Monday, December 25, 2017

Đồng Minh phản công ở Bắc Miến

Cuộc tiến quân qua Ấn Độ của Nhật đã ngăn được mũi tiến công của quân Anh-Ấn ở Arakan nhưng không chặn được hướng tấn công ở phía bắc biên thùy Ấn-Miến. Trong khi quân Nhật đang vây đánh Imphal và Kohima thì đạo quân của tướng Stilwell, nòng cốt là 2 sư đoàn quân Trung Hoa số 14 và số 50, được trang bị đầy đủ và huấn luyện tốt (1), thẳng tiến theo "con đường Ledo" vào đất Miến, hướng tới Moguang, một thị trấn cách Ledo 250km về phía đông nam và thành phố Myitkyina xa thêm 40km nữa. Cùng lúc đó, đạo quân của tướng Mĩ Merill khởi hành từ Fort - Hertz phía Bắc Miến Điện cũng tiến đánh xuống Moguang, Myitkyina. Từ đây, các lực lượng Đồng minh sẽ tiếp tục tiến xuống phía Nam, đánh chiếm các căn cứ Nhật trên tuyến phòng thủ này cho tới thành phố Bhamo cách Ledo 400km.

(1) Hai sư đoàn này bị Nhật đánh bại ở Vân Nam năm 1942, được không quân Mỹ chuyển sang lánh nạn ở biên thùy Ấn - Miến, được tổ chức, trang bị lại và đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Stiwell.
=========
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #201 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 10:43:48 PM »
Nếu chiếm được Bhamo, Đồng minh sẽ có thể đánh thông tới "Con đường Miến Điện" đi Trùng Khánh. Để chặn đường tiếp viện của Nhật từ cố đô Mandalay tới phòng tuyến Moguang-Bhamo, đội quân Chindits của tương Wingate liên tục nhảy dù xuống vùng rừng núi hai bên bờ sông Irrawady ở khoảng giữa Mandalay và các thành thị nói trên. Đường xe lửa từ Mandalay đi Moguang đã bị cắt đứt thành 3 đoạn. Ngày 13-3, tướng Wingate lâm nạn phi cơ bị tử thương. Tướng Lantaigue lên thay, tiếp tục chỉ huy quân Chindits hoạt động có hiệu quả.
Bộ Tư lệnh Đồng minh còn dự kiến đưa một cánh quân Trung Hoa từ Vân Nam tiến sang đánh giải tỏa "con đường Miến Điện" cho tới khi gặp các lực lượng Đồng minh từ bên kia tiến tới. Vì muốn tập trung toàn bộ lục lượng của mình cho chiến trường Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch cố thoái thác việc này. Nhưng ngày 3 4, tổng thống Roosevelt đã gửi điện cho Tưởng, dọa sẽ cắt viện trợ cho Trùng Khánh theo chương trình "Lend - Lease" (1) nếu không có một cuộc tấn công của quân đội Quốc dân Đảng vào “con đường Miến Điện" trong một tương lai gần. Thế là 2 tuần sau, Trùng Khánh buộc phải cho đạo quân 72.000 người của tướng Wei Li Huang vượt sông Salween tiến tới Miến Điện từ phía Đông Bắc.
(1) Nghĩa là “Cho mượn - cho thuê", tên gọi một đạo luật của Hoa Kì nhằm thực hiện chương trình viện trợ cho các nước Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ II.
