Tuesday, March 6, 2012


Thư gửi các thành phần gây rối ở hải ngoại 

Tạp Ghi Huy Phương

Nhu cầu không thể thiếu của chúng ta trong thời đại hôm nay là mỗi ngày phải mở hộp thư internet để liên lạc với bạn bè, thăm hỏi, biết đến tin tức nhau cũng trao đổi cùng nhau những điều tốt đẹp.
Ngày xưa các cụ bảo: “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc,” nhưng ngày nay trong Internet chúng ta tìm được mỗi ngày hàng triệu điều mới lạ từ hình ảnh, âm nhạc, thi ca, kiến thức trong mọi lĩnh vực mà vì tình bạn bè, quen biết, nhiều người đã có nhã ý hằng ngày chuyển đến cho chúng ta. Nơi chỗ ngồi mỗi ngày của chúng ta hoàn toàn trống vắng và tựa như có một nỗi cô đơn khi chiếc máy computer của chúng ta đang gặp nạn trơ ra một khuôn mặt vô hồn hay bệnh tật phải tạm xa nhà đi một nơi khác.
Từ ngày chiếc máy computer ra đời và nguồn Internet đến với mọi nhà, bộ mặt thế giới đã đổi thay, phải nói là thế giới nằm gọn trong bàn tay chúng ta, không còn khoảng cách và cũng không có gì bưng bít, giấu kín được. Theo tài liệu năm 2010 của ITU (Internationnal Telecommunications Union), trên thế giới có 5 quốc gia sử dụng Internet cao nhất theo tỷ lệ dân số, theo thứ tự là Anh (82%), Nam Hàn, Ðức, Nhật và Mỹ (78.2%.) Nơi có dân số đông nhất thế giới là Trung Cộng thì chỉ có 36.3% dân số sử dụng Internet, đông dân thứ nhì là Ấn Ðộ chỉ có 8.4%. Trên thế giới có gần 7 tỷ người dùng Internet mỗi ngày. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại đông nhất hiện đang ở nước Mỹ, đương nhiên số người sử dụng không ít, nhưng trên net, chỉ thấy quanh quẩn một số người “nổi tiếng,” “quen tên,” “nhẵn mặt,” mỗi ngày thường “tống” lên net những thứ rác rưởi dơ bẩn khiến cho người có lòng liêm sỉ cảm thấy hổ thẹn chung cho danh từ đồng hương, đồng bào cho đến đồng môn, đồng ngũ...
Trước hết Internet là nơi để người ta chống phá, bêu riếu tôn giáo. Từ mấy năm qua, Phật Giáo cũng như Thiên Chúa Giáo, nhất là nhân biến cố 1 tháng 11, 1963, nên cứ đến những ngày đầu tháng 11 dương lịch mỗi năm, được bên này hay bên nọ, đem lên diễn đàn, mổ xẻ, nhiếc móc, kể tội kể tình nhau đủ lời. Chia rẽ tôn giáo là một tội nặng nhất để làm suy yếu sức mạnh của một dân tộc, trong giai đoạn này mà có người, trong nỗ lực chống Cộng còn phân biệt người này là đạo này, người kia là đạo khác. Ở đây chúng tôi không phê phán chuyện phải trái của những biến cố quân sự và chính trị trong lịch sử, không đứng về phía này hay phe kia, nhưng tệ hại nhất là chửi nhau bằng đủ thứ lời chưa đủ, người ta còn “hàm huyết phún nhân” dựng những câu chuyện tày trời để vu oan đến nhiều nhân vật, như bịa ra những câu chuyện giữa Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và bà Ngô Ðình Nhu, giữa Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu và bà Tuần Chi.
Thứ đến là các cuộc tranh chấp bầu bán của các hội đoàn, đoàn thể đã xẩy ra trong cộng đồng người Việt của chúng ta không phải là ít. Sau cùng là những vụ vu cáo, mạ lỵ cá nhân mà người ta không ngần ngại bôi nhọ, đổi trắng thành đen, dùng những chứng cớ vu vơ không có một phần trăm sự thật để hạ nhục đối thủ. Nghe hoài cũng phải nửa tin nửa ngờ, người đọc đâm ra hồ nghi, mất lòng tin như mẹ chuyện thầy Mạnh Tử ngày trước. Lý luận “không có lửa sao có khói,” nói hoài cũng phải tin, được sử dụng kiên trì để đánh phá đối thủ.
Trong tinh thần “giỏ cua cộng đồng,” thấy ai hơn mình thì đem lòng ghen tức, triệt hạ, đánh phá cho đến cùng, dùng hết “bát ban võ nghệ,” “mười thành công lực” mà xuất chiêu! Người không vững lập trường chẳng biết đâu là chân là giả, ai là bạn ai là thù!
Trong tất cả ba địa hạt, tôn giáo, đoàn thể và cá nhân, “chụp mũ” cộng sản là phương thức, thủ đoạn được người ta dùng nhiều nhất trên Internet. Hầu hết chúng ta đều là người tị nạn cộng sản phải bỏ nước ra đi, không ai không thù ghét cộng sản, nên hô hoán, gán ép danh từ cộng sản cho người khác là món đòn độc hại nhất. Trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư có kể chuyện một người cỡi ngựa qua làng bị con chó chạy theo cắn sủa mãi, bực mình, y bèn lập mưu la lên rằng: “Chó dại! Chó dại!” Lập tức dân làng đổ xô ra giết chết con chó. Người ta dùng kỹ thuật “chụp mũ” cộng sản đến đỗi có lúc nhìn quanh trong cộng đồng người Việt chúng ta, giật thót mình thấy không còn ai là không cộng sản. Nhưng quả là đến hôm nay, trò “chụp nón cối” cho địch thủ không còn hữu hiệu nữa. Chụp mũ cộng sản cũng là một lối vu cáo, đổ tội không được chấp nhận gây chia rẽ, làm suy yếu hàng ngũ có lý tưởng chống Cộng của chúng ta ở hải ngoại. Lối vu cáo này dành cho cá nhân còn có thể hiểu được, người ta còn viết trên “net,” gọi đích danh một ngôi chùa là “một ổ Việt Cộng!” chỉ vì thù ghét, tranh chấp mà không nêu ra một bằng chứng nào. Nếu cứ mỗi điều bị xúc phạm, chúng ta vì danh dự phải đưa nhau ra tòa thì còn gì là bộ mặt của cộng đồng tỵ nạn Việt Nam nữa.
