Thursday, November 11, 2021

 NHỮNG CÚ LỪA NGOẠN MỤC

Cứ tưởng chuyện lừa đảo chỉ thường xảy ra ở các nước chậm phát triển, nhưng xét cho cùng và theo kinh nghiệm bản thân, chuyện lừa đảo còn khiếp đảm hơn ở Mỹ. Lừa đảo kiểu mánh mung là chuyện nhỏ; lừa đảo qua khoa học, kỹ thuật thì rất khó mà tránh.

Chắc chắn những ai đã từng ở Mỹ một thời gian ngắn cũng đã chiêm nghiệm rất nhiều cách người lừa đảo người từng giờ, từng ngày.

Tôi không dám lạm bàn vô vàn trường hợp của người khác; trong phạm vi bài nầy tôi chỉ muốn chia sẻ với quý vị kinh nghiệm bản thân. Có ngu ngơ, có cả tin, có tính toán… sai lầm, và phần nhiều là do người ta khai thác lòng tham ẩn giấu trong tôi.

* * *

1.

Năm 1980. Vâng 1980, có nghĩa là tôi đã ở Mỹ 5 năm chưa kể gần 2 năm du học trước kia, tôi bị cú lừa đầu tiên ở thành phố Oakland, California.

Đó là một buổi xế chiều, ngày tôi tốt nghiệp college. Tôi về nhà trong tâm trạng cao hứng mà nhà tôi đi làm không có ở nhà. Đang ngồi trong nhà thì nghe gõ cửa. Ra mở cửa thấy một thanh niên Mỹ đen, mắt láo liêng ngó quanh ngó quẩn trước sau, kề tai tôi nói nhỏ:
– Tao có cái TV mới toanh, chưa bóc hộp, thằng bạn tao chôm trong chỗ làm Walmart, giá rất rẻ, mầy mua không?
Tôi nhìn nó đầy nghi ngờ. Có lẽ nó hiểu được nên lại ngó lức láo chung quanh trước khi kề tai nói nhỏ:
– Mầy ra xe coi đi. Xe tao đậu bên hông nhà.

Nói xong nó đi trước tôi theo sau ra xe. Đến xe nó lại ngó trước nhìn sau đầy vẻ bí hiểm của lũ ăn trộm, mở nắp sau xe… quả nhiên một thùng đựng TV Sony mới toanh, to lớn chật thùng, có nhãn hiệu đàng hoàng. Tôi xoay trở khó khăn để xem thêm vài bên khác nhau của thùng, đúng là chưa có dấu vết bị bóc. Ngay lập tức nó đóng sập cốp xe và hỏi tôi tính sao?
– Mầy muốn bán bao nhiêu?
– $300 tiền mặt.

Thời đó với TV cỡ đó đã có giá cả ngàn đồng, trong khi nhà thuê của tôi chưa có. Thấy giá quá rẻ nên cũng ham.
– Tao không có sẵn tiền mặt.
– Vậy thì đành thôi.
– Mầy chờ tao một lát, tao chạy tới nhà bank gần đây lấy tiền được không?
– Tao không tiện chờ lâu; mầy đi bao lâu?
– Khoảng 10 phút thôi!
– Okay, tao chạo loanh quanh chờ mầy. Nhớ nhé, nếu lâu hơn 15 phút là tao không bán nữa.

Xong tôi lại lo nếu nó ở quanh nhà mình, biết mình đi thì đập cửa vào nhà ăn trộm thì sao:
– Hay là mầy chạy theo tao đi.
Nó có vẻ ngần ngừ rồi gật đầu:
– Nhưng khi tới nhà bank tao đứng xa chờ mầy nha.

Nghe nó nói vậy vững lòng tin, lấy xe chạy tới nhà bank chỉ cách nhà hơn dặm đường. Lấy đúng $300 rồi chạy về nhà. Tôi và nó đồng ý làm chớp nhoáng. Có nghĩa là nó đậu xe ngay cửa nhà chờ tôi mở cửa xong nó sẽ mở cốp mang thùng TV vào nhà, lấy tiền và chạy đi ngay.