=======
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #202 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 10:44:14 PM »
Mặc dù phần lớn chủ lực Nhật của chiến trường Miến Điện đã bị sa lầy tại ấn Độ, các lực lượng Nhật ở Bắc Miến vẫn kháng cự ngoan cường để chờ mùa mưa tới. Khi ấy, máy bay và chiến xa của Đồng minh không thể hoạt động có hiệu quả và việc điều động quân đội sẽ rất khó khăn. Đồng minh không giành được thắng lợi nhanh chóng, nhung họ quyết tâm tấn công cả trong mùa mưa kể từ đầu tháng 5. Giữa tháng ấy, quân của tướng Merill chiếm được pháo đài Myitkyina ở ngoại vi thành phố. Ngày 16-6 căn cứ Xamaing của Nhật ở gần Myitkyina cũng thất thủ. Ngày 20, quân Đồng minh tiến vào chiếm thị trấn Moguang. Ngày 3-8, liên quân Mĩ - Hoa tràn vào Myitkyina và chiếm thành phố chiến lược này sau một trận đánh ngắn. Ở phía Đông, quân Trung Hoa của tướng Wei Li Huang đã gây sức ép nặng nề đối với quân Nhật tại biên giới Vân Nam - Miến Điện. Ngày 4-6, quân Trung Hoa tấn công Lungling, thị trấn thuộc tỉnh Vân Nam nằm trên "Con đường Miến Điện” cách biên giới 100 km. Ngày 28-7, họ lại tiến đánh thị trấn Tenschung ở ngay cửa ngõ vào Miến Điện. Sau hai tháng rưỡi giao tranh, ngày 17-8 quân Trung Hoa giải phóng Lungling và hôm sau họ chiếm lại Tenschung. Từ đây, họ theo "Con đường Miến Điện” tràn vào nước này.
Bị dồn ép trên cả hai hướng Đông và Tây, quân Nhật phải rút về phòng thủ tại phòng tuyến Khata - Bhamo dọc theo sông Irrawady, cố giữ không để quân Đồng minh nối liên lạc giữa "Con đường Ledo” với "Con đường Miến Điện".
Sau khi Tập đoàn quân 15 Nhật thảm bại rút về, quân Anh - Ấn liền gia tăng áp lực trên biên thùy Ấn - Miến.
Ở phía nam đường biên giới, cuối tháng 8 đầu tháng 9 quân Anh - Ấn một lần nữa lại tiến vào Arakan. Đẩy quân Nhật lui về vùng rừng núi Taungbazar ở phía Bắc, họ lại tiến tới các thành phố Maungdaw và Buthidaung. Tại đoạn giữa biên giới tức phòng tuyến Imphal, quân Anh tiến rất nhanh về phía Đông và phía Nam vào lãnh thổ Miến Điện. Ngày 29-8, quân Anh giao chiến ác liệt với quân Nhật và kết quả là dải đất rộng 50km ở bờ tây sông Chindwin, từ Sittaung đến Thaungdut, đã trở về tay người Anh. Ngày 26-9, quân Anh tấn công vào Tiddim, một thị trấn quan trọng trên vùng đồi Chin ở bờ tây sông Chindwin. Ngày 19-10, quân Anh chiếm thị trấn này và quân Nhật phải rút hết về phía Đông sông đó.
Đến cuối thảng 10-1944, Đồng minh đã đẩy lùi quân Nhật trên toàn tuyến biên giới Ấn - Miến, đột kích qua biên giới Trung - Miến, chiếm lại được nhiều vùng đất đai ở Bắc và Tây Miến Điện. "Con đường Ledo" đã được khai thông; "Con đường Miến Điện" bắt đầu được giải tỏa. Mặc dù 2 con đường đó vẫn chưa nối liền được với nhau, thắng lợi của Đồng minh đã rất rõ ràng. Do tập đoàn quân 15 hoàn toàn bị kiệt sức,
quân Nhật không còn khả năng phản công giành lại những gì đã mất. Bộ tư lệnh đồng minh ở Đông Nam Á nhận thấy đã đến lúc chuyển sang tổng phản công quét sạch quân địch ra khỏi Miến Điện.
Giữa lúc đó, để đảm bảo quan hệ tốt đẹp giữa Washington với Trùng Khánh, tổng thống Roosevelt đã ra lệnh triệu hồi tướng Stilwell, người luôn luôn bất đồng ý kiến với Tưởng Giới Thạch. Stilwell ra di ngày 3-11 và thiếu tướng Albert C.Wedemeyer được cử thay ông làm Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Hoa Dân quốc kiêm Tổng chỉ huy các lực lượng Mĩ ở Trung Hoa. Tuy vậy, "con đường Ledo" dẫn tới chiến thắng của Đồng minh ở Miến Điện đã được đặt tên mới là “ Đường Stilwell".