Có những vấn đề tế nhị hay gai góc nếu người đọc thấy quan tâm, thì nên từ tốn phân tích, thảo luận với nhau một cách đàng hoàng, chứ không phải chơi trò “cả vú lấp miệng em” đổ thùng phân vào Internet, vào trận là đã chửi phủ đầu. Ngay cả tác giả những bài viết gây bất lợi cho chế độ chuyên chế ở trong nước, cũng được chụp mũ là “đặc công VC nằm vùng,” làm cho người ta có cảm tưởng rằng ở hải ngoại luôn có một tổ chức của CS nhằm đánh phá và triệt hạ những ai có tinh thần chống Cộng.
Trên Internet của người Việt hải ngoại hiện nay mỗi ngày chúng ta phải đọc những chữ thô tục, bẩn thỉu nhất, những bộ phận sinh dục nam nữ được đem ra dùng, những phần thối tha nhất của con người được đem ra đổ lên đầu nhau không hề khoan nhượng, thương tiếc. Chúng ta vẫn không chấp nhận lối sống hay lời ăn tiếng nói gọi là “vô văn hóa” nhưng sao hải ngoại chúng ta lại có thể viết lên những lời, những chữ mà chúng ta không bao giờ muốn cho con cái chúng ta dùng đến và đỏ mặt xấu hổ khi nghe người khác nói. Nói dại, nếu con cháu quý vị đọc phải những lời như vậy, do chữ nghĩa nhờ công lao học hành của quý vị viết ra, chúng sẽ nghĩ thế nào về “văn hóa” các đấng sinh thành? Vậy mà chúng ta gặp nó hằng ngày bằng tiếng Việt yêu quý của chúng ta trên “in box” của mọi nhà. Nói là “thư rác” cũng còn quá nhẹ, vì có những thứ thối tha và dơ bẩn hơn cả rác vẫn hằng ngày hiện diện trước mắt chúng ta, dù đã mỏi tay cho vào “spam” hay “delete” mà vẫn không hết!
“Ném đá giấu tay” vẫn là chuyện thường ngày. Làm một địa chỉ hộp thư để viết thư nặc danh đâu phải là chuyện khó, cái khó trong lòng ta là liêm sỉ có cho chúng ta làm điều đó hay không? Vì sao những quân ăn cướp nhà băng phải đeo mặt nạ? Vì chúng sợ bị nhận diện. Nhưng những tấm mặt nạ này liệu che giấu được những khuôn mặt thật của chúng được bao lâu. Những “nick name” này tung hứng cho nhau, bàn tay phải viết ra và được bàn tay trái chuyển đi, đưa người nhận vào một trận địa mù mịt hận thù, gian trá.
Người Việt ở hải ngoại đã bỏ nước ra đi, ai cũng mang tinh thần chống Cộng, nhưng thay vì dùng internet như một vũ khí tranh đấu, đem sự thật về cho người trong nước, chuyển lửa cho quê hương, thì chúng ta dùng lại internet để chửi bới nhau tận tình, bôi bẩn khuôn mặt của nhau, chỉ làm lợi cho kẻ thù. Theo một thống kê mới đây thì số người sử dụng Internet ở Việt Nam khá cao, có 32.3% dân số, nên mỗi ngày nếu người dân trong nước đọc được những tin tức xác thực từ thế giới bên ngoài về chuyện tranh đấu cho dân chủ thì cũng thất vọng vì “trận chiến” Internet làm xấu đi khuôn mặt hải ngoại.
Chính ông Lý Ðông ở Hà Nội, ngày 18 tháng 2 nhân vụ Việt Khang đã có những suy nghĩ về chuyện Internet ở hải ngoại trong một bài nhan đề là: “Thư gửi các thành phần gây rối ở hải ngoại” như sau: “Vì không thể hành động chống Cộng trực diện, vì khó có thể về Việt Nam biểu tình bởi sự ngăn cấm của bạo quyền hiện tại, tôi thiết nghĩ ở hải ngoại, ngoài việc chống Cộng vận động về truyền thông, chuyển lửa về quê hương, hay đi biểu tình... thì quý vị cũng có những việc làm rất hiệu quả về phương diện vận động quốc tế về nhân quyền và gây áp lực về viện trợ kinh tế và giao thương lên nhà cầm quyền CSVN.”
“...Tuy nhiên bên cạnh đó, một số người vì những nghi kỵ cá nhân, hay vì tay sai của cộng sản... đã có những lời lẽ không mấy trong sạch, với những thắc mắc trái với con đường đấu tranh, quy chụp người tích cực đấu tranh, làm trái với niềm tin của người yêu nước đang ngồi tù mà nhạc sĩ Việt Khang là một...”
Hai tiếng “gây rối” của một người trong nước quả là còn quá nhẹ, cho những người trong cộng đồng hải ngoại, mỗi ngày đang chăm chỉ đổ những thứ dơ bẩn vào những hộp thư sạch sẽ của chúng ta.

Cầu Cho
Tể Tướng Sống Lâu!
                                                                  Nguyễn Thanh Ty
Thời Hy Lạp cổ đại, lúc bấy giờ vua Dennys là một bạo chúa đang trị vì, cai trị dân một cách tàn bạo. Đời sống dân chúng lầm than, điêu đứng. Lòng dân oán vua đến tận trời. Ai ai cũng mong cho vua chóng chết. Duy chỉ có một bà lão ở thành Syracuse , tỉnh Sicily , sáng nào cũng vào giáo đường cầu nguyện cho bạo chúa sống lâu. Có khi lại còn vái lạy cả thần linh nếu làm chết vua thì cho bà chết thay cho hôn quân.
Vua nghe thế lấy làm lạ, cho vời bà lão vào cung hỏi cho rõ lý do. Bà lão thưa:
-Tôi nay hơn tám chục tuổi, đã sống qua ba đời vua. Đời vua thứ nhất là một hôn quân vô đạo. Dân chúng sống vô cùng khổ sở. Ai nấy đều nguyền rũa cho vua mau chết, cho nước thoát khỏi hôn quân. Sau đó, có kẻ hành thích vua chết rồi lên kế nghiệp. Ngờ đâu tên này còn tàn bạo hơn vua trước. Dân lại hết lời oán than nguyền rủa. Chẳng bao lâu, vua này bất đắc kỳ tử thì bệ hạ nối ngôi, thiên hạ lại lầm than điêu đứng nhiều hơn các đời vua trước nữa. Cứ thế mà suy, đời vua sau còn tàn ác hơn vua trước nên tôi cầu nguyện cho bệ hạ sống trường thọ là để trì hoãn cuộc thay đổi được ngày nào hay ngày ấy. ( Theo Nguyễn duy Cần)
Câu chuyện thuộc loại “Cổ học tinh ma” trên tưởng chừng như người đời phịa ra để răn dạy các đấng “Con Trời” mỗi khi được ngồi chễm chệ trên ngai vàng chớ có nên “vô đạo, vô hạnh” quá mà bị dân chúng nguyền rũa muôn đời, ô danh sử sách.