Mọi sự diễn tiến êm xuôi, nhanh chóng; nó chạy biến đi và tôi khoá cửa hào hứng mở thùng để rồi… sững sờ nhìn bên trong là một chiếc TV hư hỏng, cũ kỹ bất khả dụng! Có kêu trời thì cũng chỉ nghe ông trời bật cười! Tôi vội vàng đem vất thùng rác trước khi nhà tôi đi học về, và nhất định sẽ không hé môi cho vợ nghe chuyện cười của một gã to đầu còn dại.

* * *

2.

Khoảng đầu thế kỷ 21, tôi bỗng nghĩ tới một lúc nào đó, không xa lắm, khi mấy đứa con đã khôn lớn xa rời tổ ấm, hai con khỉ già chắc sẽ thấy đời rất thênh thang. Rồi một ngày, chắc có lẽ trời đẹp lắm, tình lắm tôi nổi hứng nhận lời mời, rủ vợ đi tới một “Resort” để nghe thuyết trình về “Làm cách nào để đi du lịch đó đây ít tốn kém nhất.” Nghĩ chỉ còn 5, 10 năm nữa mình cũng đã tới lúc về hưu, con cái đứa nào cũng sẽ có gia đình riêng, trong lúc bàn chân có nốt ruồi của tôi càng lúc càng ngứa ngáy nên nghe đề tài cũng rất hợp lý. Giấy mời có ghi rõ là người tham dự không bị bắt buộc mua bất cứ thứ gì. Đi để tìm hiểu về những dịch vụ hữu ích thiết thực và sẽ được tặng quà gồm những món quà giá trị tuỳ ý chọn một, trong đó có cả tặng vé máy bay cho hai người đi chơi ở Las Vegas. Họ chỉ đòi hỏi ở người tham dự là cần phải đi cả hai vợ chồng.

Biết rằng ở đất nước nầy không có gì cho không; khi họ cho mình một cái gì chắc chắn đã tính toán sắc xuất rất kỹ. Dù vậy, tôi cũng thuyết phục vợ, “Kể như tới ‘resort’ xem chơi cho vui vậy mà, biết đâu cũng học hỏi được những điều hay.” Vợ ngần ngừ dặn, “Đi cũng được nhưng với điều kiện là anh không mua bất cứ thứ gì họ rao bán nha.”

Giờ hẹn xế chiều. Cách nhà hơn một tiếng lái xe về hướng tây bắc của khu rừng Kingwood. Vào một resort rộng mênh mông, hoa lá, nhà cửa dinh thự rất đẹp. Có rất đông người, dĩ nhiên phần đông là Mỹ trắng; vài ba cặp anh chị Mỹ đen chen lẫn Mỹ nâu và Mỹ vàng là chúng tôi, đủ mọi hạng tuổi từ những cặp vợ chồng rất trẻ đến các ông bà đã nghỉ hưu. Người ta tiếp đã rất lích sự; cà phê, nước uống thoải mái có mặt khắp nơi; có vài ba máy bắp rang để rải rác. Rất đông nhân viên ăn mặc lịch sự, còn khách mời trang phục đủ loại… Giống như buổi họp chợ cao cấp. Chúng tôi ghi tên theo lời hướng dẫn cùng với giờ mời ghi trên giấy hẹn. Xong được đưa vào một phòng họp đông người ngồi, cùng nhau như chờ đợi “giảng viên” đến lớp. Người người thân thiện bắt tay nhau, cười nói làm quen kiểu lịch sự qua đường. Lúc nầy thì chúng tôi biết buổi họp mặt hôm này là để nghe giới thiệu về “TimeShare”. Và đây cũng là lần đầu tiên biết về Timeshare.

