Saturday, June 27, 2020


Lê Mạnh Toàn – Trung đội 2 và những ngày cuối cùng
Posted on March 4, 2013by minhhieu854
Thương về các MX Trung Đội 2, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 7/TQLC. Xin cám ơn các Sao Mai, các Đại Bàng, đã có quyết định sáng suốt trong giây phút sau cùng.
Khoảng cuối tháng 2/1975, tôi đi phép thường niên về thăm gia đình, trung tuần tháng 3/75, tôi ra lại hành quân. Thời gian này chiến sự bùng nổ nóng bỏng. Những tin tức đưa về dồn dập được các báo chí, đài phát thanh loan tin không mấy lạc quan.
Ngày từ giã gia đình, ba má và các em tôi bịn rịn, quyến luyến, không muốn tôi ra đi trong thời gian này. Mọi người đều nhìn tôi với ánh mắt đầy ái ngại. Má tôi và các em tôi khóc rất nhiều, chỉ có ba tôi, cũng là một quân nhân, ông nhìn tôi với ánh mắt đầy lo âu như biết trước những bất trắc đang chờ đợi tôi.
Biết sao bây giờ? Đã sinh ra làm trai thời chinh chiến, phải đi thôi. Tôi lặng lẽ quay lưng đi nhanh để tránh tất cả những ánh mắt của mọi người thân yêu, nhưng trong lòng thật sự bồi hồi xúc động.
Tôi trở về vùng hành quân trong lúc tình hình của đất nước gần như rối loạn vì các tin đồn có thể một trận chiến đẫm máu sắp xảy ra.
Đại Đội 2 TĐ 7/TQLC vẫn còn nằm tại căn cứ Hòa Mỹ. Tôi trở lại đơn vị, mọi người đều vui mừng, tôi cũng vậy. Những tiếng cười giòn tan, làm như tất cả đang sống trong thời bình vậy.
Tôi về trung đội cũ được vài ngày, ĐĐT/ĐĐ 2, Đại Úy Ngô Kim Anh tập họp tất cả sĩ quan cho biết TĐ 7/TQLC sẽ được di chuyển bằng quân xa vào Đà Nẵng. Bản đồ Quảng Trị–Thừa Thiên bỏ vào đáy ba lô, thay vào đó là bản đồ Quảng Nam–Đà Nẵng.
Thiếu Úy Lương Văn Nghĩa cười nói:
– Có dịp vào Đà Nẵng dzung dzăng dzung dzẻ rồi đó, các anh chuẩn bị tinh thần đi!
Chúng tôi đều cười.
Vào họp, Sao Mai trải bản đồ chỉ chỗ chúng tôi sẽ đến và nằm lại, tất cả thất vọng ra mặt, vì các trung đội đều nằm trên các đỉnh cao trong núi rừng trùng điệp, không có đường xe chạy. Muốn ra quốc lộ 1, trung đội tôi lội bộ cũng mất nửa ngày, chưa tính đến việc cực nhọc phải leo đèo lội suối. Eo ơi !
Ngày 19/3/75.
Một đại đội BĐQ đến thay ĐĐ 2, để chuẩn bị cùng TĐ rút về An Lỗ. Một trung đội BĐQ đến thay tuyến cho trung đội tôi có 14 người. Nghe nói đơn vị BĐQ này vừa đụng trận ở Thất Sơn Châu Đốc, thiệt hại không nhỏ. Trung đội trưởng là mộ trung sĩ Họ thật ngỡ ngàng khi trám tuyến quá dài, 5 chốt tiền đồn cùng PC trung đội. Quân số trung đội 2 lúc đó gồm tăng phái khoảng 52 người. Khi tôi hướng dẫn để bàn giao các điểm, người trung sĩ nhìn tôi lắc đầu ngao ngán. Tôi mỉm cười mà chẳng biết nói gì!
Tôi dắt trung đội ra xe GMC về cầu An Lỗ. Pháo 130 của địch pháo theo vào hai đầu cầu An Lỗ khá chính xác. Có lẽ để lô địch đã trà trộn vào dân bám theo chúng tôi.
Nằm ở cầu An Lỗ chờ xe mất 2 ngày, chúng tôi được lệnh chuẩn bị di chuyển, tưởng sẽ đi Đà Nẵng, nhưng trưa ngày 21/3/75, đoàn xe chở chúng tôi đến bến cảng Thuận An, Huế. Lại có tin thay đổi kế hoạch, di chuyển bằng tàu về Đà Nẵng.
Tới Thuận An, cho trung đội bố trí chờ tàu, chúng tôi kéo nhau ra quán cóc bến cảng lai rai, đấu hót, nhưng trong lòng tôi lo âu, linh cảm những việc bất thường sắp diễn ra. dân chúng Thuận An cũng hình như lo lắng khi biết tin TQLC rời Quảng Trị.
– Sao Mai mời anh vào họp gấp. Một người lính chạy lại nói với tôi.
Vừa vào Sao Mai nói nhanh:
– Tiểu đoàn của chúng ta phải trở lại Quận Triệu Phong bảo vệ Bộ Chỉ Huy nhẹ Tiền Phương Sư Đoàn ở Hương Điền rút ra an toàn.
Chúng tôi nhìn nhau thở dài. Cái quân Triệu Phong này, có người lính Mũ Xanh nào mà không nghe nói đến. Chúng tôi đã từng đụng địch thường xuyên, suốt năm 1972, trong trận tái chiếm Quảng Trị và cổ thành Đinh Công Tráng.
Thương anh em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.
Từng đại đội xuống tàu qua phá Tam Giang. Bên kia đã có một đoàn xe GMC chờ sẵn. Đến lượt ĐĐ 2 xuống LCM thì trời đã hoàng hôn, chỉ còn ít nắng vàng rơi rớt, như muốn báo cho biết sắp bàn giao giữa ngày và đêm.