Không ngờ chuyện xưa nay lại có thật, đang xảy ra tại đất nước An Nam vào thế kỷ 21 hiện đại, đúng vào cái năm đảng Cộng sản An Nam chuẩn bị truyền ngôi cho vua mới.
Nước An Nam, kể từ ngày Bính Ngọ, tháng Canh Thìn, năm Ất Mão (30/4/1975) Rợ Hồ phương Bắc tràn qua sông Bến Hải, xâm lăng, đánh cướp miền Nam đến nay, trãi qua mấy đời vua trị vì. Vua sau ác ôn côn đồ hơn vua trước gấp bội phần, làm cho dân chúng trong nước ngày càng nghèo khổ, kiệt quệ, đói rách lầm than không kể xiết. Người dân ai ai cũng đều ta thán, mong cho chế độ mau sụp đổ, vua chóng chết để được thoát cảnh hôn quân vô đạo.
Tể tướng Nguyễn Tấn Dũng hiện đang nắm quyền bính to nhất nước lại càng bị dân chúng nguyền rũa hết lời. Giới sĩ phu ba ngàn người dâng sớ  yêu cầu phải từ chức “về trời vui thú điền viên”, đánh bạn với anh Sáu Phong chém gió, nói lịu.
 Trong khi đó, tại bùng binh Sài Gòn, lại có một bà lão Bắc kỳ răng đen, đầu vấn khăn mỏ quạ, áo dài tứ thân chỉnh tề, ngày ngày thắp nhang cung kính khẩn vái tứ phương, tám hướng cầu Phật, Chúa độ trì cho Tể tướng Tấn Dũng sống lâu trăm tuổi để muôn năm trường trị đất nước, thống nhất giang hồ, tiếp tục chăn dắt lê dân Nam Man ngu dốt.
Người đi đường qua lại thấy thế lấy làm lạ lắm. Một số hiếu kỳ đến gần xem, cứ nghe bà lão luôn miệng khấn câu: “Cầu cho bạo chúa sống lâu! Cầu cho bạo chúa sống lâu!”.
Có kẻ không nhịn được tò mò, hỏi:
-Thưa Cụ, hiện giờ cả nước tám chục triệu dân, ai ai cũng đang nguyền rũa cái bọn cộng sản ác ôn côn đồ, lưu manh cướp cạn đang ăn trên ngồi trốc trên đầu nhân dân mau bị thần ôn dịch sái đậu, thần sét Thiên Lôi đánh ngay lăng Ba Đình cho chết hết cái lũ phản dân hại nước, đầu têu là tên Thái thú Nguyễn Tấn Dũng, sao riêng mình Cụ lại cầu khẩn cho chúng sống lâu trăm tuổi là cớ làm sao? Thế Cụ không biết rằng tình hình đang nguy ngập, đất nước mình đang mất dần về tay Tàu bởi lũ này sao?
Bà lão ngưng khấn, cắm nén nhang xuống đất rồi thong thả đáp:
-Tôi năm nay 95 tuổi, tuổi gần đất xa trời. Tôi đã sống trãi qua nhiều đời vua chúa. Từ đời cha cho đến đời con, đời cháu, chúng nó nối nhau cai trị rồi truyền ngôi cho nhau ra sao… tôi đều biết hết thảy. Vì vậy, ngày nay tôi mới cầu mong cho “Đám bạo chúa này sống lâu” để tôi còn có thể sống thêm vài năm nữa đủ trăm tuổi mà an tâm về với ông bà. Nếu giờ này, bọn vua chúa chúng nó bỗng lăn đùng ra hộc máu, chết một lượt thì bọn khác tức khắc lên thay, lúc đó không những tôi chết liền mà quí ông, quí bà đây chưa chắc đã có thể giữ an toàn được tính mạng.
- Cụ nói như thế thì có quá lời không?
- Các ông bà hãy còn ít tuổi, lại là người miền Nam tính tình thật thà, tâm can trung hậu hay mũi lòng, dễ dãi tin người nên suốt 35 năm bị chúng nó bịp mà vẫn còn có người tin theo lời ngon, tiếng ngọt dụ dỗ của chúng, nhiều nhất vẫn là đám ở hải ngoại, bị chúng lừa gạt đôi lần, ba lượt đến nỗi mất hết gia sản, gia đình tan nát, chồng vợ cha con ly tán, thân lại vướng vòng tù tội.
-Vậy thể nào Cụ nói rõ cho chúng tôi biết đôi điều để phòng tránh về sau được không?
-Này nhé! Cứ lấy cái thời điểm ông Hồ cướp chính quyền của vua Bảo Đại năm 1945 làm cái mốc mà tính đến nay thì sẽ thấy rõ cái chế độ, cái chính sách gian trá bịp bợm của chúng đáng sợ, đáng ghê tởm đến chừng nào. Cái đận phát động phong trào kêu gọi, xúi giục chúng tôi, những nông dân miền Bắc đói khổ, vùng lên cướp chính quyền, ông Hồ bảo rằng đất ruộng của bọn địa chủ cường hào sau khi cướp được, tất cả sẽ là của nông dân nên chúng tôi liều mạng, tranh nhau theo ông ta  đi ăn cướp.
Lúc cướp xong, ông Hồ lại bảo “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân làm chủ”. Chúng tôi tin lời nên rất “phấn khởi hồ hởi”. Nhưng sau đó, ông theo lệnh của Nga, Tàu thi hành chính sách “Cải cách ruộng đất”, nói là để chia ruộng cho nông dân. Nghe nói thế ai ai cũng mừng. Nhưng thực tế, đảng cộng sản của ông vơ hết đất đai, thu hết thóc lúa giao nộp cho quan thầy Tàu, Nga. Ai phản đối đều bị vu là địa chủ, phản động, bị xử tội chết. Bà Nguyễn thị Năm, ân nhân của các ông Hồ, Duẫn, Giáp… đã nuôi giấu các ông ấy khi bị Pháp truy lùng bắt bớ  lại là người bị xử bắn đầu tiên để thị oai chính sách.
