Thursday, January 10, 2019

"Theo đó, xưa kia các cá nhân tự mình phán xử và tự tay thực thi luật tự nhiên, thì nay họ trao các quyền ấy cho cộng đồng do một chính quyền đại diện. Việc chuyển giao này dựa trên sự đồng thuận tự nguyện: “Con người bởi bản chất là tự do, bình đẳng, độc lập, nên không ai… bị buộc phải phục tùng quyền lực chính trị của người khác, mà không có sự đồng thuận của anh ta”.

Locke cho rằng việc chuyển giao quyền này xác minh mục đích của chính quyền: nó có trách nhiệm bảo vệ các quyền tự nhiên của con người như là quyền sống, quyền tự do, và quyền sở hữu – những nhiệm vụ mà trạng thái tự nhiên không làm được. “Mục đích chính và vĩ đại mà con người liên kết thành một cộng đồng, và đặt họ bên dưới một chính quyền, là để bảo vệ tài sản của họ.”

Nhưng ông cũng khẳng định “tất cả những điều này đều không hướng đến mục đích nào khác ngoài hòa bình, an ninh và sự tốt lành chung của mọi người”.

Để làm được điều đó, chính quyền cần phải cung cấp một bộ luật để giải quyết các bất đồng, giải quyết bất đồng như một quan tòa vô tư trên cơ sở của luật, và sử dụng sức mạnh của mình để củng cố các luật lệ hợp pháp do cộng đồng tạo ra.

Làm sao để chính quyền không biến thành kẻ mạnh đàn áp người dân?

Trước cuốn khảo luận thứ hai này, John Locke còn viết một tập “Khảo luận thứ nhất về chính quyền” nhằm phản biện quan điểm về nguồn gốc quyền lực chính quyền của Sir Robert Filmer. Trong tác phẩm Patriarcha, Filmer cho rằng bởi sở hữu thẩm quyền thần thánh nên vua chúa có quyền cai trị các thần dân. Locke hoàn toàn bác bỏ lập luận của Filmer, và cũng hoàn toàn phản đối kiểu chính quyền chuyên chế ấy.

Song, dẫu không biện minh bằng quyền lực thần thánh, thì chính quyền theo bản khế ước xã hội kia vẫn có thể đàn áp người dân. Với quyền lực quá lớn trong tay, chính quyền hoàn toàn có thể vi phạm các quyền của người dân ở mức độ lớn và rộng khắp. Mối đe dọa này kinh khiếp hơn nhiều so với những rủi ro đụng độ trong trạng thái tự nhiên.

Rõ ràng, quyền lực luôn có khuynh hướng bị lạm dụng, như câu nói nổi tiếng của Lord Acton: “Quyền lực làm con người tha hóa. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối”.

Do đó, cách tốt nhất để giảm thiểu nạn lạm dụng quyền lực, theo Locke, là phải phân tán quyền lực. Locke đề xuất giao quyền lực của chính quyền vào trong tay nhiều cơ quan khác nhau, cụ thể là ba nhánh hành pháp, lập pháp, và liên minh độc lập với nhau.

Về sau, cách phân chia này của Locke được triết gia Montesquieu tiếp thu và trình bày trong cuốn “Tinh thần pháp luật”, với ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Đây cũng chính là mô hình phân quyền mà nền chính trị Mỹ đang áp dụng.

Làm gì khi chính quyền vượt quá phạm vi quyền lực của nó?

Nếu như Thomas Hobbes trong tác phẩm “Leviathan” khẳng định rằng việc lật đổ một chính quyền sẽ dẫn tới tình trạng vô chính phủ ngay tắp lự, thì cuộc Cách mạng Vinh quang lại không đem tới cái kết quả tồi tệ ấy.

Vào những năm 1690, sau cuộc cách mạng, người dân Anh đã chứng kiến cảnh chuyển mình tích cực của nền chính trị quốc gia. Địa vị của Quốc hội gia tăng, trong khi uy quyền của nhà vua ngày càng suy giảm. Chính nhờ vậy mà cuộc cách mạng lật đổ vua James II không ngừng được ca tụng, còn “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của John Locke – vốn được sinh ra để biện minh cho tính chính đáng của cuộc cách mạng này – được đón nhận khắp nơi.