“Timeshare” ra đời ở Vương quốc Anh vào đầu thập niên ’60; du nhập vào Mỹ năm 1974. Và nở rộ trên đất nước nầy. Đó là một chương trình chia sẻ phòng trọ trong khu nghỉ dưỡng (vacation home) cao cấp. Xây cất hoàng loạt theo lối khách sạn. Mỗi một căn nhà sang trọng với đầy đủ tiện nghi, ở những nơi nghỉ dưỡng nổi tiếng trên thế giới được bán ra từng phòng, từng tuần cho nhiều người trong giới hạn.

Chia sẻ thời gian là một hình thức sở hữu theo phân đoạn, trong đó người mua có quyền chiếm giữ một đơn vị bất động sản trong những khoảng thời gian xác định. Ví dụ: mua một tuần chia sẻ thời gian có nghĩa là người mua sở hữu 1/52 đơn vị. Mua một tháng tương đương với quyền sở hữu một phần mười hai. Chia sẻ thời gian là phổ biến trong ngôn ngữ kỳ nghỉ. Các loại tài sản bao gồm nhà ở, chung cư và khu nghỉ dưỡng.

Người có quyền sở hữu có thể sử dụng bất cứ thời gian nào khi nó khả dụng. Có nghĩa là ai ghi danh trước được dùng trước và thay phiên. Nếu không đi được chỗ nầy thì đi nơi khác, luân phiên các mùa trong năm, theo khế ước mua bán của từng sở hữu chủ. Vì vậy, mỗi sở hữu chủ đều được hưởng các mùa chính như nhau ngoại trừ những ai là nhân viên trực thuộc các công ty đang quản trị nhà đất của cơ sở trực thuộc.

Sau khi nghe thuyết trình riêng, nhân viên của họ chia nhau họp riêng với từng gia đình. Ở lần họp nầy, người ta cố gắng tối đa giảng giải, chiêu dụ người mua. Nghe rất hấp dẫn, rất dễ cho những ai yếu lòng. Họ sẽ đưa ra một giá, khi mình lắc đầu thì họ mời một người cao cấp hơn để cho mình một giá dễ chịu hơn; không được nữa thì họ bớt đi một vài chi tiết rồi cho một giá thấp nhất… Vì đã quyết định với nhau trước khi tới đây nên chúng tôi “lắc đầu” cho mọi mời mọc. Họ đành gửi chúng tôi qua phòng nhận quà… Quà từ những món cần thiết trong đời sống hằng ngày, là những giấy chứng nhận các bữa ăn giá trị cho hai người ở các nhà hàng sang trọng trong vùng và sau cùng là vé máy bay đi/về Las Vegas cho hai người. Chúng tôi chọn vé máy bay. Hai người mất gần nửa ngày ngồi nghe họ nói rã họng mà không bán được lại mất cho mình hai vé máy bay nghĩ cũng không bõ công. Tôi âm thầm nghĩ vậy.

Khi đã nhờ được chị vợ, nhà gần bên, giúp chăm sóc ba đứa con đang đi học, cả hai xin được phép nghỉ làm mấy hôm, nhà tôi liên lạc lấy vé máy bay theo chỉ dẫn trong giấy chứng nhận. Trong tiến trình điền chi tiết, có một chỗ nói rằng, qua Las Vegas có thể được ở khách sạn 5 sao miễn phí 3 hôm nếu chúng tôi đồng ý ghi tên tham dự một buổi thuyết trình có đề tài tương tự nhưng bảo đảm hay hơn nhiều. Vẫn không ai bắt buộc mua bán bất cứ thứ gì. Tôi bàn với nhà tôi, “Có lẽ cũng là ‘bổn cũa soạn lại’ là cùng, và như vậy mình cũng sẽ say NO như đã; cứ nhận lời để khỏi tốn chi phí khách sạn. Một chuyến đi chơi vui ở Las Vegas mà không tốn tiền máy bay, không tốn tiền khách sạn thì tại sao không.” Nhà tôi nghe bàn cũng xuôi tai. Thế là chúng tôi chuẩn bị đi Las Vegas để… hấp hôn.

