Wednesday, October 16, 2013

SỰ TRỔI DẬY CŨA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING (PHẦN MỘT) .
Đăng trên nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 – 108) .
Tác giả         :  Perry Garfinkel
Hình ãnh      : Steve McCurry
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú . 
Tứ Diệu Đế cũa đức Phật  : 1/ cuộc đời đưa đến (entail) đau khỗ ; 2/ đau khổ xuất phát từ sự vươn vấn/quyến luyến cũa ta đối với dục vọng (attachment to desires) ; 3/ đau khỗ sẽ chấm dứt khi sự vươn vấn/quyến luyến này chấm dứt ; 4/ để vượt qua (transcend) những đau khổ cũa cuộc đời , hãy theo Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) . Một thực hành quan trọng là thiền định
 
          
           Người đã dạy tôi nhiều nhứt về Phật giáo không phải là một vị sư với cái đầu nhẵn thín . Ông ta (đã) không nói tiếng Phạn và ông ta (đã) không sống trong một tu viện ở dãy Hy mã Lạp sơn . Thực tế , ông ta cũng chẵng phải là Phật tử . Ông ta là Carl Taylor , một người sống suốt đời ở San Francisco có dáng dấp ở tuổi gần 50 . Lúc đó , ông có vẽ bị lạnh , ngồi thẳng người trên một cái giường kê trong khu vườn cũa khu dưỡng lão  (1) cũa bịnh viện Laguna Honda (gần San Francisco) . Đó là một buổi trưa hè với bầu trời xanh , nhưng ở cái thành phố này nó lại thường lạnh thấu xương . Carl đang sắp chết vì ung thư .
Tay tuy nắm nhưng lại tinh thần lại buông xã (let go)  , bịnh nhân ung thư Suzanne Lewis-Abed tiếp nhận sự an ủi từ người con gái và ông Robert Chodo Campbell , một tuyên úy Phật giáo , ở một viện dưỡng lão ở TP New York . " Trong đạo Phật ko có sanh hay tử , " ông Campbell nói , " chĩ là là sự chuyễn đổi . "
      
        Tôi đang trải qua một tuần với Chương trình Dưỡng lão Thiền (Zen Hospice Project) , một tổ chức Phật giáo mà những thiện nguyện viên của họ đang giúp ban điều hành cũa khu dưỡng lão (gồm 25 giường) cũa BV này , đây có lẻ là cơ sở công cộng tại nước Mỹ chuyên chăm sóc dài hạn . Chương trình này , được tích cực noi gương khắp thế giới , xử dụng hai điều giáo huấn cột trụ cũa đạo Phật – chĩ suy nghĩ đến giờ phút hiện tại và lòng thương cãm/từ bi đối với kẻ khác – như là công cụ để giúp tạo ra một mức độ về phẩm cách và tình nhân loại đối với những ai đang ở giai đoạn cuối cũa cuộc đời . Thật ko dể chịu cho họ khi phải học những bài học này .
        Tôi ngồi bên cạnh Carl , giúp chĩnh lại cái áo khoát quá mòn , mà ông đã dùng như cái mền/tấm đắp . Sau khi được chẫn đoán là bịnh ko chữa được , ông đã có thái độ chấp nhận , ung dung tự tại . Tôi đã cố gắng gợi chuyện , nhưng rất khó khăn . Làm sao bạn có thể an ũi một ai đó khi họ ko còn nhiều thời gian để sống và hiểu (sự an ủi) đó ?
       “ Vậy anh đã làm nghề gì ? “
       Im lặng rất lâu , ông rít một hơi thuốc lá . Gần như một thế kỹ trôi qua trông lúc chúng tôi nhìn một cụm mây trắng bay ngang bầu trời màu xanh .
          “Tôi ko muốn nói về quá khứ cũa tôi.”
        Cũng được . Cảm thấy lúng túng để tiếp tục câu chuyện , tôi lướt qua trong trí danh sách những câu hỏi . Nếu tôi ko thể hỏi về quá khứ và cũng vô lý khi hỏi về tương lai , vậy chĩ còn về hiện tại . Và trong lúc này , tôi đang học một điều , rằng ko cần đặt câu hỏi nào .
       Nhưng Carl có vẽ bằng lòng khi có tôi ngồi kế bên , sự có mặt cũa tôi đã giúp ông giảm bớt phần nổi nổi đau cũa ông . Một khi tôi đã chấp nhận rằng ko có gì phải làm và ko có nơi nào để đi , tôi đã thư giản . Carl quay lại nhìn tôi và cười . Cả hai chúng tôi hiểu rằng tôi vừa học một bài học nhỏ . Cã hai đã nhìn một đám mây trắng khác bay qua .
        Tuần đó cũng có những bài học khác , lấy ra từ Phật giáo – như bài học về tính vô thường cũa cuộc đời , về sự lòng tham (attachment) , muốn mọi việc phải như ý mình , và sự thất vọng , khi nhiều việc xảy ra ko như ý mình . Như bài học về đau khổ cũa thể xác và tinh thần và bài học về giá trị , mà đạo Phật gọi là sangha , có nghĩa là “cộng đồng” . Nhưng trên tất cả , tôi đã thấy làm thế nào những bài học mà một người đã học tại Ấn độ 2.500 năm trước lại thích ứng với thế giới ngày nay  .
Phồng lên vào mổi sáng và xẹp xuống vào mổi đêm , Paranirvana - một tượng Phật dài 26 bộ Anh (7.92 m) được triển lảm tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật ở Ohio - tượng trưng cho sự vô thường cũa cuộc đời , nghệ sĩ Lewis deSoto nói . Tác phẩm này mô tả vị thế cũa đức Phật khi ngài qua đời và lên niết bàn . (còn tiếp)  . 
Chú thích cũa người dịch : 
 (1) hospice , là một loại BV dành cho người ở giai đoạn cuối cũa một bịnh nan y (như ung thư , v.v...) hay những người rất già . Vì hai thành phần này ở chung nên ta ko thể gọi là 'viện dưỡng lão" được ; tôi đề nghị nên dịch là "sinh chung đường" (nơi trú ngụ cuối cùng trước khi chết cũa hai thành phần này .
 (2) Dân số thế giới năm 2005 : 6,5 tỉ (hình dưới) trong đó tín đồ Phật giáo : 379 triệu người hay 6 % . Có 373 triệu (98 %) tín đồ sống tại Á châu . Số 6 triệu người còn lại (2%) sống tại : 3,11 triệu tại Mỹ và Canada , 1,64 triệu tại Âu châu , 0,71 triệu tại Châu mỹ La tinh , 0,5 triệu tại Châu đại dương và 0,15 triệu tại Phi châu  (còn tiếp) .




1 comment:

  1. Lời Chúa trong Kinh Thánh nói rõ: Ngoài Thượng Đế là Đức Chúa Trời ra, không có một ai trên vũ trụ này là đấng đáng cho loài người chúng ta nhờ đó mà được cứu. Chỉ có một Đấng Duy nhất là Chúa Jêsus: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (Chúa Jesus) thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Sách Giăng 1:12).

    Lời làm chứng của cựu Đại Đức Thích Huệ Nhật tin CHÚA JESUS

    http://www.youtube.com/watch?v=1nJhIMjH6e4&list=PL0mk_06rw0piqHuIESJR5w2IyQvJxTOjM

    ReplyDelete