========
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #203 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 10:44:31 PM »
NHẬT BẢN TẤN CÔNG Ở TRUNG HOA

*Trung Quốc kiên trì "đánh lâu dài"

Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ thì chính phủ Trung Hoa Dân quốc mới chính thức tuyên chiến với Nhật (và Đức - Ý) vào ngày 9-12-1941. Đến lúc đó, cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân Trung Quốc chống Nhật đã diễn ra được 4 năm 5 tháng (kể từ sự biến Lư Câu Kiều 7-7-1937) và giai đoạn đầu sôi động của chiến tranh, tính đến tháng 10-1938, đã trôi qua. Từ đó, chiến tranh Trung-Nhật bước sang giai đoạn thứ hai, tức giai đoạn "cầm cự" theo cách dùng từ của Mao Trạch Đông (1). Từ giai đoạn này, Trung Quốc chính thức vận dụng chiến lược "đánh lâu dài": lấy bảo toàn và phát triển lực lượng làm mục tiêu chính; tránh các cuộc giao tranh chính quy quy mô lớn có thể dẫn đến tổn thất nặng, tiêu hao lực lượng địch bằng các trận đánh nhỏ theo kiểu vận động chiến và du kích chiến; đợi đến khi tình thế thay đổi sẽ chuyển sang phản công. Cả Tưởng Giới Thạch lẫn Mao Trạch Đông đều cho rằng đường lối này thích hợp với cuộc chiến tranh của một nước yếu có đất rộng người đông chống lại một nước mạnh. Hai phe Quốc-Cộng tuy cùng hợp tác trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật, nhưng vẫn phải đề phòng lẫn nhau. Vì vậy, đường lối này tạo điều kiện cho mỗi phe bảo toàn và phát triển lực lượng của mình, dành cho cuộc nội chiến giữa Quốc dân Đảng với Đảng Cộng sản trong tương lai.
(1) Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đong đưa ra lí luận về chiến lược "đánh lâu dài" từ mùa xuân 1938. Theo đó, chiến tranh sẽ chia thành 3 giai đoạn: phòng ngự (Nhật Bản tấn công, Trung Quốc phòng ngự), cầm cự (hai bên ở thế giằng co) và phản công (Trung Quốc phản công đánh bại Nhật Bản).
==========
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #204 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 10:46:01 PM »
Trên thực tế, đường lối này đã được thực hiện có kết quả. Do không tiêu diệt được chủ lực của quân Trung Hoa trong các trận đánh lớn, gần 1 triệu quân Nhật (không kể đạo quân Quan Đông ở Mãn Châu) đã bị sa lầy ở Trung Quốc, mặc dù chiếm được những vùng đất dai rộng lớn với những đô thị trọng yếu. Lực lượng quân xâm lược bị đàn mỏng, không còn đủ khả năng giáng những đòn quyết định để buộc đối phương phải đầu hàng.
Trong khi đó, một cuộc chiến tranh du kích do Đảng Cộng Sản phát động ngày càng phát triển, làm tiêu hao sinh lực địch. Bên cạnh đặc khu Thiểm - Cam - Ninh (với thành phố trung tâm là Diên An) là căn cứ chính của Đảng Cộng sản, hàng chục căn cứ du kích (được gọi là vùng giải phóng) đã xuất hiện trong vùng Nhật tạm chiếm ở Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô, An Huy, Hồ Bắc, Quảng Đông và trên đảo Hải Nam… Các căn cứ này không ngừng uy hiếp hậu phương quân Nhật (1).
