong Chòm Sao Bắc Đẩu Bị Cộng Sản Bất Tử

GS. Lê Đình Thông



30/04/1975 mở đầu tiến trình bức tử các nhà văn hóa miền nam : từ Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường đến Trần Văn Tuyên, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Mạnh Côn v.v.


Trong số năm cây bút, Vũ Hoàng Chương và Hồ Hữu Tường bị đầy ải trong ngục tù cộng sản, lúc sắp chết mới được thả ta, từ trần khi về nhà. Ba vị khác là Trần Văn Tuyên, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Mạnh Công đều chết trong các trại cải tạo đèo heo hút gió. Cái gọi là cải tạo chỉ có nghĩa là cộng sản cải tạo từ cuộc sống tự do ở miền nam, biến thành cái chết oan khiên trong ngục tù cộng sản. Vì khuôn khổ hạn hẹp, bài báo này chỉ viết về :


– Thi bá Vũ Hoàng Chương (1915-1976), thọ 61 tuổi : ngôi sao bắc đẩu của thi ca Việt Nam;


– và Nhà văn Hồ Hữu Tường (1910-1980), thọ 70 tuổi: cây đại thụ của văn học miền Nam.


Các vị khác :


– Luật sư Trần Văn Tuyên (1913-1976), thọ 63 tuổi.


– Sử gia Phạm Văn Sơn (1915-1978), thọ 63 tuổi.


– Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn (1920-1979), thọ 59 tuổi.


Người viết xin thắp nén hương lòng tưởng niệm.


Cái chết trong ngục tù cộng sản nói lên sự dũng cảm của các bậc thức giả miền nam : uy vũ bất năng khuất (威武不能屈), đối nghịch với văn nô bồi bút (文奴陪筆) cộng sản, bán rẻ ngòi bút để hưởng chút cơm thừa canh cặn.


Các vị là ngôi sao Tham Lang (天枢), Cự Môn (天璇), Văn Khúc (天权), Liêm Trinh (玉衡), Vũ Khúc (开阳) trong trong chòm sao Bắc Đẩu (北斗),sáng chói trên nền trời văn học nước nhà.


Xin bắt đầu với nhà thơ họ Vũ, được văn giới tôn vinh là ngôi sao bắc đẩu của thi đàn nước ta.


1) Vũ Hoàng Chương (1915-1976): Ông sinh năm Ất Mão (1915), nhưng nhiều tài liệu ghi là 1916. Quê ông ở phủ Thượng Hồng, tỉnh Nam Định. Ông học chữ Hán năm lên 5 với thân phụ là cụ tri huyện Vũ Thiện Thuật. Năm 12 tuổi học tiểu học ở Nam Định, năm 13 tuổi bắt đầu làm thơ. Năm 22 tuổi, ông vào học lycée Albert Sarraut ở Hà Nội. Sáu năm sau, thi đậu tú tài I: cổ ngữ La tinh – Hy lạp ; phần II: toán. Năm 1938, ông học luật nhưng bỏ dở. Năm 1941, ghi tên cử nhân toán nhưng cũng bỏ học, dạy học ở Hải Phòng. Năm 1942: về Hà Nội lập một kịch đoàn cùng với nhà thơ Nguyễn Bính và Chu Ngọc, công diễn vở kịch thơ Vân Muội do ông sáng tác. Năm 1944, ông thành hôn với bà Định Thị Thục Oanh, giáo sư trung học, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng (có tài liệu ghi nhầm là ‘‘em gái’’). 


1948: xuất bản tập Thơ Lửa, cùng với Đoàn Văn Cừ.


1951 : công diễn : Tâm sự Kẻ sang Tần.


1959 : xuất bản : Hoa Đăng (Văn Hữu Á Châu)


1960 : tái bản  Thơ Say và Mây, Vân Muội, Trương Chi, Hồng Điệp.


1970 : Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm.


1971 : Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai.


1974 : Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau. Ta Làm Chi Đời Ta.