Chiếc GMC nuốt gọn trung đội 2. Tôi ngồi trong cabin với tài xế, xe từ từ lăn bánh. Nhìn hai bên đường, nhà nhà đã lên đèn, ánh đèn vàng hiu hắt, ảm đạm thê lương. Đám đông mọi lứa tuổi, già trẻ, trai gái, đứng im lặng nhìn đoàn xe đi qua. Họ đã thất vọng khi nghe TQLC rút đi, đem theo cả niềm tin, giờ đây nhìn đoàn xe chở chúng tôi ngược hương lộ 555 về Triệu Phong, họ ngạc nhiên, trong lòng bừng lên một hy vọng, nhưng xin lỗi tất cả, chúng tôi không đem lại niềm hy vọng nào cả!
TĐ 7/TQLC xuống xe ở Hương Điền, khi chúng tôi xuống xe, thì lại có binh sĩ của Sư Đoàn chất hàng lên xe. Trung đội 2 được lệnh đi đầu. Trời tối, không trăng sao, phải dùng địa bàn theo hướng kim dạ quang mà di chuyển về hướng Triệu Phong. Vài trái pháp địch nổ vu vơ, ánh lửa chớp sáng rồi tối đen. Những người lính im lặng, bước những bước đi chậm trong bóng đêm. Cho đến khi gần sáng, được lệnh dừng quân bố trí phòng thủ.
NGÀY 22 & 23/75
Chỉ từng hố phải đào cho trung đội xong, tôi đưa mình vào cồn cát, rút một điếu Casptan, thuốc ngon lạ lùng, chú cần vụ đưa tôi ca cà phê, tôi cảm thấy hết mệt mỏi dù qua một đêm dài không ngủ. Tiếng xẻng đào cát nghe như tiếng đào mộ cho mình.
Trời đã sáng nhưng không có mặt trời. Bầu trời âm u như lòng tôi âm u. Xa xa ngọn thập giá cao của nhà thờ Triệu Phong nhô cao giữa vòm lá.
Khoảng 9 giờ sáng, một đoàn lính ĐPQ gần trăm người di chuyển khá trật tự ngang qua vị trí trung đội tôi. Tôi đang quan sát chợt thấy chừng một trung đội dừng lại và một sĩ quan đang loay hoay tấm bản đồ trên tay.
Tôi xuống đồi nhìn người sĩ quan đeo kính cận, cấp bậc chuẩn úy và hỏi:
– Bị hỏi số nhà hả?
Anh bối rối nhìn tôi:
– Dạ phải huynh trưởng.
– Anh có nhìn thấy cây thập giá trên nóc nhà thờ Triệu Phong không ?
– Dạ thấy.
– Từ đây đến đó khoảng bao xa ?
– Dạ chừng một cây số.
– Anh đo phương giác nghịch sẽ tìm ra tọa độ.
– Cám ơn huynh trưởng.
Tôi quay trở lại PC trung đội thấy vui vui.
Hết tiểu đoàn này đến tiểu đoàn khác rút lui trong trật tự ngang qua chúng tôi. Tôi chợt cảm thấy mình như nhỏ lại và cô đơn. Giữa vùng cát trắng mênh mông.
NGÀY 24/3/75
Từ sáng sớm chúng tôi được lệnh rút lui. Đến 10 giờ thì lại được lệnh dừng lại bố trí. Đại đội đang ở trên một đồi cát có nhiều cây thông dễ ẩn núp, riêng trung đội 2 được lệnh di chuyển xa đại đội khoảng 350 mét. Tôi có một tiểu đội nằm trên một đồi cát có mười lăm cây thông và một vài ngôi mộ rải rác, 3 tiểu đội cùng tôi di chuyển lên một yên ngựa chạy dài hướng Bắc-Nam. Không có một bụi cây ngọn cỏ, thật bất lợi, nên tôi đề nghị với Sao Mai, chỉ để ở đây 1 tiểu đội, còn 2 tiểu đội nằm với tôi giữa đồi cát trắng mênh mông.
Chợt Sao Mai gọi tôi:
– Sẽ có 2 chiếc M41 lên nằm với cậu, khi M 41 tới báo tôi biết.
– Nhận rõ Sao Mai.
Phóng tầm mắt nhìn phía trước, tôi nhìn thấy cách chỗ tôi 200 mét có một cái mả đá to có tường vây quanh như một căn nhà. Tôi nghĩ, ém hai tiểu đội ở đó là hay nhất. Dễ phòng thủ hơn là nằm chình ình giữa bãi cát trắng này.
Tôi chưa kịp thi hành ý định thì có tiếng Sao Mai gọi:
– Anh đã nhận được 2 chiếc M41 chưa?
– Tôi thấy rồi. Họ đang tới.
Trong khi chờ 2 chiếc M41, tôi nhìn ra phía trước, một cảnh tượng đập vào mắt tôi, hàng trăm người đang chạy hỗn loạn về từ hướng Triệu Phong, quần áo xốc xếch, có người mặc quần đùi, có người ở trần, có người chân không giày, chỉ có một số ít là còn cầm M16 và vài băng đạn.
Cùng một lúc, tôi được tin một Mũ Xanh từ trận tại yên ngựa, mà tôi có nghe tiếng súng nào đâu. Thế nhưng thật sự Thạch Rene! Đã chết vì một viên đạn ngay tim. Chúng tôi mất một chiến hữu, không còn được nghe tiếng đàn hạ uy cầm du dương của anh nữa. Vĩnh biệt Rene!.
Tôi vội cho lệnh mang xác anh về đại đội, truyền thống TQLC là không bỏ lại xác đồng đội, hay chiến hữu bị thương.
Sao Mai lại gọi tôi cho lệnh:
– Cậu chận tất cả họ lại.