Mọi sự diễn ra như hứa hẹn. Phòng khách sạn tuyệt vời, nằm ngay đại lộ chính, trong một khách sạn sòng bài rất sang trọng. Trong phòng có cả cà phê, nước ngọt thừa dư, nằm trên tầng 10 ngó bao quanh khu Las Vegas. Nhất là về đêm, trăng sao vằng vặc. Còn nữa, lúc ghi danh lấy phòng lại được chiêu đãi hai vé ăn buffet đồ biển miễn phí tại nhà hàng lầu. Chúng tôi thuộc dạng không ham bài bạc nên chẳng đoái hoài. Buổi tối sau khi ăn, chúng tôi đi dạo chơi mải miết tới rã chân mới về phòng ngủ. Trong lòng thoải mái, vui vẻ lắm, nghĩ rằng mình hên quá là hên.

Buổi sáng ngủ vùi trong chăn êm nệm ấm, mãi tới 9g mới đi ăn sáng và chuẩn bị tới nơi hẹn. Ánh nắng dịu dàng như tấm lụa mỏng trải đều trên các biệt thự, hoa lá đó đây; cảnh trí thơ mộng, người người với quần là áo lượt tấp nập dọc hai bên đại lộ. Tôi nắm tay nhà tôi hoà nhập cùng dòng người và lòng tôi cảm thấy phơi phới trong niềm vui chứa chan.

Nơi hẹn cũng là một căn phòng sang trọng, rộng rãi. Có rất đông người tham dự. Chúng tôi gi danh và biết đúng Timeshare, y hệt hình thức cũ… chỉ khác chương trình ở đây hấp dẫn hơn nhiều. Những chỗ Timeshares cao cấp hơn, ở những thắng cảnh nổi tiếng thế giới. Giá cuối cùng họ cho chúng tôi chọn lựa là 15 năm, mỗi năm 3 tuần, bất cứ chỗ nào trong 10 địa điểm trong danh sách có sẵn. Nhìn vào thấy hơn chục địa điểm khác nhau trên thế giới, mùa nào cũng đươc tuỳ lúc ghi danh, giá $2,995 cộng chi phí quản trị $395/năm, trả trước $595, phần còn lại trả góp trong vòng 5 năm với phân lời 5.25% và năm đầu không tính tiền lời; hoặc 40 năm, 4 tuần/năm, bất cứ mùa nào, nơi nào trong 20 danh lam thắng cảnh trong danh sách, giá $9,995 và chi phí quản trị $550/năm, có thể gia tăng chút đỉnh theo vật giá. Trả trước $1,595; phần còn lại trả góp với phân lời vẫn 5.25%. Cũng vậy, nếu trả hết trong vòng 1 năm không tính tiền lời. Tất cả những chi tiết vừa kể nếu so với văn phòng Texas thì thuận lợi hơn nhiều. Cả hai chọn lựa đều có thể sang nhượng cho con hoặc người thụ hưởng đặc biệt nào đó.

Trước khi chúng tôi quyết định, thấy có rất nhiều cặp đã mua. Mỗi lần có ai đó ký giấy mua thì cả hội trường vang lời chúc mừng. Tôi thầm nghĩ, “Không lẽ những ông bà lịch sự thế kia mà nhẹ dạ sao.” Cuối cùng chúng tôi quyết định chọn một trong hai giải pháp.

