Monday, December 12, 2022

Cuộc vượt biên kinh hoàng, bằng đường bộ, đi ngang KPC, của gia đình một cô bé, sau trở thành một LS ở Úc.

- Mình tính không bằng trời tính khi họ đã tìm cái sống trong cái chết .

LỜI MỞ ĐẦU: Câu chuyện sau kể về cuộc vượt biên kinh hoàng, bằng đường bộ, đi ngang đất KPC của Khmer đỏ, của gia đình một cô bé, lúc đó còn nằm trong bụng mẹ, sau trở thành một LS thành công ở Úc. Câu chuyện là một phần trong sách "We Are Here" của LS này, xuất bản gần đây tại Úc . . . Sau khi có Cử nhân về Thương mại và Cử Nhân Luật, cô là đại diện của giới trẻ tại Đại hội đồng LHQ và người cổ vỏ cho quyền của trẻ em. Cô nay là GĐ của cty luật Ernst & Young, Vietnam, có chồng là người Canada gốc Hoa -- người dịch).  

Chuyển ngữ từ Anh ngữ từ : http://www.theaustralian.com.au/life/weekend-australian-magazine/what-cat-thao-nguyen-found-when-she-dug-into-her-family-history/story-e6frg8h6-1227222575564

=====

- Chúng tôi đã đạt một điều - mà trái tim và linh hồn của chúng tôi đã khiêm tốn hy vọng, đã âm thầm chịu đựng, và hầu như không có đủ can đảm để ước mơ điều đó trở thành sự thật -- Cảm tưởng của LS Nguyễn Cát Thảo nhân ngày nhận bằng tốt nghiệp LS tại Úc.   



