Wednesday, April 14, 2021

 HOÀNG KHỞI PHONG : ” HÀO PHÓNG, LÃNG MẠN, SÂU SẮC, THẲNG THẮN ”

Nguyễn Minh Nữu

Hoàng Khởi Phong. Đinh Cường vẽ

Cái giao tình quen biết giữa Hoàng Khởi Phong và tôi  đã hơn 40 năm, thân thiết như anh em ruột thịt và nhiều kỷ niệm mà kể lại giống như kể chuyện tiểu thuyết.

Hoàng Khởi Phong vừa về thăm lại vùng Hoa Thịnh Đốn, vào tháng 10 năm 2014. Đón tiếp ông là khá nhiều bạn hữu cũ từ ngày xưa như Trương Vũ, Đinh Cường, Đỗ Hùng, Đoàn Viết  Hoạt, Đặng Đình Khiết, Phùng Nguyễn, Phạm Cao Hoàng, Phạm Nhuận, Phương Thảo và tôi. Ngồi bên nhau kể chuyện ngày xưa, những kỷ niệm rào rạt trong lòng. Buổi tối, ngồi vào bàn viết, nhìn thấy tác phẩm Trăng Huyết của Anthony Grey và Nguyễn Ước, tôi bỗng muốn ghi lại vài kỷ niệm với Hoàng Khởi Phong.

Hồi đó  là năm 1971, tôi đang là người lính thuộc Sư Đoàn 23 bộ binh.  Chiến trận  vùng Tây Nguyện lan rộng và khốc liệt, đợn vị tôi hành quân lên Pleiku và đóng quân ở căn cứ Hàm Rồng, cách thành phố Pleiku khoảng 20 km. Căn cứ Hàm Rồng là hậu cứ của Trung Đoàn 47 thuộc Sư Đoàn 22.  Tối hôm đó,  Nguyễn Quang (bây giờ là nhà thơ Mai Quang  đang chủ trương trang Web Sông Dinh) rủ tôi tới  hậu cứ  của một Tiểu Đoàn, không nhớ tiểu đoàn mấy của Trung đoàn 47 để tìm gặp Thế Vũ, một người bạn văn nghệ. Lần đầu gặp nhau  chúng tôi ngồi gần như suốt đêm chuyện trò về đủ thứ trên đời.

Nửa đêm đầu là ngồi uống trà để thức nói chuyện và kế tiếp nửa đêm còn lại là vừa nói chuyện vừa lần lượt đi xả, còn nhớ hoài nụ cười mím chi của Nguyễn Quang khi gọi cái trà mà Thế Vũ đãi  là trà Thái Đức, nói lái lại là trà Thức …

Trong suốt thời gian đóng quân tại hậu cứ đó, tôi, Nguyễn Quang và Thế Vũ nhiều lần tụ hội chuyện trò. Có lần Thế Vũ nói cuối tuần này  nếu còn ở đây, tôi sẽ đưa các ông ra Pleku uống cà phê, một quán cà phê mới mở rất văn nghệ. Thế Vũ kể thêm, quán do hai ông nhà thơ hùn nhau mở để làm chỗ cho anh em văn nghệ tụ hội, hai ông đó là Mai Trung Tĩnh và Hoàng Khởi Phong. Cả hai đều là quân nhân, nên vụ mở quán này là chuyện làm thêm cho vui, quán sẽ có tên là Tay Trái.

Thế Vũ nhìn tôi và nói, “Tôi có nói với Hoàng KHởi Phong là có Nguyễn Minh Nữu đang hành quân ở đây nên anh Hoàng Khởi Phong nhắn  rủ ông cùng ra đó cho vui.”

Tôi vui vẻ nhận lời, vì cả Mai Trung Tĩnh  và Hoàng Khởi Phong đều là những người làm thơ nổi tiếng. Chất trữ tình của Lâu Đài Tình Ái   trong một bài thơ của Mai Trung Tĩnh được Trần Thiện Thanh phổ nhạc đang là một ca khúc mà người lính nào cũng thuộc, còn Hoàng Khởi Phong thì một tác phẩm thơ Mặt Trời Lên  vừa do Đại Nam Văn Hiến xuất bản cũng đang là để tài nóng để anh chị em trong văn nghệ bàn tán về tính cách phản chiến và nổi loạn. Cả hai thi sĩ ấy tôi đều mong có dịp làm quen.