Chúng tôi xin được thảo luận riêng với nhau một lúc. Người hướng dẫn lịch sự đứng dậy ra khỏi phòng. Chúng tôi đồng ý với nhau rằng, không bao lâu nữa chúng tôi sẽ nghỉ hưu, sẽ có nhiều thì giờ rộng rãi để du lịch đó đây. So hai giải pháp, chúng tôi chọn giải pháp thứ hai vì tính ra với giá trung bình $800 gồm chi phí bảo trì cho 4 tuần lễ/năm; vị chi mỗi tuần nghỉ chỉ tốn có $200 ở những nơi sang trong tột bực thì cũng không cần phải đắn đo gì cho lắm. Về phần tiền lời trả góp, chúng tôi không bận tâm vì quyết định sẽ trả hết trong vòng một năm. Khi người saleman trở lại, chúng tôi quyết định ký giấy tờ, dùng thẻ tín dụng để trả số tiền đặt cọc. Lúc nầy người hướng dẫn mới nói cho biết là tiền bảo trì phải trả cùng lúc khi ký giấy mua. Có nghĩa là chúng tôi phải trả ngay $2,145. Nhà tôi đưa mắt nhìn tôi như thăm dò ý kiến; với chỉ mấy giây ngần ngừ, tôi gật đầu đồng ý… Và chúng tôi được tuyên dương ầm ĩ trước hội trường là cặp Á châu đầu tiên tham dự chương trình. Người hướng dẫn chúc mừng chúng tôi với câu nói, “Chúc mừng các bạn, ngay từ lúc nầy các bạn có thể bắt đầu cho những chuyến du lịch thú vị mà các bạn đã từng mong đợi.”

Kết thúc chuyến đi vui vẻ, chúng tôi trở lại nhà đi cày tiếp. Thỉnh thoảng công ty Timeshares lại gửi email giới thiệu những khu du lịch sang trọng trong danh sách đang không có ai cư ngụ; thế nhưng, chúng tôi đang đi làm đâu có muốn đi lúc nào thì đi… nên tiếp tục làm lơ; dự định sẽ sử dụng đến “sở hữu chủ” nầy khi có cơ hội.

Tôi vốn không thích nợ nần khi mình có thể. Dù một năm không tiền lời nhưng tôi nghĩ trước sau gì cũng trả, mang nợ trong người khó chịu lắm, tôi quyết định trả dứt nợ bằng thẻ tín dụng; mà trả bằng thẻ cũng sẽ phải trả dứt cho họ vào đúng hạn kỳ nhưng bù lại mình lại được điểm bonus.

Rồi cơ hội nghỉ cũng đã đến, đó là dịp kỷ niệm ngày cưới của chúng tôi. Nhà tôi liên lạc tìm kiếm nơi muốn đi nhưng khi ghi tên đặt cọc lại không hữu dụng. Hết chỗ nầy tới chỗ khác đều trả lời giống nhau, phải đặt cọc trước, vì có rất nhiều sở hữu chủ nên ai ghi tên trước người đó sẽ được. Và họ cho biết thời gian tới chỗ nầy chỗ kia sẽ hữu dụng, nhưng thời gian họ có thì chúng tôi lại không thể đi. Tình trạng nầy cứ lặp đi lặp lại vài ba lần nữa, tôi nổi sùng cự nự thì họ biểu xem lại trong khế ước có nói, “…đi bất cứ lúc nào, chỗ nào cũng được trên căn bản ghi trước được trước…” (first come first serve basic). Biết rằng nếu có trách thì phải tự trách mình vì đã không chịu đọc kỹ khế ước có hàng tá điều khoản với chữ li ti – mà điều nào cũng dành cái lợi cho người bán – trong môi trường áp lực mua bán rất căng thẳng của cuộc họp mặt.

Không mấy chốc, giấy nợ trả cho việc bảo trì đã tới, chúng tôi lại phải móc túi gửi chi phiếu $550 đi mà vẫn chưa có cơ hội sử dụng “sở hữu chủ” của mình. Sau bao nhiêu lần hụt, cuối cùng chúng tôi cũng đi được tới New York trong một dịp rất tình cờ. Thấy họ gửi giới thiệu vài chỗ đang hữu dụng, dù không dự định trước nhưng cũng muốn thử một lần xem sao. Chúng tôi vội ghi danh liền, dù chỉ một tuần nhưng… vẫn chậm chân hơn người khác, chỉ còn chỗ New York. Chúng tôi có thể dùng 4 tuần lễ như trong khế ước; tuy nhiên, vì thời gian không cho phép nên chỉ xin lấy hai phòng đôi cho một tuần vì là dịp nghỉ hè nên các con cùng đi với chúng tôi.