Tôi ngồi với cha tôi tại bàn ăn - được tặng cho chúng tôi bởi một chủ nhà cũ.
Khăn trải bàn bằng nhựa màu vàng với hoa tulip màu xanh phản chiếu ánh nắng mặt trời chiếu xuyên qua cửa sổ nhà bếp. Tôi hỏi ông về quyết định rời khỏi Việt Nam, về những gì ông nhớ của cuộc hành trình qua Campuchia. Vài phút sau khi chúng tôi bắt đầu, ông yêu cầu tôi dừng lại và ông rời khỏi phòng sau khi nói  "Để khi khác" (Later).  Để khi khác đã không đến.
Sáng hôm sau, ba nói rằng ba đã cảm thấy rất khó ngủ và có những ác mộng. Hơi nước từ cà phê hòa tan trong cốc bay lên khi ba nói. Cha tôi có vẻ quá già. Tôi cảm thấy xấu hổ và hối hận. Tôi đã khiến cuộc phỏng vấn này "tấn công" ba tôi giống như một bảng câu hỏi băng giá của bệnh viện dài 10 trang bằng tiếng Anh.
Mẹ tôi nói với tôi rằng mẹ sẽ trả lời bất kỳ câu hỏi. "Bố rất yếu. Ông yếu hơn rất nhiều so với con nghĩ". "Vì vậy, qua những mảnh vỡ của những câu chuyện mà mẹ và người thân của tôi nói theo thời gian, tôi đã có thể tạo một bộ sưu tập ghép hình của lịch sử gia đình của tôi. Không đầy đủ lắm, nhưng tạm được".
Mẹ tôi ngồi im lặng, chìm đắm trong nỗi buồn, trong ngôi nhà của họ ở nông thôn vùng Gò Dầu, (thuộc tỉnh Tây Ninh của VNCH - người dịch) miền nam Việt Nam. Đó là vào giữa của một đêm tháng mười hai năm 1979. Mẹ, cha, chị và anh trai út khóc trong im lặng vì sợ hàng xóm sẽ nghe và báo cáo với viên chức Cộng sản: cha mẹ tôi đang chuẩn bị để tham gia các cuộc di cư hàng loạt của người tị nạn Việt Nam. Gia đình của cha mẹ tôi đã dính líu với chế độ cũ. Cha tôi đã sống sót từ một trại cải tạo và đã có tin nhà chức trách đang tìm kiếm ông một lần nữa.
Cách nhanh nhất hiện nay là qua biên giới Campuchia, cách đó 10 km. Họ đã phải trả tiền cho một người bạn tin cậy của gia đình để thuê những kẻ buôn lậu khác nhau đưa họ qua Campuchia, bây giờ dưới sự kiểm soát của Khmer Đỏ, và vào Thái Lan. Nhóm ra đi có mẹ tôi Mai, 26 tuổi, cha tôi Thịnh, 32 tuổi, Văn - anh trai 12 tháng tuổi, Hải - anh họ 15 tuổi, và cậu Hồng Khanh cũng 15.
Sẽ làm dấy lên nghi ngờ khi đi thành một nhóm lớn, vì vậy cha tôi đi với Hải và cậu Hồng Khanh. Trong vai các con buôn, họ dùng xe đạp đi đến thị trấn Ba-vét ở biên giới KPC-VN và ở lại qua đêm với một kẻ buôn lậu, chờ đợi. Cuối đêm đó, mẹ tôi, bồng anh Văn, di chuyển qua những cánh đồng lúa nằm dọc theo đường đến biên giới, dẫn đường bởi một kẻ buôn lậu. Gần biên giới, được canh gác cẩn mật với những người lính của cả hai bên, mẹ tôi rơi vào một cái hố. Ngay lập tức mẹ tôi bịt miệng anh Văn. Một người nào đó hét lên trong bóng tối: "Ai đấy?"
Bang, bang, bang. Tiếng súng nổ như sấm làm thủng không khí. Tê liệt vì nỗi sợ hãi, hai người nằm co lại (huddle) trong im lặng. Khi đêm đã im lặng, họ tiếp tục đến Ba-vét, nơi họ gặp lại cha tôi. Ngày hôm sau, họ đã lấy phà qua sông Mekong và tìm chỗ trốn, chờ đợi thêm 10 ngày để những người buôn lậu đưa họ về đến Phnom Penh, thủ đô Campuchia. Với đói, trốn tránh mệt mỏi và trẻ sơ sinh yếu kém, họ đã trốn qua đêm trong mái nhà của một ngôi nhà nhỏ và sau đó bắt đầu đi tới tỉnh lỵ của tỉnh Battambang, 300km về phía tây-bắc, bằng cách đi bộ dọc theo quốc lộ và ban đêm thì ngủ trong các chỗ nông (shallow) bên đường. Hết ngày lại đêm, với lo lắng và lo sợ liên tục cho đến khi tới Battambang, và sau đó đi dọc theo đường sắt đến Sisophon, khoảng 50km cách biên giới Thái Lan.
Cậu Hồng Khanh đã bị côn trùng độc cắn và có vết thương hở trên chân của mình; trong đau đớn, cậu không thể đi dễ dàng. Có rất ít nước sạch. Anh Văn đang bị kiết lỵ nặng. Sáng hôm sau, bốn người đàn ông đi xe đạp đến để đưa chúng tôi đến một con đường rừng biên giới - chúng tôi đi từng 2 người, và cách nhau vài cây số để tránh sự nghi ngờ. Cha tôi đã đi đầu tiên, sau đó cậu Hồng Khanh, sau đó mẹ tôi với anh Văn, và cuối cùng Hải.
Trước khi họ đến nơi, ba người đi với cha tôi, Hải và cậu Hồng Khanh đã bỏ rơi họ, mỗi người một mình gần thị trấn biên giới Poipet, nơi những khu rừng xung quanh đầy mìn. Cha tôi chọn một con đường mòn, dùng bởi các con buôn dọc theo biên giới, nhưng đã bị bắt bởi quân du kích (guerrilla) và họ đưa ông đến một khu có rào kẽm gai. Ðêm ấy, ông nằm thao thức trong lo sợ. Không có người nào có thể giúp ông, ông nghĩ như vậy. Sáng hôm sau họ giao ông cho Hội Chữ Thập Đỏ ở biên giới Thái Lan để đổi lấy một ít gạo. Cuộc hành trình khủng khiếp mà ông phải chịu đựng, và ý nghĩ rằng con trai và vợ của mình mất tích, đã khiến ông không còn hy vọng. Cha tôi tự hứa với mình rằng nếu ông không nhìn thấy mẹ tôi trong vòng vài ngày, ông sẽ tự tử (would take his own life).
Một mình trong rừng, cậu Hồng Khanh 15 tuổi đã kiệt sức (give up), vết loét gây nhiễm trùng khiến cậu hầu như bất động. Hải, đi đằng sau vài km, đã tiếp tục đi với hy vọng bắt kịp cậu Hồng Khanh và vừa trông thấy cậu thì một đội tuần tra của lính Khmer Đỏ xuất hiện từ trong rừng rậm. Từ bóng tối, Hải kinh hoàng khi thấy cậu Hồng Khanh bị bịt mắt, báo hiệu một cuộc hành hình sắp xảy ra. Sau đó, một mảnh lớn gỗ được đánh vào đầu của Hồng Khanh và cậu té xuống đất .
Hải chạy. Từ đàng xa, Hải đã nhìn thấy mẹ tôi sau lưng một chiếc xe đạp. Hải bắt đầu vẫy tay, gọi bằng tiếng Việt: "Dì, dừng lại! Dừng lại!" Người đàn ông đạp xe nhanh hơn, hét lớn bằng tiếng Việt với mẹ tôi :  "Nếu chúng ta dừng lại, tất cả chúng ta sẽ chết!" Mẹ tôi chết lặng phía sau xe đạp đang chạy nhanh. Những hình ảnh của một cậu bé 15 t hét lên một mình trong rừng, trở nên nhỏ hơn và nhỏ hơn khi họ đi xa, sẽ ám ảnh mẹ  mãi mãi.
Họ đã đến phòng khám Chữ thập đỏ và các nhân viên y tế điều trị người anh bé nhỏ của tôi. Mẹ tôi đã được đoàn tụ với cha tôi, người đã không nói nên lời, và họ đã sớm đoàn tụ với Hải - người sau đó đã mô tả những gì đã xảy ra với Hồng Khanh. Mẹ tôi đã nghĩ tới em trai kiên cường của bà bị bịt mắt và được bao quanh bởi những người đàn ông có vũ trang trong những khoảnh khắc cuối cùng của cậu. 'Tôi không nên cho cậu ấy đi theo', mẹ đau đớn nói . 'Đó là lỗi của tôi khiến cậu phải chịu đựng một cái chết tàn bạo như vậy'.
Gia đình tôi đã ở trong một trại tị nạn khét tiếng ở khu vực miền núi của Thái Lan. Vào ban đêm, các lính canh và người Thái địa phương khác sẽ hãm hiếp phụ nữ. Những người tị nạn đã luôn luôn cảnh giác/báo động. Tất cả mọi người sống trong nhà tạm, rất đông đúc và không bao giờ có đủ thức ăn và nước.
Khoảng thời gian đó mẹ tôi phát hiện ra mình đã có thai và tôi đã ra đời vào tháng Tám năm 1980 hai tháng sớm hơn dự trù. Trong khi đó, các nhà ngoại giao từ khắp nơi trên thế giới đến thăm trại để giúp tái định cư cho người tị nạn về các nước thứ ba. Úc gần Việt Nam và anh trai của cha tôi đã đến đó bằng thuyền. Gia đình tôi được chuyển đến một trại quá cảnh gần Bangkok. Vào 1 ngày của tháng mười một, chúng tôi đã rời trại, tôi bị  tiêu chảy. Mẹ tôi không dám nói với ai, vì sợ chúng tôi sẽ không được phép trên máy bay. Mẹ dùng quần áo quấn chặt tôi và, cùng với bốn gia đình tị nạn Việt Nam khác, chúng tôi lên máy bay của hảng hàng không Qantas. Không có người châu Á khác trên tàu.