Ngoài việc làm thơ, Vũ Hoàng Chương dạy học ở trường Chu Văn An và Văn Lang (Saigon). Trang web của Hội Ái Hữu Học Sinh Chu Văn An Bắc California có bài ‘‘Tại sao Vũ Hoàng Chương bị bắt’’ của Phạm Nguyên Khôi, xin trích như sau :

‘‘…Cùng thời với Vũ-hoàng-Chương còn có rất nhiều văn nhân thi sĩ khác cùng nổi tiếng trên văn thi đàn, trong đó có Huy-Cận (tên thật là Cù-huy-Cận) sinh năm 1919. Huy-Cận cũng là một nhà thơ nổi tiếng, điển hình là bài “Ngậm ngùi” đã được phổ nhạc mà chúng ta thường nghe. Huy-Cận kém Vũ-hoàng-Chương ba tuổi và xuất bản tập thơ đầu “Lửa Thiêng” sau khi Vũ-hoàng-Chương đã có thi tập “Thơ say” và “Mây” đang sắp phát hành. Vì thế Huy-Cận coi thi sĩ Vũ như anh.

Một hôm Huy-Cận bất ngờ gặp Vũ-hoàng-Chương và  rủ Ông đi ăn phở. Vì mới ra tập thơ đầu lại cũng có ý thân mật so sánh nên Huy-Cận nửa đùa nửa thật vỗ vai Vũ-hoàng-Chương nói rằng:

“Đã lâu lại gặp ‘chàng Say’

‘Lửa Thiêng’’ xin đốt chờ ‘‘Mây’’ xuống trần

Vũ-Hoàng-Chương cũng hơi khựng một chút, nhưng vui vẻ đáp ngay:

‘‘Mây’’ kia chẳng chịu xuống  trần

Lửa ơi theo khói lên gần với ‘‘Mây’’.

Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ý kiêu ngạo, vừa có ý thân thiện, thật xứng đôi. Rồi thời gian trôi qua, năm 1946 Huy-Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đã có thời leo lên đến chức thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ-hoàng-Chương thì chạy tản cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc, nhưng sau đó hồi cư về lại Hanoi rồi di cư vào Saigon theo hiệp định Genève năm 1954, vẫn tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.

Vật đổi sao dời, năm 1975 miền nam bị bỏ rơi và cộng sản thắng đại cái “đại thắng mùa xuân”. Và hai thi nhân lại có dịp gặp nhau trong hoàn cảnh éo le quốc cộng. Huy-Cận được cử vào Saigon cùng với một phái đoàn với mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.

Dĩ nhiên người mà Huy-Cận muốn gặp đầu tiên là Vũ-hoàng-Chương, cũng vì tình bạn cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo cách mạng thì mình lập được công lớn. Vì vậy Huy-Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng rất trọng thể. Lễ vật đến thăm Vũ-hoàng-Chương gồm một chai rượu quí, một lọ đầy thuốc phiện và cũng không quên mang theo một bức hình Hồ chí Minh. Rượu và thuốc thì để biếu bạn, còn bức hình thì Huy-Cận ước mong sẽ được Vũ-hoàng-Chương đề tặng cho mấy vần ca ngợi để có bằng chứng báo cáo lấy công đầu.

Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa cách. Vũ-hoàng-Chương đón Huy-Cận như một bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Sau khi Huy-Cận ngỏ ý muốn Vũ đề thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy-Cận khi ra về có hẹn ba ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức hình, Vũ-hoàng-Chương cũng chỉ ậm ừ tiễn bạn.

Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy-Cận tới thì thấy trên bàn vẫn còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ-hoàng-Chương không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. Còn bức hình thì vẫn chỉ là bức hình như khi đem tới, không một nét chữ đề. Được báo cáo lại, dĩ nhiên là Huy-Cận tím mặt. Nhưng Ông biết tính họ Vũ là ngưòi không dễ lung lạc nên cũng đành thôi.

