Friday, May 17, 2019

Cựu hồi chánh viên định cư tại Mỹ theo diện H.O.

15/04/201900:00:00(Xem: 4993)
Cựu Bộ Đội Hồi Chánh Định Cư Diện H.O.
Tác giả: Năng Khiếu

Bài số  5663-20-31469-vb2041519

 Tài Trần : tựa của tác giả là "Cựu bộ đội hồi chánh định cư diện H.O." nhưng tôi mạn phép tác giả sửa lại như trên để dễ hiểu hơn . Vì theo chính sách của VNCH , những ai trở về với chính nghĩa quốc gia đều gọi là H.C.V. dù cho họ chỉ là văn công như ca sĩ Đoàn Chuẩn hay kỹ sư canh nông miền Bắc (đại đội trinh sát của trung đoàn 10 sđ 7 bộ binh từng bắt được kỹ sư canh nông), v.v...

=====================
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết về nước Mỹ từ  tháng 8/2015. Đã lần lượt nhận giải Đặc Biệt 2016, giải Danh Dự VVNM 2017 và giải Vinh Danh Tác Phẩm 2018.

 
***

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cộng sản thôn tính toàn cõi Việt Nam. Giở trò dối gạt dân, quân miền Nam. Tháng 5/1975 họ kêu gọi các sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện, để đi tù với cái tên “Học tập cải tạo”. Cấp úy thì đem đồ dùng cho mười ngày, cấp tá trở lên thì một tháng. Nhưng thực tế ít nhất cũng vài ba năm, trung bình 6-7 năm hoặc từ 15… 20 năm. Có người đi mút mùa, chết không có ngày về. Còn miền Bắc thì sao? Có bị lừa không? Sau đây tôi xin ghi lại theo lời kể của một sĩ quan cộng sản chiêu hồi năm 1970.

 
*

Cuối năm 1977 tôi được chuyển từ trại tù “cải tạo” Thành Ông Năm về Gia Ray Long Khánh. Một hôm bố tôi đi thăm và cho biết, tôi có một người anh rể con bà bác là cựu trung úy bộ đội đã hồi chánh, tên là Lê Văn Bá đang bị “học tập” với tôi tại khu B trại Gia Rây này, anh ở tổ nuôi heo.

Trại nuôi heo nằm bên ngoài trại tù ở, nên phải đợi đến lúc đi lao động tôi mới hỏi thăm và gặp được anh. Dáng người anh gầy gầy, vẻ mặt khắc khổ nhưng hiền lành chứ không “ mã tấu răng hô” nên vừa gặp, tôi đã có thiện cảm với anh ngay. Tuy vậy, dẫu là anh em đôi con cô con cậu, nhưng khi tiếp xúc với anh vẫn như còn bức tường vô hình chắn ngang, nên tôi luôn thận trọng. Vì tôi có nghe một số các thành viên Việt cộng, được hưởng quy chế chiêu hồi, sau đó cộng tác với ngành an ninh quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nên sau ngày 30/4/1975 đều bị chế độ mới trừng phạt, có người bị xử tử, một số bị bắt đưa vào các trại tù “cải tạo”, trong số ít những người chiêu hồi này, một thời gian sau biến chất trở thành những điềm chỉ viên cho bọn quản giáo. Nhưng cũng có người chiêu hồi thật tâm dù ở hoàn cảnh nào sống cũng rất tử tế.

Rồi từ đó thỉnh thoảng tôi mới gặp anh, chỉ đôi ba câu hỏi thăm sức khỏe, anh ghé vào tai tôi nói nhỏ:

-Chú biết không? Cái đám cai tù ở đây chúng nó chia làm hai phe, Nam, Bắc ganh tị nhau khiếp lắm, chửi bới nhau hoài vì giành ăn. Anh được phe trong Nam thương hại, cũng bị vạ lây nên bị kỷ luật, may mà không bị đem ra Bắc nhốt. Vì có thằng quản giáo nó biết anh là chiêu hồi mà ở ngoài Bắc có học chín tháng sơ cấp về thú y, nên nó đề nghị cho anh làm tổ trưởng nuôi heo. Anh phụ trách chăm khoảng bốn năm chục con heo nái, cả hàng trăm con heo thịt, cực lắm. Nuôi bằng thực phẩm lấy ở Thủ Đức về.

Sau sáu năm lao động cật lực, tôi tốt nghiệp “Học tập cải tạo” thì ra trường. Anh cũng được thả sau tôi một năm, về quê vợ ở xứ Bạch Lâm Gia Kiệm, tại đó anh đã trải qua một cuộc sống khó khăn, như nhiều người lúc bấy giờ, còn tôi ở Hốc Môn nên ít có dịp gặp nhau.

Mãi đến đầu thập niên 1990, anh về Saigon nộp giấy tờ đi xuất cảnh diện HO. Tiện dịp anh hay ghé vào nhà thăm tôi. Anh rất lo trường hợp cựu tù nhân chiêu hồi như anh, sợ lúc phỏng vấn phái đoàn Mỹ sẽ đánh rớt, nên tuy bổn đạo mới nhưng anh rất sốt sắng cầu nguyện, xin ơn Chúa quan phòng. Cuối cùng Chúa đã nhận lời.

Gia đình anh được định cư tại Mỹ tháng tư năm 1994  theo diện HO 23. Nhờ có người bà con bên vợ bảo trợ về Riverside, một thành phố cổ nằm cạnh bờ sông Santa Ana, là cái nôi của kỹ nghệ trồng cam ở California. Gia đình anh cũng được hưởng mọi đặc ân của chính phủ Hoa Kỳ, đầy đủ như các gia đình cựu tù nhân Việt Nam Cộng Hòa. Được Hội USCC giúp đỡ một ít hiện kim, và thiện nguyện viên chở đi làm giấy tờ, từ đó họ gọi anh là Ba Le, đổi mới từ tên tuổi đến con người, mà trước kia anh đã từng  một thời phải đội nón cối, đi dép râu. Anh xin được việc làm trong hãng điện tử, chị thì làm trong hãng may.

Sáu đứa con anh vừa đi học vừa đi làm, chúng như những chồi non đang vươn lên, khi có cơ hội tốt là mau chóng thành công.

Tuy gia đình đông con, nhưng anh đã giáo dục con cái bằng đời sống gương mẫu, siêng năng đạo đức, ôn hòa và chính trực. Anh được nhiều người yêu mến tin tưởng, bầu làm chủ tịch trong một cộng đoàn giáo xứ người Việt Nam.

Bây giờ anh chị lớn tuổi, đã qua những ngày cơ cực. Các con được học hành đến nơi đến chốn, có cơ ngơi riêng biệt “Nhìn lên thì không bằng ai, nhìn xuống thì không ai bằng mình”. Anh mãn nguyện nói như vậy.

Sau hơn hai mươi năm sống tại Mỹ, nhìn về quê nhà anh không khỏi chạnh lòng, nên hay bày tỏ nỗi bất mãn cộng sản. Những bài viết trên online anh thường phê phán nhà cầm quyền cộng sản phi nhân. Để đạt được mục đích cuồng vọng xâm lăng, cố chiếm cho được miền Nam bằng thân xác hàng triệu sinh linh. Rồi anh sưu tầm những tin tức mà hiện nay cộng sản Việt Nam giấu diếm. Vạch trần âm mưu bán nước, hại dân của những quan chức tham ô, để gửi thư email đến cho nhiều người.

Anh Ba Lê cũng không quên nhắc đến chương trình chiêu hồi của chính phủ VNCH (được Mỹ yểm trợ) để khuyến khích bộ đội Bắc Việt và các thành phần “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, quay về với chính phủ VNCH.

Được thành lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1963, tính cho đến tháng Tư năm 1975 đã giúp cho gần 200,000 cán binh Việt cộng ra hồi chánh. Cũng như anh may mắn nhờ chiêu hồi, đã tìm được con đường quay về với chính nghĩa quốc gia, làm lại cuộc đời.