– Sao Mai? Họ đâu còn tinh thần và súng đạn gì đâu, chận lại có ích gì?
– Cậu cứ chận họ lại tôi sẽ có cách!
Hai chiếc M41 vừa tới, tôi chưa kịp cho hai binh sĩ chỉ chỗ cho họ nằm thì đoàn lính địa phương quân hỗn loạn chạy qua, nhìn họ tôi thương hại làm lơ cho họ đi luôn không chận lại, một người lính nói với tôi:
– Thiếu úy, có T54 Việt Cộng!
Hai chiếc M 41 chưa vào vị trí thì có tiếng la của đám quân chạy ngang: Xe tăng! Thế là hai chiếc M41 de lui chạy mất dạng cùng hàng trăm lính ĐPQ.
Chúng tôi chơ vơ giữa biển cát trắng chưa kịp đào hố cá nhân. Tôi ra lệnh cho trung đội nằm tại chỗ. Đứng nhìn về phía trước, tôi thấy một cột khói như khói đầu xe lửa cách xa 500 mét chưa nhìn thấy xe tăng địch. Đám khói đen ngoằn ngoèo giữa những cồn cát, rồi chiếc T54 hiện ra trước mắt chúng tôi. Để nó đến gần thì bắn chắc ăn, nhưng chúng tôi không có vị trí ẩn núp, nó phát hiện thì lãnh đủ một trái 100 ly cùng đại liên 12,7. Tôi cho lệnh M72 khai hỏa ở tầm xa 300 mét. Một trái nổ sát xa thiết giáp, có bóng 5, 6 tên nhảy ra nằm lại. Trung sĩ Tám la lên:
– Nó bị đứt xích rồi!
Nhưng, chiếc T54 xoay nòng đại bác về phía chúng tôi rồi khai hỏa. Trái đạn 100 ly nổ trên tuyến, hất tôi té ngồi trên cát, may vô sự, tôi vội hỏi:
– Có tên nào bị không ?
– Không !
– Rút về tiểu đội sau, lẹ lên.
Cả 3 tiểu đội chạy hết tốc lực mặc cho đạn 100 ly và 12,7 bắn đuổi theo. Về đến vị trí tiểu đội phía sau, kiểm điểm quân số, thật may, tất cả vô sự.
Trong lúc trung đội lo đào hố cá nhân, tôi đứng sau một cây thông to quan sát thì một trái 100 ly nổ cách tôi chỉ 5 mét, tôi nấp sau thân cây thông vô sự.
Chiếc T54, không hiểu sao nó chỉ có một mình, nằm chình ình ngay phía trước tuyến chúng tôi. Tôi cho tọa độ xin pháo binh. Sao Mai nói pháo đang di chuyển chưa tác xạ được.
Im lặng một lát tôi chợt nhớ Đại Đội 2 có chiếc M48 tháp tùng, bèn gọi:
– Sao Mai, cho M48 thịt nó đi!
– Được.
5 phút sau, có tiếng di chuyển của M48, rồi đại bác khai hỏa. Chiếc T54 cũng xoay nòng đáp lễ. Tôi đứng xa nhìn hai thiết giáp bắn nhau như hai cầu thủ giao banh. Chưa bên nào trúng đạn. Chiếc T54 khôn ngoan lùi lại, chui xuống chỗ trũng chỉ nhìn thấy pháo tháp của nó. Khoảng nửa giờ sau, hiệu thính viên đại đội gọi tôi:
– Thẩm quyền, đạn đi, quan sát!
– Nhận rõ.
Hai trái đại bác nổ trước và sau chúng tôi. Tôi điều chỉnh lần thứ ba sát mục tiêu và yêu cầu bắn hiệu quả 100 tràng.
Đạn 105 ly nổ sát mục tiêu, qua làn khói, tôi thấy năm sáu tên VC nhảy ra nằm sát trên mặt đất. Chiếc T54 không cháy, nó vẫn nằm im lìm ở đó. Hết trăm tràng, tôi không buồn gọi xin bắn thêm. Nó không quấy rầy tôi nữa là tốt rồi.
4 giờ chiều Sao Mai gọi tôi:
– Cậu cho con cái gọn ghẽ trước 6 giờ, sẽ có 2 chiếc M113 đến đón cậu.
– Xin Sao Mai nói rõ hơn.
– Được rồi. 1 và 3 đi cùng trung úy Lê Khắc Phước (đại đội phó ĐĐ 2) kéo nối theo ĐĐ4 về Thuận An. Còn cậu và thằng 4 (Trung đội vũ khí nang) đi với tôi bằng xe thiết giáp.
– Nhận 5 trên 5, Sao Mai.
Sau này tôi mới hiểu, trong cuộc rút quân lần này, TĐ7/TQLC đi sau cùng. Đại Đội 2 của Đại Úy Ngô Kim Anh đi đoạn hậu và Trung Đội 2 của tôi đi sau chót.
Trời đã xẩm tối, tầm quan sát không còn nhìn được xa. Chúng tôi, cả trung đội đã chuẩn bị xong. Có tiếng máy nổ dưới chân đồi và Trung Sĩ Nguyễn Văn Tám, trung đội phó chạy lại nói:
– Thiếu úy, xe đã đến.
Tôi đã phân chia trước, trung đội phó và 2 tiểu đội đi một xe. PC trung đội và 2 tiểu đội chiếc thứ hai.
Tôi nói với mấy anh thiết giáp:“Các anh nên chạy gần nhau, đừng để khoảng cách quá xa, trời tối sẽ bị lạc, rồi quay dặn Trung Sĩ Tám:
– Nhớ bảo họ chạy theo sát xe tôi.
Khi trung đội tôi đang lên xe, thì mấy chiếc M48 chở đại đội và Trung Đội 4 chạy ngang qua. Sao Mai dặn tôi:
– Cậu nhớ theo vết xe xích mà chạy theo kẻo lạc.