Chúng tôi bay cao xuyên qua những câu chuyện cũ như các cánh đồng chết, hàng rào kẽm gai và mìn, và giả từ vĩnh viễn cậu Hồng Khanh. Bố mẹ tôi vẫn chưa cảm thấy nhẹ nhõm. Không có gì là chắc chắn, kể cả sau đó. Họ ngồi im lặng trong khi những người da trắng xung quanh họ nói chuyện một cách lịch sự. Ngay cả anh Văn, nay đã hai tuổi, im lặng trong suốt cuộc hành trình.
Khi các tiếp viên hàng phục vụ thức ăn, cha mẹ tôi hoảng sợ, lo sợ chúng tôi phải trả tiền. Chúng tôi không có gì ngoại trừ quần áo  đang mặc và sarong trong đó tôi được quấn chặt. Bữa ăn có phục vụ một lon Coca-Cola. Khi người Mỹ đến Việt Nam, ngoài việc mang lại sự hỗ trợ quân sự cho miền Nam, họ đã mang thức uống sang trọng và lạ ngon này. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, mẹ tôi đã không nhìn thấy một lon Coca-Cola nào. Bây giờ, năm năm sau đó, mẹ nhìn chằm chằm vào nó và cuối cùng tin rằng nỗi sợ hãi và sự chờ đợi khủng khiếp đã­ đi qua. Màu trắng đỏ có thể có nghĩa là tự do. Dường như mẹ đã nín thở trong nhiều năm qua. Tay nắm chặt Coca-Cola và tôi, em bé ba tháng tuổi, mẹ tôi đã khóc, gần như không tin được: chúng tôi vẫn còn sống.
Đó là một ngày mát mẻ. Như thường lệ, xe buýt, xe tải và các xe thể thao đã cải biến ầm ầm chạy qua ngôi nhà của chúng tôi trên Chapel Road, Bankstown, phía tây nam Sydney. Bên trong, bố mẹ tôi đã sẵn sàng. Hôm nay, gần 30 năm sau khi đến Úc, con gái của họ đã trở thành luật sư. Cha tôi mặc bộ đồ 'vét' duy nhất của mình, với áo sơ mi có cổ màu trắng và cà vạt màu xanh hải quân, ông từng mặc đi đám cưới, đám tang, lễ tốt nghiệp và các sự kiện lớn ở nhà thờ. Mẹ tôi đã mặc một chiếc áo đen dài tay với các hoa văn disco điên cuồng của thập niên 1980, quần màu xám than và đôi dép màu đen. Tôi nhìn cha tôi với tóc có xịt keo và lông mày vẻ đậm, và mẹ tôi, thì ko điểm trang (mẹ không bao giờ học được cách dùng nó), và trong cố gắng của mẹ để không  giống như một người nông dân, trình bày mình với thế giới như nữ hoàng của Western Sydney. Đây là cách ăn mặc đẹp nhất của họ.
Chúng tôi đậu xe ở CLB Thể thao Bankstown và đi bộ đến ga xe lửa. Cha tôi vẫn còn mặc giày nặng với mủi giày bằng thép từ thời làm công nhân nhà máy. Kính đeo mắt giá $3, vẫn còn số độ + 2.0, treo trên mủi nhăn nheo của ba. Tôi nhớ lại về lần đầu tiên cha mẹ tôi đi tàu lửa tới vùng đất mới này, trong những thập kỷ trước đây. Với một gia đình trẻ và không có xe hơi, trong một nỗ lực để tiết kiệm tiền mua thực phẩm ở các tiệm bán lẻ, mỗi cuối tuần họ đẩy một xe mua hàng (shopping cart) băng qua một số đường xe lửa để đến cửa hàng bán sỉ trái cây và rau tại Flemington. Họ đã trở thành gương mặt quen thuộc với các nông gia Việt Nam đã đưa sản phẩm của họ tới đó.
Con tàu đến đúng giờ và chúng tôi bắt đầu đi đến trạm St James ở trung tâm Sydney. Các ga quen thuộc trên tuyến Bankstown qua nhanh, và đó là phong cảnh của cuộc sống của chúng tôi tại Úc. Xe vượt nhanh qua trạm Lakemba, nơi tôi đã bước xuống mỗi ngày để học ở MacKillop Girls High, sau đó là đường Georges và đền thờ Cao Đài, nơi lễ tang của bà tôi đã được tổ chức. Chúng tôi đi qua đường phố nơi Văn học Tae Kwon Do.
Sau vài ga, chúng tôi đến Marrickville, nơi đầu tiên chúng tôi cư trú sau khi chúng tôi ở tại nhà tập thể (hostel) dành cho ng nhập cư Villawood. Tôi nhớ đến những căn hộ mà chúng tôi chạy chơi xung quanh đối diện nhà ga, nơi mà hàng xóm đã dạy mẹ tôi may để kiếm sống sống và từ đây cha tôi đi bộ mỗi ngày để làm việc trong một nhà máy. Nơi chúng tôi có lễ Giáng sinh đầu tiên, mà tôi có thể nhớ lại.
Tại trạm Sydenham tôi nhìn thấy một cô gái châu Á trong một bộ đồng phục trung học ngồi một mình, chờ đợi cho tàu của mình. Cô ấy nhỏ con với một chiếc túi quá khổ, nhìn chằm chằm vào khoảng không, và điều này nhắc tôi nhớ lại mình rất nhiều năm trước đây. Chờ đợi cho tương lai .
"Chúng tôi đến trạm St James và đi lên cầu thang để lên mặt đường phố. Tòa án tối cao NSW xuất hiện trước mắt chúng tôi. Vĩ đại. Uy nghiêm. Một biểu tượng của công lý, của người dân, của dân chủ. Những lý tưởng đã được theo đuổi và giữ chặt bởi cha mẹ tôi khi họ rời khỏi đất nước".
Tôi đề nghị uống cà phê tại quán cà phê bên cạnh. Trong khi cha mẹ tôi nhìn các luật sư và trợ lý pháp lý, tôi đã giải thích ý nghĩa của các bộ tóc giả và áo rất buồn cười này. Cha tôi đã bắt đầu nói về Việt Nam trước khi thống nhất. "Trước năm 1975 ..." Ông cứ luyên thuyên về các trường đại học trong thời Tổng thống Diệm và cách cộng sản phá hủy chất lượng giáo dục. Tôi đã nhìn thấy cha nghiêng đầu khi mẹ tôi nói. Những miếng nhỏ của keo xịt tóc đã khô rơi xuống vai cha như vảy gàu. Tôi gạt chúng đi.
Bên trong, chúng tôi đi qua máy quét an ninh trên đường đến Tòa án Banco trên từng 13. Các bức tranh sơn dầu lớn của các cựu chánh án treo dọc theo các bức tường như tổ tiên đang cảnh giác chúng tôi. Khi đó, trái tim tôi bắt đầu đập nhanh khi thấy cha mẹ tôi đã đi đến chỗ ngồi của mình trong khi tôi ngồi với những người sắp là Luật Sư (LS). Chánh án mặc áo choàng vào phòng. Một sự im lặng đầy trang nghiêm tràn ngập căn phòng. Những tân LS đứng lên từng người một. Một ngàn suy nghĩ đã đến với tôi khi đến lượt tôi. Cha mẹ tôi đã theo dõi với sự tôn kính và niềm tự hào; mẹ tôi, một sinh viên luật cũ cuả chế độ Sài Gòn đã bị tước đoạt những gì tôi mà tôi đang có bây giờ, đứng khiêm nhường.
Tôi nhìn họ, với những kỷ niệm khủng khiếp của họ ngay dưới da của họ; tôi nghĩ về bom mìn, dấu chân ướt trong rừng, máy may, giày với mủ thép trắng, hộp rau từ các chợ đầu mối và các hóa đơn chưa thanh toán từ xa, rất xa, xuất hiện xung quanh chúng tôi như một con rắn với đèn màu. Tôi nhìn thấy một người phụ nữ trẻ nằm co mình  giữa đêm ở một ruộng lúa gần biên giới Việt Nam-Campuchia, ôm một đứa bé trong khi tiếng súng nổ trong bóng tối. Tôi nhìn thấy một người đàn ông trẻ tuổi bên trong hàng rào kẽm gai, xa lìa vợ, sẵn sàng tự tử.
Sau đó, dựa vào vai cha, tôi khóc nức nở trong khi ông vỗ nhẹ vào lưng tôi. Tất cả tôi có thể nói là thì thào "Cảm ơn ba." Cả ba chúng tôi lúng túng ôm nhau. Không ai trong chúng tôi biết làm thế nào để thể hiện tất cả những gì chúng tôi cảm thấy: chúng tôi đã đến một nơi - mà trái tim và linh hồn của chúng tôi đã khiêm tốn hy vọng, đã âm thầm chịu đựng, hầu như không có đủ can đảm để ước mơ đó sẽ trở thành sự thật. Cuối cùng, mẹ tôi cuối cùng đã kéo tôi đi, siết chặt tay tôi. Mẹ cười trong nước mắt trong khi nhân viên chỉ cho chúng tôi đường đến thang máy. Chúng tôi đã đến bến bờ Tự Do./."