Vũ-hoàng-Chương, ông quả là một người có khí phách. Ông có một cơ hội an thân nhưng Ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng Ông “một tấc thành” nên Ông phải giữ tiết tháo không a dua theo thời cuộc. Thế là lại có thêm một cái ‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.

Chê thơ Tố-Hữu và dạy cộng sản cách làm thơ.

Theo một bài đăng  trên “net”  của tác giả Sông-Lô viết về Vũ-hoàng-Chương nhận xét thơ Tố-Hữu, được biết phái đoàn từ bắc vô nam cùng với Huy-Cận như đã nói ở đoạn trên còn có nhiều nhân vật sáng giá khác như Tố-Hữu,  Hoài-Thanh, Xuân-Diệu, Vũ-đình-Liên…. Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh-Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm”họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ-hoàng-Chương đã được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố-Hữu đã làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Nga-sô  này chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với  tên trùm văn nghệ cộng sản này là câu:

“Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười “

Thanh-Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản từ lâu, coi như đại diện miền nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố-Hữu hết mình. Rồi lần lượt đến Xuân-Diệu, Huy-Cận, Vũ-đình-Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi nói. Cũng cần có một tiếng nói miền nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh khẩn khoản mời Vũ-hoàng-Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời, nhưng vốn người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì nghịch ý. Xin trích nguyên văn sau đây một đoạn của Sông-Lô:

“Ai đã biết Vũ-hoàng-Chương ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không được, đành nhảy vào ưỡn ngực “ hò kéo pháo”, nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái  ‘sáng giá’  của đêm họp  ‘văn nghệ đặc biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’ đã thẩm định rồi.”

Sau đây là lời của Vũ-hoàng-Chương :

“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng, tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực.

Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

“Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.’’

Chắc chắn là không có một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố-Hữu nếu tự khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm’’.

Vẫn theo lời kể của Sông-Lô thì  lời thẩm định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ-hoàng-Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:

“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.

“Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.”

Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các “nhân vật then chốt” cộng sản, và Vũ-hoàng-Chương đã bị bắt. Như vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba : bắt đầu từ bài thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy khôn cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do không phải quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.’’

Trích đoạn trên đây nói lên khí phách của nhà thơ miền Nam trước sự thấp hèn của những kẻ dối lòng, tự biến thành ông cai văn nghệ, ra oai tác quái với những cây bút chân chính. Nhưng không chỉ có thế. Di ngôn của thi bá họ Vũ còn là bản tuyên ngôn của các nhà văn, nhà thơ chân chính, không bẻ cong ngòi bút, chỉ nói lên những điều mắt thấy tai nghe, cho dù vì nói thật, nói thẳng mà phải mất mạng.

Vũ Hoàng Chương thẳng thắn phê bình bài thơ của Tố Hữu nịnh bợ Staline vốn là đồ tể trời tây. Theo sử gia Norman M. Naimark chuyên về thời kỳ xô viết của Đại Học Stanford, trong thập niên 30, Staline ra lệnh cho cục Goulag bắt giam rồi hạ sát từ 15 đến 20 triệu người vô tội trong các trại tập trung ở miền băng giá Sibérie. Con gái Staline là Svetlana cảm thấy nhục nhã, từ bỏ họ cha, lấy họ mẹ Allilouïeva, tỵ nạn chính trị ở Hoa Kỳ. Vậy mắc mớ gì mà Tố Hữu bẻ cong ngòi bút, thương vay khóc mướn đao phủ thủ giết người không gớm tay :

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.

Ta hãy so sánh giữa vần thơ giả tạo của Tố Hữu và bài thơ nói lên thực trạng miền nam vào ngày tết âm lịch đầu tiên vắng bóng cờ vàng.