Chưa dứt lời, chiếc M48 như chiến mã lồng lên, mất hút trong màn đêm.
Hai chiếc M113 chở trung đội tôi chạy như rùa, tốc độ chỉ bằng một người chạy bộ tập thể dục. Tôi lo lắng không hiểu chiếc T54 của VC hay chiến xa nào khác đuổi theo thì thật nguy hiểm… Chúng tôi ngồi sát vào nhau, im lặng mặc cho gió đêm mơn man trên mắt, trên đầu.
Đằng sau phía Quận Triệu Phong, thỉnh thoảng một ánh lửa chớp lòe hiện lên một quầng đỏ hồng rồi vụt tắt, trả lại màu đen nguyên thủy của trời đêm.
Mẹ già M113 cõng đàn con chạy không nổi sao thê lương quá! Tôi bàn với trường xa, vứt bớt súng đạn trên xe, anh đồng ý, chúng tôi vứt những thùng đạn đại liên 30 đi, nhưng mẹ như đã già, vẫn ỳ ạch lết trên đường thiên lý.
Chúng tôi theo vết xích M48 mà đi, ánh đèn xe chiếu không quá 15 mét. Chợt Sao Mai anh gọi tôi:
– Tới Hương Điền, cậu nhớ đón ông công binh làm bổn phận phá hủy kho đạn Sư Đoàn. Khi nào xong bốc ông ta đi luôn.
Lê lết mãi rồi cũng tới Hương Điền. Gần tới vòng đai BTL, chiếc M 113 ngừng lại, tài xế la lên:
– Có một TQLC đón đầu xe.
Tôi nhảy xuống xe, người trung sĩ Công Binh chạy lại hỏi:
– Có phải xe thiếu úy Toàn?
– Dạ phải.
– Thiếu úy chờ cho một chút.
– Được.
Thế là anh chạy quăng mình vào bóng đêm. Tôi chờ nghe tiếng nổ và nghĩ, kho đạn này sẽ nhiều đạn nổ ghê gớm lắm, dự trữ cho cả sư đoàn không biết có chở bớt đi chưa?
Năm phút sau anh Công Binh chạy ra:
– Không nổ thiếu úy! Hồi chiều chạy dây nổ kỹ lắm. Xin chờ em thêm chút nữa, em coi lại xem sao.
– Được rồi, anh bình tĩnh làm đi.
Anh Công Binh chạy đi, rồi 10 phút sau trở ra vừa thở vừa nói:
– Cũng không được thiếu úy!
– Coi lại một lần nữa, không được thì bỏ…
Tôi hồi hộp hy vọng một tiếng nổ lớn cho xong việc để đi. Anh lính lại chạy ra. Tôi biết việc không xong, lên máy gọi Sao Mai báo cáo. Một phút sau, Sao Mai lệnh cho tôi chở ông Công Binh dọt.
Thế là kho đạn không phá được.
Hai mẹ già M113 cõng đàn con lết chậm trong đêm thật tội nghiệp. Xe chạy chừng 5 phút thì chiếc xe sau bị trật xích. Chúng tôi đành dùng trái sáng phá hủy xe. Giờ thì cả trung đội tôi, lính thiết giáp, ông công binh trên dưới 40 người chen chúc trên một thiết vận xa M113. Chiếc xe chạy không nổi. Nó như nhích từng tấc đường, bỏ lại chiếc xe sau đang bốc cháy. Chậm nhưng nó còn đi được, chưa phải lội bộ. Điều lo lắng chẳng nói ra là sợ chiến xa địch truy kích. Mấy chiếc M48 chạy xa rồi, hình như chỉ còn chúng tôi là những kẻ triệt thoái sau cùng!
Chiếc M113 đang chậm chậm lết đi, bỗng anh tài xế thiết giáp la lên:
– Thiếu úy nhìn kìa. Tôi nhìn phía trước và giật mình, từ đầu hôm tới giờ, chúng tôi chạy theo hai vệt xích sắt thôi, bây giờ trước mặt chúng tôi, vết xích cày nát một vùng rộng lớn bung ra tứ phương tám hướng, chọn hướng nào mà đi?
Tôi vội lên máy gọi đại đội. Gọi mấy lần không nghe trả lời. Tôi biết họ đi xa rồi, ngoài tầm máy PRC 25.
Anh trưởng xa hỏi tôi:
– Thiếu úy tính sao?
Không để mọi người mất tinh thần, tôi quyết định thật nhanh:
– Quẹo trái ra biển, rồi theo bờ mé biển chạy về Thuận An. Chiếc M113 bẻ góc 90 độ, lát sau ra đến biển, chạy theo mé bờ về hướng Thuận An. Lúc rút lui không đi dọc bờ biển vì e địch sẽ chặn đường phục kích. Bây giờ không còn con đường nào khác, đành liều thôi… Tôi nhắc người hiệu thính viên liên lạc với đại đội, vẫn im lặng vô tuyến.
Mẹ già M113 oằn lưng cõng đàn con lết từng bước như dạo mát ngắm cảnh biển về đêm. Trời mờ sáng, hết sương khuya lại đến sương mai, trời lạnh căm. Sương mù dày đặc bao phủ che chở chúng tôi, những linh hồn bé nhỏ bơ vơ lạc lỏng.
Bỗng có tiếng động cơ nổ phía sau. Tôi quay lại, chiếc M 48 đang lao tới, trên xe đeo lủng lẳng đầy lính. Gần sát xe tôi có tiếng la:
– Xe của trung đội thiếu úy Toàn kìa! Thì ra đó là chiếc M 48 chở Sao Mai Anh. Con chiến mã qua mặt xe tôi chừng 100 mét thì ngừng lại. Xe tôi theo kịp đến gần, tôi nhảy xuống xe hỏi:
– Có chuyện gì vậy Sao Mai.
