Ai chằm áo tơi...
Theo
 câu ca tôi tìm về Yên Lạc, Quang Lộc, Can Lộc (Hà Tĩnh) tìm hiểu về 
làng tơi duy nhất ở vùng “ chảo lửa, túi mưa” để giải đáp băn khoăn: 
Giữa thời công nghệ polyme hiện đại, áo bạt, áo ni lông đủ kiểu, ô tím, 
xanh, vàng đỏ đủ sắc màu, thì tơi đã là bảo tàng, là câu chuyện cổ tích 
xa xưa!?
Phận tơi
Nhưng tôi 
đã nhầm. Quần tụ quanh dãy đồi bát úp, nép vào dưới rặng tre xanh, làng 
tơi Yên Lạc vẫn tồn tại qua năm tháng, bất chấp thị trường chao đảo, bất
 chấp dè bỉu của “mốt” hiện đại vẫn lặng lẽ âm thầm bảo lưu một làng 
nghề truyền thống đã gắn bó lâu đời với mảnh đất cha ông.
|  | 
| 
Áo giáp lá” trên đồng | 
“
 Còn nắng, còn mưa, thì còn tơi”. Ông Đặng Văn Đức (80 tuổi) khẳng định.
 Cũng nắng, mưa, nhưng nắng mưa ở dải đất hẹp miền trung khủng khiếp. 
Nắng quăn tàu cau. Đất quăn diệp cày. Ruộng đồng nứt nẻ. Mênh mông bạc 
trắng . Lại thêm gió Lào táp lửa vào mặt.
Mưa thối đất, mưa chém vào mặt, quất vào da thịt.
Bao đời nay vẫn thế!
Giữa
 đồng không mông quạnh, nón, mũ, ni lông không thể che đậy thịt da. Chỉ 
có cái tơi mới là “áo giáp lá” chống lại mưa nắng nghiệt ngã thất 
thường.
Khi ti vi truyên hình quảng cáo kem dưỡng 
da, chống nắng vv… thì ở Yên Lạc nói riêng và xứ sở miền trung nói chung
 nhân dân tự tạo ra một “vũ khí” tiện lợi là chiếc tơi.
Người
 làng Yên Lạc không biết nghề chằm tơi có từ bao giờ. Chỉ biết rằng tơi 
là một phần cuộc sống tất yếu của người dân nơi đây.
Ông
 Đặng Văn Quang – Xóm trưởng xóm Yên Lạc cho biết: “ Xóm Yên Lạc có 78 /
 180 hộ , thu hút trên 200 lao động ngoài độ tuổi làm nghề chằm tơi. 
Trung bình mỗi năm sản xuất 20.000 chiếc tơi và tạo một nguồn thu nhập 
gần 500 triệu đồng / mùa”.
Nghề tơi lấy công làm 
lời. Lá tơi, dây mây lấy ở Truông Bát (Hương Khê). Dụng cụ chỉ có một 
bàn tơi đắp bằng đất hay ken bằng gỗ. Một chiếc kim sắt uốn cong dài 
35cm, dăm sợi dây, nuộc lạt là có thể hành nghề.
Nghề
 chằm tơi ai cũng làm được miễn là chăm chỉ và kiên trì. Đàn ông, đàn 
bà, con gái, con trai, tranh thủ nông nhàn có thể chằm tơi để tạo nên 
nguồn thu nhập.
Buổi trưa không ngủ, đưa bàn tơi ra 
ken lá. Buổi tối vừa uống nước vừa trò chuyện vừa chằm tơi. Các cháu học
 sinh, sau buổi học về nhà, mỗi buổi chằm dăm chiếc tơi cũng tự giải 
quyết được tiền sách, vở bút giấy.
Nói thế, nhưng không đơn giản thế! Lá tơi trên rừng, nhưng mang được về Yên Lạc mất một ngày. Sáng
|  | 
tinh
 mơ, cơm gói, cơm đùm vào rừng. Tối mịt mới về. “ Lấy lá xong, chúng tôi
 đốt lửa thui qua cho héo, rồi chở về. Về phải phơi sương qua đêm để lá 
được ngậm sương. Lá tơi gặp nắng mới thơm, mới bền. Nếu không gặp nắng 
thì lá úng, bợt, dễ mục. Lá ngậm sương đưa ra vuốt, xếp mới không quăn 
”. Ông Nguyên Đăng Nhuận (65 tuổi) cho biết.