Mỗi độ xuân về, Vũ Hoàng Chương lại làm một bài thơ khai bút. Vào Tết Bính Thìn (1976), nhà thơ họ Vũ ‘‘Vịnh Tranh Gà Lợn’’. Chỉ với 8 câu thơ, mỗi câu 7 chữ  (8 x 7 = 56 chữ), thi bá tuyên chiến với cả chế độ qua bài ‘‘Vịnh Tranh Gà Lợn’’. Bản chép sau đây của bà Vũ Hoàng Chương cất giữ và trao cho nhà văn Đặng Tiến :    


Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành


Gà lợn, om sòm rối bức tranh


Rằng vách có tai, thơ có họa


Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh


Mắt gà huynh đệ bao lần quáng


Lòng lợn âm dương một tấc thành


Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn


Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh


Ta hãy nghe bà Vũ Hoàng Chương chú giải bài thơ, do nhà văn Đặng Tiến công bố : ‘‘Thơ có họa có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có họa, gọi là thơ xướng họa; thơ phản nghịch là tai họa; và thơ họa (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : ‘‘rừng có mạch,  vách có tai’’ ; ‘‘xanh vỏ đỏ lòng’’. Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : ‘‘tranh  tối tranh sáng’’, ‘‘mắt xanh’’, ‘‘mắt quáng gà’’, ‘‘gà cùng một mẹ’’, ‘‘lợn âm dương’’, ‘‘con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi’’. ‘‘Khúc tân thanh’’ ngụ ý ‘‘đoạn trường’’.


Bố cục thất ngôn bát cú 七言八句 của bài ‘‘Vịnh Tranh Gà Lợn’’ như sau :


– Đề 題 (phá đề và thừa đề) : bối cảnh nhiễu nhương miền Nam vào năm 1976, gà và lợn ‘‘ám chỉ’’ : Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng. Họ ‘‘om xòm’’, huênh hoang với cái ‘‘đại thắng mùa xuân’’, cả miền Nam vật đổi sao dời.


– Thực 實 : ‘‘thơ có họa’’ : nghĩa đen là trong thơ có họa ; nghĩa bóng nói lên tình trạng công an đêm ngày rình rập, quấy nhiễu dân lành, sau cùng nhà thơ cũng phải mang họa vào thân. Lòng đỏ là việt hóa chữ đan tâm là 丹心, tác giả dùng phép ẩn dụ (métaphore) để nói lên bạn bè thân quen, đối lại với mắt xanh là dịch chữ ‘‘thanh nhãn’’ 青眼, tác giả mượn điển tích Nguyễn Tịch đời Tấn, ám chỉ những cán bộ hống hách, đáng khinh chê.


– Luận 論 : câu 5 nói mắt quáng gà vì nghe luận điệu dối gạt. Câu 6 nói đến ‘‘tấc thành’’ của người miền Nam.


– Kết 結 : Thi bá nhắn nhủ lũ gà lợn thôi ủn ỉn thùng rỗng ‘‘đại thắng’’ mà nghe rồng Bính Thìn miền Nam ngân nga khúc Tân Thanh réo rắt, đứt ruột (Đoạn Trường Tân Thanh).


Bài thơ này đưa đến cái chết của thi bá họ Vũ. Ngày 13/04/1976, cộng sản bắt Vũ Hoàng Chương, giam cùng xà lim với bác sĩ Phan Huy Quát. Vì biết nhà thơ họ Vũ sắp chết, cộng sản mới phóng thích. Lúc 23 giờ ngày 06/09/1976, nhẳm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn,  nhà thơ qua đời tại Khánh Hội tại nhà em vợ là phu nhân thi sĩ Đinh Hùng. Lao tù cộng sản đã bức tử thi bá Vũ Hoàng Chương.


Theo tài liệu của nhà văn Đặng Tiến, vào năm Kỷ Mão (1999), bà Vũ Hoàng Chương tức nữ sĩ  Đinh Thục Oanh làm bài thơ ‘‘Mai Thúy Vũ’’ khóc chồng như sau ;


Cao sâu từng nhập bóng cây già,


Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhòa.


Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,


Xuân còn Thúy Vũ một cành hoa.