Quân đội Trung Hoa không có không quân và hải quân. Lục quân được huấn luyện trang bị nghèo nàn (không có chiến xa, có rất ít đại bác và phương tiện cơ giới) nhưng nhờ quân số đông và tinh thần chiến đấu cao đã ngăn chặn được đà tiến công của Nhật trên các mặt trận.
Cho đến ngày chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân đội Quốc dân Đảng thường xuyên có ít nhất 3,5 triệu binh lính và sĩ quan, nghĩa là gấp 4 lần số quân Nhật trên chiến trường Trung Hoa. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản, được coi là Đệ Bát lộ quân của chính phủ Trung Hoa Dân quốc và Tân tứ quân do Đảng Cộng sản lập thêm có tổng quân số khoảng 300.000 người (2). Ngoài ra còn lực lượng du kích đông hơn nhiều. Tháng 3-1942, chính phủ Hoa Kỳ đưa "Phi đoàn Cọp bay" của tướng Claire Chennault sang tham chiến ở Trung Hoa, đồng thời cử trung tướng Joseph Stilwell qua làm Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Hoa Dân quốc kiêm Tư lệnh các lực lượng Mĩ ở Trung Quốc.

(1) Cùng với Trung Quốc, phong trào du kích chống Nhật cũng phát triển ở hầu hết các nước Đông Nam Á bị Nhật chiếm đóng như Philippnes, Mã Lai, lndonésia, Miến Điện... trong đó Việt Nam là nơi có phong trào kháng Nhật sớm nhất, kể từ khi Mặt trận Việt Minh ra đời vào tháng 5-1941.
(2) Theo số liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 1-1944 thì tổng quân số của Đệ bát lộ quân là 387.245 người, có 190.000 súng trường, 3.187 súng máy, 360 trọng liên, 232 khẩu đại bác (xem P.P. Vladimirov. Nhật kí Diên An. Nxb thông lin lí luận Hà Nội 1981 . T.1 tr.342).
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 11:06:33 PM gửi bởi LuuHuongSoai »
======
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #205 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 11:07:16 PM »
Có tất cả các lực lượng trên, giới lãnh đạo kháng chiến Trung Hoa vẫn tiếp tục kiên trì đường lối "đánh lâu dài". Ngày 7-7-1942, trong lời kêu gọi quân dân Trung Quốc nhân kỉ niệm 5 năm cuộc kháng chiến chống Nhật, Chủ tịch Quốc dân Đảng kiêm Chủ tịch hội đồng quốc phòng tối cao, kiêm Chủ tịch Ủy ban hành Pháp Trung Hoa, kiêm Tổng tư lệnh quân đội Trung Hoa Dân quốc là thống chế Tưởng Giới Thạch (1) khẳng định rằng: “Cuộc chiến đấu của chúng ta có đặc điểm không những là lâu dài, mà còn là một cuộc đấu tranh nhiều đau thương nhất, gian khổ nhất và không cân sức của một nước yếu chống lại một nước mạnh"(2).
Do đường lối này, trong suốt 2 năm 1942-1943, khi Nhật Bản tập trung mọi nỗ lực vào chiến trường Đông Nam Á và Thái Bình Dương, quân Trung Hoa vẫn không chuyển sang phản công tiêu diệt địch để giành lại những đất đai đã mất. Bởi thế, mặt trận trở nên tương đối ổn định, chiến sự trên chiến trường Trung Hoa trở nên lắng dịu và có nơi đã trở thành hưu chiến.
Trong khi đó, Tưởng Giới Thạch vẫn đem một lực lượng hùng hậu (khoảng vài chục sư đoàn mạnh) bao vây Đặc khu của Đảng Cộng sản và xung đột lẻ tẻ giữa hai phe Quốc - Cộng vẫn thường xảy ra, mạnh nhất là vào mùa hè 1943.