Anh Ba Lê so sánh sự khác biệt giữa chính sách nhân đạo của thế giới tự do, với chiêu bài cộng sản “Thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, nên khi chiếm được miền Nam, cộng sản đã ra tay trả thù tàn ác với những người sĩ quan quân lực VNCH, dù đã buông súng đầu hàng vô điều kiện. Trong khi anh, một người sĩ quan bộ đội cộng sản đã từng theo lệnh Bắc Bộ Phủ Hà Nội, vi phạm Hiệp Định Genève, xâm lấn miền Nam, quấy phá sự thanh bình của một miền đất tự do no ấm. Anh đã từng là một “khủng bố lén lút” theo lịnh đảng giết hại đồng bào, đã tiếp tay làm chết biết bao quân nhân Mỹ và đồng minh. Vậy mà giờ đây chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ vẫn mở rộng vòng tay đón nhận anh và gia đình.

 “Khách đến nhà không trà thì rượu” vì thế trà vào lời ra, anh hay kể cho chúng tôi nghe trong niềm  xúc động nhạt nhòa, về một giai đoạn cùng khổ, do tà thuyết và chủ nghĩa cộng sản du nhập vào tàn phá đất nước, mà tất cả người Việt từ Bắc chí Nam phải gánh chịu.

Thấy anh Ba Lê đang thao thao kể chuyện, bà xã tôi mạn phép xen vào:

-Thế cấp bậc cuối cùng của anh là trung úy, vậy lúc ở ngoài Bắc anh được đào tạo từ trường sĩ quan nào?

Anh thật thà:

-Đâu có đào tạo hay huấn luyện trường lớp mẹ gì!.!. Chỉ đi lính lâu năm thì lên lon thôi!

Chúng tôi chưa hết ngạc nhiên, thì anh tiếp:

-Hồi tôi đang “Cải tạo” ở trại Gia Rây, có biết một tên trung úy Việt cộng, lúc ấy đang làm quản giáo. Hắn ta người miền Nam đi theo cách mạng từ năm 12-13 tuổi, hắn không biết một chữ nhất, chỉ biết ký tên mình là Nam thôi!

 Theo như lời anh kể phần nhiều các chính ủy, cán bộ …Thường ít học, chỉ “sống lâu lên lão làng”. Sĩ quan, binh lính… không được huấn luyện kỹ lưỡng ở các quân trường như quân đội VNCH, chỉ được dạy sơ xài cách sử dụng vũ khí. Thủ trưởng cấp sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn,đại đội có khi vừa đi vừa huấn luyện, ngay trên đường mòn HCM để vào miền Nam “đánh nhau” theo chiến thuật biển người, đó là lối nướng quân tàn bạo nhất.

Nghe anh Ba Lê nói, tôi không khỏi buồn, vì bao nhiêu năm chúng tôi uổng phí thời gian, tiêu hao tuổi đời, để phải “học tập” từ những con người thất học như tên Nam.

*

 Anh Ba Lê quê ở Nghệ An Hà Tĩnh. Năm 1960 chưa học hết lớp 10 anh phải nghỉ học ở nhà phụ làm ruộng, như mọi người trong làng. Cha mẹ không có tiền cho con đi học tiếp, dù rất thương con. Anh là thứ năm trong số tám anh em.

Đầu năm 1962  anh được “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” (đó là xảo ngôn để lùa đám thanh niên miền Bắc xâm lăng miền Nam) thật ra anh cũng chẳng muốn nhận cái vinh hạnh “trúng tuyển” ấy.  Nhưng chỉ sợ sổ gạo bị cúp cả nhà đói meo! Rồi anh được bổ xung vào đại đội 3 tiểu đoàn 1 làm công tác vận chuyển súng đạn đến biên giới Lào.

Cuối năm 1964 đại đội anh được học “khẩn trương” ở Cửa Lò ba tháng để đi B (là mật khẩu của mặt trận miền Nam). Trước khi đi mỗi người lãnh hai bộ quần áo kaki, màu cứt ngựa rộng thùng thình, hai bộ bà ba đen, một cái mũ phớt, họ bảo cho hợp với lực lượng “Mặt Trận Giải Phóng” trong Nam. Xe khởi hành từ thành phố Vinh lúc một hai giờ đêm bí mật như đi ăn trộm, không đi đường chính mà đi đường vành đai. Chạy suốt đêm qua Thanh Hóa vào tới Quảng Bình, khi đến chân đèo “ngàn lẻ một” gần làng Tha Hoa, huyện Gio Linh, từ đó đơn vị anh bắt đầu lội bộ lần theo đường mòn HCM đầy gian khổ, trèo non lội suối bất kể ngày đêm, mỗi người trên lưng đeo 30 ký lô súng đạn, mà chỉ có ba ống gạo, một ký muối và mươi viên thuốc trị sốt rét. Cái dây thắt lưng quanh bụng, móc đầy những đồ chiến lược: Vải ny-lông che mưa, băng bông phòng bị thương, một con dao găm cùn nội hóa, một đôi dép lốp, một cây rút quai dép ….

  Hồi ở Hà Nội nghe cái tên Trường Sơn thật hùng vĩ, họ cho bọn anh xem ảnh ai cũng say mê  cảnh đẹp thiên nhiên. Nhưng thực tế ở đây cây cối xanh bạt ngàn, mà chẳng bới đâu ra cọng rau lúc đói. Núi đồi trùng điệp nhưng nấm thì rất độc, nhiều người ăn xong lăn đùng ra chết. Những dòng suối chảy êm ả, mà nước không đun sôi, uống vào bụng trương lên như trống làng. Mưa thì dai dẳng đen trời, thối đất. Đêm đêm nhìn cảnh màn trời chiếu đất, những cái võng vải treo tòng teng, im lìm trong cái tăng (tent) mỏng manh che chắn gió bão. Sáng hôm sau có người bạn nằm cạnh anh, ngủ luôn không dậy, vì sốt rét cả tuần mà tìm không có trạm nào còn viên thuốc ký ninh. Những con đường chập chùng không tên, cũng như bao con người có tên tuổi, nhưng nằm xuống thành nấm mồ vô danh.

Trong chốn rừng sâu núi thẳm này cái chết đến dễ dàng, chết vì đói vì rét, hoặc chỉ một mũi tên tẩm độc của biệt kích thượng. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, có khi nấu xong bữa cơm, che không kỹ để khói bay lên, máy bay đến giáng cho một trận mưa bom, chết vô số kể. Bọn anh hào hứng lúc đi, nhưng chỉ mới qua được hai ba trạm đã thấy nản, thằng nào thằng nấy bất mãn đầy bụng cái đám lãnh đạo Hà Nội vô trách nhiệm.

Đi bộ liên tục dọc theo phía Tây Trường Sơn, hơn một tháng thì đến Tây thừa Thiên, giáp đất Lào, gặp ngôi làng người dân tộc, thì dừng chân. Đơn vị anh được lệnh bổ xung vào mặt trận Tây Đô (đó là ám hiệu). Bọn anh được sát nhập vào đại đội 17 bộ đội chánh quy đã có sẵn từ lâu, thuộc phân khu Thừa Thiên Huế. Lớ ngớ như Mán trong rừng, cả đám chẳng được biết sự gì ngoài biệt danh là G2, họ nói để lỡ bị bắt thì quân đội miền Nam không truy tìm ra địa điểm.

Rồi từ đó được liên lạc về nhà, mỗi lá thư bọn anh phải bỏ hai phong bì, phong bì bên ngoài để địa chỉ khống hòm thư ở Hà Nội, dành cho bọn đi B. Phong bì bên trong để địa chỉ quê nhà mình, địa chỉ người gửi là G2, lúc bóc ra người ta sẽ kiểm tra rồi dán tem gửi về cho gia đình. Mà mình không được nói linh tinh lộ ra điều gì, là người ta vứt đi ngay không đến tay người nhận đâu! Người nhà trả lời thư cũng vậy.