Chúng 
tôi đến nhà anh Đặng Văn Quang (46 tuổi), giữa lúc các cháu đang chằm 
tơi. Cháu Đặng Thị Quỳnh (Lớp 12), Đặng Thị Nga (lớp 11), Đặng Thị Giang
 (lớp 5) cháu nào cũng đạt học sinh tiên tiến. Đặc biệt cháu Giang năm 
học 2010-2011 đạt HSG. Các cháu được tặng rất nhiều giấy khen. Cháu 
Quỳnh cho biết: “ Để chằm một cái tơi mất hơn một tiếng đồng hồ. Trong 
chằm tơi khó nhất là gấp cổ, làm sao khít, bền, chặt và phải đẹp. Mùa 
tơi vừa rồi mấy chị em cháu chằm được hơn một trăm chiếc. Cũng đủ trang 
trải tiền học”.
Mỗi năm mùa tơi ở Yên Lạc chỉ có 2 
tháng: Tháng 3 và tháng 4. Những tháng đó, sân ngõ phơi đầy lá tơi. 
Chiều chiều, những chiếc xe của người đi lấy lá tơi nối đuôi nhau về 
làng. Tối tối, xóm làng lại vào mùa sản xuất. Tơi sản xuất xong, khách ở
 Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc, Nghi Xuân, Đức Thọ đến lấy. Cũng 
có khi mang bán ở chợ Nhe, chợ Tổng, chợ Chùa và các chợ lân cận. Năm 
nay , tơi được giá, mỗi chiếc từ 35 đến 40 ngàn đồng. Gia đình Chị 
Nguyễn Thị Thanh, gia đình anh Đặng Văn Quang chằm, bán được 700 chiếc 
thu về hơn hai chục triệu đồng. Cũng là một nguồn thu giải quyết được 
nhiều vấn đề của đời sống. “ Tiền giống má, nước, thuốc trừ sâu, máy 
bơm, tiền học của con trông chờ vào đó cả chú ạ”. Anh Quang trao đổi.
|  | 
| 
Cháu Quỳnh, Nga, Giang tranh thủ chằm tơi lấy tiền mua sách | 
Nhưng
 điều lạ là những cô gái làng Yên Lạc lấy chồng làng khác, không mang 
theo nghề; ngược lại các cô gái về làm dâu Yên Lạc lại học nghề, giữ 
nghề. Chắc là do Yên Lạc đất hẹp, người đông? Hay do Yên Lạc xa núi, xa 
sông không được thiên nhiên ban tặng những thuân lợi khác phải bám lấy 
nghề để tạo nguồn thu nhập ổn định cuộc sống? Hay do nhân dân Yên Lạc 
chăm chỉ cần mẫn, lấy lao động làm gốc mà gắn bó chung thủy với nghề?
Câu chuyện của ông Nguyễn Danh Ân đã ám ảnh chúng tôi trong lần về điều tra viết bài về làng tơi Yên Lạc.
|  | 
| 
Choàng áo tơi phơi lá tơi | 
Sinh
 năm 1939. Mười tuổi đã biết chằm tơi. Ông Ân đã có “ thâm niên” chằm 
tơi hơn 60 năm. Hai lần gia nhập quân ngũ. Lần 1 vào năm 1959 bộ đội 
quân tình nguyện Việt Lào, trở về quê Yên Lạc lại tiếp tục nghề chằm 
tơi. Năm 1967 tái ngũ. Hai năm sau xuất ngũ lại gắn bó với bàn tơi. Đến 
năm 1972, buông tơi tham gia vào đội quân xe đạp thồ. Hết ra rồi vào 
trên các cung đường ác liệt. Ra quân lại về Yên Lạc vót mây, chuốt lá, 
chằm tơi. “ Có lẽ nghề tơi với tôi là duyên phận chăng nên cứ bám vào 
tôi đeo đẳng đến tận bây giờ!”.
Tôi ngước mắt nhìn 
lên tường nhà đầy Huân, Huy chương, Bằng, Giấy khen ghi công những đóng 
góp của người chiến sỹ năm nào. Đó là niềm kiêu hãnh, niềm vui tinh thần
 nhưng cuộc sống còn cơm áo gạo tiền, nên nghề chằm tơi trở thành duyên 
phận.
Một ông già 75 tuổi, mà sáng tinh mơ, cơm đùm 
xe đạp vào tận khe Giao lên rú Truông Bát hái lá tơi, tối mịt mới về. Về
 chuốt lá, vót mây, bện triêng cho bà nhà chằm tơi. Năm nào cũng thế. 
Bền bỉ. Cơm, gạo, mắm, muối, trầu, cau đầu tay, đầu chân. Tịnh không một
 tiếng kêu ca, phàn nàn.