Tình hình trên khiến cho các cường quốc Đồng minh lo ngại, Washington và Moskva cùng cho rằng cả Trùng Khánh lẫn Diên An đều lo bảo toàn lực lượng của mình, thiếu tích cực chủ động phản công quân Nhật mà có khuynh hướng trông chờ các cường quốc bên ngoài đánh bại Nhật Bản. Do đó, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều ra sức thúc đẩy hai phe Quốc - Cộng hợp tác thành thật để đẩy mạnh các chiến dịch chống Nhật, phối hợp với cuộc phản công của Đồng minh trên các chiến trường khác.
Dù vậy, quân Nhật vẫn nắm quyền chủ động trên chiến trường Trung Hoa. Trong suốt 2 năm đó, chiến sự chỉ rộ lên khi quân Nhật tấn công vào hai tỉnh Chiết Giang và Giang Tây (tháng 5-1942), vào Quảng Châu Loan thuộc Pháp trên bán đảo Lôi Châu (tháng 2-1943) vào Trùng Khánh (tháng 5-1943) và Trường Sa (tháng 11-1943).

(1) Từ 10-9-1943, sau khi Tổng thống nước Cộng hòa Trung Hoa là Lâm Sâm từ trần, Tưởng Giới Thạch lại được Trung ương Quốc dân Đảng cử giữ luôn chức vụ đó
(2) P.P Vladimirov. Nhật kí Diên An, NXB Thông tin lí luận, Hà Nội 1981, Tập 1, tr. 74
========
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #206 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 11:07:53 PM »
* Nhật Bản tấn công Trùng Khánh và Trường Sa

Vì bị sa lầy ở Trung Quốc mà không tìm được một thắng lợi quyết định, Bộ Tư lệnh Nhật rất lúng túng. Mùa hè 1943 họ quyết định thử thời vận một lần nữa bằng cuộc tấn công vào thủ đô lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc: thành phố Trùng Khánh trên bờ sông Trường Giang.
6 sư đoàn bộ binh cùng 2 lữ đoàn kị binh Nhật đã tập trung tại khu giữa hai thị trấn Yo Chau và Y Chang cách Vũ Hán 300 km về phía Tây. Đầu tháng 5, đạo quân hùng mạnh này bắt đầu tiến về phía Tây, dọc theo thung lũng sông Trường Giang để tiến đánh Trùng Khánh ở cách đó hơn 500 km. Họ men theo bờ hồ Động Đình rộng lớn, đánh chiếm nhiều kho lương của quân Trung Hoa và không gặp sức kháng cự đáng kể. Khi đến thị trấn Kungan cách Y Chang 400 km, quân Nhật phải chia đường để băng qua những dãy núi hiểm trở chặn con đường dẫn tới Trùng Khánh. Chính từ đây, dựa vào núi rừng trùng điệp, quân Trung Hoa bắt đầu phản kích liên tục vào bên sườn những cánh quân Nhật đã bị chia nhỏ. Vì pháo binh, chiến xa và xe cơ giới hoạt động rất khó khăn, quân Nhật không tiêu diệt được lực lượng tập trung của địch, lại bị địch bao vây chia cắt nên bị tiêu hao nhiều. Cùng lúc đó, tập đoàn không quân số 14 của Hoa Kỳ (thường được gọi là phi đoàn "Cọp bay") do trung tướng Claire Cheuneult chỉ huy đã yểm trợ có hiệu quả cho quân Trung Hoa và tung ra nhũng đợt oanh tạc dữ dội vào các đội quân Nhật đang co cụm trên đường tiến quân (1). Ngày 25-5, tiền quân Nhật đã tiến đến cách Trùng Khánh 45 km, nhưng bị chặn đứng ở đây không thể tiến lên được nữa. Tiến thoái lưỡng nan, đầu tháng 6 quân Nhật đành hủy bỏ chiến dịch, rút về vị từ xuất phát với những tổn thất không nhỏ, cả về người lẫn chiến xa và quân cụ.