San Jose lúc 5:30 chiều ngày chủ nhật 16/8/15 trong lúc nhiệt độ 97 độ F!  






 

Tưởng Nhớ Phan Ngọc Phước xin đăng bài Không Tạc Lộc Ninh

Hình Phan Ngọc Phước và Phạm Văn Bản chụp tại Sài Gòn, Việt Nam

Tôi sao quên trận Không Tạc Lộc Ninh vào năm 1974, với sự tham dự hàng trăm chiến đấu cơ của binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, điều khiển bằng hệ thống hướng dẫn đánh bom định vị BOBS (Beacon Only Bombing System) tấn công thủ đô của cái gọi là cơ quan đầu não chính phủ cách mạng, do cộng sản Hà Nội dàn dựng để tuyên truyền lừa bịp dư luận thế giới trong chiến tranh Việt Nam trước đây. Vùng đất ‘hoàng triều cương thổ’ của Vi-Xi (VC, Việt Cộng) thuộc tỉnh Bình Long, nằm trên Quốc Lộ 13 cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Chính phủ bù nhìn này khai sinh từ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, theo Nghị Quyết số 15 năm 1959, của trung ương đảng Lao Động Việt Nam tức tiền thân đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay.


Buổi sáng đẹp trời mùa thu năm ấy, sau bữa café điểm tâm cùng các bạn Sơn, Đảo, Phước… ở quán nằm cạnh phòng điện ảnh Sư Đoàn 4 Không Quân, tôi ra xe trở lại phòng trực hành quân đơn vị, vào phòng tiếp liệu lấy dù, mũ áo súng đạn để chuẩn bị ra trận đánh giặc. Không đoàn hôm nay nhộn nhịp khác thường, kẻ ra người vào tấp nập và bàn chuyện hành quân oanh kích thủ đô ồn ào như di vỡ tổ.

Không Đoàn 74 Chiến Thuật của Sư Đoàn 4 Không Quân tọa lạc tại Phi Trường Bình Thủy quận Trà Nóc tỉnh Phong Dinh, gồm có 3 phi đoàn khu trục phản lực A37 là Thần Báo 520, Satan 526, Thiên Sứ 546 và 3 phi đoàn quan sát. Riêng các hoa tiêu khu trục vừa nhận lệnh không tạc Lộc Ninh, cất cánh từ Trà Nóc với 30 A37 trang bị đầy đủ cấp số hỏa lực bom đạn, mỗi máy bay mang 6 quả 250/ hay 4 quả 500 cân Anh/ mỗi quả, hoặc mang hỏa tiễn chống tăng T54.

Trận không tạc này, phi cơ số 1 là Đại Tá Nguyễn Quang Ninh, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 74 Chiến Thuật chỉ huy tổng quát. Bảy phi tuần trưởng và phi tuần phó hướng dẫn các thành viên của mình bay hợp đoàn theo đội hình phi tuần nặng, 4 phi cơ trong mỗi phi tuần và 7 phi tuần nặng bay lên thành đại phi tuần, trông tợ trận không kích Tora Tora của Nhật Bản đánh xuống Trân Châu Cảng ở thời Đệ Nhị Thế Chiến năm xưa.

Cất cánh từ phi trường Bình Thủy chiến đấu cơ nhắm điểm tụ bay vòng chờ ở Long An. Sau khi hợp đoàn, đại phi tuần lấy cao độ 35 ngàn bộ và bình phi về hướng biển Vũng Tàu, để hội nhập thêm với hai cánh quân khác của Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 5 cũng có cấp số hoa tiêu và A37 trang bị tương đương. Tổng phi tuần lúc này bao gồm ba đại phi tuần của các Sư Đoàn 4, Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 2 hợp lại rồi đổi băng tầng BOBS bay về hướng Bắc theo Quốc Lộ 13.