 Thế nên ở Ngoài Bắc cha mẹ đâu có biết, con em mình đi B đói khát khổ sở như thế nào? Những người lãnh đạo ngoài Hà nội đã lợi dụng lòng cả tin của mọi người, để biến họ thành công cụ, thỏa mãn cái giấc mơ của HCM, con đường mòn lót bằng xương, bằng máu của những người vượt Trường Sơn, mà Trung ương đảng lại đem con bỏ chợ, chỉ cung cấp vũ khí và ít lương thực cầm hơi. Đi đến đâu thì phải tự lực cánh sinh, tự túc kiếm sống, không chừa biện pháp cưỡng bức dân chúng cung cấp lương thực, như một đoàn quân “thảo khấu”.

Vì thế những ngày đóng trên rừng giáp Lào, bọn anh nhờ được người dân tộc, chỉ cho cách đốt rừng, phát rẫy, trồng ngô, trồng sắn mới có cái ăn, để đủ sức canh gác con đường mòn mang tên “bác”. Lúc đó đơn vị anh được lệnh ém quân, không được bắn súng lớn, hay liên thanh, chỉ bắn loại cạc-bin, để cho đối phương không phát hiện ra.

 

 .

Đầu năm 1996,  đơn vị anh được lệnh xuất đầu lộ diện. Mặt trận lúc ấy bọn anh phụ trách nó mỏng lắm, ngay chỗ eo nhỏ nhất của nước Việt Nam, bề ngang chỉ độ 40 cây số. Đi từ rừng mất mấy tiếng là tuột xuống biển. Anh còn nhớ đi qua những ngôi làng, có từng dãy nhà ba gian hai chái, vườn rau ao cá, dân cư sống sung túc, thoải mái, anh rất ngạc nhiên, không thấy Mỹ ngụy kìm kẹp chỗ nào? Như lời tuyên truyền.

 Ban ngày thì bọn anh trốn trên rừng, khi bóng đêm bao phủ vạn vật,  thì mò xuống mục tiêu để đắp mô cản đường, giật xập cầu, đặt mìn trên lộ, làm nổ banh nhiều chuyến xe đò, có cả đàn bà và trẻ con, gây bao đau thương tang tóc, như những hung thần trong bóng tối. Bọn anh cứ đi theo anh chính trị viên, anh ta đi chậm thì theo chậm, đi nhanh thì chạy nhanh, không được hỏi con đường mình đang đi tên gì. Chỉ làm theo mệnh lệnh, có đêm đi tấn công, pháo kích các đồn biên phòng. Nay bót này, mai đồn khác, để đánh lạc hướng, không đủ sức đối mặt thì như kẻ cắn trộm, đánh nhanh rút lẹ. Có những đêm bị đối phương phản công vừa chết vừa bị thương, không kịp chạy về rừng, mệt mỏi và đói khát, bọn anh đánh liều gõ cửa nhà dân xin trú ngụ, nhưng họ không hề có chút cảm tình gì với các anh bộ đội “cụ Hồ”, vừa mở cửa thấy mình thì sợ hãi, rồi khẩn khoản:

-Lạy các ông đi ngay cho, các ông đi đến đâu, là cả khu đó tan nát tơi bời! Rồi vội vàng đóng xập cửa lại.

Xem ra dưới con mắt của người dân, họ không mấy thiện cảm với cái hình ảnh, các anh hùng mang “sứ mệnh đi giải phóng”, mà Hà Nội đã tô vẽ cho bọn anh trước khi lên đường. Anh tự hỏi có phải đây là những đồng bào đang chờ mình vào giải phóng, hay ngược lại khi so sánh cuộc sống thiếu thốn của dân chúng miền Bắc, vốn đã đói rách lầm than, mà cha mẹ, anh em của mình và hàng trăm hàng nghìn người dân phải thắt lưng buộc bụng, để đóng góp tiếp tế cho một cuộc chiến tranh xâm lăng.

                                                *

 Một cú sốc, khiến anh Ba Lê tìm đường hồi chánh.

 Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng sản đã lợi dụng lệnh ngưng bắn trong Hội Nghị Liên Hiệp: Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Sản Hà Nội với “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” . Giữa giây phút thiêng liêng nhất của ngày đầu năm, đã tấn công bất ngờ những nơi đồn trú xung yếu và quan trọng của Quân Lực VNCH. Bất hạnh cho người dân miền Nam trong ngày tết truyền thống, chưa kịp đoàn viên gia đình, thì tiếng súng cộng quân đã rền vang thay cho tiếng pháo giao thừa.

Trong cuộc tổng tấn công này, việt cộng đã bị đẩy lui. Các địa điểm như Saigon-Chợ Lớn cầm cự được tám chín ngày, còn các nơi khác chỉ một hai ngày hay vài tiếng đồng hồ. Nhưng đặc biệt ở Huế, Việt cộng đã chiếm hữu được 25 ngày, bởi vì họ dồn toàn lực lượng chính quy Bắc Việt đã dày dạn chiến trường, được chuẩn bị kỹ lưỡng, thông đồng với bọn chỉ điểm trước khi phát động tấn công. Thừa lúc quân đội VNCH nghỉ Tết không đề phòng, để đột ngột công phá tối đa.

Anh Ba Lê kể rằng, trung đội anh cũng nhận lệnh tham dự tấn công cổ thành Huế vào giữa đêm ba mươi, từ phía Tây Bắc dưới sự hỗ trợ của các tiểu đoàn đặc công. Nhờ yếu tố bất ngờ đơn vị anh nhanh chóng chiếm được một vùng trong thành. Nhưng “quân giải phóng” đi tới đâu dân bỏ chạy tới đó,  họ không kịp mang theo gạo, thịt, bánh, mứt dự trữ ngày Tết. Thế là đạo quân “chiến thắng” đói kinh niên, được no nê trước khi chết. Bọn anh sáng mắt lên với những kho lương thực, mà cả đời chưa bao giờ thấy, rồi hè nhau thồ bằng  xe đạp, hoặc xe “cải tiến” để khuân hết “của ăn của để”  lên rừng.

Chú biết không? Nhìn cảnh này anh thầm nghĩ: “Đây có phải là vùng đất đang chờ được giải phóng không? Nhìn lại bản thân mình, anh thấy một tình cảnh trái ngược, chính mình bây giờ đang cướp lấy miếng ăn, từ những con người tưởng là cùng khổ. Có phải là cay đắng lắm không?”

 Đâu được hơn một tuần, thì quân tiếp viện của quân lực VNCH từ Quảng Trị đến, đụng trận Việt cộng chịu không thấu chết hơn một nửa. Tuy lúc đó đa số cộng quân chiếm được các mục tiêu, nhưng vì hết súng đạn, đành thúc thủ, như trung đội anh còn 9-10 đứa và một khẩu pháo làm cảnh.

 Đến ngày thứ mười bọn anh đang đánh nhau lại được lệnh rút lui, nghe rút anh mừng lắm, vì biết mình còn được sống, nhưng lại bảo rút theo đường cũ, trong lòng anh cũng nghi nghi. Ngày hôm sau trung đội anh được lệnh khiêng khẩu pháo đi lên rừng, rồi lại khiêng xuống thành Huế. Những thân thể gầy đét, suy nhược vì những ngày kham khổ vượt Trường Sơn, phải thay đổi nhau khiêng cái đế pháo tháo rời nặng chịch, muốn gục xuống. Hai thằng khác khiêng nòng súng, tay vịn cái đòn đang chĩu trên vai, tay chống gậy cho vững kẻo trượt chân. Vậy mà bọn anh theo mệnh lệnh cứ luẩn quẩn lên xuống mãi con đường chết tiệt, lết tới lết lui, mục đích để dân chúng nhìn thấy mà đồn rằng, bộ đội còn nhiều súng lớn. Lúc lên rừng anh suy nghĩ, thì ra đơn vị mình là đánh nghi binh chứ không phải rút lui về đường cũ.