Sau thất bại trên của quân Nhật, chiến trường Trung Hoa trở lại yên tĩnh. Bộ tư lệnh Nhật quyết định chuyển sang củng cố các vùng đã chiếm được, giữ vững các đô thị lớn, các đường giao thông quan trọng cùng một số đồn lũy trên sông Trường Giang, chuẩn bị cho một cuộc tấn công mới trong mùa đông. Phía Trung Hoa cũng không có kế hoạch phản công trong thời gian này, vì chưa đủ khả năng và lực lượng.

(1) Tập đoàn không quân này, thoạt đầu được gọi là phi đoàn “Cọp bay” được Mỹ đưa sang Trung Hoa tháng 3-1942, vào lúc trung tướng Joseph Stilwell được cử sang làm tổng tham mưu trưởng cho quân đội Tưởng Giới Thạch.
=====
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #207 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 11:08:34 PM »
Mục tiêu chủ yếu trong chiến dịch tấn công mùa đông năm 1943 của Nhật là Trường Sa, thành phố chiến lược trọng yếu trên con đường tiến xuống Hoa Nam và sang phía Tây hướng tới Trùng Khánh. Tiến đánh thành phố tỉnh lị của Hồ Nam, Nhật Bản còn mưu toan tước đoạt số lương thực to lớn sẽ thu hoạch trong mùa lúa chín của tỉnh này vào tháng 11. Nếu mất Trường Sa, quân Trung Hoa sẽ mất cả một vựa lúa gạo, và sẽ không đủ lương thực để cung cấp cho quân và dân Trùng Khánh.
Bởi thế, Bộ Chỉ huy Trung Hoa đã hạ lệnh cho quân của mình phải đánh đến cùng, giữ thành phố bằng bất cứ giá nào.
Trong suốt quá trình chiến tranh Trung - Nhật, Nhật đã 3 lần tấn công Trường Sa và cả 3 lần đều bị đánh bại (lần thứ nhất vào tháng 3-1941, lần thứ hai tháng 9-1941 và lần thứ ba cuối tháng 12-1941).
Trận đánh Trường Sa lần này đã bắt đầu vào ngày 21- 11- 1943 với cuộc tấn công vào thị trấn Chương Đức, cách hồ Động Đình khoảng 50 km về phía Tây. Ngày 23, trận đánh diễn ra ngay trong thành phố. Hai bên Trung - Nhật đánh giáp lá cà từ nhà này sang nhà khác, kịch chiến trên mọi ngả đường, góc phố. Ngày 3-12, quân Nhật chiếm được Chương Đức.
Từ Chương Đúc, quân Nhật thẳng tiến về phía Trường Sa, nhưng qua ngày 4 thì lại bị quân Trung Hoa đánh chặn lại. Viện binh đông đảo của quân Trung Hoa kéo đến, được sự yểm trợ của không quân Hoa Kỳ, đã phản công quân Nhật. Cuộc phản công của quân Trung Hoa mãnh liệt đến nỗi tất cả các cánh quân Nhật đều phải rút lui. Ngày 9-12 quân Trung Hoa giành lại Chương Đức và đẩy quân Nhật trở về nơi xuất phát ban đầu. Đến cuối tháng, trận đánh chấm dứt và quân đội hai bên lại trở về vị trí cũ.
Nhìn chung chiến sự năm 1943 vẫn ở thế giằng co. Quân Nhật thất bại trong cuộc tấn công vào Trùng Khánh và Trường Sa lần thứ tư, nhưng quân Trung Hoa vẫn chưa giành lại được thế chủ động.