Song song với chính sách “Cải cách ruộng đất” là chủ trương “Cách mạng văn hóa”. Đó là chủ trương “ngu dân”. Thành phần trí thức, một trong bốn mục tiêu “Trí, Phú, Địa Hào” đều bị tiêu diệt, đào tận gốc, trốc tận rễ. Trí thức là mối nguy hại đáng sợ cho chủ nghĩa cộng sản, cần phải tiêu diệt trước tiên. Cộng sản chỉ dùng bọn ngu dốt, chăn bò, chăn trâu, du thủ du thực làm cán bộ, đội trưởng để dễ sai khiến. Thành phần trí thức bị miệt thị là “không đáng giá cục phân” và bị lưu đầy, ngược đãi cho đến chết. Loại trí thức hèn mạt, vô liêm sĩ thì chấp nhận khom lưng, cúi đầu quị lụy làm gia nô, viết văn, làm thơ ca tụng chúng để chúng thí cho miếng cơm thừa sống ngắc ngoãi qua ngày. Còn dân chúng thì bị chúng cai trị bằng cách thắt bao tử, sống cầm hơi qua chế độ bao cấp “tem phiếu” để phân phối thực phẩm hàng tháng theo qui định tối thiểu. Ai tỏ ra chống đối thì chúng cắt “tem phiếu” cho chết đói. Mọi sinh hoạt mua bán, đổi chác lúc xưa, nay bị cấm tuyệt.
- Một chế độ sắt máu như thế thì dân chúng miền Bắc họ sống làm sao được?
-Ấy, chính vì thế mà khi ông Hồ với thực dân Pháp âm mưu chia nước An Nam ta ra làm hai theo hội nghị Giơ Neo bên Tây để dễ bề cai trị thì cả triệu người miền Bắc mới có cơ hội chạy trốn ông Hồ, chạy trốn cái chế độ bất nhân, khốn nạn ấy, đùn lên tàu há mồm, di cư vào Nam lập nghiệp, xây dựng lại cuộc đời ấm no, tự do dưới sự bao dung, giúp đỡ của ông Diệm và nhân dân miền Nam.
-Chỉ có một triệu người thôi à? Sao tất cả không đi hết để thoát khỏi gông cùm của chúng?
-Ra đi đâu phải là dễ. Một phần, đa số là các vùng nông thôn xa xôi thì bị bọn cán bộ đe dọa, ngăn cấm đủ mọi cách không cho đi. Một phần, thì không nỡ bỏ mồ mả tổ tiên, ngôi nhà, mãnh vườn họ đã mồ hôi nước mắt công lao gầy dựng mà ra đi. Đa số quyết bỏ tất để ra đi là người ở thành thị. Họ ra đi với hai bàn tay trắng cũng giống như tình cảnh người miền Nam sau năm 1975, cả triệu người liều chết trên biển để ra đi vậy. Và gia đình tôi một nửa chạy trốn ông Hồ, di cư vào Nam, một nửa ở lại để giữ gìn nhà cửa, mồ mả ông bà. Cái cảnh phân ly, chia lìa này hầu như gia đình miền Bắc nào cũng có.
- Nhưng rốt cục thì Cụ cũng không chạy thoát khỏi tay ông Hồ!
- Vâng! Cái ngày 30 tháng 4 năm 1975 cả gia đình tôi vô cùng đau khổ, đã khóc hết nước mắt, đã gào khản cả hơi: “Ối ông Hồ ơi là ông Hồ! Chúng tôi đã quá sợ ông mà phải lánh nạn chạy vào Nam hai chục năm nay. Thế mà ông vẫn không buông tha cho chúng tôi, ông vẫn cứ dai như đĩa đói bám theo làm khổ chúng tôi. Ới ông Hồ ơi là ông Hồ!”.
- Nhưng thưa Cụ, chúng tôi lại thấy ngày ấy, đám người Bắc ào ạt đổ xô vào Nam với quyết tâm bốn “V” là  VÀO, VƠ, VÉT, VỀ, chỗi cùn, rế rách gì của miền Nam cũng đều được bọn họ trân quí chở kìn kìn vể Bắc mà.
- Ấy, thì cái bọn chết đói mấy chục năm đấy mà! Ở ngoài đó, bọn chúng bị tuyên truyền là miền Nam bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, dân chúng sống khổ lắm, khổ đến nỗi phải ăn cơm bằng cái mũng dừa đấy, miền Bắc phải mau mau vào giải phóng miền Nam để cứu dân. Nhưng bí mật bên trong thì cái bọn chính trị viên lại thầm thì bảo nhỏ rằng “Miền Nam trù phú, giàu có lắm. Cố mà vào Nam cho bằng được. Của cải tài sản, nhà cửa, ruộng vườn trong Nam cướp được đều là của các đồng chí đấy”. Y hệt như ông Hồ lừa chúng tôi năm 1945. Do đó mà đám học trò 14 – 15 tuổi non choẹt, chưa ráo máu đầu đã đua nhau vào bộ đội để được đi B, vượt Trường Sơn đánh Mỹ. Năm đó là Tết Mậu Thân. Trận đó chưa thấy bọn chúng cướp được cái gì cả, chỉ thấy chết bỏ xác oan uổng mấy chục ngàn đứa. Đi mười chết hết chín.
Nhưng cái năm 1975, gọi là “Đại thắng mùa xuân”, chúng nó có khối đứa đã sáng mắt ra rồi đấy nhé. Như cái cô Thanh niên xung phong tên Dương thu Hương cùng 140 đồng chí của cô ta hăm hở tình nguyện vào Nam đợt đầu tiên ấy đã phải khóc rống lên rằng “Một chế độ man rợ lại thắng một xã hội văn minh” khi chính mắt nhìn thấy sự phồn vinh, giàu có, tự do của miền Nam. Cô ta cũng đã phải kêu lên “Chúng ta đều bị đảng cộng sản nó lừa”, y như chúng tôi kêu lên năm 1945.
Sau trận tổng tấn công Mậu Thân thất bại, ông Hồ ức quá, hộc máu đến ba lần rồi chết, Lê Duẫn lên thay. Ối dào! Cái tên Duẫn này còn độc hơn ông Hồ gấp bội. Nó cho thực hiện “Chính sách ruộng đất” còn tinh vi hơn thời “cải cách”. Dân làm ra thóc mà không có thóc để ăn. Làm ra bấy nhiêu nộp thuế cũng không đủ. Dân phải bỏ làng đi xứ khác ăn mày, ăn xin để sống. Tên Duẫn chết, Trường Chinh lên thay, chính trị càng rối ren, đổ nát. Đời sống nhân dân càng đói khổ, phải vào rừng đào củ, bứt cỏ mà ăn. Thời này có ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh Ủy tỉnh Vĩnh Phúc, học lực mới tới lớp 5, nhưng nhìn ra được cái sai lầm về “cải cách ruộng đất”, đã âm thẩm khoán ruộng cho dân làm ăn. Gọi là “khoán hộ”. Chỉ trong vòng hai 2 năm (1965-1967) dân đã có đủ thóc để đóng thuế và còn có dư ăn “giáp hạt” . Thằng Tổng bí thư Trường Chinh biết được, bắt ông Kim Ngọc kiểm điểm và bỏ tù, bắt dân trở lại “khoán quản”. Ruộng xanh tốt lại xơ xác, tiêu điều như trước. Dân lại đói như xưa. Ông Kim Ngọc đau buồn, sinh ra bệnh nặng, mất năm 1979.
