Friday, September 5, 2014

Tướng Alexander Haig phục vụ nhiều tháng ở Việt nam năm 1966. Sau một lần bị thương, ông trở thành trợ tá quân sự của Henry Kissinger trong National Security Council (NSC). Năm 1973, tổng thống Nixon giao cho ông nhiệm vụ thuyết phục tổng thống Thiệu của Nam Việt Nam về Hiệp định Paris.     
 Tôi ở Việt Nam 1966/67 và chiến đấu ở đó trong trận đánh lớn cuối cùng trước cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Chúng tôi được cử vào vùng chiến thuật C. Đó là vùng có những con đường hầm Củ Chi – “Tam giác Sắt” là tên cho vùng đất giống như cái tổ ong ở gần Sài Gòn đó. Đó là một trung tâm tiếp tế quan trọng cho Việt Cộng, Chúng tôi rất thành công ở đó, cho tới 1967 chúng tôi không thua cho tới một trận đánh. Nhưng quân địch hoạt động với các lực lượng chính của họ ở Campuchia và Lào, trong cái được gọi là lãnh thổ trung lập. Từ nơi trú ẩn đó, họ tiến hành những cuộc tấn chông chống quân đội Mỹ, gây tổn thất và rồi lại chạy trốn về phía bên kia biên giới.
Tổng thống Nixon đã phản ứng lại, và tôi đã tham gia mang tính quyết định vào trong đó, việc mà tôi rất tự hào vì nó. Chúng tôi đã mang máy bay ném bom B-52 vào tới những vùng đất trốn tránh đó và cũng khởi động một cuộc tấn công trên mặt đất. Thời đó tôi đã không thể, và ngày nay vẫn còn không thể thấy rằng tại sao các học giả về luật ở Mỹ, do người dân chúng tôi bầu lên, có thể xem điều đó như là một hành vi phạm tội. Không bao giờ trong lịch sử của Hoa Kỳ mà một hành động như vậy được gọi là phạm tội cả. Thời đó là đúng, và ngày nay nó vẫn còn đúng. Và tôi hy vọng những con người đó sẽ còn phải lấn cấn vì thái độ của họ trong xung đột này như thế nào đó.
Đó là tổng thống Kennedy, người đã lôi chúng tôi vào Việt Nam. Nhiều người – và tôi là một trong số đó – tin rằng điều này là hậu quả của lần ông bị hạ nhục sau cuộc Khủng hoảng Cuba. Ở đó, ông đã tiến hành bán rẻ chính trị Mỹ cho người Nga. Bây giờ thì ông muốn phô trương sức mạnh. Điều đó đã dẫn tới hoạt động tham chiến của chúng tôi ở Việt Nam, với khoảng 15000 người vào thời điểm cái chết của ông.
Richard Nixon là một trong số các tổng thống vĩ đại nhất của bảy người tổng thống mà tôi đã từng phục vụ dưới họ. Tôi là một người hết sức thán phục chính sách đối ngoại của ông. Nhưng ở Việt Nam thì cả ông cũng sai lầm. Khi ông bước vào cuộc chơi thì lẽ ra ông phải giải quyết cuộc xung đột này ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống. Ông đã có thể làm việc đó. Thế nhưng chúng tôi ngần ngừ không muốn đàm phán trực tiếp với Moscow và Hà Nội, và sử dụng quyền lực mà chúng tôi có cho một giải pháp thành công Chúng tôi cần phải nhập tâm bài học mà chúng tôi đã đau đớn học được ở Việt Nam. Chúng tôi phung phí ba năm trời với cái được gọi là kế hoạch Việt Nam hóa, có mục đích rút dần quân đội của chúng tôi và để cuộc chiến lại cho người Nam Việt, nhưng với sự hỗ trợ lớn cho quân đội này. Lịch trình rút quân luôn có định hướng ở việc chúng tôi đánh giá Sài Gòn sẵn sàng tự nhận lấy trách nhiệm này như thế nào. Một trong những sai lầm quyết định đã xảy ra với lần tiến quân vào nước Lào. Tại thời điểm này, khi cuộc “Việt Nam hóa” thật ra đã tiến khiển khá tốt, chúng tôi yêu cầu người Nam Việt phá hủy con đường mòn Hồ Chí Minh ở đó. Chúng tôi đưa ra mục tiêu này cho họ, không có sự hỗ trợ mà họ cần để tiến hành việc đó. Chúng tôi đã ném họ xuống nước lạnh và họ đã chìm xuống một cách thảm hại ở đó.  Đó là thảm họa, và đã phá hỏng toàn bộ chính sách Việt Nam hóa.
Một đơn vị quân đội của MTGP đang tấn công
Một đơn vị quân đội của MTGP đang tấn công
Việt Cộng chỉ là một huyền thoại, không phải là một tổ chức giải phóng mà chỉ là một công cụ của Hà Nội và Moscow. Ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt, nó đã biến mất không dấu tích, và Hà Nội cầm lấy dây cương. Hàng ngàn người Nam Việt Nam đã trả giá với mạng sống của họ và tự do của họ. Hơn một triệu người ở trong các trại tập trung, phải chịu đựng sự trả thù ghê gớm về thể chất. Nhiều người chạy trốn bằng thuyền ra biển và chết chìm trong lúc cố tìm nơi ẩn náu ở Hongkong, Thái Lan và các quốc gia láng giềng khác. Nhiều nước lớn Phương Tây từ chối nhận họ và lại trục xuất họ.
Là cựu chiến binh của cuộc chiến này, tôi rất thất vọng về cách đối xử với những người trở về, không chỉ từ chính phủ mà cả từ người dân Mỹ và đặc biệt là từ giới truyền thông. Tất cả những điều đó đã thay đổi với thời gian. Việc công nhận sự hy sinh và tình yêu nước của những người này luôn tăng lên.  Chúng tôi còn có cả một cựu tù binh quan trọng mà bây giờ ra ứng cử tổng thống. Tôi nói về John McCain mà tôi quen thân và đã làm việc chung với cha ông ấy.
Phan Ba trích dịch từ “Apokalypse Vietnam”