======
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #208 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 11:09:33 PM »
* Quan hệ Đồng minh: vui và buồn

Trong lúc trận đánh Trương Sa bắt đầu thì Thống chế Tưởng Giới Thạch bay đi Cairo (thủ đô Ai Cập) để hội đàm với Tổng thống Roosevelt và Thủ tướng Churchill để định liệu những phương sách thiết yếu nhằm nhanh chóng đánh bại Nhật Bản. Tại cuộc hội đàm diễn ra từ 22 đến 26-11-1943, ba nhà lãnh đạo đã trình bày những quan điểm không hoàn toàn phù hợp với nhau. Tổng thống Roosevelt muốn tập trung mọi lực lượng của Đồng minh, kể cả quân đội của Đảng Cộng sản Trưng Quốc, vào mục tiêu duy nhất là sớm đánh bại Nhật Bản. Ông cố gắng thuyết phục hai người đối thoại với mình đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quân sự ở Miến Điện và Trung Hoa. Về tương lai sau chiến tranh, Tổng thống thừa nhận rằng châu Á luôn có những thay đổi to lớn, nhung ông chưa thể xác định dứt khoát được rằng các dân tộc ở đây sẽ thoát khỏi sự đô hộ của phương Tây đến mức độ nào. Ngược lại, thủ tướng Churchill quan tâm trước hết đến việc bảo vệ nguyên vẹn hệ thống thuộc địa của đế quốc Anh như trước chiến tranh. Bởi thế, ông không muốn nhìn nhận Trung Hoa như là một cường quốc Đồng minh, không muốn nước này có một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh chống Nhật. Ông cũng không che giấu sự khó chịu phải ngồi đối thoại bình đẳng với một lãnh tụ da vàng là Tưởng Giới Thạch. Bác sĩ riêng của Churchill là Lord Moran đã viết trong nhật kí: "Đối với Tổng thống, Trung Hoa có nghĩa là bốn trăm triệu người đang có vai trò và sẽ phải tính đến trong thế giới ngày mai; nhưng Churchill thì chỉ nghĩ về màu da của họ. Khi ông nói về Ấn Độ hay Trung Hoa, người ta có thể nhận thức, ông vẫn là một con người của thời- đại Victoria". Trong khi ấy Tưởng Giới Thạch quan tâm trước hết đến vấn đề hạn chế thế lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc để củng cố quyền lãnh đạo đất nước của ông, hiện tại cũng như tương lai.
Dù sao, hội nghị Cairo cũng đã đi đến quyết định đẩy mạnh các hoạt động chống Nhật ở cả Thái Bình Dương cũng như trên đất liền châu Á. Hội nghị cũng xác nhận rằng sau ngày chiến tranh kết thúc sẽ giao trả Mãn Châu, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ (Pescadores) cho Trung Hoa và Triều Tiên sẽ trở thành một quốc gia độc lập.
Những nghị quyết trên rất có lợi cho Trưng Hoa, nhưng Tưởng Giới Thạch vẫn không hài lòng vì Hoa Kỳ tiếp tục nhìn nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc như là một lực lượng đồng minh mà ông phải thực tâm hợp tác để cùng chống Nhật.
Dời Cairo, Tưởng Giới Thạch trở về Trùng Khánh, còn Churchill và Roosevelt bay thẳng đến Teheran (thủ đô Iran) để hội đàm với Đại nguyên soái Stalin.
Tại hội nghị Teheran (từ 28- 1 1 đến 2- 12- 1943 ), các nhà lãnh đạo Liên Xô - Mĩ - Anh đã thảo luận về việc mở mặt trận thứ hai ở châu âu (chiến dịch Overlord), vấn đề Đức và châu Âu cũng như nhiều vấn đề khác của chiến tranh và thế giới sau chiến tranh. Hội nghị cũng đề cập tới cuộc chiến tranh chống Nhật và tương lai của châu Á.
Trong buổi gặp gỡ trước khi đi vào chương trình nghị sự, Tổng thống Roosevelt nói rằng cần phải có một sự huấn luyện thích đáng để nhân dân Đông Dương, Miến Điện, Mã Lai và Đông Ấn thuộc Hà Lan có thể đảm đương được quyền tự trị của mình. Nước Mĩ sẽ cố gắng để nhân dân Philippines có thể được hưởng tự do. Tổng thống tỏ ý tin tưởng rằng người Anh cũng sẽ làm như vậy đối với nhân dân Ấn Độ.