 Vì hầu hết đoàn quân nó rút qua những con đường bí mật, còn đơn vị anh thì nó bắt mình đi trên lộ chính. Qua làng Quế Chử, bọn anh tính ghé vào nghỉ chân, nhưng rồi lại dắt nhau lội ruộng theo đường chiến lược. Tự nhiên ở đâu có con chó đen to lắm nó theo anh, rồi nó đi trước, mình cứ vậy mà theo con chó gần hai chục cây số, nó đưa bọn anh qua một chiếc cầu, về đến sát rừng dẫn tuột xuống con suối. Mấy thằng lính nói: -“Anh Bá ơi để tôi trói con chó này về tới rừng mình làm thịt”. Nhưng anh bảo: “Tao không nhất trí cái đó, đứa nào ăn thì làm”. Sau súng bắn rát quá chó chạy biến mất, anh linh tính oan hồn của những thằng bạn mới chết, nhập vào nó dẫn đường cho bọn anh. 

Leo lên đến rừng quay nhìn lại, quân đội VNCH đông như kiến, Con đường chính hồi nãy bị pháo từ rừng bắn xuống. Pháo binh của VNCH bắn lên, chặn đường đi, nếu không nhờ con chó dẫn đường, thì bao nhiêu súng nó châu vào bọn anh chết banh xác hết.

Đang đi gặp toán bộ đội trinh sát nó còn hỏi:

Các anh đi đường nào lên đây?  Có ghé vào làng Quế Chử gặp đơn vị của Mỹ đóng tại đó không?

Anh trả lời: - Bọn tao đâu có ghé vào làng đâu mà gặp!

Sau này anh suy nghĩ, vậy là tụi nó tính hết rồi. Nếu mình không nhanh trí thì đơn vị mình làm con tốt thí trên bàn cờ. Hôm đấy lên đến rừng, tụi lính hì hục đào hầm tránh bom, chứ nếu bắt con chó đen, mải làm thịt thì cũng chết hết. Vì đêm đó máy bay thả trái sáng đầy  một vùng trời,  B52 nó dập tơi bời ngay mục tiêu, cái hầm bên cạnh anh, cách mấy thước chết không còn một mống. 

Khoảng ngày thứ hai mươi, Việt Cộng đã kiệt sức và hết đạn, cố gắng giao tranh thêm vài ngày  nữa, thì rút lui hoàn toàn. Vì chết rất nhiều, không như báo cáo láo, trong các cuộc chiến mà đảng cộng sản thường phát động, ta chiến thắng vẻ vang. Mà sự thực là: “Địch chết ba ta chết ráo”. Tàn quân trốn lên rừng, những chiến lợi phẩm lấy được của dân đem chất ở ven rừng, bị quân đội VNCH phản kích tịch thu hết, nên từ đó những thằng sống sót lại phải chống chỏi với cái bụng đói rã, còn được tí gạo nào thì  bọn bộ đội ở Bắc mới vào nó ăn hết. Bọn anh  phải mót lại những búp măng gầy ăn qua ngày, muối cũng không có mà chấm, phải kiếm lá rừng ăn thay. Bị bệnh kiết lỵ chết thêm một mớ nữa.

Thật tình anh và nhiều đồng đội chán nản lắm rồi.  Ngay từ lúc xâm nhập sâu vào vùng đất trù phú, đã mở mắt ra để biết mình lầm, nhưng không thằng nào dám mở miệng. Hàng ngày cứ nghe tiếng máy bay ù…ù…quen thuộc, rồi tiếng người cất lên oang oang như tiếng sấm trốc đầu: “Hỡi các anh cán binh cộng sản. Miền Nam chúng tôi không cần các anh giải phóng, tại sao các anh phải chịu đựng vất vả đói khát làm gì, các anh hãy hồi chánh trở về với chính nghĩa quốc gia, chúng tôi sẵn sàng đón tiếp các anh em…. “ Rồi những tờ giấy thông hành, được thả xuống bay rợp trời, nhưng bọn anh chỉ đứng xa mà nhìn, vì tuyệt đối không ai được lưu trữ, hoặc lén đọc, sẽ bị qui kết vào tội tư tưởng phản động.

                                                *

Nói về diễn tiến hồi chánh, anh Ba Lê kể:

- Anh còn nhớ như in vào khoảng hai giờ, một đêm mưa tầm tã tháng 6/1970. Đơn vị anh được lệnh tấn công một cái đồn trên cao điểm 820, nằm trong lòng Trường sơn. Bao vây, rồi lùa lên xung phong, vẫn theo lối đánh thí mạng, đánh xối xả, dù biết rằng đang lao vào chỗ chết.

 Anh cay cú tiếp: “Chú mày biết không? Trong chiến tranh một trong những vấn đề đặt lên hàng đầu là phương tiện, vũ khí và lực lượng phải tương quan, thì người lãnh đạo sáng suốt mới nghĩ đến, xua quân vào đánh đấm”. Đàng này tấn công  mà chỉ biết đối phương trên khái quát, không cân sức. Rốt cuộc đơn vị anh tan nát ngay từ phút đầu, chưa tiến đến mục tiêu, pháo binh của địch đã nã trước mình, rồi máy bay tới quạt lia lịa, nhiều người trúng thương, máu me cùng mình, mạnh ai nấy chạy bạt mạng dưới làn mưa đạn.

Trong tình cảnh này, anh quyết định rời hàng ngũ, âm thầm một mình ra đi, dù biết đi như vầy là một sống hai chết. Ngày thứ nhất nhìn qua đồi bên kia nhắm hướng, nhưng bom bỏ nhiều quá không đi được. Ngày thứ hai may quá không thấy máy bay quần thảo, anh liều trốn qua bên kia đồi, đang mò mẫm tìm đường, anh  giật mình sợ hãi khi gặp toán tiền tiêu (tiền sát) của Việt Nam Cộng Hòa. Họ hờm súng ra hiệu cho anh bỏ hai tay xuống. Anh trình bày xin chiêu hồi. Một người xáp vào khám xét, ngoài những thứ “gia bảo cụ Hồ” để lại, họ lôi ra một khẩu súng ngắn trong túi quần. Rồi dẫn anh lên đồn, đó là tiểu đoàn 1 trung đoàn 2, sư đoàn 2 Bộ binh. Anh được đối đãi tử tế như khách. Ngồi chờ chưa đến nửa ngày thì có máy bay chở anh về căn cứ trung đoàn ở Quảng Trị. Hai ngày sau anh được đưa về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1. Tại đây anh đã thành thật khai báo về bản thân và những gì mình biết.

Vài ngày sau anh được chuyển về Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương ở Thị Nghè Saigon. Anh được học một lớp chính huấn khoảng 1 – 2 tháng. Sau đó được nhận vào làm công tác võ trang tuyên truyền, dưới quyền của ông Võ Đại Tôn. Mục đích kể lại sự thực mắt thấy tai nghe về những dã tâm của cộng sản. Lúc đó ông Hồ văn Châm làm Bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi. Tại đây anh được chính quyền cho thụ hưởng đầy đủ quyền công dân, giúp đỡ hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc và hướng dẫn cho anh hòa nhập vào nếp sống mới tại miền đất tự do.

Nhờ người quen mai mối anh Ba Lê đã lập gia đình với người chị họ của tôi (đạo công giáo). Anh được rửa tội vào mùa lễ Phục Sinh ngày 16 tháng 4 năm 1971 tại nhà thờ Tân Châu. Anh sống những ngày bình yên bên vợ con, cho đến ngày mất miền Nam. Sau 30/4/1975,  anh ra trình diện ở Bộ Xây Dựng Nông Thôn. Nhà cầm quyền mới nhốt anh tại nhà tù Biên Hòa một thời gian, rồi đưa anh đi “cải tạo” ở trại Gia Rây.