Hai mươi năm sau ngày “khoán hộ” của ông Kim Ngọc, năm 1988, Bộ Chính trị mới nhận thấy được cách làm của ông Kim Ngọc là đúng đắn, nên mới ra Nghị quyết “khoán mười”, rập theo khuôn mẫu của ông Kim Ngọc. Từ đó nước ta mới có thóc xuất khẩu. Thế mới biết làm vua mà u mê, ám chướng, vô đạo thì hại cho dân, cho nước biết là ngần nào.
Trường Chinh chết, Nguyễn văn Linh lên thay. Mới đầu nhân dân vui mừng tưởng đâu có được vị vua tốt vì ông này chủ trương “cởi trói” cho giới trí thức, văn nghệ sĩ và ông ta có viết báo tố tham quan, ô lại ký tên N.V.L có nghĩa là “Nói và làm”. Dè đâu niềm vui chưa được ba, bảy hai mốt ngày thì ông ta trở mặt, lộ ra bản chất cộng sản chuyên chính như cũ, chính sách lại trói chặt hơn trước. Dân chúng mĩa mai gọi là “Nói và lờ”. Hay thô tục hơn là “Nói với l…”. Đám văn nghệ sĩ người nào lỡ dại nghe lời ông ta xúi hãy can đảm viết thật, viết thẳng đã viết bài chỉ trích, phê bình nhà nước hay đảng, sau đó đều bị bắt, tống giam vào ngục tối.
Đến đời Đỗ Mười lên ngôi vua thay tên “Nói và lờ” thì dân chúng hết thở nổi. Tên vua này lúc trẻ làm nghề thiến lợn, vô học, ngu dốt nên rất ác và tham theo kiểu Lý trưởng nhà quê làng xã. Hắn đích thân ra tay “Đánh tư sản” và “Cải tạo công thương nghiệp” cả nước, đổi tiền liên tục ba lần:
- Lần thứ nhất năm 1975: 500$ tiền cũ ăn 1$ tiền mới. Mỗi người chỉ được đổi 50$.
- Lần thứ hai năm   1978: 1$ ăn 0.8 xu. (hào) Mỗi gia đình (hộ) chỉ được đổi 200$.
- Lần thứ ba năm    1985: 10$ ăn 1$. Ở thôn quê mỗi hộ chỉ được đổi 300$.
 làm cho dân miền Nam hoàn toàn trắng tay. Tên hoạn lợn Đỗ Mười đã thành công trong việc cào bằng miền Nam nghèo như miền Bắc. Mỗi người chỉ còn cái khố che hạ bộ. Lương thực bấy giờ chỉ có bo bo, thức ăn dành cho ngựa, chúng gọi là “cao lương” nghe rất sang trọng. Loại “cao lương” này ăn vào đầy bụng nhưng không tiêu hóa được. Hôm sau ỉa ra còn nguyên như cũ, có người đem rửa sạch nấu lại cho lợn ăn.
Tên Phạm văn Đồng còn lừa dân, bảo môt ký rau muống bổ bằng một ký thịt bò nữa cơ. Thật là bố láo, bố lếu quá mức!. Đến khi  Đỗ Mười bị hạ bệ thì Lê Khả Phiểu lên ngôi lại càng thêm tệ hại. Chính nó đã bị bọn Tàu gài bẫy chơi gái Tàu, thòi ra đứa con gái, bị chụp hình bêu xấu, bắt bí. Thằng Phiêu nhục nhã quá đành phải dâng đất để bọn Tàu giấu nhẹm vết nhơ ấy cho. Đấy, thác bản Giốc, ải Nam Quan, bãi Tục Lãm mất cũng do tay nó đấy. Vậy mà vẫn mặt dầy, hám danh, nhờ người viết sách rồi ký tên mình để lấy danh. Hình như thằng chấp bút nào đó chơi xỏ lá, lấy tên sách là “Mênh mông tình dân”. Thằng Phiêu quá ngu đâu biết gì. Sau đó, một loạt hình chụp dinh thự hoành tráng, trống đồng Quốc gia, ngà voi, bàn thờ phật, tượng đồng của nó, vườn rau xanh trên sân thượng lầu 2…nhà nó được tung lên mạng với cái tựa đề là “Tổng Bí Khả Phiêu thanh liêm chí công vô tư với Mênh mông tiền dân” làm cho Bộ Chính trị phải mượn quần che mặt cả đám.
Sau Lê khả Phiêu là thằng con rơi của lão Hồ lén lút gian díu với cô gái Tầy họ Nông, lúc trốn chui, trốn nhũi trong hang Pắc Pó, thòi ra tên Nông đức Mạnh, vô tài bất tướng mà vẫn ngồi ì trên ghế Tổng bí thư đến hai nhiệm kỳ. Đó cũng là nhờ khom lưng, uốn gối bái lậy bọn Tàu, dâng đất, dâng biển, nó giúp cho chứ tài cán gì. Thật là toàn các quân đổ đốn, ăn hại, đái nát cả.
Bà già Bắc kỳ càng lúc nói càng hăng. Hình như “lịch sử đảng ta” bà thuộc vanh vách. Nói cứ như thuộc lòng từng chuyện. Kinh thật.
Kẻ hiếu kỳ bu vào nghe càng lúc càng đông. Càng nghe càng khoái cái lỗ nhĩ. Lại có người sợ:
-Thưa Cụ, Các điều Cụ nói đều đúng hết. Ai cũng biết cả, nhưng không dám nói. Bởi mới mở miệng ra đã bị bọn chúng bóp họng rồi. Cụ không sợ sao? Mà này! Sao Cụ ngược đời, khác người, lại đi van vái cho Tể tướng Dũng, bạo chúa sống lâu trăm tuổi, thế là thế nào?