– Chạy suốt đêm rồi nên hết xăng, à mà sao cậu đến trước tôi hay vậy?
Tôi vắn tắt báo cáo một M113 đứt xích, tất cả dồn vào một xe. M 48 cũng phải đốt một chiếc vì hết xăng, tất cả bám vào chiếc M 48 này, chạy đến đây cũng hết xăng. Tôi ra lệnh cho tất cả xuống xe, nhập với toán của Sao Mai, hàng dọc tiến bước, trả tự do cho chiếc M113. Một trái M 72 phá hủy chiếc M48 hết xăng.
Rất may, chúng tôi cách Thuận An chẳng còn bao xa.
NGÀY 25/3/75.
6 giờ sáng, chúng tôi đến bờ bên này cửa Thuận An. Hàng trăm dân, nón lá bồng bế con gọi nhau í ới, chạy tới chạy lui tìm nhau. Một chiếc M.48 ngâm mình dưới nước, chỉ còn cái pháo tháp và nòng đại bác nhô cao. Vài ba chiếc quân xa lật ngang trông thảm hại. Dăm ba chiếc ghe gọ, ngược xuôi, chở khách qua sông. Tất cả đều vội vàng như chạy đua với thời gian.
Sao Mai Anh gọi tôi:
– Cậu coi liên lạc kiếm đò qua sông.
Tôi gặp một ông già tầm thước, mặt khắc khổ, da sạm nắng, nhờ ông giúp kiếm đò qua sông. Ông ngập ngừng muốn từ chối. Tôi nói ngay:“Ông bảo ai có đò, đưa chúng tôi qua sông, chúng tôi trả tiền sòng phẳng”. Ông bèn gọi những chiếc ghe, chiếc gọ đang chở khách ghé lại đón chúng tôi chở qua sông.
Qua được bên kia sông, tôi gặp 2 trung đội do Trung Uy Phước dẫn đi hồi hôm đang ngồi nghỉ ở đó chờ chúng tôi. Trung úy Phước hỏi tôi:
– Đi xe sao giờ này mới tới.
– Đi xe mà chạy như rùa, thua đi bộ. Giờ này tới là may rồi. Anh tới lâu chưa?
– Cũng mới qua sông chừng nửa tiếng.
Ngồi nghỉ một lúc, chúng tôi lại lên đường. Đại đội đi hàng dọc, trung đội tôi vẫn bao chót.
Lệnh không cho dân chúng và lính các đơn vị bạn đi chung với TQLC. Họ bám theo sau, mong được yên ổn và hy vọng theo tàu với chúng tôi,Tổng Trừ Bị ưu tiên.
Bên này khác hẳn bên kia sông, có không biết bao nhiêu người, sang hèn, quan lính, giàu nghèo, tất cả mọi thành phần xã hội đều đổ dồn về đây, hàng chục thiết giáp, xe vận tải, xe hàng, có đến hàng trăm ngàn người náo động cả một vùng biển Thuận An.
Lệnh tạm dừng lại, Sao Mai cầm bản đồ chạy lên trước họp với ptiểu đoàn, rồi chạy về ra lệnh di chuyển nhanh lên phía trước không cho một người lạ nào lẫn trong hàng quân.
Chúng tôi tiếp tục đi nhanh hàng dọc, tách rời những người không phải là TQLC. Họ bám theo sau nhưng không được đi song song với chúng tôi. Vượt qua một quãng xa, chúng tôi được lệnh bố trí phòng thủ.
Trung đội tôi nằm kéo dài theo một bờ cát thấp, cách bờ biển 100 mét. Sát bờ làng, sau những rặng cây có một ngôi trường cũ, rêu đóng đen, hình như bỏ hoang từ lâu, cách vị trí trung đội tôi khoảng 200 mét.
Trung đội đào hố trên cát thật nhanh. Tôi lấy thuốc ra hút, nhìn ra biển xa. Biển hôm nay động vừa, những đợt sóng vẫn nối nhau vỗ vào bờ như tự thuở nào. Xa xa một chiếc tàu Hải Quân lớn nhấp nhô trên sóng nước.
Chợt tôi nhìn thấy khoảng 5 chiếc LCU đang từ ngoài khơi chạy vào bờ, nhưng không vào trong bờ mà cứ chạy vòng ngoài xa, như chờ đợi bãi đổ bộ an toàn.
10 giờ sáng, một Cọp Biển la lên: Việt Cộng! Rồi có những loạt M16 bắn về phía ngôi trường học bìa làng. Tôi quan sát thấy khoảng 10 tên lính CS, quân phục Kaki xanh, nón cối, có lẽ là một toán trinh sát quân chính qui Bắc Việt.
Mỗi khi lính VC xuất hiện nơi cửa sổ là Mũ Xanh nổ súng. Tôi phải bảo anh em đừng bắn bừa bãi, phải tiết kiệm đạn dược. Lính Cộng như khiêu khích, chạy ra nấp ở gốc cây nổ vài phát lại chạy vào trong trường ẩn nấp. Chúng tôi không có súng lớn, pháo binh thì gọi ai bây giờ.
Quay nhìn ra khơi, mấy chiếc LCU vẫn chạy vòng ngoài xa chưa chịu cặp vào bờ.
Quá trưa, Sao Mai Anh gọi tôi:
– Cậu cẩn thận kẻo ngộ nhận. Trung đội của Thiếu Úy Nghĩa đang chạy dạt về hướng cậu đó.
– Nhận 5 Sao Mai. Tôi chưa kịp lên tiếng thì Nghĩa gọi tôi:
– Toàn, tôi đang dẫn trung đội về phía anh, bảo binh sĩ đừng bắn lầm.
– Tôi biết rồi, nhưng anh nhớ phía trái anh có một tiểu đội VC trong ngôi trường cũ, đừng đi gần đó.
