Tuesday, April 28, 2020

SỰ SỤP ĐỔ CỦA VNCH ĐÃ ĐƯỢC SẮP XẾP CỦA TRỜI ĐẤT 
Khi TT Trần văn Hương đã giao quyền lực cho một người có một tiền định rất xấu (fatality) là tướng Dương văn Minh.
Ông sanh ngày 16/2/1916*.
Dựa vào Numerology tôi phân tách tên họ của ông.
DƯƠNG = 4 6 7 5 3 = 25 = 7
VĂN = 6 1 5 = 12 = 3
MINH = 4 1 5 5 = 15 = 6
Tổng cộng : 7 + 3 + 6 = 16  mà ý nghĩa theo Numerology là Thành Lũy Tan Nát (The Shattered Citadel). 
Như vậy ông Minh bị số 16 tác động HAI lần. Đây là một số RẤT XẤU (số của TAI HỌA TIỀN ĐỊNH LẠ LÙNG/strange fatality) mà ví dụ điển hình là cố TT Mỹ Abraham Lincoln: ông này có tên cộng lại bằng 16 và cũng là TT thứ 16 của Mỹ!
Ý Nghĩa Của Số 16: The Shattered Citadel (Thành Quách Tan Vỡ) - dựa theo sách Linda Goodman's Star Signs.
Theo nguời Chaldeans cổ đại thì số 16 đuợc biểu tuợng bởi hình ảnh “một Tòa Tháp bị Sét đánh, từ đó một nguời đang rơi xuống, với một Vuơng miện trên đầu” (a Tower struck by Lightning, from which a man is falling, which a Crown on his head”). Số này cảnh báo về một tai họa tiền định lạ lùng (strange fatality), cũng như sự nguy hiểm của các tai nạn và sự thất bại của những kế hoạch của nguời mang số đó. Nếu tên bằng 16, điều dĩ nhiên là khôn ngoan đổi tên để tránh tác động của nó. Nếu ngày sanh là ngày 16 của bất cứ tháng nào , sự thử thách của số 16 phải đuợc cẩn thận đón nhận/đáp ứng, để cho tác động/ảnh huởng có thể giảm nhẹ tới một mức không khắc nghiệt lắm (the challenge of the 16 must be met, so that its effect may be diluted to a milder vibration). Để tránh khuynh huớng tiền định đầy khắc nghiệt này (the fatalistic tendency) của ngày sanh là số 16, nguời (có ngày sanh là 16) này phải cố gắng lập kế hoạch truớc khi làm bất cứ việc gì (one must endeavor to make all plans in advance), để chắc chắn rằng mọi khả năng của thất bại phải đuợc tiên liệu/biết truớc (making certain that any possibility of failure is anticipated) và phải đuợc né tránh/đi vòng quanh/đổi huớng (circumvented) bằng cách chú ý cẩn thận từng chi tiết. Số 16 cũng mang đến cùng với nó sự bắt buộc và trách nhiệm phải nghe theo tiếng nói từ bên trong của số 7, tiếng nói này sẽ luôn luôn cảnh báo về nguy hiểm thông qua những giấc mơ hoặc trực giác để tránh kịp thời (intuition in time to avoid it). Không nên coi thuờng tiếng nói từ bên trong. Như tôi (tức bà Linda Goodman – người dịch) truớc đây đã giải thích phần nào về sự kiện rằng tên “Abraham Lincoln” bằng số 16, rằng ông Lincoln đã đuợc cảnh báo nhiều lần về việc ám sát ông là tiềm tàng/có thể xảy ra thông qua những giấc mơ của ông (was warned repeatedly of his potential assassination by his dreams) . . . và cũng như bởi vài ông đồng bà bóng (“sensitives” or “mediums”) đuợc đưa vào Tòa Nhà Trắng bởi bà Mary Todd Lincoln. Ông đã coi thuờng/không nghe theo những cảnh báo rõ ràng này, và đã từ chối thực hiện những biện pháp phòng ngừa (precautions) cần thiết, vì vậy đã không thể tránh khỏi tai họa tiền định này (was unable to avoid his fate). Nhưng điều này đã có thể tránh đuợc (but it could have been), và đây là điều quan trọng mà nguời có ngày sanh là 16 phải nhớ. Để tìm kiếm hạnh phúc bằng những cách khác hơn là làm lãnh đạo cấp cao (leadership at the top) – thì nên từ bỏ sự nổi tiếng/tiếng tăm và danh vọng (to renounce fame and celebrity) – đây chính là cách để giảm nhẹ khía cạnh/mặt tiêu cực (negative aspect) của số 16.
Lincoln đã không làm như vậy, vì nghĩ rằng điều quan trọng là phải cố gắng thống nhứt đất nuớc (feeling it was more important to attempt to keep the nation united) hơn là hưởng thụ hạnh phúc (fulfillment) của một cuộc sống riêng tư, mặc dù ông đã nhận chức Tổng thống với nhiều miễn cưỡng và nỗi buồn sâu thẳm (with much reluctance and a profound sadness).