-Chết thì ai cũng sợ. Nhưng tôi nay đã 95 tuổi, chỉ một tiếng hét to cũng đủ làm tôi đứng tim chết rồi thì còn gì để sợ. Tôi nay đốt hương ngày ngày “cầu cho Tể tướng sống lâu” là muốn sống thêm dăm ba năm nữa để xem cái chế độ này nó đưa dân tộc mình lên “thiên đàng cộng sản” như thế nào như lời ông Hồ hứa hẹn chắc như đinh đóng cột từ cái nẫm 1930 đó thôi. Các ông bà muốn biết lý do vì sao tôi chỉ cầu riêng cho Tể tướng Dũng sống trường thọ hở ?
-Dạ, đúng thế! Cụ hãy nói đi!
Bà già Bắc kỳ chưa kịp nói thì bỗng đâu có một tốp công an áo xanh, áo vàng cả chục đứa, cả đực lẫn cái, tay dùi cui, tay roi điện, xô vào xốc nách, lôi bà cụ đi. Ai nấy đều hoảng hồn dạt ra xa, bụng nơm nớp lo cho bà cụ chắc phen này sẽ nát thây với lũ khuyển ưng, khuyển mã.
Bà cụ bị đưa thẳng một mạch vào dinh Tể tướng. Thật không ngờ, Tể tướng Ba Dũng áo mão chỉnh tề đã đợi sẵn trước cửa, cúi đầu, đưa tay mời bà cụ vào trong rất lễ phép, trước sự ngạc nhiên của bọn sai nha đang đắc chí vì tưởng đang lập được đại công bắt được mụ già phản động.
Sau khi đuổi hết đám trảo nha ra khỏi cửa, Tể tướng Ba Dũng vòng tay kính cẩn thưa:
-Thưa Cụ! Xin Cụ cho biết lý do vì sao trong lúc cả nước, từ dân đen đến hạng trí thức đều đang nguyền rủa ta, đòi ta phải từ chức để về quê làm lại nghề y tá đi chích thuốc dạo mà chỉ riêng có mỗi mình Cụ lại thành tâm cầu nguyện cho ta sống trường thọ để trị vì trăm họ mãi mãi? Cụ cứ thẳng thắn nói thật, đừng sợ gì hết. Tôi “đảm bảo” sẽ không bắt tội Cụ đâu!
Bà lão nói:
-Tôi già sắp xuống lỗ rồi, Dẫu Ngài có bắt tội tôi đem đi nhốt hầm tối thì cùng lắm ba ngày sau tôi cũng sẽ chết thì có gì đáng sợ. Nhưng tôi sẽ nói hết những gì tôi biết và vì sao tôi lại cầu cho Ngài sống lâu. Đời tôi từ lúc thanh xuân đến nay lưng còng, tóc bạc đã trãi qua 7 đời vua kể từ đời ông Bảo Đại đến đời ông Hồ và bây giờ đời ông Nông đức Mạnh. Mới đầu cách mạng, tôi cũng như mọi người dân đã gặp phải hôn quân vô đạo, thật khổ sở vô cùng nên đồng lòng cầu nguyện cho nước thoát khỏi hôn quân. Nhưng không ngờ khi ông Hồ chết đi, hết vua này đến vua khác thay nhau lên ngôi, vua sau càng tàn ác, vô đạo hơn vua trước. Mấy đời vua gần đây lại còn tham lam quá độ. Tham đến nỗi mất hết lương tri, cướp bóc tài sản của dân cả nước đến khánh kiệt rồi quay sang bán cả giang sơn đất nước, biển đảo của tổ tiên đã mấy ngàn năm đổ xương máu ra gầy dựng để vun quén tài sản cho riêng mình, giòng họ mình giàu sang tột đỉnh. Rồi sau đó cam tâm khom lung, cúi đầu làm nô lệ cho ngoại bang một cách hèn hạ. Lại còn lập miếu, xây đền thờ bọn Tàu coi chúng như tổ tiên của mình. Thật là nhục nhã quá chừng. Uổng cho mấy mươi ngàn lính của ta chết oan năm 1979 nơi biên giới phía Bắc và năm 1988 tại núi Lão Sơn.
- Thưa Cụ - Tể tướng Dũng ngắt lời - Nếu thế thì ta cũng đồng tội với bọn họ, sao Cụ lại ưu ái riêng ta?
- Dĩ nhiên là Ngài làm sao tránh khỏi tội với lịch sử phán xét sau này. Tuy nhiên Ngài chỉ là người đổ vỏ cho cái bọn ăn ốc. Chính vì vậy mà tôi mới cầu riêng cho một mình Ngài thôi.
- Xin Cụ hãy nói rõ thêm vì sao ta lại là người đổ vỏ, còn bọn nào là người ăn ốc?
- Trước hết, tôi phải nói rằng bản thân Ngài hiện nay là một trong đám tư bản đỏ giàu nhất nước, cũng có thể nói là giàu nhất nhì Đông Nam Á với tài sản tiền tỷ đô la gởi ở ngân hàng ngoại quốc, với nhiều dinh thự nguy nga, với nhiều đại công ty từ ngân hàng đến công kỹ nghệ, dịch vụ…Còn gia đình Ngài bên nội, bên ngoại, hàng trăm người, ai nấy cũng đều là tỷ phú, triệu phú đô la. Họ cũng đang nắm trong tay các cơ sở kinh doanh lớn rải khắp từ Nam tới Bắc…
Nhưng đó không phải là cái tội lớn. Hiện nay, thiên hạ đều nhắm vào Ngài hai cái tội tày đình là bán Tây nguyên cho Tàu khai thác bô xít và vụ con tàu Vinashin làm thất thoát tiền của dân lên đến 5 tỷ mỹ kim mà không có cách nào trả được nợ trong, nợ ngoài. Tờ sớ kết tội Ngài có ba ngàn chữ ký của hầu hết các nhà trí thức, khoa bảng trong nước yêu cầu Ngài từ chức cũng nằm trong hai tội đó.