BOBS là hệ thống vận hành và định vị mục tiêu bằng vô tuyến (radio becon) trong việc điều khiển các phi cơ tiến đến oank kích thủ đô Lộc Ninh. Trong tai tôi cũng bắt đầu nghe tiếng morse tíc tè, ví dụ bay sang bên phải là chữ A, ký hiệu tíc tè [._] còn lấy về phía tay trái là chữ N thì nghe tè tíc [_.]. Nếu bay lệch đường bay mà phi công không chịu chỉnh hướng thì tiếng morse phát ra to dần hơn cho tới khi âm thanh đó có thể phá rách màng nhĩ, bị điếc (Inab).

Khi bay hướng tới tọa độ mục tiêu (heading to target) sẽ nhận tín hiệu 10 giây đếm ngược (ten second countdown tone) từ số 10 về tới Zero, rồi nghe tiếng “bíp…” thì toàn thể bấm nút thả bom đồng loạt. Với bao trăm qủa bom rơi xuống tọa độ mục tiêu như trải thảm, rồi bùng nổ kinh thiên động địa khiến cho Việt Cộng hoảng hồn khiếp sợ, tưởng đâu pháo đài B52 hay cánh cụp cánh xòe của sư đoàn anh cả đỏ tham chiến thời 1965 trở lại,... sau ngày ký kết Hiệp Định 1973 ngưng bắn Ba Lê!

* * * *

Sáng nay lệnh oanh kích từ Phòng Hành Quân Chiến Cuộc Sư Đòan 4 Không Quân, truyền qua điện thọai “đỏ” đặt trên bàn Sĩ Quan Trực reo vang. Nhóm hoa tiêu khu trục lúc ấy đang vây quanh bàn cờ tướng tới hồi chiếu bí, kẻ mách nước đứa tài lanh hiến kế cho đôi quân trắng đen thắng cuộc. Vì ham vui cho nên nhiều anh chưa kịp ăn sáng! Đang lúc ồn ào như cái chợ, tiếng reng điện thoại trấn át mọi thứ âm thanh, và mọi người nhìn nhau đều biết chuyện gì xảy ra. Trong phút thinh lặng, không ai bảo ai nhóm cờ tướng đột ngột phóng ra cửa để chạy tới xe bánh mì đậu gần lô cốt trước cổng, và mỗi anh thủ một ổ thịt nguội nhai ngấu nghiến hầu tránh làm ma đói!

Thoáng chốc họ đã trở lại phòng trực tập họp một trăm phần trăm quân số để ký tên vào sổ bay, lấy lệnh hành quân, lấy dự báo thời tiết, lấy bản đồ và chấm tọa độ mục tiêu, cùng tình hình địch bạn. Nhìn theo lối rẽ về hướng ra phi đạo, từng hàng xe pick-up chuyên chở phi công ra đến ụ che chắn máy bay (lô cốt), lấy tàu và đề máy.

Phi vụ Không Tạc Lộc Ninh của Sư Đoàn 4 hôm nay là một đại phi tuần, bao gồm 7 phi tuần nặng. Mỗi phi tuần nặng có 4 phi cơ bay hợp đoàn do người phi tuần trưởng (phi cơ số 1) chỉ huy, bay cánh phải là phi tuần viên (phi cơ số 3), cánh trái của phi cơ số 1 là phi tuần phó (phi cơ số 2) có nhiệm vụ dẫn dắt máy bay của phi tuần viên số 4 bay cánh trái.

Các phi tuần trưởng và phó điều động thành viên bay đội hình gồm ba phi đoàn Thần Báo, Satan, Thiên Sứ cất cánh lấy cao độ và bình phi ở 35 ngàn bộ, tới điểm hẹn Vũng Tàu thì tập hợp với hai sư đoàn không quân mà chuyển sang tầng số của BOBS và đổi hướng về phía Quốc Lộ 13. Đánh bom Lộc Ninh, bao gồm phi trường và những dãy phố trong hãng xưởng sản xuất cao su đã có từ thời Pháp thuộc để lại. Hiện nay bị Việt Cộng xâm chiếm, xây dựng nhằm tuyên truyền lừa bịp dư luận thế giới về thắng lợi của chúng với 3 yếu tố thủ đô, lãnh thổ và dân chúng để thành lập một quốc gia riêng. Đây cũng là dữ kiện chính trị mà cơ quan ngôn luận truyền thông quốc tế quan tâm, yểm trợ và thiên vị về phe phản chiến ở Hoa Kỳ, đồng thời họ gây bất lợi cho công cuộc chiến đấu tư vệ của Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi bước vào phòng dù lấy áo mão súng đạn đi bay, và thành thật mà nói rằng chưa mấy khi đơn vị của tôi đi đánh trận mà vui buồn lẫn lộn như hôm nay. Trong phòng máy lạnh ù ù thổi, mịt mù hơi sương như đang cố gắng trấn áp cái nhiệt độ oi bức của miền Tây Đô nắng đổ. Hơn nữa cái lạnh phòng này còn phải hạ nhiệt, làm giảm sức nóng lo lắng trong lòng một số anh em “lạnh cẳng” trước khi ra trận.

Riêng anh em Thần Báo chúng tôi, nhìn chung tất cả đều can trường nơi tiền tuyến, và luôn giữ quân phong quân kỷ khi về hậu phương, tợ như thi hào Nguyễn Du từng phác họa trong Kiều: “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa!” Ví dụ, Thiếu Úy Phan Ngọc Phước vai đeo dù nặng nề mà còn đứng ngắm trước gương sửa sang quân phục cho phong nhã, chỉnh lại cặp kíếng Rayban mắc tiền đã sắm từ thời còn học lái máy bay bên Mỹ, xem ra cũng còn mới mẻ và hào hoa ra phết! Xa xa trong góc phòng kia, Thiếu Úy Lê Xuân Vinh đứng tần ngần chắn lối, đang lấy khăn dù lau lại chiếc đồng hồ Rolex “nạm kim cương” cũng đâu thua kém các vua dầu hỏa Trung Đông!