– OK tôi thấy rồi.
– Khi nào cách tôi 150 mét thì nằm lại liên lạc với tôi, VC vẫn bắn tụi tôi đấy.
Năm phút sau.
– Toàn, tôi cách anh khoảng trăm mét.
– Anh bắn ngang qua đầu tôi một băng M16 rồi vô. Tôi chỉ thị cho trung đội tôi biết rồi.
Tạch tạch tạch… trung đội Nghĩa chạy vào trong tuyến như một cơn lốc. Nghĩa chạy lại chỗ tôi, tay bị thương đã băng kỹ càng. Anh hỏi tôi:
-Đại đội ở đâu?
Tôi chỉ cho anh. Nghĩa dẫn trung đội lao đi, phút chốc đã mất dạng. Trong lúc này thì lính của tôi và VC vẫn trao đổi với nhau bằng đạn AK và đạn M16. tôi đang lo thì một TQLC la: Tao hết đạn rồi! Tôi gọi về đại đội. Tiếng Sao Mai buồn:
-Cậu biết đó, giờ này tôi đào đâu ra đạn cho cậu, nhớ bảo con cái tiết kiệm.
Tôi thở dài ngao ngán. Một vùng trời ảm đạm bao trùm lấy chúng tôi. Có phải giờ này số phận của chúng tôi đã được an bài!
Những chiếc LCU vẫn như đùa bỡn chạy vòng ngoài khơi. Cách chúng tôi chỉ khoảng 140 thước. Đám quân lẫn dân nằm ngồi chờ đợi kiên nhẫn. Những người lính gom nhặt đâu đó được chừng nửa nón sắt đạn M16, một trái lựu đạn và 2 trái M79, một người bò vào trao cho chúng tôi. Thế là quý rồi, chê khen gì nữa giờ phút này, chịu khó chùi sạch lắp vào băng.
Lần thứ hai, cũng lại một anh lính bộ binh bò tới trao cho chúng tôi 1/3 nón sắt đạn trộn cát. Cuối cùng một anh bò vào nắm trong tay chừng 6, 7 viên M16 đầy cát. Cả ba chuyến tiếp tế, ôi sao mà thảm hại!
Trong lúc này, tụi CS trong trường không bắn ra nữa. Tiếng súng tạm im.
Rảnh tay, tôi nhìn ra bãi biển. Một chiếc LCU đã ủi bãi cách tôi khoảng 250 mét. Hàng trăm người ùa chạy xuống không còn trật tự gì nữa, tất cả chen lấn la hét, chửi nhau, lính đủ loại chen với dân, và một số Cọp Biển được ưu tiên lên tàu trước.
Họ đã mệt mỏi trong chờ đợi, giờ này chỉ mong chen được một chỗ trên tàu, vì đó là hy vọng để sống thoát. Người lên trước vào trong lòng tàu, còn lại bám trên boong, bám vào thành tàu, níu vào những sợi dây xích đu đưa theo sóng biển nhấp nhô. Không còn chỗ nào chứa, thế mà vẫn còn hàng trăm người bì bõm bơi ra tàu. Từ xa nhìn như đàn kiến bu vào cục đường, chỉ còn nhìn thấy kiến mà thôi.
Chợt tôi nghe một tiếng nổ của đạn M72, một làn khói đen bay theo đầu đạn một đoạn ngắn, trái đạn bay về phía chiếc LCU mắc cạn, nghẹt cứng người, nổ tung, những thân người đang bám vào thành tàu rơi xuống biển, trôi dập dềnh, tiếng la khóc vang trời. Số người còn sống bây giờ lại phóng xuống biển bơi vào bờ.
Trong lúc này, tôi nghe có tiếng đề-pa của súng cối. Từng trái cối 60 ly chụp xuống vị trí trung đội 2. Địch đã vận chuyển tới vài khẩu cối 60 ly và khá nhiều đạn. Chúng pháo liên tiếp hàng chục loạt phủ đầu, những tia lửa đỏ cạnh hố cá nhân, khói làm cay chảy nước mắt. Trái nổ gần 2, 3 thước, cát ào xuống hố cá nhân. Chúng tôi như bị chôn trong cát. Vừa quan sát chúng tôi lấy mũ sắt xúc cát thảy lên miệng hố.
Chúng tôi như cá nằm trên thớt, lúc trước pháo binh đã dập tắt những khẩu cối này dễ dàng mau chóng. Còn bây giờ, chúng tôi giơ đầu chịu trận, Cọp Biển đã bị trói tay trói chân. Một tiểu đội trưởng báo cáo:
– Thiếu úy, thằng Bé và thằng Đện chết rồi.
Binh nhất Nguyễn Văn Bé xạ thủ M79 và B1 Nguyễn Văn Đện phụ xạ thủ nằm chung một hố và một trái lọt vào đưa hai đứa đi luôn.
Đện hay mắc cỡ, thẹn thùng như con gái, Bé có tài bắt rắn. Chưa một con rắn nào dữ tới đâu thoát khỏi tay Bé. Có lần tôi hỏi Bé:
– Anh bắt rắn có bùa không?
– Không thiếu úy.
– Rắn cỡ nào cũng bắt được sao?
– Càng to càng tốt.
Tôi cảnh giác Bé:
– Trung đội không có thuốc trị nọc rắn độc, nếu bị nó cắn là chết chắc.
– Không sao đâu thiếu úy. Rắn cắn em chỉ xoa vài cái là hết. Tôi hơi ngạc nhiên, anh giấu tôi điều gì, nhưng không hỏi nữa, quả thật anh bắt rắn tài như những người bắt rắn có bùa ngải mà tôi nghe nói.
Thạch Ranel!, Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Đện, ba chiến hữu đã hy sinh những ngày cuối cùng, xin hãy yên nghỉ nơi vĩnh hằng, hình ảnh các anh không phai mờ trong lòng chúng tôi.