Bây giờ mỗi lần nhớ đến những kỷ niệm kinh hoàng về cuộc chiến tranh tương tàn, như vẫn còn in đậm trong ký ức của anh Ba Lê. Anh nghiệm ra rằng, có trải qua những ngày tháng thiếu thốn đói nghèo ở miền Bắc, có lê gót trên đường mòn HCM, để chống chỏi với thời tiết khắc nghiệt, với bệnh tật và tranh dành từng miếng ăn. Có đánh đổi xương máu trên rừng Trường Sơn, theo đoàn quân cộng sản không phải để “giải phóng” mà là phá hoại miền Nam, mới biết ơn chính phủ VNCH đã bắc nhịp cầu thông cảm, cứu giúp những cán binh cộng sản muốn hối cải quay về.

Để như trường hợp gia đình anh Ba Lê hiện nay, may mắn được đất nước Hoa Kỳ, chấp thuận cho tị nạn, thoát khỏi chế độ độc tài cộng sản Việt Nam. Đặc biệt là con cháu của anh có cơ hội sống và học hành tại một nơi có nền giáo dục tốt nhất và nhiều cơ hội tiến thân, công ăn việc làm vững chắc. Để chúng có dịp góp tay xây dựng và tri ân đất nước đã cưu mang mình.

 

Năng Khiếu

2019-05-17: Khi thằng Tàu đô hộ!: 2020, Việt Nam sẽ là Tây Cương, Tây Tạng? Dân Ouïgour, những bóng ma trên đất nước Tân Cương!