Và Thiếu Úy Phạm Văn Bản, có đại danh “Bản Mát” cũng không quên rút giấy mực kẹp vào tập Checkbook dành ghi nhật ký trong ngày. Đang lúc sửa soạn đi bay, thì nhân viên phòng dù Hạ Sĩ Nguyễn Văn Nam bước lại, lên tiếng phá tan bầu không khí yên tĩnh trong giờ thứ 25: “Em cám ơn Thày. Nhờ thày giúp em học ôn, mà em thi đậu bằng tú tài!” Nghe giọng quen thuộc, tôi ngước lên nhìn người anh em Không Quân, bắt gặp ánh mắt đẫm lệ của Nam, người học trò trong lớp luyện thi của tôi tháng qua. Lớp học này đặt tại Phòng Điện Ảnh của Sư Đoàn 4 Không Quân.

Ngày ấy nhóm chuyên viên điện ảnh, Hạ Sĩ Nguyễn Văn Đảo là bạn đồng hương, biết tài giáo khoa của tôi từng phụ trách lớp luyện thi tú tài, do hội bảo trợ Chương Trình Dân Sự Vụ (Civic Action) của Lục Quân Hoa Kỳ (US Army) khi tôi còn làm trung sĩ thông dịch viên của căn cứ Long Bình, và lớp học này mở tại trường trung học Ngô Quyền với kết quả khóa thi mỹ mãn. Bởi thế Hạ Sĩ Đảo khẩn khoản mời, ngoài giờ bay bổng thì xin giúp cho anh em ở đây có giờ học ôn, vì khóa thi của Nha Khảo Thí/ Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức kỳ thi Tú Tài tại trường trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ vào trung tuần tháng 8 năm 1974.

Thấy anh em nhiệt tình và hiếu học, tôi cũng đành chiều lòng mà nhận lời, rồi nhờ Chuẩn Úy Nguyễn Văn Điện, Trưởng Phòng Điện Ảnh đứng ra thực hiện lớp học, đệ đơn trình Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, Tư Lệnh Sư Đoàn IV Không Quân ký giấy phép mở lớp luyện thi. Dù là học ôn, nhưng tôi cũng phải trình bày tường tận từng chi tiết của các môn học, sao cho học viên lĩnh hội kiến thức giáo khoa một cách dễ dàng, rõ ràng. Riêng vào giờ học thì có thể bắt đầu bất cứ lúc nào khi tôi có giờ dạy, kể cả sáng trưa chiều tối. Và ngày khai giảng cũng đông sĩ tử, cũng “một thầy một cô một chó cái, học trò dăm đứa. . .” (Cao Bá Quát) nhưng bỏ cuộc dần dần… Còn lại 6 học trò, trong số ấy có tài xế Nam đang lái Pickup màu da trời, đậu trước phòng tiếp liệu để đưa đón hoa tiêu ra vào phi đạo.

Tình cảm lê thê của Nam với tôi chỉ ngắn gọn có thế thôi. Riêng tôi thì hú vía, và tự nghĩ mình cũng thật là may phúc! Vì kỳ thi hôm ấy có kết quả sáu người học Đảo, Nam, Sơn, Tùng, Nghĩa, Giàu thi đậu và có bằng Tú Tài toàn phần! Dân gian ngày ấy có câu, “Rớt tú tài anh đi trung sĩ” thì bạn đọc hiểu rằng cái bằng nó thiết thực với anh em binh sĩ trên đường tiến thân. Với văn bằng, bạn ấy có thể làm đơn xin theo học khóa huấn luyện sĩ quan, trở thành người lãnh đạo chỉ huy, thăng quan tiến chức, công danh sự nghiệp! Cũng bởi tầm mức quan trọng như thế, cho nên tiệc mừng của “ông nghè ông cống” mời tôi, vào ngày 22 tháng 8 năm 1974 với món rựa mận tiết canh hiếm quý! Và cũng trong cái đêm chén tạc chén thù ấy, tôi phải gượng tỉnh cơn say để chở vợ vào bảo sanh viện Thủ Khoa Nghĩa, Cần Thơ. Đó cũng chính là ngày sinh nhật của trưởng nữ Bảo Ngọc chào đời!

Giờ đây gặp Nam trong tình thày trò quyến luyến như Chinh Phụ Ngâm, khiến tôi gượng khổ làm vui. Nhưng có lẽ Nam lại nghĩ về tôi rằng, trước giờ phút xuất quân thì dữ nhiều lành ít hoặc “mấy ai đi trở lại, lỡ khi mình không về. . .” (Hữu Loan). Nam chạy lại đỡ chiếc dù nặng nề của tôi đặt ra xe giữa những tiếng cười đùa trong đám đồng nghiệp: “Bản Mát, làm thày có khác, có đệ tử vác dù.” “Chắc năm sau, tớ cũng mở lớp luyện thi, kiếm đệ tử.” “Nhớ Đời ngoài Bình Thủy, quán thịt nai đồng quê ấy càng ngày càng đắt khách!”

Phước Inab -- học bay ở Sheppard bị thủng màng nhĩ -- bỗng dưng cười phá lên, lôi cả mớ bùa thi ESL hộ mạng ngày nào ở Trường Sinh Ngữ Quân Đội, ra đọc. Các câu chấm đúng vần A, B, C thì giữ nguyên vần, còn chữ khác chấm con D. . . Bài bùa bắt đầu: “Cậu Á hỏi Bác Bản: 1 (C) 2 (A) 3 (D) 4 (B) 5 (B)...” Rồi cứ thế, Phước thao thao bất tuyệt cho tới khi bài thi ESL kết thúc ở câu thứ 100, thi trắc nghiệm Anh Văn ai đánh bùa trúng thì đậu và đi du học Hoa Kỳ... Thế là tất cả phi hành đoàn ngồi trên xe, bất kể các cấp từ Tá xuống tới Úy, đều ôm bụng mà lăn ra cười! Chiếc công xa từ từ ngưng bánh đậu trước ụ A37, tôi nhìn đúng số tàu, xách dù leo nhanh như muốn trốn lời nhắn gởi cuối cùng của Nam, “Bảo trọng, nghe thày!” Tôi vẫn còn nhớ trận cười vừa qua, không sao dơ tay lên để đáp lại cái chào quân kỷ của Hạ Sĩ Nam, rồi vội vàng nổ máy.