Tiếc thay, cái hẹn  hồi năm 1971 đó không thực hiện được. Giữa tuần đó, đơn vị tôi rời căn cứ Hàm Rồng để lên Kon Tum, rồi  theo đơn vị di chuyển về Ban Mê Thuột, khi thì Quảng Đức, có lúc Phan Rang, cũng có lúc ghé Pleiku  vài ba ngày nhưng cũng chẳng biết Cà Phê Tay Trái ở đâu để mà ghé lại…

Cho đến đầu năm 1973, khi đang tạm dừng dưỡng quân tại Pleiku, buổi tối tôi cùng đám bạn xuống phố, có cà phê., có rượu, và có cả quậy phá nữa, nửa đêm trên đường lái xe về đơn vị thì bị Quân Cảnh chặn lại và tống giam vào Đồn Quân Cảnh Pleiku.

Sáng hôm sau, cả đám bị lôi dậy tập họp trước sân chờ nghe lệnh, ba thằng bạn cùng đi  được gọi lên, cảnh cáo và thả cho về đơn vị, còn tôi được lệnh chờ trình diện Trưởng Đồn.  Tôi hỏi viên Sĩ Quan Trực tại sao vậy, vì trong đám bốn thằng cùng đi chung, tôi là thằng …vô tội nhất. Tôi không lái xe, không quậy phá, cập bậc cũng nhỏ nhất  sao tôi phải trình diện Trưởng Đồn?  Viên Sĩ Quan Trực lắc đầu không trả lời mà quay qua giải quyết những trường hợp khác.

Tôi ngồi chờ  tới 10 giờ sáng  mới dược gọi vào trình diện Trưởng Đồn. Sau khi trình diện đầy đủ tên họ số quân, Ông Đại Úy Trưởng Đồn Quân Cảnh Pleiku ngước nhìn tôi, đôi mắt nheo nheo và hỏi:

-Cậu biết tôi là ai không ?

– Dạ biết

-Tôi là ai?

-Đại Úy là Trưởng Đồn Quân Cảnh.

Ông Đại Úy Trưởng Đồn mặt khó đăm đăm đó  bỗng bật cười:

-Mẹ, vậy mà nói biết. Tớ là Hoàng Khởi Phong.

-Trời.

Ông ta gọi ra ngoài cửa, có bạn nào ngoài đó không, xuống câu lạc bộ lấy cho tôi hai ly cà phê đá…

Buổi trưa đó, một tờ giấy gửi về đơn vị của tôi báo tin tôi vi phạm quân phong quân kỷ và bị tạm giam tại Đồn Quân Cảnh Pleku 7 ngày. Sau khi ký tờ giấy và chuyển qua cho văn thư gửi đi,  Hoàng Khởi Phong quay qua tôi vui vẻ, trưa nay tôi dắt cậu đi ăn cơm Tàu, nhà hàng này mới mở ngon lắm, lát gọi Thái Tăng An ra ăn chung luôn. Thái tăng An là hoa sĩ  vẽ rất đẹp, hiện nay định cư tại Hòa Lan.

Hào Phóng, Lãng Mạn, Sâu Sắc và Thẳng Thắn là những đặc điểm của Hoàng Khởi Phong. Bốn đặc tính đó trộn lẫn vào nhau tạo nên một phong cách đặc biệt  riêng tư của Hoàng Khởi Phong  mà bất cứ ai khi đã quen với ông đều thấy không thể trộn lẫn với bất cứ ai.

Cuộc chiến rồi đã tàn, chúng tôi không gặp nhau suốt mấy chục năm trời  cho tới khi tôi định cư tại Hoa Kỳ năm 1995.

Lúc đó , nhà thơ Hoàng Khởi Phong đã không còn làm thơ nữa.  Ông đã sống ở Hoa Kỳ hơn hai mươi năm, đã làm công nhân bán xăng, đã làm thợ tiện, đã làm cộng tác viên báo chí, đã làm chủ nhiệm tạp chí Văn Học và đã xuất bản hàng chục tác phẩm giá trị.