Pierre Salinger: De Gaulle đã cảnh báo Kennedy (1961)

Pierre Salinger là thuyền trưởng hải quân trong Đệ nhị Thế chiến, sau đó đã trở về với nghề nghiệp nhà báo ban đầu của ông và rồi là thư ký báo chí của John F. Kennedy.
Chuyến thăm viếng chính thức của John F. Kennedy như là tổng thống Hoa Kỳ mới thắng cử năm 1961 đã dẫn ông sang Pháp. Tôi đã ở đó từ sáu tuần trước và chuẩn bị cuộc gặp gỡ của ông với Charles de Gaulle. Thế rồi chúng tôi đi xe về Paris. Kennedy yêu cầu tôi tham gia các cuộc trao đổi, vì khác với ông, tôi biết nói tiếng Pháp và ông quan tâm tới thông tin chính xác ngoài những người phiên dịch chính thức. Đó là một cuộc gặp gỡ rất thú vị, và gây ấn tượng cho tôi đặc biệt là lời nói gần như là khẩn nài của de Gaulles: “Anh đừng bước vào cuộc chiến tranh với Việt Nam! Anh thấy những gì đã xảy ra cho chúng tôi rồi. Chúng tôi đã thua cuộc chiến đó. Cả anh cũng sẽ thua nó!”
Trong mối liên quan này tôi cũng nhớ một cuộc trao đổi rất lâu mà Kennedy đã tiến hành với thượng nghị sĩ Eugene McCarthy trong mùa hè 1963, người trong Đệ nhị Thế chiến là người quan trọng nhất của Hoa Kỳ cho châu Á. Sau đó, McCarthy vào phòng làm việc của tôi và giải thích. “Bây giờ tôi nói với anh chính xác điều mà tôi cũng đã nói với Kennedy. Ông ấy không bao giờ, không bao giờ nên tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, vì ông sẽ thua nó. Đó là một sai lầm.”
Trong tháng Mười một 1963, Kennedy gửi tôi sang Tokio, để chuẩn bị cho chuyến đi thăm của ông, dự định là sáu tuần tới. Ông nói với tôi trước khi lên đường: “Tôi sẽ tiến hành đối thoại với Bắc Việt Nam và làm rõ rằng sẽ không có chiến tranh.” Máy bay của tôi khởi hành vào ngày 22 tháng Mười một vào lúc sáu giờ sáng – ba giờ sau đó, tôi nhận được tin là Kennedy đã bị giết chết.
Phan Ba trích dịch từ “Apokalypse Vietnam”

Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.
Bài đăng : Thứ tư 03 Tháng Chín 2014 - Sửa đổi lần cuối Thứ năm 04 Tháng Chín 2014

Trong cuốn sách mới ra đời mang tên « Merci pour ce moment » (tạm dịch: « Cảm ơn thủa bên nhau »), sẽ phát hành ngày mai 04/09/2014, bà Valérie Trierweiler, người từng được mệnh danh là Đệ nhất tình nhân đã vẽ ra một chân dung không lấy gì làm đẹp đẽ của Tổng thống Pháp. Theo người tình bị phản bội, ông François Hollande ngày càng thiếu đi tính nhân bản, theo với quá trình vươn lên đỉnh cao quyền lực của ông.

Chính thức chia tay với ông François Hollande từ ngày 25/1, cựu « Đệ nhất tình nhân » trả đũa bằng cuốn hồi ký này, và các tiết lộ trong sách được xem là rất tai hại cho ông. Hôm nay tuần báo Paris Match nơi bà Valérie Trierweiler làm việc và nhật báo Le Monde cho đăng các trích đoạn đầu tiên của cuốn sách được chuẩn bị trong bí mật, có số lượng in lên đến 200.000 bản.


Tác phẩm dày 320 trang được in tại Đức để giữ kín đến phút chót, hứa hẹn sẽ bán rất chạy. Hôm nay tuy chưa chính thức có mặt trên kệ sách, nhưng « Merci pour le moment » đã đứng hàng đầu trong số tựa sách được bán trên trang Amazon tại Pháp. Trong đó bà Trierweiller mô tả : « Ông ta lạnh lùng, không cười. Tôi là vật làm tăng giá trị cho ông ta, nhưng đối với ông tôi chẳng có giá trị gì cả ». « Tôi say đắm một con người mà tôi cảm thấy khi thành công càng trở nên xa cách. Tất cả đều đảo lộn ».

Theo hồi ký, Tổng thống cánh tả Pháp khi có quyền lực trong tay đã mất đi tính nhân văn, và buông thả trong cuộc sống riêng tư. Cựu « Đệ nhất tình nhân » viết : « Tổng thống tự giới thiệu là một người không ưa các nhà giàu nhưng trong thực tế, ông ta không thích người nghèo ». 

Ông François Hollande hiện có tỉ lệ ủng hộ ở mức thấp nhất trong các cuộc thăm dò dư luận. Cuốn sách được tung ra lúc này có thể càng làm cho công chúng mất thêm cảm tình với ông. Trước đó cựu Bộ trưởng Gia cư Cécile Duflot cũng đã viết sách mô tả ông Hollande : « Cố gắng làm Tổng thống của mọi người, nhưng ông ta chẳng biết cách trở thành Tổng thống của một ai cả ».

Một người thân cận của ông François Holllande cho rằng : « Về mặt chính trị đương nhiên chẳng tốt lành gì cả, chính trị bị biến thành những chuyện phù phiếm ». Nhân vật này lo ngại hình ảnh của Tổng thống Pháp - một người « không gây ác cảm và cũng không phải là người độc địa » - sẽ bị ảnh hưởng dưới mắt công chúng.