* * * *

Sau phút lăn bánh tiến ra phi đạo, tôi tăng tốc và cất cánh, rồi điều khiển con tàu êm ả tiến vào vị trí cánh phải phi tuần trưởng của tôi đang làm vòng chờ, trong đội hình 30 khu trục phản lực cơ A37 của Không Đoàn 74 Chiến Thuật. Vừa bay trong hợp đoàn, tôi cảm thấy cứ nghi về chuyện gián điệp trong trận không tạc Lộc Ninh này, không biết trận đánh lớn này có đạt kết qủa thành công như ước muốn chăng? Liên tưởng câu chuyện kỹ thuật xâm nhập và gài người Cộng Sản Bắc Việt vào hàng ngũ Việt Nam Cộng Hòa để thu thập tin tức và đánh phá, tập tài liệu mà đêm trực chiến hôm trước của phi đoàn tôi đã đọc.

Vụ gián điệp Huỳnh Văn Trọng, làm phụ tá đặc biệt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trọng nguyên là một cán bộ Cộng Sản Bắc Việt được gài vào chức vụ cao nhất trong cơ quan hành pháp. Cộng Sản Bắc Việt đã dùng tiền mua chuộc cơ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ CIA, để giới thiệu Huỳnh Văn Trọng qua trung gian viên chức tình báo cao cấp Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn của Tổng Thống Thiệu, giúp Trọng xâm nhập vào tận Dinh Độc Lập.

Bởi thế, những kế hoạch tối mật được sọan thảo chưa thực hiện, thì Trọng đã tiết lộ cho Cộng Sản Bắc Việt biết hết. Từ những dự tính chính trị mang ra áp dụng tại Hội Nghị Paris năm 1971, Dinh Độc Lập mật điện cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa hôm trước để ngày hôm sau trưởng phái đoàn sẽ đưa ra hội nghị. Nhưng Cộng Sản Bắc Việt và Nguyễn Hữu Thọ đã biết trước, đã phản biện bằng cách nhanh gọn và thắng kiện bất ngờ! Tiếp đến, kế hoạch đánh chiếm Hạ Lào năm 1972, theo lời một sĩ quan tham mưu Lữ Đoàn Nhảy Dù, thì phía Cộng quân đã được biết trước tất cả, cho nên chúng án binh bất động, chờ ta để mà lãnh những tổn thất lớn! Bởi thế, trận không tạc thủ đô Lộc Ninh năm 1974 của Không Đoàn 74 Chiến Thuật phải khiến tôi nghi ngờ, mặc dù trong tai tôi vẫn còn những dấu âm thanh tích tè, báo đúng lộ trình của đài BOBS!

Bầu trời trong xanh không gợn áng mây, phi tuần đoàn đang từ từ chuyển hướng về phía Lộc Ninh. Chúng tôi lắng nghe quan sát viên L19, Họa My đang có mặt trong vùng báo cáo:

“Tình Hình Tổng Quát: Tọa độ mục tiêu là phần đất thuộc Quận Lộc Ninh, Tỉnh Bình Long, phía Bắc là đường biên giới Việt Miên, phía Đông là Sông Bé, phía Nam là Suối Cát. Địa thế có cao độ 6000 bộ, bao gồm 45% rừng xam chen lẫn tre hoang, 35% rừng cao su, 25% rừng cây ăn trái và vùng dân cư. Lợi dụng địa thế hiểm trở, sát cạnh biên giới và hành lang Sông Bé, Việt Cộng thiết lập một vùng có nhiều căn cứ, nhất là căn cứ 350 được đặt làm thủ đô của “chính quyền cách mạng lâm thời” thâm nhập sâu đến Quốc Lộ 14 A, địch quân phục kích các đoàn quân xa, đánh mìn và chận xe đò thu tiền cước phí nuôi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tổng hợp các tin tức tình báo cho biết: Tiểu Đoàn D368 với các thành phần chủ chốt như sau: Tiểu Đoàn Trưởng là Thượng Úy Huỳnh Phúc Kháng, Tiểu Đoàn Phó là Đại Úy Tô Minh Diệp, Chính Trị Viên là Đại Úy Huỳnh Văn Bằng. Quân số 100. Trú ẩn tại TDB.XU.875045 đã thiết lập tại vùng này nhiều cơ sở, như Trạm xá (TBD.XU.840010), Kho bảo trì vật liệu và Ban Thông tin (TBD.XU.861045). Theo nguồn tin tình báo cho biết, Việt Cộng vừa thiết lập một căn cứ mới có xe tăng T54 tháp tùng, gồm có khoảng 25 hầm chứa xe tăng T54, và 250 người, có thể đây là căn cứ mới gọi là thủ đô. Riêng tại vùng Đông Nam Lộc Ninh theo tin kỹ thuật ghi nhận một đơn vị Việt Cộng cấp Trung Đoàn (E6) đã xâm nhập nội địa Việt Nam.”
Sau phần trình bày về “Tình hình tổng quát,” Họa My cho biết mục tiêu đánh bom vào tất cả những khu nhà xây có mái ngói đỏ trước mặt nằm trong khu rừng cao su, phía đông phi đạo Lộc Ninh. Theo lệnh hành quân, nếu như phương án (một) đánh BOBS vì lý do gì mà không thả bom được, thì các phi tuần sẽ theo lệnh “Break,” đội hình để thực hiện phương án (hai) tức tấn công mục tiêu theo phương pháp ngoại quan, như kiểu đánh bom bình thường hàng ngày.

“Tíc. . . tè. . ., tè… tíc…” Âm thanh tín hiệu càng gần mục tiêu thì càng phát ra lớn hơn. Khu nhà lớn mái ngói đỏ trong rừng cao su nằm phía đông phi đạo Lộc Ninh đang hiện ra rõ trước mặt. Âm thanh của đài phát tuyến BOBS hướng dẫn rất đúng, tôi liếc qua tấm bản đồ rồi định hướng cũng rất đúng. Với tầm bay 15 ngàn bộ trên mục tiêu lúc này, trừ ra 6 ngàn bộ cách mặt đất tôi còn lại cao độ 9 ngàn bộ là độ cao lý tưởng nhất và an toàn nhất trong phương pháp thực hành thả bom ngoại quan!