Phải công nhận phòng ốc quá sang trọng. Tiếc là chúng tôi ở chỉ có thể nghỉ một tuần thôi vì ngày nghỉ không còn nhiều. Sau một tuần rong chơi đây đó với sinh hoạt quá đắt đỏ của thành phố nổi tiếng nầy, chúng tôi trở về lại với công việc.

Làm sao chúng tôi có thể biết được đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất chúng tôi dùng tới sở hữu chủ Timeshares của mình! Vì thay đổi công việc làm ăn, thay đổi nơi ăn chốn ở, con cái đua nhau lớn, đứa nhập trường, đứa tốt nghiệp… Những cơ hội nghỉ dưỡng sức mà hai vợ chồng có thể sắp đặt xin nghỉ việc cùng lúc, các con không bận trường lớp rất hiếm; thế nhưng những lần thu xếp được lại không thể tìm được những chỗ muốn đi vì không ghi tên giữ chỗ đủ sớm. Dù rất mệt mỏi và bất mãn nhưng chúng tôi vẫn nghĩ thời gian làm chủ của Timeshares còn dài nên bền lòng chờ đợi đến lúc nghỉ hưu thì sẽ dùng tối đa cũng không mất mát gì nhiều lắm.Và cứ như thế hết năm nầy tới năm khác mà chi phí bảo trì mỗi năm cứ tăng lên. Lần sau cùng chúng tôi phải trả gần $1,000 thì đã gần 10 năm!

Đến lúc nầy thì chúng tôi không còn đủ sức theo nữa! Tính ra đã mất gần trọn $20,000 mà chỉ có vỏn vẹn dùng được 1 tuần lể ở New York thì đau quá! Chúng tôi tìm cách bán lại. Khi tìm kiếm “nguồn cội” trên intetnet thì mới biết rằng có hàng hà sa số người cũng ở tình cảnh như chúng tôi nhưng ít ai đã trả dứt và vô số người cũng đang tìm cách sang nhượng. Các công ty lo cho việc nầy thì lại đòi phải trả phí tổn quảng cáo từ $400 đến cao hơn. Hoặc phí luật sư can thiệp cũng không ít… Trước tình cảnh nầy, chúng tôi không dám tin vào ai nữa nên nhắm mắt bỏ liều…

Dĩ nhiên, mỗi năm đáo hạn giấy nợ bảo trì vẫn đến, chúng tôi vẫn không trả. Vài năm sau thì nhận giấy “collection”, hăm doạ đưa ra toà… nghe cũng rét nên lại phải tìm tòi học hỏi. Thấy nhiều người cũng không trả nợ hàng tháng, cũng bỏ cuộc giữa chừng, cũng bị hăm doạ collection đầy rẫy trên net. Chúng tôi bèn làm mặt lì, chấp nhận thêm một cái ngu đáng giá!

Bài học không đọc những hàng chữ “fine prints” (chữ li ti) trong tất cả mọi giao kèo, khế ước không phải chấm dứt ở đó và cũng không phải chỉ có chúng tôi. Sự cả tin, khờ dại cộng với tham lam cũng không phải chỉ riêng chúng tôi độc chiếm mà là nhan nhản ngoài xã hội. Thế cho nên sự lừa lọc vẫn sống mạnh, sống hùng trong thế giới loài người cho đến hôm nay và không chắc có bao giờ chấm dứt. Cũng không biết bao giờ hầu hết kẻ mua người bán mới “chậm lại… slow down” để đọc thiệt kỹ trước khi đặt bút ký!

7/11/2021
Còn tiếp…

No comments:

Post a Comment