Đây là sự sơ sót của đám trí thức bị bọn ăn ốc xỏ mũi, hướng dẫn họ đi chệch hướng, chỉ lo đánh vào Ngài mà quên mất cái tội to của chúng là bán giang sơn cho ngoại bang. Thử hỏi, một mình Ngài có dám ký tên bán Tây nguyên, bán biển đảo, dâng đất liền mấy chục ngàn cây số vuông cho bọn Tàu ô không? Đúng ra, bọn chúng nó đã rấp tâm bán nước cho Tàu từ cái năm ông Hồ cõng cái chủ nghĩa cộng sản về nước với chủ trương “thế giới đại đồng” mà thằng văn nô Tố Hữu diễn thành vè rằng: “Bên kia biên giới là nhà – Bên nay biên giới cũng là quê hương”. Và năm 1958, bằng cái công hàm do thằng Đồng ký theo lệnh của già Hồ sai bảo, công nhận hai quần đảo Hoàng - Trường sa là của Tàu. Ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, Trung Quốc, thằngNguyễn Văn Linh TBT Đảng CSVN và thằng  Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đã cầu xin với thằng Giang Trạch Dân TBT Đảng CSTQ và thằng Lý Bằng Thủ tướng của Trung quốc rằng An Nam được làm chư hầu cho Đại Hán. Chúng cam kết như sau: “…  Phía VN xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh dầy công xây đắp trong quá khứ và Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận về đề nghị phía Trung Quốc để Việt Nam được hưởng qui chế Khu tự trị thuộc Chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Năm 1999 – 2000 cũng thằng Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu ký nhượng thêm ải Nam Quan, thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm. Còn chuyện bán Tây nguyên cho Tàu thì bọn chúng đã có chủ mưu từ lâu chứ đâu cần phải chờ tới năm 2008 chúng nó ép Ngài phải thò tay ký duyệt dự án để chúng xoa tay trốn trách nhiệm để cho Ngài phải mang lấy tội bán nước. Này nhé, năm 2001, vì khủng hoảng kinh tế nên thằng Mạnh sang Trung Quốc cầu cứu giúp đỡ. Tàu nó đòi đất Tây nguyên với cái cớ là khai thác bô xít nhôm ở Đắc Nông, đổi lại chúng cung cấp cho An Nam khoản tín dụng ưu đãi là 20 tỷ Mỹ kim để cứu kinh tế An Nam.
Năm 2006, hai thằng Mạnh và Triết lại qua Trung Quốc bàn bạc thêm với thằng Hồ Cẩm Đào về kế hoạch hợp tác và thúc đẩy thực hiện dự án. Đến năm 2008 thằng Hồ Cẩm Đào qua Hà Nội bắt tay với thằng Mạnh ký kết dự án. Lúc này chúng nó mới đẩy Ngài ra làm con dê tế thần ký cái “Giấy đoạn mãi” bán Tây nguyên. Số tiền 150 triệu Mỹ kim lót tay, Ngài bị mang tiếng là bỏ túi, nhưng thực ra phải chia chác cho cả bọn chúng chứ đâu mình Ngài. Số còn lại Ngài được bao nhiêu để bù cho cái tội tham ô?
Ngài cũng đừng lấy làm lạ khi tự dưng chúng ban cho Ngài bao nhiêu là chức tước mà Ngài hoàn toàn không có khả năng làm. Chẳng hạn như cái chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Y như thằng văn nô Tố Hữu cả ngày chỉ biết làm thơ, hò vè để nịnh ông Hồ rồi được đưa lên làm Bộ trưởng kinh tế khiến cả nước phải ăn bo bo để sống. Mà nói chung, các Ngài đều bị bệnh “kiêu ngạo cộng sản” quá nặng, biết mình bất tài mà cứ nhận bừa quyền chức. Đến khi thất bại, vỡ nợ như vụ con tàu Vinashin thì lại đùn đẩy tội cho người khác, chẳng ai dám nhận lỗi về phần mình. Mọi sự sai trật đều đổ lên đầu thằng “cơ chế”. Mà thằng “cơ chế’ là thằng nào? Mặt mũi, tròn méo, mập ốm, cao lùn ra sao? Đấy, bây giờ chúng nó đùn hết trách nhiệm cho Ngài đấy! Chính vì thế tôi mới nói Ngài là kẻ đi đổ vỏ. Còn bọn ăn ốc là ai thì Ngài hẵn biết rồi đấy.
Tể tướng Ba Dũng ngồi nghe bà già Bắc kỳ răng đen nói một thôi, một hồi, mặt cứ đực ra như ngỗng ỉa, ngơ ngơ, ngác ngác, hai mắt như thất thần, tâm trí cứ như bay bỗng tận đâu đâu. Khi bà lão ngưng nói, Ba Dũng sực tỉnh, vội vàng đứng lên chắp hai tay xá dài ba cái rồi cung kính nói:
-Sinh ra ta là cha mẹ ta, hiểu thấu ruột gan của ta chính là Cụ đó. Nhưng thực sự cho đến nay ta cũng không rõ cha ta là ai. Bọn nịnh thần thì thổi phồng lên để nâng bi ta, nói cha ta là Tướng Nguyễn Chí Thanh. Điều đó thì giờ đây cũng chẳng cần. Ta nay đang chức cao, quyền trọng đầu triều thì cần gì đến cái bóng của ông ta. Hiện nay cả nước đang căm ghét ta, nguyền rủa ta chóng chết. May mà có mỗi mình Cụ hiểu được nổi oan ức của ta, ta có miệng ăn mà không có miệng nói, ta cám ơn Cụ lắm. Thưa Cụ, ngoài cái lý do đổ vỏ ốc ra, chắc hẵn Cụ còn có lý do  khác nữa để cầu cho ta trường thọ?
-À! Ở xứ người ta thì giàu có, tiền của nhiều  mới đi làm chính trị, giúp dân, giúp nước. Còn xứ mình thì lại đi làm chính trị chỉ để làm giàu tắt. Như Ngài đây, lúc từ trong rừng chui ra chỉ có cái nón cối và đôi dép râu, nay thì giàu sang tột bực, giàu nứt đố đổ vách. Vây cánh, bè phái cũng vững mạnh rồi. Giờ thì Ngài đã có thời gian chú tâm, chăm lo cho nước, cho dân.
Bây giờ nếu để kẻ mới lên thay thì chúng chỉ nghĩ đến củng cố địa vị, tạo vây cánh, bòn mót tiền bạc để thu hồi vốn và tích lũy của cải thì tâm trí đâu mà lo cho ích nước, lợi dân. Lúc đó chúng còn tàn bạo hơn,dân lại phải khổ sở, lầm than hơn đời trước. Ví dụ như bọn “tứ nhân bang nhơ nhớp Hà Nội” mà người dân đặt thành vè để miệt thị : Giàu như Phú (Phùng hữu Phú), lú như Trọng, lật lọng như Nghiên (Hoàng văn Nghiên), tiêu tiền như Triệu (Nguyễn quốc Triệu) lên nắm quyền, chẳng biết làm gì ngoài cái miệng ra rả kiên định 4 điều trơ trẽn, vô nghĩa lý: kiên định học thuyết Mác-Lênin, kiên định xã hội chủ nghĩa, kiên định chế độ độc đảng, kiên định kinh tế quốc doanh chủ đạo như hồi Ngài mới ngồi lên ghế Tể tướng cũng đã nói y như thế. Đã đi theo “kinh tế thị trường của tư bản” mà lại kiên định chủ nghĩa Mác-Lê khiến người ta cười nôn ruột, cười ngặt nghẽo chết được. Bởi vậy tôi mới cầu cho Ngài sống lâu là để trì hoãn cuộc thay đổi được ngày nào hay ngày đó.