Lòng nghe nắng ấm say đôi chút


Cánh để men hồng nhuốm phớt qua


Vang tiếng chim xanh về hót đấy,


Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.


Nếu thi bá họ Vũ là ngôi sao bắc đẩu sáng chói trong văn học miền Bắc, 

văn hào họ Hồ là cây đại thụ rợp bóng văn học miền Nam.


2) Hồ Hữu Tường (1926-1980) : Họ Hồ quê quán quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ. Theo nhà phê bình văn học Thụy Khê, ‘‘Hồ Hữu Tường sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm 1910 tại làng Thường Thạnh, huyện Cái Răng, tỉnh Cần Thơ. Cha là Hồ Văn Sây, mẹ là Võ Thị Nữ và ông nội là Hồ Văn Điểu. Dòng họ Hồ này khi xưa ở đất Nghệ An. Sau khi Hồ Quý Ly thất thế, đầu thế kỷ XV đã bị xua vào đất Qui Nhơn sinh sống. Đến thế kỷ XVIII, trong họ xuất hiện ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ, nổi lên cầm đầu phong trào Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn bại liệt, tất cả những người họ Hồ, bà con xa gần với Tây Sơn đều phải lánh nạn. Tỉnh Qui Nhơn bị Nguyễn Ánh đổi tên thành Bình Định. Sự đổi tên này, đối với họ Hồ, có nghĩa là một sự trả thù, một sự đàn áp. Để tránh sự trả thù của nhà Nguyễn, một thanh niên tên là Hồ Văn Phi trốn vào Nam, lưu lạc đến rạch Cái Răng ở miệt Cần Thơ, lập nghiệp. Vợ chồng Hồ Văn Phi chưa có con trai, nuôi một đứa nhỏ tên là Điểu mà mẹ nó dường như là một người trong hoàng tộc nhà Tây Sơn lánh nạn. Khi trao con lại cho Hồ Văn Phi, bà dặn dò rằng: Cha nó cũng họ Hồ, tôi cho nó cho ông là để nó giữ họ. Khi nó lớn lên, ông bà dặn nó nên nêu lên hai chữ Kế Thế mà thờ giữa hai chữ Hồ phủ, và truyền lại mãi mãi với con cháu nó nên làm như vậy. Chữ Kế Thế rút từ những chữ “Kế thế vi đức, dĩ hữu thiên hạ“, hàm súc cái mộng làm đế vương. Người con nuôi của Hồ Văn Phi có dòng dõi bí mật, đế vương ấy (dòng Quang Thiệu), chính là Hồ Văn Điểu và là ông nội của Hồ Hữu Tường. Đó là những điều mà Hồ Hữu Tường thuật lại về dòng dõi của mình trong cuốn tự truyện Thằng Thuộc, con nhà nông và tiểu thuyết dã sử Kế thế.’’


Cũng như Vũ Hoàng Chương học cử nhân Toán tại Đại Học Hà Nội,  Hồ Hữu Tường học cao học Toán tại Đại Học Lyon. Họ Vũ có thơ đăng trên các tờ báo. Họ Hồ xuất thân là nhà báo rồi nhà văn.


– Báo chí :


1930 : chủ nhiệm tờ Tiền Quân.


1932 : chủ nhiệm tờ Tháng Mười.


1936 : chủ nhiệm Thường Trực Cách Mạng, Le Militant, Thầy Thợ.


1967 : biên tập viên các báo : Ánh sáng, Tiếng Nói Dân Tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Saigon Mới, Điện Tín.


– Biên khảo :


Xã hội học nhập môn (Minh Đức, 1945).


Kinh tế học và kinh tế chánh trị nhập môn (Tân Việt, 1945).


Tương lai kinh tế Việt-nam (Hàn Thuyên, 1945).


Tương lai văn hóa Việt-nam (Minh Đức,1946, Huệ Minh, 1965).


Phong kiến là gì? (Minh Đức,1946).


Vấn đề dân tộc (Minh Đức,1946).