( Dịch từ trang 254-255 của sách đã dẫn của bà chiêm tinh gia nổi tiếng nguời Mỹ Linda Goodman).
San Jose ngày thứ hai 15/03/2010 lúc 12:03 trưa.
* Đây cũng là sinh nhựt của tôi.
TB. Các bản đồ chỉ các mủi tấn công của quân CSBV vào thủ đô Sài Gòn.



TRẬN BẾN TRANH THÁNG 4/1975 ,
CHIẾN THẮNG LỚN NHỨT VÀ CUỐI CÙNG CỦA QUÂN VÀ DÂN VNCH - ĐƯỢC BÁO CHÍ QUỐC TẾ LOAN TIN
(Dịch từ tuần báo Pháp Paris-Match số 1352 ngày 26/4/1975)
.
. . .
"Quận Bến Tranh
"Mỹ Quới, 150 dân làng đã được tập trung tại sân làng khi chúng tôi tới. Những người này không đi ra đồng sáng nay. Trong tầm nhìn của mắt, vùng châu thổ rạn nứt này, ngoại trừ lững lơ những đám sương mù, còn lại là trong vắt (a perte de vue, le delta craquele, sur lequel flottent de echarpes de brume, est vide). Xa xa, xuất hiện những cụm khói (au loin, des fumées d'explosion), đó là những khẩu 105 của pháo binh chánh phủ đang giã/nện (pilonner) những tàn quân của một trung đoàn quân Bắc Việt xâm nhập, đã bị tiêu diệt hôm trước (s'est fait anéantir la veille).
Đó là hòa bình và đó là chiến tranh. Vùng châu thổ này luôn luôn có hai bộ mặt. Trong khúc quanh của con kinh (la boucle de l'arroyo) chảy vòng qua làng, nổi lên những xác chết sình chướng và đen kịt (gonfles et noirs).
Cách đây hai ngày, Mỹ Quới đã là bộ chỉ huy của quân Bắc Việt. Trên ngưỡng cửa của một ngôi nhà, một người đàn ông với nét mặt đầy sợ hãi (aux yeux remplis de frayeur), đang ngồi, được canh gác bởi ba nghĩa quân (trois villageois en armes). "Người này trước đây là chính ủy của trung đoàn "(c'était le commissaire politique du regiment), Đại Tá Thành giải thích cho tôi. Mập nhưng lùn (trapu), gương mặt tròn nhưng với nét cứng cỏi (les traits fermes), Đại Tá Thành đã hành quân (ratisser) vùng châu thổ này từ nhiều tháng. Ông nhìn chăm chú cánh đồng chỉ còn bùn khô, ngăn cách bởi những con đê nhỏ, và thì thầm: "còn nữa". (il scrute la plaine de boue sèche , quadrillee par les diguettes, et murmure: " Il y en a encore"). Ông nói như một sĩ quan Pháp của thập niên 1950. Tôi nói như vậy với ông, ông trả lời: "vùng châu thổ là vậy" (C'est la delta).
Nhưng bên dưới những bụi chuối (bananeraie), tạo bóng mát cho làng, những cô gái trẻ mặc áo lụa trắng đang phì cười (pouffent de rire ), những đứa nhỏ ở truồng vừa đuổi nhau vừa la trước mỗi nhà - những ngôi nhà bằng đất với lớp vữa màu xanh (maisons en dur, enduites de crepi bleu). Có nhiều lu lớn đựng nước ngọt mà những thanh niên có thể dùng những cái lon bằng thiếc để múc uống hay rảy nước cho mát (des gobelets de fer blanc pour boire et s'asperger). Nguời ta vừa lấy những xác dưới kinh, sẽ chôn cất và mọi việc sẽ cũng như trước. Cho tới đêm kế (jusqu'à la nuit prochaine).
Bởi vì đó là đêm mà các đặc công Bắc việt xâm nhập vào các làng để đe dọa các trưởng làng, trừng phạt những nông dân không tuân lịnh Việt cộng (châtier les paysans qui ne se plient pas aux consignes du Viet-cong). Giống như thời người Pháp còn hiện diện. Vùng châu thổ này, với một triệu người đang nuôi 20 triệu người, có thể nuôi toàn nước Việt Nam. Đây là vùng đất màu mỡ/phì nhiêu (fertile) nhất Đông-Nam-Á. Không có vùng châu thổ, Sài Gòn sẽ là một thành phố chết. Do đó mà tại sao Đại Tá Thành theo dõi, trong khu vực bao la này, nơi mà người ngoại quốc phải dựa vào địa bàn để di chuyển, những trung đoàn Bắc Việt phân tán thành từng toán nhỏ, giấu mình trong những ao (trous d'eau), đào những đường hầm dưới các đê và đôi khi sống dưới đó trong nhiều tháng.