“Bà nhà” là cụ Đặng Thị 
Cháu, năm nay đã “ thất thập cổ lai hy”. Ở tuổi 70, bà Cháu vẫn bám 
ruộng sản xuất . “ Hai ông bà làm hai sào. Tiền giống, nước, thuốc trừ 
sâu, phân bón tăng vùn vụt. Hai sào thu hoạch gần 5 tạ, trừ trầm chẳng 
lãi bao nhiêu. Cho nên hai ông bà phải còng lưng chằm tơi góp nhóp thêm 
đồng trả tiền nước, tiền thuốc chú ạ!”.
Thế là hóa ra, nghề chằm tơi lại nuôi nghề làm ruộng!?
Theo
 ông Ân, nghề chằm tơi với người già đau gối, mỏi lưng, nhưng với hai 
ông bà không thể không làm, vì đó là nguồn sống. Ông cho biết, con trai 
ông là anh Nguyễn Danh Thủy và cháu là Nguyễn Thị Thùy hiện ở xóm Yên 
Lạc vẫn lấy chằm tơi làm nghề phụ. Như thế, nhà ông Ân, nghề tơi là nghề
 cha truyền con nối.,
Vẫn biết nghề mọn này chẳng 
thể giàu có, nhưng là nghề lao động, mồ hôi, nước mắt làm cho con người 
thánh thiện ra, nên ông khuyến khích con cháu không bỏ nghề.
Mai
 sau, con cháu học hành đỗ đạt, có thể làm nghề khác, sinh sống bằng 
nghề khác, nhưng nghề chằm nón đã dạy cho bài học giản dị, chất phác, 
bài học yêu lao động để từ đó hình thành nên cốt cách của người lao động
 thì không thể phụ bạc và khinh nhờn.
Áo tơi và nghề chằm tơi: Chuyện không bao giờ cũ
Vào
 vụ gặt hay vụ cày cấy (khoảng tháng 5 hay tháng 6) nhìn xuống cánh đồng
 ở Cẩm Xuyên hay Thạch Hà, Can Lộc, những chiếc áo tơi đã làm dịu đi 
những nắng lửa.
Tơi không chỉ dùng cho người có tuổi mà trẻ em, thanh nữ cũng khoác áo tơi quê nhà.
Trẻ em choàng áo tơi chăn trâu, chăn vịt hay nhổ mạ trên đồng. Quây tròn lại, đố gió thổi vào được.
Thanh nữ giưa đồng không, mông quạnh, chụm tơi trên bờ là có một WC di động.
“
 Trên nắng, dưới nước như đun sôi, lại gió Lào quần quật quạt lửa nữa, 
không có áo tơi làm răng có thể cúi xuống gặt, cấy hái được chú”. Bà 
Đặng Thị Cháu trao đổi.
Cái áo tơi lại tiện lợi ở 
chỗ, buổi trưa giờ nghỉ lên bờ, mấy cái tơi chụm lại thành bóng râm để 
ăn uống tại chỗ rồi tiếp tục xuống ruộng
“ Tôi lái 
máy cày, máy bừa mang tơi chống được nắng nóng. Đúng là hiện đại đồng 
hành cùng thô sơ”. Anh Thân Viết Thi (38 tuổi) nói.
“
 Mùa mưa bão, ni lông, ni liếc mang cảnh, nhằm nhò chi. Cái áo tơi, gió 
bề nào che bề nấy, mưa có táp vào, bão có quất tơi bời cũng chẳng làm 
cóc khô chi được!”. Ông Đặng Văn Quang khẳng định.
Cái áo tơi bao đời nay bạc sờn qua năm tháng, dầm mưa dãi nắng là người bạn thấm hết nỗi gian lao của người nông dân.
Khi
 tả tơi, những chiếc áo tơi áy, ngã mình, khum lại lót ổ cho gà ấp trứng
 hay lại hiến mình che đậy những vại cà, vại nhút mà không chịu là vô 
ích.
Chiếc áo tơi cùng người nông dân đã thăng hoa 
thành ca dao, lục bát, thành tranh ảnh, thơ văn và cất lên không chỉ ở 
“Hà Tĩnh mình thương”…
Vì lẽ đó, còn mưa nắng, còn đồng ruộng, còn nông dân là còn nghề chằm tơi.
Về Yên Lạc, nhân dân đang hồ hởi xây dựng nông thôn mới. Chiếc áo tơi với nghề chằm tơi câu chuyện không cũ bao giờ!
Bài và ảnh : Lê Văn Vỵ
Đọc thêm : http://danso.giadinh.net.vn/xa-hoi/lang-ao-toi-20110919110641757.htm
Đọc thêm : http://danso.giadinh.net.vn/xa-hoi/lang-ao-toi-20110919110641757.htm
 
No comments:
Post a Comment