Bà Valérie Trierweiler, người phụ nữ 49 tuổi xinh đẹp, theo phong cách cổ điển, vốn bị người Pháp không mấy ưa vì tính cách của bà. Ngay từ tháng 5/2012, bà vẫn đề cao tự do cá nhân, cho rằng vẫn có thể duy trì công việc viết báo ở tờ Paris Match song song với tư cách đệ nhất phu nhân tại điện Elysée.

Một tháng sau, bà gây tranh cãi dữ dội khi gởi đi tin Twitter ủng hộ đối thủ tranh cử với bà Ségolène Royal, người đã sống chung với ông Hollande gần 30 năm và có với ông bốn mặt con, ngáng đường vào Quốc hội của tình địch.

Ngày 10/01/2014, tuần báo Closer tiết lộ quan hệ lén lút giữa Tổng thống Pháp với nữ diễn viên Julie Gayet, dẫn đến sự chia tay giữa bà Valérie Trierweiler và ông François Hollande 15 ngày sau đó bằng một thông báo ngắn gọn của Tổng thống với AFP. Trong cuốn sách, bà cho biết ông Hollande ban đầu cam đoan là mối quan hệ với diễn viên trên chỉ mới bắt đầu có một tháng, sau nói ba rồi sáu, chín tháng, và rốt cuộc là một năm.

Điện Elysée khẳng định cho đến tối qua vẫn chưa hay biết gì về sự xuất hiện của cuốn hồi ký này, và từ chối mọi bình luận.
tags: Pháp - Xã hội - Văn hóa - François Hollande - chính trị gia - Văn học - Tình ái - Theo dòng thời sự - Hồi ký - Valérie Trierweiler 
http://www.viet.rfi.fr/phap/20140903-cuu-de-nhat-tinh-nhan-tung-hoi-ky-don-dau-cho-tong-thong-phap

Trần Đĩnh và tác phẩm Đèn Cù

Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2014-08-09
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
QUANGCAODENCU_BK-305.jpg
Bích chương quảng cáo Tác phẩm Đèn Cù.
Hình do tác giả cung cấp


Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận.

Những phân tích tinh tế

Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười … và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.
Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.
Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyễn Giáp hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc.
Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm.
-Trích Đèn Cù
Những ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái tim thi sĩ.
Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật.
Khi đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết:
“Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu.”
Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính.

Nhân chứng lịch sử

Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật.
A-TranDinh-250.jpg
Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do Tác giả cung cấp.
Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”.
Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật.
Qua lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới Bắc Kinh.
Chính ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể:
“Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam?
Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức.
Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”
Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh…Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi.

Những con rối không tự biết mình là rối

A-Photo-chien-khu-250.jpg
Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do Tác giả cung cấp.
Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này.
Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như nguyên bản.
Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.
Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số phận Việt Nam:
Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái.
-Trần Đĩnh
“Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh.”
Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào.
Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”.
Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản.
Và rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ công sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh.
Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.
A-TranDinh-ToHoai-250.jpg
Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do Tác giả cung cấp.
Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế  An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng. Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai…Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại:
“Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã.
Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng...
Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì?
Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười.”
Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”.
Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.

Thất tình Hồ Chí Minh?

Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế?
Trần Đĩnh: “Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi.”
TranDinh-1998-250.jpg
Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp.
Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy?
Trần Đĩnh: “Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc.
Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lenin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lenin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi.
Ông Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm Thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế!”
Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiến viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông?
Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo.
-Trần Đĩnh
Trần Đĩnh: “Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá  ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được.”
Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay?
Trần Đĩnh: “Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được.
Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin  Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không?
Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.”
Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ?
Trần Đĩnh: “Trước hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lenin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ.” Có nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản chống tổng giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.”

Anh hùng hay anh hèn?

Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về việc này?
Trần Đĩnh: “Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa.”
Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không?
Trần Đĩnh: “Bây giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nỗi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ.
Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.
Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một show về thời của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!”
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.