Muốn tìm hiểu chánh trị (Minh Đức,1946).


Lịch sử văn chương Việt-nam (quyển 1) (Lê Lợi, 1950).


Phép nói và viết hỏi ngã (1950).


Em học tiếng mẹ (1950).


Những kỹ thuật căn bản của nghề làm báo (in tại Paris, 1951, Hòa Đồng, 1965).


Em tập đọc (1951).


Tương lai văn hóa Việt Nam (Minh Đức,1946, Huệ Minh, 1965).


Trầm tư của một tên tội tử hình (Lá Bối, 1965),


Luận lâm I (Huệ Minh, 1965),


Nói tại Phú Xuân (những bài tham luận đọc tại Đại học Huế) (Huệ Minh, 1965).


– Văn học :


Một thuở ngàn năm (truyện trào phúng chính trị) gồm có: Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vannay, Paris, 1955), Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Nam Cường, 1966), Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường, 1966).


Hồn bướm mơ hoa (tiểu thuyết lịch sử xã hội, miền Hậu Giang) gồm 4 tập: Mai Thoại Dung, Tam nhơn đồng hành, Ông thầy Quảng, Bủa lưới người (Nam Cường, 1966).


Gái nước Nam làm gì? (tiểu thuyết tranh đấu chống Pháp) gồm Thu Hương và Chị Tập (Sống Chung, 1949).


Nỗi lòng thằng Hiệp (Lê Lợi, 1949).


Quả trứng thần (1952).


Kể chuyện (Huệ Minh, 1965),


Kế thế (tiểu thuyết dã sử) (Huệ Minh, 1964).


Thuốc trường sanh gồm 3 tập: Xây mộng, Phúc đức và Vẹn nguyền (Huệ Minh, 1964). Hoa dinh cẩm trận (tiếp theo Thuốc trường sanh).


Nợ tinh thần (Huệ Minh, 1965).


Thằng Thuộc con nhà nông (An Tiêm, 1966).


Người Mỹ ưu tư (tác giả xuất bản, Paris, 1968).


Un fétu de paille dans la tourmente (Paris, 1969, chưa in)


41 năm làm báo (Trí Đăng, Đông Nam Á tái bản tại Paris, 1984).


Họ Hổ, nhập thế thì làm báo, viết văn ; xuất thế thì ở tù. Giai thoại sau đây trên Wikipedia kể lại chuỗi ngày vào tù ra khám của một người lương thiện. ‘‘Khi bị giam ở phòng giam tập thể (trong nhà tù cộng sản), một người tù hỏi Hồ Hữu Tường: ‘‘Bác Tường ơi! Thời Tây, thời Ngô Đình Diệm và cả thời này nữa, thời nào bác cũng đi tù. Bác có hiểu tại sao bác cứ ở tù hoài vậy không ? Hồ Hữu Tường nhìn anh ta, vừa cười, vừa hỏi: ‘‘Mày trả lời giùm tao đi, tại sao ?’’ Anh ta nhanh nhẩu trả lời: ‘‘Dễ quá mà! Tên bác là ” Hữu Tường” nên bác phải “hưởng tù” dài dài!’’. Hồ Hữu Tường cười buồn: ‘‘Có thể thằng nầy nói đúng!’’.


Ta đã nghe thơ họ Vũ thì nay sẽ xem văn họ Hồ, để biết nhân sinh quan của ông.