Dứt pháo tôi cho chuyển xác hai anh về đại đội, may ra thi hài anh được đưa về cho thân nhân mai táng. Khi kéo xác khỏi hố, tôi thấy Đện bị gẫy xương cổ, cái đầu anh lúc lắc, Bé bị vỡ nát ngực, cánh tay trái gãy chỉ còn dính chút da, bộ quân phục màu sóng biển đẫm máu và cát…
Địch ngưng pháo, có lẽ hết đạn. Tôi nhìn ra biển. Những chiếc LCU đã chạy về đâu. Chiếc tàu Hải Quân cũng ra xa hơn. Vùng biển đầy người lúc trước, bây giờ vắng lặng. Trời tối dần, ngôi trường có địch đã chìm trong bóng đêm. Tôi ngồi trong hố cá nhân đầu trống rỗng, thân xác như tê liệt. Chợt người hiệu thính viên gọi tôi:
– Ông thầy, Sao Mai gọi lên họp…
Tôi gọi Trung Sĩ Tám dặn dò đôi điều rồi lững thững bước xuống gò cát, đi vài bước bỗng có tiếng lên đạn và tiếng nói của một anh lính ngoài binh chủng:
– Đứng lại, không được đi nếu không tôi bắn.
Thật là mỉa mai, cái đám chết nhát nằm chết dí trên cát chỉ chờ chạy lên tàu, mà giờ này uy hiếp tôi. Tôi vẫn bước đi la to:
– Tôi đi họp, ông nào ngon cứ bắn.
Trung sĩ Tám cũng la lớn:
– Thiếu úy đi họp, mấy ông đừng làm ẩu.
Tôi lững thững đi trong tiếng gió và tiếng sóng biển, không tiếng người.
Lều của đại đội trưởng nằm sau một ụ cát. Một tia sáng yếu ớt từ bóng đèn nhỏ, tôi kéo vải lều chui vào. Tất cả đủ mặt tôi là người đến sau cùng. Bầu không khí nặng trĩu bao trùm lấy tôi. Từ Đại Úy Ngô Kim Anh, Đại Đội Trưởng ĐĐ 2, Trung Úy Lê Kim Phước, đại đội phó, các trung đội trưởng, Thiếu Úy Lê Tấn Huấn trung đội 1, Th/Úy Lương Văn Nghĩa, trung đội 3, Th/Úy Vân, trung đội 4, ánh mắt mọi người đầy lo âu, thất vọng, tôi không nhìn được mặt tôi, nhưng chắc cũng như mọi người, chán nản và tuyệt vọng, chúng tôi như cá nằm trong lưới mất rồi !
Mọi người nhích ra một chút, nhường chỗ cho tôi ngồi trên cát.
– Th/Úy Toàn đến rồi, thế là đủ. Chúng ta đi ngay vào nội dung buổi họp.
Lướt nhìn mọi người, Sao Mai Anh nói với giọng thật buồn:
– Tôi mới họp trên tiểu đoàn về. Theo tinh thần buổi họp thì tối nay nếu từ 10 giờ đến nửa đêm mà không có tàu vào đón tiểu đoàn, chúng ta sẽ phải buông súng. Mọi người tự tìm phương tiện về với gia đình nếu được.
Nét mặt thất vọng buồn nản hiện rõ trên mọi khuôn mặt. Tôi chợt nghĩ chưa kịp nói thì Trung Úy Phước nói trước:
– Sao mình không mở đường máu vào Lăng Cô rồi vượt đèo Hải Vân vô Đà Nẵng? Chúng tôi nhao nhao đồng ý, Sao Mai chậm rãi hỏi:
– Các cậu coi lại tình trạng súng đạn của mình có đủ để đánh không?
Tôi chợt tỉnh, câu hỏi đánh vào yếu huyệt chúng tôi.
– Hết rồi!.
– Bây giờ đánh mở đường máu, ai yểm trợ, ai tiếp tế lương thực đạn dược, ai tải thương? Vô ích thôi, máu binh sĩ sẽ đổ nhiều, rất nhiều !
Chúng tôi im lặng, cũng có nghĩa là chúng tôi đồng ý với các Sao Mai, các Đại Bàng.
– Còn ai có ý kiến gì không?
Chúng tôi buồn bã nhìn nhau cùng lắc đầu.
– Tan họp.
Sau này ở trong trại tù Cộng Sản, chúng tôi ngồi ôn lại chuyện xưa, thì tất cả cùng đồng ý là các Sao Mai, các Đại Bàng đã có một quyết định thật sự đúng đắn. Xin cám ơn Đại Bàng, cảm ơn Sao Mai đã có quyết định sáng suốt trong những giây phút cuối cùng!
Trên đường trở lại trung đội, đầu óc tôi nghĩ ngợi lung tung. Dân vùng Thuận An này đã phá hết ghe xuồng, giấu máy, giấu tàu, chẳng còn cách nào thoát ra khơi, trừ khi hóa thành cá. Tôi tập họp các tiểu đội trưởng, nói lại những điều không muốn nói. Mọi người cũng có ý nghĩ phá vòng vây, mở đường máu, nhưng đạn hết rồi, lấy gì mà đánh. Tan hàng bớt đổ máu. Hãy cho mọi người hiểu như vậy, ai may mắn tìm về với gia đình.
Tôi ngồi dựa vào mô cát, lấy thuốc ra hút. Nhìn ra biển, con tàu hy vọng đã xa tít ngoài xa. Chuyện có tàu vào đón 10 giờ hay 12 giờ, chỉ là vu vơ, hay chỉ là một kế hoạch được thảo ra do thượng cấp chỉ thị, mà thuộc cấp vì nhiều khó khăn không thi hành được.
