P.1/ SỰ
TRỔI DẬY CỦA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING  .
Đăng trên
nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 –
108) .
Tác giả  
      :  Perry Garfinkel
Hình ãnh : Steve McCurry
Hình ãnh : Steve McCurry
Chuyễn ngữ
:  Trần anh Tú . 
Tứ
Diệu Đế của đức Phật 
: 1/ cuộc đời đưa đến (entail) đau khổ ; 2/ đau khổ
xuất phát từ sự vươn vấn/quyến luyến của ta đối với dục
vọng (attachment to desires) ; 3/
đau khổ sẽ chấm dứt khi sự vươn vấn/quyến luyến
này chấm dứt ; 4/ để vượt qua (transcend) những đau khổ
của cuộc đời , hảy theo Bát
Chánh Đạo (Eightfold Path) .
Một thực hành quan trọng là thiền
định .  
          
Người đã dạy tôi nhiều nhứt về Phật giáo
không phải là một vị sư với cái đầu nhẵn thín . Ông
ta (đã) không nói tiếng Phạn và ông ta (đã) không sống
trong một tu viện ở dãy Hy mã Lạp sơn . Thực tế , ông
ta cũng chẵng phải là Phật tử . Ông ta là Carl Taylor ,
một người sống suốt đời ở San Francisco có dáng dấp
ở tuổi gần 50 . Lúc đó , ông có vẻ bị lạnh , ngồi
thẳng người trên một cái giường kê trong khu vườn của
khu dưỡng lão  (1) cũa bịnh viện Laguna Honda (gần
San Francisco) . Đó là một buổi trưa hè với bầu trời
xanh , nhưng ở cái thành phố này nó lại thường lạnh
thấu xương . Carl đang sắp chết vì ung thư .
| 
Tay tuy nắm nhưng lại tinh
     thần lại buông xã (let go)  , bịnh nhân ung thư
     Suzanne Lewis-Abed tiếp nhận sự an ủi từ người con
     gái và ông Robert Chodo Campbell , một tuyên úy Phật
     giáo , ở một viện dưỡng  lão ở TP New York . "
     Trong đạo Phật ko có sanh hay tử , " ông Campbell
     nói , " chỉ là là sự chuyễn đổi . " 
      | 
       
 Tôi đang trải qua một tuần với Chương
 trình Dưỡng lão Thiền (Zen Hospice
 Project) , một tổ chức Phật giáo mà những thiện nguyện
 viên của họ đang giúp ban điều hành của khu dưỡng lão
 (gồm 25 giường) của BV này , đây có lẻ là cơ sở công
 cộng tại nước Mỹ chuyên chăm sóc dài hạn . Chương
 trình này , được tích cực noi gương khắp thế giới ,
 xử dụng hai điều giáo huấn cột trụ của đạo Phật
 – chỉ suy nghĩ đến
 giờ phút hiện tại và lòng thương cảm/từ bi đối với
 kẻ khác – như là công cụ để
 giúp tạo ra một mức độ về phẩm cách và tình nhân
 loại đối với những ai đang ở giai đoạn cuối cũa
 cuộc đời . Thật ko dễ chịu cho họ khi phải học những bài học này . 
 
       
 Tôi ngồi bên cạnh Carl , giúp chỉnh lại cái
 áo khoát quá mòn , mà ông đã dùng như cái mền/tấm đắp
 . Sau khi được chẫn đoán là bịnh ko chữa được ,
 ông đã có thái độ chấp nhận , ung
 dung tự tại . Tôi đã cố gắng
 gợi chuyện , nhưng rất khó khăn . Làm sao bạn có thể
 an ủi một ai đó khi họ ko còn nhiều thời gian để sống
 và hiểu (sự an ủi) đó ? 
 
      
 “ Vậy anh đã làm nghề gì ? “
      
 Im lặng rất lâu , ông rít một hơi thuốc lá
 . Gần như một thế kỷ trôi qua trong lúc chúng tôi nhìn
 một cụm mây trắng bay ngang bầu trời màu xanh .
    
      “Tôi ko muốn nói về quá
 khứ của tôi.”
       
 Cũng được . Cảm thấy lúng túng để tiếp
 tục câu chuyện , tôi lướt qua trong trí danh sách những
 câu hỏi . Nếu tôi ko thể hỏi về quá khứ và cũng vô
 lý khi hỏi về tương lai , vậy chỉ còn về hiện tại .
 Và trong lúc này , tôi đang học một điều , rằng ko cần
 đặt câu hỏi nào .
      
 Nhưng Carl có vẻ bằng lòng khi có tôi ngồi
 kế bên , sự có mặt của tôi đã giúp ông giảm bớt
 phần nổi đau cũa ông . Một khi tôi đã chấp nhận
 rằng ko có gì phải làm và ko có nơi nào để đi , tôi
 đã thư giản . Carl quay lại nhìn tôi và cười . Cả hai
 chúng tôi hiểu rằng tôi vừa học một bài học nhỏ .
 Cã hai đã nhìn một đám mây trắng khác bay qua . 
 
       
 Tuần đó cũng có những bài học khác , lấy
 ra từ Phật giáo – như bài học về tính
 vô thường cũa cuộc đời , về
 sự lòng tham
 (attachment) , muốn mọi việc phải như ý mình , và sự
 thất vọng ,
 khi nhiều việc xảy ra ko như ý mình . Như bài học về
 đau khổ cũa thể xác và tinh thần và bài học về giá
 trị , mà đạo Phật gọi là sangha
 , có nghĩa là “cộng đồng” . Nhưng trên tất cả ,
 tôi đã thấy làm thế nào những bài học mà một người
 đã học tại Ấn độ 2.500 năm trước lại thích ứng
 với thế giới ngày nay  .
| 
Phồng lên vào mổi sáng và
     xẹp xuống vào mổi đêm , Paranirvana - một tượng
     Phật dài 26 bộ Anh (7.92 m) được triển lảm tại
     Viện Bảo tàng Nghệ thuật ở Ohio - tượng trưng cho
     sự vô thường cũa cuộc đời , nghệ sĩ Lewis deSoto
     nói . Tác phẩm này mô tả vị thế cũa đức Phật
     khi ngài qua đời và lên niết bàn .  (còn tiếp) . Chú thích cũa người dịch : 
 (1) hospice , là một loại
     BV dành cho người ở giai đoạn cuối cũa một bịnh
     nan y (như ung thư , v.v...) hay những người rất già .
     Vì hai thành phần này ở chung nên ta ko thể gọi là
     'viện dưỡng lão" được ; tôi đề nghị nên
     dịch là "sinh
     chung đường" (nơi trú ngụ
     cuối cùng trước khi chết cũa hai thành phần này . 
 (2) Dân số thế giới
     năm 2005 : 6,5 tỉ (hình dưới) trong đó tín đồ Phật
     giáo : 379 triệu người hay 6 % .  Có 373 triệu (98 %) tín đồ sống tại Á châu . Số 6 triệu người còn lại (2%) sống tại : 3,11 triệu tại Mỹ và Canada , 1,64 triệu tại Âu châu , 0,71 triệu tại Châu mỹ La tinh , 0,5 triệu tại Châu đại dương và 0,15 triệu tại Phi châu (còn tiếp) . | 