======
Re: Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941-1945
« Trả lời #209 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2009, 11:10:08 PM »
Tại phiên họp chính thức đầu tiên, Roosevelt đã trình bày từ cuộc chiến tranh Thái Bình Dương cho đến kế hoạch dự kiến của chiến dịch Overlord. Sau khi các bên đã nhất trí về thời gian và địa điểm mở mặt trận thứ hai ở Tây âu (ngày 1-5-1944 ở miền Bắc nước Pháp), Stalin tuyên bố rằng sau ngày đánh bại Đức, Liên Xô sẽ chuyển quân về phía Đông Sibir để thành lập mặt trận chung với các cường quốc Đồng minh nhằm đánh bại Nhật Bản. Churchill đã tranh cãi gay gắt với Stalin trong vấn đề mở mặt trận thứ hai và vần đề xử tội phạm chiến tranh Đức sau ngày chiến thắng, nhưng ông thực sự vui mừng vì tuyên bố này của Stalin. Ông nghĩ rằng sự tham chiến của Nga sẽ làm giảm bớt vai trò của Trung Hoa trong chiến tranh chống Nhật.
Trong khi đó tại Trung Hoa, mối quan hệ giữa Tưởng Giới Thạch với trung tướng Joseph Stilweu mỗi lúc một thêm căng thẳng. Stilwell đã nhận thấy rằng số vũ khí và phương tiện chiến tranh mà Washington viện trợ cho Trùng Khánh theo chương trình “Lend - Lease" chỉ được Tưởng dùng rất ít cho chiến tranh chống Nhật. Rõ ràng là Tưởng chủ trương bảo toàn lực lượng và phương tiện vật chất để dành cho cuộc nội chiến các lực lượng của Đảng Cộng sản sau này. Stilwell cho rằng tình trạng lắng dịu trên chiến trường Trung - Nhật suốt 2 năm qua, thậm chí ở một số khu vực đã có sự hưu chiến thực sự chính là do chủ trương này của Tưởng. Bởi thế, ông ta liên tục báo cáo tình hình này về Washington; đồng thời ra sức thúc giục Tưởng chủ động tấn công quân Nhật, chi viện cho chiến trường Miến Điện và giảm bớt sự phong tỏa đặc khu của Đảng Cộng sản để quân đội của Đảng Cộng sản có thể yên tâm chống Nhật
Phần lớn nhận định trên của Stilwell là đúng. Nhưng nếu ông được đọc cuốn "Nhật kí Diên An" của Petro Parghenovich Vladimirov, phái viên của Quốc tế Cộng sản tại Đặc khu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có thể ông sẽ bớt nghiệt ngã hơn đối với Tưởng (1).
Sự can thiệp của Stilwell vào nội tình Trung Quốc làm cho Tưởng và Bộ trưởng quốc phòng của ông ta là Hà Ứng Khâm hết sức tức giận. Suốt mấy tháng sau hội nghị Cairo, Trùng Khánh vẫn không tổ chức một cuộc tấn công nào đáng kể đánh vào quân Nhật. Tổng thống Roosevelt tin tưởng ở nhận định của tướng Stilwell, nhưng ông cho rằng cuộc kháng chiến của Trung Hoa, dù là tiêu cực đi nữa, cũng có tác dụng lớn là giam chân gần 1 triệu quân Nhật ở đây, không cho chúng chuyển qua chiến trường Thái Bình Dương để chống Mac Arthur và Nimitz. Bởi thế một mặt ông vẫn thúc giục Trùng Khánh tích cực và chủ động hơn, mặt khác ông vẫn cố tranh thủ Tưởng Giới Thạch.
Sự can thiệp của Roosevelt đã buộc Tưởng phải cho một đạo quân tiến sang Miến Điện vào tháng 4-1944. Nhưng chính lúc đó, Nhật bản đã mở cuộc tấn công lớn nhất trên chiến trường Trung Hoa kể từ khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.

(1) Xem: P.P. Vladimirov. Nhật kí Diên An, NXB Thông tin lí luận, Hà Nội 1981

No comments:

Post a Comment