Hút xong điếu thuốc, tôi ngồi vào hố cá nhân với người hiệu thính viên, anh hỏi:
– Ông thầy, có gì lạ không ?
– Sau 12 giờ đêm mà không xuống được tàu thì buông súng, chờ VC tới bắt.
Anh ta giật mình hoảng hốt:
– Thiệt hả ông thầy?
Tôi vỗ vào vai anh:
– Thiệt đó! Các Sao Mai, các Đại Bàng và còn cả Tiểu Đoàn Hùm Xám và tôi nữa còn không sợ, anh lo quá làm gì? Hãy phú cho số mạng đi.
Chúng tôi im lặng, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Đầu óc tôi trống rỗng, trí óc tê liệt. Thôi đành buông xuôi tất cả. Thế cờ đã vào nước bí, chờ đối thủ chiếu tướng. Mình đầu hàng!
Chợt người hiệu thính viên hốt hoảng:
– Ông thầy, sao người ta chạy hết rồi. Tôi bước lên khỏi hố cá nhân, người lính truyền tin lên theo. Tôi nhìn xuống thác người hàng ngang chạy dọc theo mé biển về hướng Nam. Tôi có cảm tưởng như họ đang bị một con quái vật khổng lồ cuốn hút vào hang sâu vô tận… Chỉ nghe tiếng chân sầm sập trên cát.
– Liên lạc với đại đội, tôi nhắc người hiệu thính viên. Anh gọi nhiều lần, không có ai trả lời:
– Đại đội chạy rồi, không liên lạc được ông Thầy.
Bây giờ gần nửa đêm, tôi biết giờ nghiệt ngã đã điểm. Cả trung đội không lệnh mà tề tựu quanh tôi, không thiếu một ai. Tôi thật sự xúc động, niềm tự hào lầm lẫn tự ái dâng lên. Tôi dằn cảm xúc nói:
– Các bạn nghe đây, theo chỉ thị thượng cấp, chúng ta hết nhiệm vụ từ lúc này. Trung Đội 2 tan hàng. Tất cả buông súng.
Nói xong, tôi ném mạnh khẩu colt ra thật xa. Cả trung đội lần lượt vứt súng xuống bãi cát.
– Các bạn. Thôi chia tay. Tôi mong anh em đừng làm điều gì thiếu suy nghĩ, hãy cố gắng bằng mọi cách tìm về với gia đình, về với những người thân yêu, thoát được người nào hay người đó.
– Đi đâu thiếu úy ?
– Chạy theo họ, tới đâu hay đó!
– Thiếu úy đi đâu, em theo đó.
Tôi im lặng đi nhanh, vào dòng người vẫn nối nhau chạy, cả trung đội nhập vào theo. Canh bạc cháy túi rồi. Tôi như người máy, chân bước những bước chân vô định theo thác người trôi về Nam. Không biết bao lâu, tôi bừng tỉnh, nhìn bên cạnh, người lính truyền tin vẫn còn đeo chiếc máy PRC 25, đi bên tôi. Tôi nắm anh lại:
– Giờ này mà còn cõng cái của nợ này làm gì?
Anh đáp trong tiếng thở dồn dập:
– Ông thày chịu trách nhiệm nghe!
Trời ơi, tôi dở khóc dở cười cho cái ngây thơ của người lính Cọp Biển của tôi.
– Ừ, tôi chịu hết. Tôi phụ anh ném máy xuống biển.
Ném máy xong, tôi móc cái bóp nhỏ, trong bóp còn 2.000$, một căn cước quân nhân, giấy chứng chỉ tại ngũ, một cánh phượng vĩ ép thành hình con bướm với dòng chữ Forget Me Not của người nữ sinh Huế tặng tôi trong thời gian quen nhau. Tháo luôn cặp thẻ bài, tôi chôn tất cả xuống cát biển Thuận An đêm nay.
Quanh tôi còn chừng 5 người, chúng tôi lại chạy. Tôi như cái xác không hồn, hay người mộng du, lúc tỉnh, lúc như mê. Không biết bao lâu, tôi lại tỉnh nghe tiếng gọi thân quen:
– Thiếu úy đâu mày?
– Đang chạy phía trước đó. Tôi đứng lại. Thêm một lần nữa, tôi hãnh diện, tôi cảm động, tôi vẫn còn là ông thày, còn là thiếu úy trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 7/TQLCVN. Trung đội không vũ khí, bị xé nát ra theo dòng thác người, bây giờ lại tề tựu chung quanh tôi. Tôi nói theo thói quen:
– Trung đội đủ chứ?
– Dạ đủ cả, không vắng mặt ai.
Tôi cảm thấy lòng ấm lại. Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh đêm nay. Có tiếng đề nghị: Chúng ta nắm tay nhau cùng chạy sẽ không bao giờ lạc nữa. Tôi không có ý kiến, có ích lợi gì không, nắm tay nhau chạy về đâu? Tuy vậy, tất cả cũng tay nắm tay thả trôi theo dòng người đi tới.
Cứ thế chúng tôi đi. Tôi lại mộng du, không nghe, không nhìn thấy gì rõ ràng cả. Thỉnh thoảng nghe có tiếng nổ lựu đạn của một vài Cọp Biển không muốn khuất phục Cộng quân, ngồi chụm lại, rút chốt, tự hy sinh.
Tôi buông trôi, nghe tiếng nổ mơ hồ, thoáng nghe tên quen những người vừa tử vẫn, trước và sau tôi chỉ là những bóng mờ lung linh, Trung Đội 2 vẫn nắm chặt tay nhau cùng chạy. Cuối cùng trong vòng trại giam tù binh của Cộng Sản.
Đó là rạng ngày 26 tháng 3, năm 1975.
Seattle April 3rd 2003
Mũ xanh Lê Mạnh Toàn


Like
Comment

No comments:

Post a Comment