– Nhận định của Hồ Hữu Tường về chủ nghĩa cộng sản :


“Tôi bước vào mê ly đồ của chủ nghĩa Mác-Lê đầu tháng 6 năm 1930. Tôi bước chân ra ngoài cái mê ly đồ ấy vào đầu tháng 6 năm 1939. […] Trong 9 năm này, những bài luận của tôi viết thảy đều lập trên nền tảng của duy vật luận biện chứng pháp. Từ tháng 6 năm 1939 đến tháng 6 năm 1945, ngoài những bức thơ ngắn cho gia đình, tôi không có viết gì khác. Đến Hà Nội vào đầu tháng 6 năm 1945, tôi đã sắp dàn bài cho quyển Xã hội học nhập môn mà tôi viết xong khi khởi đầu tháng 11. Từ hai mươi năm nay, tôi chưa trước tác được tài liệu nào vững chắc và khoa học để đả kích chủ nghĩa của Marx, hơn tập sách nhỏ này. Cả phương pháp biện chứng và duy vật sử quan đều bị “lật vích”, nền tảng triết lý và cơ sở xã hội học của Marx đều bị lật ngược, thế mà kiểm duyệt Việt Minh đọc không hiểu nên chẳng bôi chữ nào. Từ ấy, phương pháp biện luận của tôi không còn là biện chứng pháp nữa. Trong năm năm nằm ở Côn Đảo, trong những ngày tàn của chế độ thực dân, tôi đã suy tư tìm thấy và thường nói với Nguyễn An Ninh rằng duy vật luận của Marx hóa ra siêu hình, chánh là do Marx đội cho nó cái lốt của biện chứng pháp […]. Năm năm tù dưới chế độ thực dân đã giúp cho tôi “cai” biện chứng pháp, cũng như người nghiện cai thuốc phiện. Và, rời bỏ tư duy siêu hình của biện chứng pháp, tôi trở về với tư thái khoa học […] Khoa học, bao giờ cũng cho phép ngoại suy để mở rộng phạm vi hữu hiệu của mình. Nhưng bao giờ những cuộc ngoại suy nầy phải phê phán cho chặt chẽ, kẻo bị lầm. Nói theo một danh từ mới xuất hiện, mà đã tràn lan khắp nơi, là cần phải “xét lại”. Thế mà, biện chứng pháp, tin tưởng như là một giáo điều, không cho tín đồ của chủ nghĩa Marx “xét lại”.” (Luận lâm I , Huệ Minh xuất bản năm 1965, tại Sài Gòn).


– Nhận thức luận của Hồ Hữu Tường :


– ‘‘Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin,… để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt’’ (Tương lai Văn hóa Việt Nam, in lần thứ ba, Huệ Minh, Sài Gòn, 1965).


– ‘‘Văn, trong nghĩa cầu nguyên của nó, là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ, là hung bạo. Hóa, trong nghĩa cầu nguyên của nó là thay đổi. Hai chữ đó mà ghép lại, thì tôi cho rằng đó là cái gì làm cho người ngày càng cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người (hạ tiện, xấu xa) hóa ra Người (cao quý, đẹp đẽ)’’.


– ‘‘Tôi vẫn muốn rèn, luyện, uốn, nắn, hun đúc tôi, cho tôi ngày nay đẹp đẽ hơn ngày hôm qua, cho tôi ngày mai càng đẹp hơn tôi ngày nay, để rồi bây giờ tôi là “người” dần dần theo đuổi Người’’ (sđd, trang 18)


– ‘‘Sứ mạng của bạn là sứ mạng sáng tác.’’ (trang48)


– ‘‘Lương tri sẽ là sản phẩm của người. Nó có nguồn gốc ở người. Nó là một vật nhân bản.’’ (trang 56)


– Phương pháp kể chuyện của Hồ Hữu Tường :


‘‘Đọc tiểu thuyết hay của các nước, tôi rất hiểu tiểu thuyết xây dựng thế nào, nhưng tôi không chịu viết tiểu thuyết, mà chỉ bám vào lối văn “kể chuyện”.


– ‘‘Tôi chỉ muốn “kể chuyện” cho hoang đường, cho hóm hỉnh, cho trào phúng, cho quê mùa, như những giáo sư văn chương của tôi mà thôi. Con nhà trâm anh thế phiệt, ông, bác, cha, anh, thảy đều khoa hoạn, thì viết văn điêu luyện như Nguyễn Du, việc ấy hợp lý, hợp tình. Con nhà nông như tôi, mà viết văn nông dân, việc ấy cũng hợp lý, hợp tình nữa.