17/05/201909:40:00(Xem: 227)
2019-05-17: Khi thằng Tàu đô hộ!: 2020, Việt Nam sẽ là Tây Cương, Tây Tạng? Dân Ouïgour, những bóng ma trên đất nước Tân Cương!
Tài Trần : ông Phan văn Song từng ở tù CS 4 năm , hiện sống ở Pháp .
Tháng tư 2019 ! Tháng Tư Đen thứ 45 ! Phải thứ 45, vì chúng tôi đếm cả tháng Tư Đen 1975, cái tháng tư ấy, đen tối, đầy kinh hoàng, đầy chết chóc lo âu, với những hình ảnh những chiếc tàu, những chiếc xà lan đầy người tỵ nạn miền Trung chạy về, với hình ảnh nhà cha mẹ tôi đầy bà con từ Huế chạy nạn Cộng Sản vào Sài gòn tỵ nạn … hình ảnh những tên bộ đội ngơ ngác, như mán vào thành, tràn ngập con đường Thái Lập Thành, Hai Bà Trưng trước văn phòng hảng BGI của tôi đánh dấu ngày Quốc Hận số 1, ngày Quốc Hận 30 tháng tư năm 1975, mở đầu một chuổi dài, những tháng Tư Đen tiếp theo, những Ngày Quốc Hận kế tiếp, … đến ngày nay đã 44 năm...
Do đó Quốc Hận 2019, là Quốc Hận thứ 45, đối với cá nhơn chúng tôi, đối với gia đình chúng tôi, cả với bạn bè chúng tôi, bà con, đồng bào, và cả đất nước Miền Nam Việt Nam, xứ chúng tôi … và nghĩ rằng năm nay sẽ là năm cuối cùng dân chúng của chúng ta còn được gọi là người Việt Nam. Hởi các bạn, hởi các bà con, dù là người tỵ nạn Cộng Sản hiện sống công dân xứ người ở Hải ngoại hay người Việt Nam công dân Việt Nam Cộng Hòa Chủ Nghĩa hiện  đã tạm trú ở xứ người hay đang sống trong nước ! Hãy tĩnh dậy và nhìn rõ viễn ảnh Mất Nước, Mất Dân tộc, Mất Ngôn ngữ, Nạn Hóa hóa đã gần kề !
Năm tới, 2020, Tầu Cộng sẽ quản trị đất nước Việt Nam, thực hiện đúng ký kết Thành Đô.
Do đó, hãy bỏ đi những thỉnh nguyện xin xỏ, xin giúp đở, đấu tranh Dân chủ, Nhân quyền. Hãy bỏ đi những mong chờ nơi người khác, nơi xứ khác, nơi hiệp hội khác giúp Việt Nam … Ông Trump, người Mỹ, ông Tây, ông Đức, ông Liên Âu … không ai giúp người Việt ta cả ! Hãy bỏ đi những đòi hỏi Nhân Quyền Dân Chủ !
Chỉ có nổi dậy đấu tranh, lật đổ, cướp lại quyền tự quyết, quản trị đất nước.
Chỉ có người dân Việt Nam mới cứu đất nước Việt Nam. Phải lật đổ, phải đấu tranh, chấp nhận bạo động, đổ máu, thương tật, chết chóc, tù đày. Gương Venezuela, gương Algérie…đang chờ người dân Việt.
Trong Nước, các tỉnh các thành phố thay nhau biểu tình, đình công, bãi thị… đòi quyền Tự Quyết.
Hải Ngoại, ngưng hẳn Gởi tiền vế, Không về Thăm nhà, Du lịch. Không chờ Ông Trump ra luật cấm gởi tiền về Việt Nam. Người Việt tỵ nạn Cộng Sản không giúp tiền nuôi Cộng Sản !
Hãy dẹp đi tiếng nói ôn hòa. Khi mình xuống đường ôn hòa, Việt Cộng nhà cầm quyền Hán Ngụy vẫn dùi cui. Không thể đòi hỏi đấu tranh khi mình mình ở trần, mà người ta gậy gộc…
Đã hết giờ rồi ! Người Đại Việt không thể nói trơn, bất bạo động được nữa !
Phải Toàn Dân Vùng dậy Cứu Nước. Cứu nước Đại Việt để giữ dân tộc Đại Việt.
- Tập thể Người Việt Hải ngoại dẫu rằng có 4 ông Thủ Tướng với 4 Chánh Phủ Ma (Ghost Gouvernment kiểu tướng De Gaulle) đi nữa đi đòi tái thực hiện Hiệp định Paris, dù rằng có hàng trăm hội đoàn, hàng chục Đảng từ Cách Mạng đến Dân tộc đến Yêu Nước … đòi các chánh phủ các cường quốc tái lập những thương thuyết dựa trên những ký kết, đình chiến, ngưngng bắn, dưới những tên Paris Genève… cũng không tránh được sự thực phủ phàng là Hán tộc đã đang và sẽ thuộc địa hóa (coloniser) dân tộc Việt Nam, dưới sự chứng giám phủ phàng của các cường quốc âu mỹ và cả các dân tộc láng giềng Nhựt Đại Hàn Mã lai Inđô… vì đó là một sự thực hiện tại, các quần đảo nay đã được Tàu quân sự hóa, biến thành những hàng không mẫu hạm cố định… Nếu các cường quốc bắt buộc Tàu nhượng bộ, giành được phần tự do đi lại thông thương hàng hải đã là một chiến thắng khá rõ ràng rồi … Và chẳng bao lâu nữa sẽ là một modus viandi – một cách xử sự sống chung thế thôi ! Không ai chấp nhận Biển Đông là một bãi chiến trường cả. Vì quyền lợi kinh tế quá lớn ! Gia tài Biển Đông kho tàng, tài nguyên Biển Đông giàu có đầy đủ để chia chát lợi nhuận cho nhiều quốc gia ! Dằng co, tố cáo...hù dọa, cũng chỉ sẽ đưa đến một giải pháp cùng sống chung cùng có lợi … giữa các cường quốc với nhau qua các công ty quốc tế với nhau. Quá nhiều ưu tiên kinh tế, nên quan niệm dân tộc quốc gia chỉ là một lý lẽ phụ thuộc thôi ! Mỹ sẽ ký kết cùng Tàu, cùng Nga, cùng có thể các quốc gia hạng thứ như Nhựt, Đại Hàn, hay Singapore, Mã lai, Inđô… chả ai dại gì bảo vệ Việt Nam, Lào hay Cambốt cả ! Tàu sẽ người đầu xỏ nói chuyện ở Biển Đông với Mỹ, vì Tàu thực sự ngày nay là chủ nhơn Biển Đông !
Tàu thuộc địa hóa chúng ta bằng hai ngõ : ngõ đầu tư kinh tế và ngõ nhơn mãn. Tất cả đầu tư, kinh tế, từ công trường lớn đến tiểu thương sẽ ở trong tay người Tàu, và người Tàu sẽ tràn ngập Việt Nam, từ đại thương gia đến cả những tên cu-li sẽ toàn là người Tàu, từ đại cơ sở công xưởng đến tiệm tạp hóa, tiệm ăn, xe mì, gánh bò bía cũng sẽ … đều là của người Tàu. Tiệm tạp hóa đầu ngõ, đầu xóm, là một nhà băng, một ngân hàng nhỏ, với độ trăm người khách mua chịu, chấp nhận vay với lãi suất cắt cổ Xanh Xít Đít Đu (Cinq Six Dix Douze – 20%) - các bạn còn nhớ thời ấy không ? Như vậy một tiệm tạp hóa Tàu kiểm soát một xóm lao động… Trãi rộng thành hệ thống, sức kiểm soát, sức kềm kẹp nào cho bằng… Ngày mai, người dân lao động Việt Nam sẽ là người nô lệ Tàu… Kiểm soát nào hay cho bằng kiểm soát bao tử, kiểm soát kinh tế. Chánh sách kinh tế ngày nay ở các cường quốc âu mỹ cũng thế thôi. Qua hệ thống nhà băng, hệ thống ngân hàng, người dân mang nợ, mua chịu từ Nhà cửa đến xe cộ,… làm việc đầu tắc mặt tối cho một CHỦ Nhơn công xưởng ? Lầm to ! Chủ nhơn thật sự là Ngân hàng và hệ thống Tín dụng ! Ông Tổng Thống lớn nhứt, quyền cao nhứt LÀ ông Chủ Ngân Hàng… Chẳng phải Ông Trump (cao lắm là 8 năm) hay  - ông Macron (cao lắm là 10 năm) hay là bà Merkel gì gì cả, mà là Wall Street, Banking System ...
- Sống 5 năm dưới thời Việt Cộng cướp nước - cá nhơn tôi 4 năm tù - hai vợ chồng thằng tôi tởn Việt Nam Cộng Sản đến ngày chết, làm sao quên được ! Những năm tháng tù đày nhớ đời như những vết sẹo không lành. Quên sao những năm tù trong, cả Sài gòn tù tội, bị nhốt, bị trói, bị còng, ... từ Trần Hưng Đạo, qua Đại Lợi, Phan Đăng Lưu hay Chí Hòa,Quên sao cả miền Nam ta bị lường gạt, đi trình diện đi « học tập cải tạo », bị tập trung trong những trại khổ sai, vào tận rừng sâu ... Suối Máu … trong Nam, hay ra tận rừng xanh Cổng Trời phương Bắc. Quên sao, các chị, phu nhơn các quân cán chính, các chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa thua trận chúng ta, thay chồng, tiếp tục bương chãi sống còn… Quên sao những năm tháng « tù ngoài », cả Nam Việt Nam là một nhà tù, cả Sài gòn và những tỉnh lỵ thành phố đều là nhà tù. Bị đuổi nhà, bị tịch thu tài sản, vẫn quyết « bám trụ » vừa buôn chạy, bán lậu, kiếm miếng cơm nuôi gia đình, vừa phải hòa mình sống với chế độ mới, cuối đầu, khom lưng duới những từ ngữ ngụy văn giả tạo, … biết sử dụng cả ngụy văn ấy, để vẫn nào « học tập tốt », để vẫn nào « cải tạo tốt », với nào « đi đào kinh », với nào « đi kinh tế mới », với nào « hợp tác xã »,  …chỉ để sống còn. Với quyết tâm, giả dại gì, bám trụ, sẳn sàng sống ngoài vĩa hè, buôn chợ trời, sống lây lất, ngủ đường, ngủ chợ tìm ... kế … kẻ vượt biên, người vượt biển, thà chết đuối, thà chết bụi, chết bờ, đi hết trại tạm trú nầy, đến trại tạm bợ kia, đảo nầy, đảo nọ ... Mã lai, Nam Dương, Thái Lan … thay đời, đổi chổ … thay quê hương đổi thành phố…Mỹ Úc Tây Âu … và từ đó lập lại cuộc đời, xây tình dân tộc, giữ vững Cờ Vàng, giữ lề Đại Việt, giữ giống giữ nòi, nhờ quê người dung dưỡng, …