Chính thành công ấy càng củng cố cho quan điểm của Locke, khi trả lời cho câu hỏi trên, rằng “bất cứ khi nào chính quyền tìm cách tước đoạt và phá hoại tài sản của người dân, hoặc đẩy họ vào cảnh nô lệ dưới một thứ quyền hành tùy tiện, thì chính quyền đã tự đặt mình vào tình trạng chiến tranh với người dân, do vậy người dân không cần phải phục tùng chính quyền thêm nữa.

Bởi dù đã giới hạn quyền lực chính quyền bằng cách phân chia quyền lực, song điều đó vẫn không hoàn toàn đảm bảo rằng chính quyền sẽ chỉ làm đúng cái phận sự của nó mà không phá rào.

Theo khế ước xã hội, quyền lực của chính quyền đến từ sự ủy nhiệm của cộng đồng. Bất cứ khi nào chính quyền hành động ngoài những quyền được cộng đồng ủy nhiệm, thì nó đang hành động một cách tùy tiện, và quyền lực đó là bất hợp pháp.

Khi đó, không nghi ngờ gì nữa, người dân có quyền nổi dậy lật đổ cái chính quyền phi pháp ấy để giành lại quyền lực của mình, bởi “Quyền lực tối cao vĩnh viễn nằm trong tay cộng đồng để bảo vệ người dân trước những nỗ lực hay mưu đồ của bất kỳ ai – kể cả các nhà lập pháp của họ – khi mà những người này trở nên quá ngu xuẩn hay quá độc ác khi thực hiện những ý định chống lại các quyền tự do và sở hữu của người dân”.

Tuần tự trả lời một cách thấu đáo cho cả năm câu hỏi trên, “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của Locke đã đặt ra một nền tảng lý thuyết vững chắc cho nguồn gốc, phạm vi, và mục đích của chính quyền dân sự.

Không chỉ là lời biện hộ đầy sức thuyết phục cho cuộc Cách mạng Vinh quang tại Anh – cuộc cách mạng đã thiết lập nên nhà nước tự do hiện đại đầu tiên trên thế giới, mà “Khảo luận thứ hai về chính quyền” cũng chính là nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Hoa Kỳ.