Trước mắt tôi mục tiêu khu nhà ngói đỏ, liếc sang cánh phải phi cơ của tôi giữ vững khoảng cách với cánh trái một thước vuông (3 feet) của Thiếu Tá Bùi Văn Minh, và tôi thấy phi tuần trưởng ra lệnh kiểm soát dầu. Thiếu Tá Minh dơ ngón cái của bàn tay phải nắm lại rồi đưa lên cao, ngửa mặt lên trời rồi nghiêng ngón cái ấy phía miệng, như người tu rượu… Tôi nhận lệnh bằng gật đầu, kiểm soát nhiên liệu phản lực JP4! Săng dầu còn nhiều, tôi dơ cao ngón cái đáp lời. Liếc sang bên cánh trái, tôi thấy Trung Úy Trần Trung Tỷ, phi tuần phó cũng đang ra lệnh cho phi tuần viên Thiếu Úy Phan Ngọc Phước kiểm dầu.

Chưa tới điểm thả bom, âm thanh BOBS chưa phát tín 10 giây đếm ngược: “Tích. . . tè. . . tè. . . té!” Khi nghe tiếng “té” thì bấm nút thả bom! Dễ ợt! Ấy thế mà lắm anh, ngày còn học bay thả bom BOBS với mấy quả bom giả bằng cẳng tay ở Căn Cứ Không Quân New England, Tiểu Bang Louisana mà ném vào mục tiêu còn cà trật cà duột! Bỗng nhiên bầu trời nổi lên từng điểm khói trắng nổ tỏa ra như mây cumulus, và đoàn bay hô “Break!” Quái ác thay, máy vô tuyến của tôi bị trở ngại, không còn liên lạc được với ai. Mọi người đã rời vùng để lấy hướng bay Long An để về đáp ở Cần Thơ, nhưng tôi không biết, và “Phước Inab” cũng hét lên muốn bể bầu trời mà tôi vẫn không nghe âm thanh nào!

Toàn bộ hỏa lực của địch lúc này đang nhắm vào tôi, tôi giựt mình thoáng nghĩ nếu không xuống đánh, không đập tan được mục tiêu thì chắc gì mình đã an toàn rời vùng, vì kinh nghiệm bao năm qua cho tôi biết thế. “Mãnh hổ nan địch quần hổ,” từ 15 ngàn bộ tôi đang bay cũng là tầm nhắm lý tưởng của các cây súng cao xạ phòng không ngựa trời mà địch đang bắn lên từ khu nhà mái ngói đỏ! Có những quả đạn đỏ lừa xuyên qua tàu tôi trong gang tấc, rồi Cộng quân cứ thế mà nổ, nổ “vô tư!” Nhìn vào cuộc diện chiến trường, kiểm soát lại mọi điều kiện nhiên liệu, hỏa lực của mình đang có và mở hết các khóa an tòan, tôi lao xuống trong khi chờ tiến đến đúng điểm thả bom, thì tôi đã bóp cò hết mấy chục ngàn viên đạn nhắm xuống khu nhà mái ngói đỏ kia. Và khi đạt đúng tầm thả bom, cách mặt đất 3 ngàn bộ, tôi bấm luôn 6 trái rơi trúng mục tiêu!

Nhìn lại mục tiêu đang bốc lên với những khối lửa cuồn cuộn, những luồng khói trắng nghi ngút, nhưng những dàn phòng không Việt Cộng sao bỗng dưng hiền lành, im re! Tôi đảo người lấy lại cao độ rồi phi diễn theo bài số 8 (lazy eight maneuver) lượn vòng tăng tốc xóay lên thật đẹp như một con rồng vút cánh tung mây giữa nghìn trùng bao la thơ mộng. Bài học phi diễn này cũng là bài tôi thích nhất từ những ngày còn bay tập ở trường bay Sheppard. Trời Việt Nam là Trời của tôi!

Vì không còn vô tuyến để liên lạc, mở radio nghe nhạc cũng không còn, và bỗng dưng tôi thành kẻ câm điếc. An tòan cho tôi hạ cánh, tôi chọn phi trường Biên Hòa để đáp. Tôi làm vòng chờ và thực hiện đúng theo bài học mà mình đã học ở trường bay Hoa Kỳ, bánh hạ cánh cản và xin đáp khẩn cấp theo dấu hiệu đèn báo. Đài kiểm báo của phi trường Biên Hòa đã nhận lệnh theo yêu cầu xin đáp khẩn cấp vì mất liên lạc vô tuyến của tôi, đài trực cuối phi đạo RSU bật đèn, và tôi theo lệnh ánh sáng đèn mà đáp.

Tới cuối đường băng, tôi phải ngừng lại theo lệnh của cơ quan an phi điều tra. Sau khi tôi được chứng thực về lỗi kỹ thuật vô tuyến liên lạc, thì tôi lại chịu tra vấn về vụ ném bom xuống trúng mục tiêu. Chính lúc này những câu thẩm vấn của cơ quan điều tra, đã tự trả lời cho tôi nhiều nghi vấn mà tôi suy ra trong lúc còn đang bay trên đường đánh giặc. Mặt khác, vì dù sao tôi cũng đã trải qua kinh nghiệm người trưởng lưới của Hoa Kỳ ở Long Bình năm xưa, nên cũng chẳng lấy gì làm lạ! Nhất là thời buổi nhiễu nhương này.

Giữa những phút Cộng Sản Bắc Việt huyênh hoang tấn công miền Nam tự do, Tổng Thống Thiệu đã yêu cầu Hoa Kỳ cho B52 yểm trợ, nhưng không thành. Để dạy cho Việt Cộng bài học, nếu như không có B52, thì cũng có A37 rải bom như B52 vậy. Nhưng kế hoạch đánh Lộc Ninh vào những tháng cuối năm 1974 đã bị bại lộ! Chắc chắn đã có gián điệp làm nội tuyến để ngăn cản trận bom Lộc Ninh, nhưng vô tình đã bị hỏa lực của tôi phá hủy. Tôi được dịp kể lại câu chuyện này với anh em trong Phi Đoàn Thần Báo có sự hiện diện của Đại Tá Ninh, tại San Jose trong dịp Đại Hội Khu Trục ngày 7 tháng 5 năm 2005, rồi sau đó tôi về Việt Nam lôi Phan Ngọc Phước ra kể tiếp, khiến Phước ôm bụng cười bò giữa chốn chợ cá Trần Quốc Toản, Sài Gòn về bài học điệp viên!


Phạm Văn Bản