Con vua thì đặng làm vua


Con sãi ở chùa thì quét lá đa


có cái văn tâm như thế, nên trong chín năm theo chủ nghĩa Mác-Lê, giáo điều của chủ nghĩa nầy dạy phải viết theo đường lối ‘‘tả chân xã hội’’ (réalisme socialiste), thà tôi nhịn viết văn, chớ tôi không chịu phản lại giai cấp tôi. […] Cái văn tâm như thế đem những văn tứ ‘‘cổ điển’’ lại, chuyện ‘‘ma’’, chuyện thần tiên, chuyện hoang đường, chuyện tiếu lâm châm biếm … ‘‘cổ điển’’ là cổ điển của thứ văn chương nông dân ta vào thế hệ của tôi.” (trích bài Tựa cuốn Kể chuyện, nxb Huệ Minh, Sài Gòn, 1965)


– Ngục tù : Văn hào Hồ Hữu Tường thọ 70 thì đã có đến 15 năm tù đầy : từ 1940-1944 : tù thực dân Pháp, từ 1955 đến 1964 : tù quốc gia vì tham gia Mặt Trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia, từ 1978 đến 1980 : tù cộng sản là khắc nghiệt nhất. Ngày 26/06/1980, chiếc xe chở ông từ nhà tù về đến trước cửa nhà thì ông tắt thở.




Thủ bút của Hồ Hữu Tường


Trong số các tác phẩm của Hồ Hữu Tường, Phi Lạc Sang Tầu cảnh báo về đại họa cộng sản bắc phương, qua nhân vật thằng mỏ làng Phù Ninh. Họ Hồ viết như sau : ‘‘Ba đời liên tiếp, s­ư tổ của tôi là Bạch Hạc, sư phụ là Hoàng Hạc và tôi, đã dày công nghiên cứu sấm ký, nhất là sấm của Khổng Minh Gia Cát Lượng. Nhờ vậy mà chúng tôi biết rằng chúng ta sắp đến một thời loạn to tát, chưa từng thấy trong lịch sử  Trung Hoa. Mà muốn cứu vãn tình thế, phải cần có Thánh Nhân, người xuất tại phương Nam, nghĩa là ở Việt Nam.’’


Còn trong truyện ‘‘Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp’’, Hồ Hữu Tường đã dùng con chuột nói lên cái Bi Trí Dũng, theo ý ông là chủ tể của luân lý : ‘‘Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết “tí là con chuột”. Nhưng từ ấy nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo dài hoài; bởi loài người chưa giác ngộ, cứ lầm tưởng chuột ấy là thứ “chuột tham, sân, si” kia. Chừng nào, đứng đầu cho cuộc vận hành của vũ trụ là con Long Thử, con chuột học được, và hành được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra, nguồn Thanh Bình mới khai được.’’


Nếu thơ của Vũ Hoàng Chương có gà và lợn, văn Hồ Hữu Tường có chuột và mèo. Ông viết như sau: ‘‘Có Bi mà không Trí, là vô bổ. Có Bi và Trí mà thiếu Dũng, là vô hiệu. Bi, Trí, Dũng là ba cái chân vạc, thiếu một chân ấy là vạc nghiêng đổ đi.’’


Đoạn văn này dường như là để nhắn nhủ Văn Tiến Dũng, tác giả cuốn ‘‘Đại Thắng Mùa Xuân’’. Trong sách Luận Ngữ (論語) viết rằng: ‘‘Trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ’’ (知者不惑, 仁者不憂, 勇者不懼 (Tử Hãn 子罕) : Người trí không mê hoặc, người nhân không lo, người dũng không sợ.


‘‘Người có dũng không sợ’’. Vậy cớ sao tên là Dũng mà ông lại sợ Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường vốn không có một tấc sắt trong tay, đầy ải họ đến chết ?


Lê Đình Thông

Nguồn:  http://lediemchihue.com/