Hiện trong các đầu sách Việt ngữ về John Locke, ngoài “Khảo luận thứ hai về chính quyền” do dịch giả Lê Tuấn Huy chuyển ngữ, còn có bản dịch “Vài suy nghĩ về giáo dục” của dịch giả Dương Văn Hóa và tác phẩm “Chat với John Locke” của nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn.
https://www.luatkhoa.org/2018/02/doc-john-locke-5-cau-hoi-ve-nguon-goc-cua-chinh-quyen/
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2255589381121542&set=pcb.2255589537788193&type=3&__tn__=HH-RHH-R&eid=ARDPF6xNIahFohgfiBGJIwe87QpdSmSqLffT0WLC2IQKj6klQDLbbv2Iely6yQFHaGWMkO2Jdmjj3n7W
MỘT CÁI CHẾT ĐÃ ĐƯỢC BÁO TRƯỚC .
(Trong 1 bài của tôi v/v ký kết văn kiện đầu hành của Nhựt bởi tướng MacArthur , 1 Facebooker đã còm và chửi ông DV Minh ; tôi ko đồng ý và nay đưa thêm bằng chứng để nói rằng VN ko thể cầm cự lâu dài nếu ko đầu hàng -- Tài) .
-----
Một cái chết được báo trước .
. . . Vào giữa năm 1972 , lực lượng cs ở miền Nam gồm có 176.000 quân CSBV chia thành 11 sư đoàn và 24 trung đoàn biệt lập , cộng thêm 200.000 quân thuộc các đơn vị tỉnh và địa phương của MTGPMN .
Quân lực VNCH lúc đó có 200.000 quân gồm 13 sđ bộ binh được sắp xếp như sau : quân khu 1 có 5 sđ bộ binh + sđ dù + sđ TQLC + 1 thiết đoàn + 6 tiểu đoàn BĐQ . QK 2 có 2 sđ bb , 1 thiết đoàn và 18 tđ BĐQ . QK 3 có 3 sđ bb , 1 thiết đoàn , 9 tđ BĐQ . QK 4 có 3 sđ bb , 1 thiết đoàn và 12 tđ BĐQ . Mỗi thiết đoàn có 1 chi đoàn chiến xa hạng trung M-48 và 2 chi đoàn thiết kỵ ( gồm có 1 chi đội chiến xa hạng nhẹ M-41 và 2 chi đội thiết vận xa M-113) ; riêng QK 4 chỉ có M-113 , không có chiến xa . Thêm vào đó là 283.000 quân của 323 TĐ địa phương quân và 184.000 nghĩa quân . KQ của VNCH có 30.000 người và 1.200 máy bay .
Lực lượng quân CSBV tiếp tục phát triển trong năm 1974 . Vào tháng 3 , họ đã có 185.000 quân chính qui tại miền nam , hỗ trợ bởi 500-700 chiến xa , 350 khẩu đại bác 122 và 130 ly , và 24 trung đoàn phòng không trang bị hỏa tiển SAM-2 , SAM3 , và SAM6 .
Trong lúc đó , các đơn vị của VNCH ngày càng thiếu thốn vũ khí/đạn dược khi quốc hội mỹ cắt giảm lớn lao nguồn quân viện cho vn . Không quân chỉ còn sử dụng 921 máy bay/1277 chiếc , và sự thiếu hụt về xăng dầu/đạn dược đã buộc họ cắt giảm 40% phi vụ và 60% hỏa lực kể từ 1973 .
Trong khi năm 72 , QLVNCH đã được tiếp tế 66.500 tấn chiến cụ / tháng , thì kể từ tháng 7/74 , con số này là 18.267 tấn/tháng . Kho vũ khí của QLVNCH giảm đi ¼ ; không có trực thăng và chỉ có 4 chiếc F-5 được thay thế cho những chiếc bị bắn rơi hay bị tai nạn lúc hành quân . QLVNCH chỉ còn sử dụng 1/5 đạn dược và 1/10 xăng dầu nếu so với lúc quân viện được tiếp tế đầy đủ . Người lính bộ binh chỉ được sử dụng 85 viên đạn/ngày và mỗi khẩu đại bác là 4 viên/ngày .
Kể từ tháng 9/1974 , toàn bộ các trực thăng chỉ thực hiện được 2.000 giờ bay/tháng bao gồm tải thương . 1/5 máy bay phải nằm ụ và đại bác thì chỉ còn sử dụng ba quả mỗi ngày .
Trong khi đó , quân csbv đã lên tới 200.000 người với 600 khẩu pháo và 1000 chiến xa . Quân lực VNCH , tính tới đầu năm 1975 trên giấy tờ là 450.000 người , kể luôn luôn thành phần tiếp vận . Bao gồm 11 sđ bb , 1 sđ dù , 1 sđ TQLC , 2 trung đoàn biệt lập , 21 chi đoàn thiết giáp , 43 tđ BĐQ và 18 tđ pháo binh . Mức độ đào ngũ là 24.000 người/tháng . Con số đầy kinh hoàng này cho thấy tinh thần chiến đấu sa sút của qlvnch tính tới cuối năm 1974 . Sự gần như bỏ rơi của đồng minh (mỹ) và thương vong tiếp tục cao đã làm suy yếu rất nhiều (ate up away at the spirits) tinh thần các cấp trong QLVNCH . . ."
Dịch từ nguồn : The Vietnam War , 1959-1075 , trang 206-7 .
NHẬN XÉT : Câu nói "chiến trường quyết định bởi quân nhu" đã rất đúng khi áp dụng vào tình hình quân sự năm 1975 trước khi miền Nam sụp đổ . Vì quân viện Mỹ cho VNCH bị cắt giảm mạnh tới 80 % nên mỗi đại bác chỉ được bắn 3 quả/ngày , lính bộ binh 85 viên/ngày , v.v... Lúc đó tôi đang hành quân ở 1 tđ bộ binh của SĐ 7 nên rất hiểu sự nghiêm trọng của vấn đề này .
San Jose ngày 14.12.10 lúc 1:33 sáng .