Do đó, viễn ảnh phải sống với Tàu Cộng ? Thật là một… hình ảnh quá hãi hùng ! 44 năm  giặc Cộng cầm quyền, Đảng trị,  khốn nạn đã quá đủ ! Đến ngày hôm nay chỉ với Cộng Việt thôi, dân ta đã bá thở rồi ! Quê hương đã tiêu tùng rồi ! Rượu chè, cờ bạc, buôn lậu, bán gian, quan trên lường, quan dưới giựt, mất đạo đức còn đâu ! Nhà cầm quyền thì quan trên tham nhũng, quan dưới khảo tiền, …còn người dân thì giành giựt sống qua ngày qua bửa, có tiền thì sáng say, chiều sỉn, tối ngất ngư, không tiền thì bửa đói, bửa no… trai bán sức cửu vạn cu li, gái bán mình bia ôm ô sin.  Và ngày mai ? Vì tình hữu nghị, vì núi liền núi, sông liền sông, sẽ Đảng trị bởi ... Cộng Tàu… Viễn ảnh ấy, ta hình dung ra sao ? Thử nhìn vào gương người ...
Gương người :
Sau đây là câu chuyện về những người Ouïgours-Duy Ngô, gốc Hồi Trung Đông sống trong một đất nước (cũng núi liền núi, sống liền sông với xứ Tàu) đang bị thực dân Trung Cộng chiếm đóng và bị đổi tên nước thành tỉnh Tân Cương- Xinjiang của xứ Tàu Cộng, biến thành một ngôi sao nhỏ trong bốn ngôi sao nhỏ, điển hình bốn dân tộc, bốn đất nước, ngày nay biến thành bốn sắc tộc Mông, Mãn, Tạng, Hồi vây quanh thần phục một ngôi sao lớn điển hình là dân tộc Đại Hán, trên nền máu đỏ, Cộng Sản của quốc kỳ Trung Cộng !
Nhơn chứng , một nữ công dân kazasthan gốc Ouigour (gia đình bà sống ở Urumqi, thủ đô Tân Cương đã ba đời) ngày nay tỵ nạn tại Istanbul (Thổ Nhỉ Kỳ) kể lại với nhà báo người Pháp, Ursula Gauthier, đăng trên tuần báo Nouvel Observateur Pháp số 2827, tuần10 đến 16 tháng giêng năm 2019. Đây là một câu chuyện có thật, thời sự vì xảy ra năm qua … Mời các thân hữu, người đọc, bà con chúng ta, cứ hãy tưởng tượng, hãy việt hóa câu chuyện : tên nhơn chứng, bối cảnh - Việt Nam thay Tân Cương,  - ngày mai, thay ngày nay - đầy thời sự.
Trước nhứt, tôi xin phép quý thân hữu, quý bà con, có đôi lời xin lỗi, là đã trong những bài viết qua những thời gian gần đây, kêu gào, than khóc, bi quan hóa tình trạng đất nước Việt Nam chúng ta. Tôi không để ý đến thời sự âu mỹ, xứ sở tôi đang  ở đậu. Tôi là một nhà giáo già, hồi hưu công chức Pháp, hưởng tiền hưu với đầy quyền lợi an sanh xã hội, sống đầy đủ, yên ổn, hạnh phúc ở nhà quê yên lành xứ Pháp. Con cái cháu chắc nay đã thành đạt, yên lành công việc. Chuyện Ông Trump ở Mỹ, tôi không theo dõi, tôi không biết bà Pelosi là ai. Ở Pháp, tôi không để ý đến việc làm ông Macron, phong trào Áo vàng ở Pháp, chuyện bầu bán Quốc Hội Âu Châu… ! Tôi chỉ biết lo cho Việt Nam  ngày mai mất vào tay Tàu… Dân tộc ta mất gốc thế thôi ! Có lẽ vì tôi nay là dân Pháp, nên tôi rất sợ mất gốc ! Có lẽ vì tôi cần gốccần rễ, cho con cháu tôi rõ cái tên của chúng, hãnh diện với cái nguồn gốc của chúng hắn ! Còn quý thân hữu, quý bà con ? Không dám hỏi, không dám ý kiến ...
Vốn đã quen làm dân tỵ nạn, vốn đã quen lang thang cầu thực, nên sống ở Tây Âu, Pháp, Mỹ thì dù tình hình kinh tế, chánh trị dẫu có xấu đi, có khó khăn đi nữa, chỉ có sống cực tý thôi, hà tiện một chút, bớt ăn xài thế thôi Chả chết thằng tây nào ! ...Nhà mình đã mua được, là bán được, tất cả trên dương giang, chỉ cũng chỉ là phụ, là tạm thời, do mình tự túc sắm sửa, với số tiền làm ăn, sau khi mất Việt Nam thôi, khi đã ty nạn làm lại cuộc đời trên đất người !   Vì sau khi mất Việt Nam năm 75, vào khi ở tù ra, bị trục xuất năm 80 đến Pháp, tôi chỉ có một cái áo sơmi, một quần tây, đôi vớ đôi giầy và cái quần xà lỏn, quần áo mới Tây cho, bàn ghế mới, Tây tặng, làm lại cuộc đời. Nếu ngày nay, nên nhà nên cửa, nếu con cái thành đạt, thì cũng do Tây nó ủng hộ, nó cho mình công ăn, việc làm đó thôi ! … Do đó, nếu ngày nay, thế giới Âu Mỹ có thay đổi gì gì đi nữa, cũng đã là bonus … hưởng đủ rồi. Tương lai là của con cái, tụi nó nay là công dân Tây, bằng cấp Tây, nghề nghiệp Tây, nên tự lo !
- Tôi chỉ sợ ngày mai, nước Việt Nam ta mất hẳn thế thôi ! Do đó tôi kêu gào, do đó tôi bi quan. Tôi càng bi quan khi tôi thấy hải ngoại chúng ta quên hẳn quá khứ, quên hẳn gốc gác … chấp nhận dễ dàng, ngôn ngữ, văn hóa Việt Cộng sẳn sàng chấp nhận hệ thống kiểm soát của chúng hắn. Bằng cách XIN CHIẾU KHÁN, VISA của chúng hẳn để về CHƠI Việt Nam !… chấp nhận dễ dàng văn hóa Tàu Cộng. Hải ngoại sẳn có hàng rào sanh hoạt rất Tây, rất Mỹ. Ngoài nào nhà hàng Tây, nào nhà hàng Nhựt, còn Thái, còn Việt, thế mà  mà phe ta dễ dàng hội nhập với Tàu… Chúa nhựt đi ăn điểm xấm, tiệc tùng đãi tiệm tàu … karaôkê cũng tiệm tàu, tạp hóa cũng tàu… Ở Paris Pháp, chúa nhựt quân 13, chợ Tăng Frères, kẹt xe, không có chổ, … Trong khi rau cỏ, trái cây bán ở các tiệm rệp-magrebin-arab- tươi hơn, rẽ hơn ; thịt thà, cá tôm tiệm tây tươi hơn rẽ hơn … Kẹt lắm, không thể thiếu được là nước mắm, mắm nêm, mắm ruốc...nhưng ba món sau nầy ở tiệm Việt chứ tàu làm gì có!
Chưa tẩy chay hàng tàu, chưa bỏ cuộc sống tàu là ủng hộ Tàu cướp nước Việt Nam… Tôi nói như vậy có thái quá không. Nếu đụng chạm, mất lòng, xin quý vị tha lỗi !
Trở về chuyện người đàn bà Ouighours kể trên. Bà tên là Gulbahar Jelilova, công dân Kazakhe, nhưng gốc Ouigour – gia đình bà đã sống ba đời ở Urumqi, thủ đô Tân Cương. Bà là một nhà thương mại lớn, nay đã 54 tuổi, là chủ nhơn một cơ sở xuất nhập cảng phát đạt. Một ngày đẹp trời tháng 5 năm 2017, bà bị cuốn vào một cơn bão khốn nạn, một chiến dịch do Trung Cộng tổ chức để đánh vào đám thiểu số « dân Ouigours nào còn cứng đầu », « còn Hồi giáo » phải « vào hàng, nhập phong tục, tập tục Tàu» quy thuận chế độ Cộng Sản Tàu – khác chi thời năm 1975, với những chiến dịch liên tục – từ đốt sách - đến đánh nào tư sản mại bản, đến văn nghệ sĩ phản động, đến thương gia, trí thức « cứng đầu » như chúng tôi phải « vào hàng » quy thuận...
Sau một năm, ba tháng,10 ngày, tù tội, vứt từ trại giam nầy đày đến trại « cải tạo » kia, Gulbalhar Jelilova được thả về. Cái may của Gulahhar, cũng như những người được thả vào dịp ấy, là họ có quốc tịch ngoại quốc, không phải công dân Tàu! Ngày nay bà sống tỵ nạn ở Istanbul, Thổ Nhỉ Kỳ – cũng như thằng tôi, người viết, sau bốn năm « tạm giam », được « tạm tha » và đuổi đi Pháp – và ngày nay tôi cũng như bà ấy, sống tỵ nạn ở Pháp.