Tuy nhiên, nếu Ngài tiếp tục đường lối cai trị độc tài như hiện nay mà không chịu lắng nghe, tiếp thu ý kiến, lòng dân để chỉnh sửa quốc sách thì tôi e rằng chổ ngồi của Ngài, và chổ dựa của cái đảng của Ngài sẽ chẳng còn được bao lâu nữa!
- Hiện nay ta có một lực lượng công an hùng hậu, sức mạnh vô song, vũ khí tối tân trang bị tận răng, hết lòng trung thành bảo vệ chế độ và quyết thề rằng “Chỉ biết còn đảng còn mình” thì sợ gì?
- Thưa Ngài, Xưa nay cái bọn chó săn, khuyển ưng, khuyển mã chỉ biết trung thành với chủ chỉ vì cục xương, miếng thịt do chủ ném cho, chứ chúng chẳng phải lý tưởng gì sất. Nếu Ngài thử không cho chúng ăn trong ba ngày mà xem, chúng sẽ trở mặt phản chủ, quay lại cắn chủ để đòi ăn ngay. Hiện nay chúng đang được Ngài ưu ái hậu đãi để đàn áp những người chỉ bất đồng chính kiến, chứ chưa phải là tội nhân với đất nước, mà chúng đã ra tay tàn ác, dã man với họ, cốt để chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Ngài cũng bởi vì quyền lợi hậu hỉ mà Ngài hứa hẹn sẽ cho chúng. Chúng lại tưởng mình có công lớn nên đã trở thành bọn kiêu binh, ngạo mạn, ngang ngược, muốn đánh, giết ai tùy ý, không coi luật pháp ra gì. Giờ thì không ai có thể kềm chế, kiểm soát chúng được nữa rồi. Tôi e rằng Ngài đã nuôi hổ trong nhà. Bọn công an chính là cái họa sát thân của Ngài nay mai đó.
Tể tướng rùng mình nhắm mắt hồi lâu rồi trầm ngâm nói:
- Ta muốn mời Cụ làm cố vấn giúp ta, trước tìm kế sách trị nước, sau diệt kẻ nội thù Cụ nghĩ sao?
Bà lão vội xua tay lia lịa từ chối:
-Mụ già này là dân đen thất học, chẳng qua là sống lâu năm chứng kiến chuyện đời lên xuống, bẩn thỉu như thế mới cả gan thưa với Ngài vì biết Ngài là người “Yêu sự thật, ghét giả dối”, chứ chuyện “kinh bang tế thế”  thì già này biết gì mà nói tới kế sách! Tỷ như Ngài ở cái thế cỡi cọp ngày nay vậy. Hơn nữa, giả dụ nếu tôi giúp Ngài hôm nay thì ngày mai kẻ thù của Ngài, cái bọn ganh ăn ghét ở với Ngài, sẽ dàn dựng tai nạn xe cán hay bỏ thuốc độc cho tôi chết ngay. Sợ lắm. Xin Ngài cho tôi kiếu.
- Ta muốn đền ơn Cụ. Hiện nay Cụ đang sinh sống bằng nghề gì? Ta sẽ sẵn lòng giúp.
- Già này đang sống qua ngày bằng nghề bán rau ở vỉa hè. Nếu Ngài có lòng giúp dân buôn gánh bán bưng thì xin Ngài thu hồi cái lệnh “Cấm bán hàng rong ở lòng lề đường”. Được vậy, thì thay mặt cho bà con lao động nghèo cám ơn Ngài lắm lắm.
- Không được đâu là không được đâu. Kim khẩu “nhất ngôn cửu đỉnh”, lệnh vua đã ban ra rồi thì không thể thu hồi. Nhưng ta sẽ cho kẻ tâm lưu ý trường hợp ưu tiên cho Cụ.
Tể tướng Ba Dũng đích thân tiễn bà cụ ra cửa và gọi cận vệ đưa lão bà về tận nhà bằng xe đặc biệt.
                 * * *
Kể từ hôm đó, bà lão Bắc kỳ di cư năm 1954, răng đen, mặc áo tứ thân, đầu vấn khăn mỏ quạ, bán rau hàng ngày ở vỉa hè quanh bùng binh Sài Gòn đột nhiên biến mất.
Những bạn hàng rong cùng với bà không còn thấy bà đâu nữa. Có người nói Tể tướng Ba Dũng đã thưởng công cho bà một ngôi biệt thự trị giá 5 triệu đô ở đảo Tuần Châu, gần nhà của Giáo sư Toán học “Bổ đề” Ngô Bảo Châu, lại còn chu cấp tiền sinh hoạt mỗi tháng 5 triệu đồng tiền Hồ và một Oshin giúp việc để bà an nhàn hưởng phước tuổi già vì bà có công giúp Tể tướng Ba Dũng “Bẩu đề”.
Có người lại lấm la, lấm lét, mắt trước, mắt sau thầm thì: Nghe nói thằng Ba Dũng đã cho chó săn mật vụ thủ tiêu bà cụ rồi vì bà ta đã chửi nó và cả lò đảng nhà nó như chửi chó ghẻ.
Chuyện bà già Bắc kỳ sống hay chết chưa biết rõ hư thực ra sao. Nhưng có lẽ nhờ lời cầu nguyện của bà “cầu cho bạo chúa sống lâu” mà Tể tướng Ba Dũng đã đắc cử tỷ lệ 99,99% số phiếu bầu của Quốc hội bù nhìn Xã hội Xã nghĩa Việt Nam, dành được ghế Tể tướng thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa.
Chúng ta hãy ráng sống tới năm 2020 để chống mắt coi Tể tướng Ba Dũng tiếp tục sự nghiệp của Hồ Chủ tịch, dẫn “Năm Châu tới đại đồng” hay là sẽ đưa nước An Nam trở thành một “Khu tự trị thuộc Chính quyền Trung Ương Bắc kinh của Trung Quốc như “Chủ trương lớn” của đảng CS đã đề ra.

No comments:

Post a Comment