Người nông dân vùng châu thổ KHÔNG thích Việt cộng. Và đối với họ, một người miền Bắc là một người Esquimau. Mỗi ấp ¬có nghĩa quân trang bị vũ khí nhẹ. Ở phía bắc của vùng châu thổ, những người Hòa Hảo, một giáo phái có màu sắc chính trị tổ chức thành một đạo quân thật sự, đã thành công khi làm khiếp đảm những phần tử liều lĩnh nhứt của đội quân quyết tử của Hà Nội. Nhưng những người nông dân này cũng ghét những công chức của Sài Gòn tham nhũng (ranconner) và không biết lội ruộng (ne savent pas marcher dans les rizières). Họ có một danh từ để chỉ những người này: đó là những người mang túi/bị gạo (ce sont ceux qui emportent les sacs de riz.
Chúng ta đang ở Á châu và người nông dân đang chờ để biết ai sẽ là kẻ mạnh nhứt. Chính kẻ mạnh nhứt sẽ làm chủ vùng châu thổ này. Vào lúc này, vị đại tá khỏe mạnh này đang giữ quận Bến Tranh trong tay cho chính quyền VNCH ở Sài Gòn. Không nắm vững tình hình, người nông dân không biết tới sự thảm bại mới đây (ý nói sụp đổ của các tỉnh miền trung.-Tài) và hơn nữa, họ còn cười vì nghĩ rằng nó quá xa nơi họ đang sống.
Nhưng nếu Bắc quân, tại Xuân Lộc đang cầm chân những lực lượng giỏi nhứt của Sài Gòn, đột nhiên tấn công vùng châu thổ?
Chúng tôi tiếp tục trợt lên trợt xuống (trebucher) trên những bờ ruộng, tới Ấp Bắc. Vẫn còn những thiếu nữ với hoa cài trên tóc. Vẫn còn những đứa trẻ nô đùa vài mét cách các xác sình chướng và nám đen. Vẫn còn xuất hiện những nghĩa quân bảo vệ làng của họ. Nhưng họ sẽ chống được ai?
Chúng tôi vào nhà của xã trưởng. Có tám đứa nhỏ trên bộ ván gỗ lớn. Một bà lão đang đang cắm hoa trước bàn thờ ông bà. Vị xã trưởng chào đại tá.
- "Làng này thì bảo đảm".
Đại Tá nói.
Nhưng ông ta nhìn ra xa, hướng về các bụi chuối mà sức nóng của buổi trưa làm chúng lung linh dưới ánh mặt trời, như địch quân đang ẩn núp ở đó.
Tại Sài Gòn, trong một con đường rộng, kế khách sạn Continental, có một người đàn bà nhỏ thó đang sống, mảnh khảnh nhưng hoạt bát (menue et vive), vừa làm trung gian (interposer) giữa hai kẻ thù không đội trời chung, Tổng Thống Thiệu và Việt cộng. Đó là bà Ngô Bá Thành. Bà mời các phóng viên quốc tế đến vườn nhà bà. Đối với người nước ngoài, bà tượng trưng cho lực lượng thứ ba. Ở Washington, Paris, London, và có thể ở Moscow người ta lắng nghe bà. Người ta coi bà như một lực lượng để thay thế. Người ta cũng đang theo dõi một viên tướng mà giá trị lớn nhứt của ông là vẫn còn im lặng. Đó là Minh lớn. Người ta đồn đãi rằng ông sắp tái xuất giang hồ. Nhưng dân Sài Gòn, mỗi đêm hướng lổ tai về Xuân Lộc, chỉ có thể nghe tiếng đại bác của Bắc quân./."
Ký giả: Francois Caviglioli
Ảnh: tuần báo Paris Match số 1352 có bài phóng sự về chiến thắng Bến Tranh của trung đoàn 12 sđ 7 bộ binh, chỉ huy bởi đại tá Đặng Phương Thành.
                        
ĐT Đặng Phương Thành



S Ự  T Á I  S I N H - T H A Y  Đ Ổ I
(R E G E N E R A T I O N - C H A N G E)
1/ Số 13 không phải là xấu như nhiều người nghĩ. Người xưa nói rằng ai biết cách xử dụng số này sẽ có được QUYỀN LỰC và sự PHỤC TÙNG từ kẻ khác. Số 13 dính liền đến quyền lực và nếu (quyền lực này) được dùng vào mục đích VỊ KỶ thì sẽ mang sự HỦY DIỆT (destruction) cho chính số đó.
2/ Hình ảnh tượng trưng cho số 13 là bộ xương, là thần chết, tay cầm lưỡi hái, đang tàn sát biết bao con người còn rất trẻ, đang chen lấn, dẩm đạp lên nhau, tìm cách thoát thân, trên một cánh đồng cỏ mới mọc.
3/ Số nầy cũng cảnh báo về chuyện KHÔNG AI NGỜ ĐƯỢC lại sẽ xảy ra.
4/ Số 13 cũng là số của ĐỔI ĐỜI (upheaval), để cho người ta có thể làm được điều hoàn toàn MỚI - mà trước đó KHÔNG AI LÀM ĐƯỢC. Số này dính liền với thiên tài - cũng như với các nhà thám hiểm - là số phá vở những gì có tính chính thống và những khám phá trên mọi lãnh vực.
* Dịch từ sách Linda Goodman's Star Signs, tr. 197 của Linda Goodman - chiêm tinh gia hàng đầu của Mỹ.