Tuy nhiên, Bulbalhar Jelilova, ngày nay vẫn sống trong lo sợ, hồi hộp. « Họ cấm tôi không được nói và kể những gì mắt thấy tai nghe ở những trại tập trung » - khác chi với chúng tôi người viết « họ cũng nói rõ là họ sẽ để cho ông cụ bà cụ tôi sống ở Sàigòn, cùng hai thằng em, một thằng học tập về rồi, thằng kia còn ở Suối Máu sống an toàn sanh mạng, với điều kiện tôi im miệng và không nói xấu cách mạng- sic - !» Bulbalhar vẫn còn sợ bị bắt cóc, sợ bị khủng bố, mặc dù sống ở Istanbul, nhưng Sứ quán Tàu vẫn có người lâu lâu đến « thăm » bà.
Nhưng ngày hôm, gặp được ký giả Ursula Gauthier, bà thèm được nói, do đó...Vã lại đây là một nghĩa vụ, một nhiệm vụ, đối với các chiến hữu Tân Cương của bà. « Nầy Bulgalhar, bà có cái may mắn là công dân Kazakhe, bà có quốc tịch ngoại quốc, thế nào chúng hắn cũng sẽ thả bà ra. Bổn phận bà phải nói sự thật, kể sự thật để cứu chúng tôi !» Các chiến hữu, các nữ tù nhơn cùng với bà, ai ai cũng nhắn nhủ bà điều ấy. Và bà đã hứa ! và lời hứa ám ảnh bà – cả với cá nhơn thằng tôi suốt thời gian bố mẹ tôi còn sống.
Làm sao Bulgalhar quên được : Địa ngục trần gian của những trại tập trung. Mỗi câu hỏi của ký giả Ursula Gauthier, là một cái nút bật ra những câu chuyện rùng rợn không tưởng tượng nỗi. Cho đến ngày ấy của cái tháng năm hãi hùng ấy của năm 2017 ấy, Bulgalhar chỉ biết đất nước Trung hoa với những hình ảnh tươi đẹp của những thành phố đẹp đẽ ven biển miền Đông Shanghai, HongKong… những nơi bà đến mua hàng thượng hạng để đem về thủ đô của Kazakhstan (Amalty), nơi bà có cửa hàng chánh. Bà đưa cho chúng tôi (ký giả Ursula Gauthier) xem những hình của bà lúc « trước » ngày ấy. Mái tóc mượt mà, áo quần bảnh bao, ngồi trong văn phòng bằng gỗ quý của văn phòng của cơ sở thương mãi của bà ở Urumqi, thủ đô của tỉnh Tân Cương, tỉnh  của xứ Tàu Cộng nơi gia đình bà sanh sống từ ba thế hệ nay.
« Mùa Xuân năm 2017 », bà kể chuyện, « người hùn vốn với tôi mời tôi rời cửa hàng ở Amalty ( thủ đô Kazakhstan) về Urumqi (thủ đô Tân Cương) để bàn công việc » . Khổ thay cho Bulgalhar, bà không biết rằng là lúc ấy nhà cầm quyền Trung Cộng đang phát động một chiến dịch chống những « người cứng đầu » của cái tỉnh đầy người tàu gốc « Hồi giáo nói một ngôn ngữ gốc Thổ Nhĩ Kỳ » nầy. Bà cũng không biết là người hùn vốn của bà cũng vừa đã bị bắt ngày hôm trước, cùng lúc với những bạn hàng quen biết. Vừa đặt chưn đến Urumqi, bà bị bắt ngay, bị cảnh sát buộc tội là đồng lõa với người bạn hùn vốn, với tội danh là một khủng bố quân, Tội bà là đã chuyển ngân một số tiền 17 000 nguyên tệ (2 200 Euros) đến một công ty Thổ Nhĩ Kỳ. Gulbahar hoàn toàn không biết chuyện chuyển ngân, và cũng chẳng biết công ty ấy. Và cảnh sát Tàu cộng cũng không tìm ra một chứng tích hay tang vật gì trong những giấy tờ của bà. Thế nhưng bà cũng vẫn bị « tập trung cải tạo » cùng với các người Ouigours « tình nghi » chống đối cũng đang phải được « cải tạo ». Đầu bị trùm kín trong một bao cát, tay bị còng, bà bị đưa đến trại « Sankan », một nhà tù cũ nhốt nam thường phạm biến thành một trại cải tạo cho các nữ tù nhơn.
Theo nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về nhơn quyền, chiếu các tin tức khác nhau, chiếu các không ảnh vệ tinh, con số gần 1 triệu người đang bị nhốt trong các trại cải tạo tại Tân Cương. Các tù nhơn, đang bị kềm kẹp, bị khủng bố tinh thần, thiếu ăn, thiếu mọi tiện nghi căn bản để sống, với những cuộc tra tấn cả tinh thần lẫn hình thể. Đảng Cộng Sản Trung Hoa nay đã nổi tiếng với một phương pháp tẩy não đặc biệt – tiếng hoa là Xinao-
Gulbahar bắt đầu một cuộc sống mới đầy ác mộng. Bọn lính giao cho bà một bộ đồ, gồm một áo ngắn, một cái quần và một áo ngoài mầu đỏ cam – dấu hiệu của những ngoài sắp phải ra tòa –  và đấy là bộ đồ độc nhứt bà mặc suốt thời kỳ tù tội. Hai chân bị cùm bởi một sợi giây xích sắt nặng, mang thường trực, kể cả lúc đi ngủ và đi tắm. Bà bị nhốt trong một căn phòng dài 7 thước trên 3, đầy nhóc người. Trong một bầu không khí hôi thối, phòng chứa trên 30 nữ tù nhơn. Tất cả bị cạo đầu trọc. Với thời gian bố ráp, con số có khi lên đến cả 60 người, cho một khoảng chứa cho khoảng 10 người. Trại giam Phan Đăng Lưu, Đại Lợi, Trần Hưng Đạo năm 1975, 1976, 1977 có khác chi ?  Phần đông là dân Ouigoure, thỉnh thoảng dân Kazakhe hay dân Ouzbek, không một người gốc Hán.
Phòng đông đến đổi ban đêm các tù nhơn thay nhau ngủ, mỗi đợt 2 tiếng. Phân nửa đứng cho phân nửa nằm ngủ. Đèn thắp sáng suốt đêm. Sài gòn 75, nhà giam Đại lợi (nguyên là một khách sạn trước 75 ở quận Tân Bình -- Tài) cũng thế , Phan Đăng Lưu cũng vậy! Phòng không cửa sổ, không lỗ thông hơi, chỉ có một cửa nhỏ nơi cánh cửa để đưa thức ăn vào thôi. Ở Phan Đăng Lưu, cũng vậy, phần trên cánh cửa là song sắt, chúng tôi gọi là cửa gió,anh em tù nhơn chúng tôi chia phiên ra đấy, mỗi người đứng thở, đếm đủ hai chục giây, về chổ nhường người khác ra đứng thở… và xoay chuyền suốt ngày. Phan Đăng Lưu,  bình thường chật ngủ 3 người hai chiếc chiếu. Lâu lâu cũng quá tải, 4 người 2 chiếc, nằm tréo đầu nầy cẳng nọ, cao thấp so le.
Tất cả mọi vệ sanh đều công cộng trước mặt mọi người. Khác chi Phan Đăng Lưu. Do ăn ở dơ dáy như vậy,  nên ghẻ lở là chuyện đương nhiên.
Suốt ngày vì quá chật chội nên ngồi bó gối, để nghe loa giảng bài Cách mạng. Nếu có sai trái thì trừng trị, phạt là phạt cả phòng, chỉ có một phương pháp, bớt phần ăn, có khi cắt phần ăn. Phan Đăng Lưu cũng thế…
Tất cả bắt buộc học thuộc lòng những bài Cách Mạng bằng tiếng Tàu, học thuộc lòng những bài hát  Tàu, bài ca tụng Trung Cộng và lãnh tụ Đảng Cộng Sản Tàu. Biến thành công dân Trung Cộng, bỏ đạo Hồi,  đàn bà bỏ khăn, đàn Ông cạo râu. Và nếu có thể biến hẳn thành người Tàu và yêu Xi Chủ Tịch, Yêu Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Khác chi Việt Nam : Ta yêu Bác, Ta yêu Đảng. « ...Tiếng đầu lòng tập nói Xì ta lin... » (Tố hữu)
Kết Luận : Chuyện ta :
Câu chuyện kể còn  rất dài. Đại khái giống như những trại cải tạo Việt Nam. Tôi xin lỗi, một lần nữa, quý bà con, đem kỷ niệm của thằng tôi ra đối chiếu so sánh. Tôi chỉ biết so sánh với Phan Đăng Lưu, nơi mà thằng tôi biết rõ, vì bị giam ở đấy trên 3 năm trong gần 4 năm tù tội.
Cái nguy hiểm sẽ là khi Tàu hoàn toàn kiểm soát Việt Nam. Bằng mọi giá, chúng nó sẽ tẩy não người Việt, bằng mọi giá Tàu sẽ biến người Việt thành Tàu ! Và những chuyện như vậy, với những hình ảnh của quá khứ của những năm 75, 76, 77 quái đản đầy hãi hùng sẽ đến trở lại với người Việt Nam . Và thằng tôi MONG rằng trên đất nước Việt Nam những điều man rợ nầy không xảy ra lần nữa. Bị cai trị bởi Đảng Cộng Sản Hà nội 44 năm đủ lắm rồi. Do đó :
Hởi toàn dân Việt ! Tại quê nhà
Hãy cùng nhau, thức tĩnh, đồng tâm, nổi dậy cướp lấy quyền tự quyết.
Toàn dân nổi dậy cứu nước khỏi ách Việt Cộng và Trung Cộng.
Riêng Hải Ngoại, quyết tâm tẩy chay hàng hóa Tàu Cộng Việt Cộng.
Quyết Tâm Không Gởi Tiền Về. Quyết Tâm Không Về Việt Nam !
Hồi Nhơn Sơn, mùa Phục Sinh
Phóng Sự người Ouigours  do Ursula Gauthier
Phan Văn Song phỏng dịch
=====