Sau tập thơ đầu tiên xuất bản trên đất Mỹ là  Tuyển tập thi ca 1975-1977  in chung 8 nhà thơ do nhà xuất bản Bố Cái  in năm 1978. Hoàng Khởi Phong đã không làm thơ nữa và những bài viết của ông về những ngày cuối của miền Nam là  Hồi ký ngày N+   đã tạo cho ông một vị trí khác trong dòng văn học Việt Nam Hải Ngoại.  Liên tiếp sau đó là các tập truyện ngắn, cho tới khi chúng tôi gặp lại nhau là ông vừa cho in xong  phần đầu của bộ trường thiên tiểu thuyết  Người Trăm Năm Cũ.

Khi hai cuốn 1 và 2 của bộ trường thiên Người Trăm Năm Cũ  in xong , Giang Hữu Tuyên và tôi đã tổ chức một buổi ra mắt sách tại nhà hàng Saigon House với hơn 300 người tham dự. Lần đó  số lượng sách mà Hoàng Khởi Phong đem từ Cali lên  đã bán hết sạch, sau đó Hoàng Khởi Phong về lại Cali và phải gửi tiếp sách lên để bán tại vùng  Hoa Thịnh Đốn.

Hai năm sau, khoảng năm 2004 tôi về Cali chơi và ở tại nhà Hoàng Khởi Phong. Lần đó anh đưa tôi một bộ sách khác, cũng hai cuốn, đó là cuốn  Trăng Huyết   của Anthony Grey và Nguyễn Ước. Đây là một tác phẩm lạ, vì nó là một tác phẩm có sẵn và hoàn chỉnh của một nhà văn Anh là Anthony Grey, tựa đề  Saigon   dày hơn 800 trang, khi đến tay Nguyễn Ước, lúc đó là một thuyền nhân vượt biên còn đang ở tại đảo Galang, tác phẩm được viết thêm tới 400 trăm trang nữa, và như anh tôi, Giáo Sư Nguyễn Minh Diễm viết lời giới thiệu như sau:

“Năm 1982, một nhà báo Anh từng làm việc và trải qua tù đày tại Trung Quốc nhưng chưa bao giờ đặt chân đến Việt Nam tên là Anthony Grey xuất bản cuốn tiểu thuyết SAIGON dày gần 800 trang khổ lớn (bản in của Nxb Little, Brown and Company-Boston-Toronto năm 1982 dày 787 trang kể cả bạt). Có thể nói Saigon trước hết là một tiểu thuyết lịch sử, vì nó dựa trên những sự kiện có thật, những diễn biến có thật, nhiều nhân vật có thật và các tình tiết của truyện trải dài theo dòng chảy của 50 năm lịch sử Việt Nam, từ 1925 đến 1975. Nó còn mang ý nghĩa lịch sử hơn khi mà để xây dựng tác phẩm, Anthony Grey đã phải bỏ ra suốt ba năm nghiên cứu sách vở tại các thư viện và thư khố ở Paris, Luân đôn, Washington D.C. và đại học Harvard. Ông đã tham khảo vài trăm cuốn sách và hàng ngàn tài liệu liên quan đến Việt Nam. Ông cũng từng gặp, trao đổi và xin ý kiến của các sử gia, nhà nghiên cứu và nhà báo nổi tiếng thế giới về những vấn đề của Việt Nam. Trong đó, có chuyên gia về Việt Nam trước thế chiến thứ hai Virginia Thompson; chuyên gia về Điện Biên Phủ Jules Roy, nhà nghiên cứu Mặt Trận Giải phóng Miền Nam Douglas Pike, tiểu thuyết gia Frank Snepp và nhiều người khác nữa, kể cả các chuyên gia về tình báo và quân sự ở Đông Nam Á. Tinh thần và cung cách làm việc như thế cho thấy tham vọng của Grey là dựng lại cả một giai đoạn lịch sử của Việt Nam như một tổng hợp, như một bức tranh toàn cảnh. Chính vì tinh thần làm việc nghiêm túc như thế mà Saigon đã được dùng như tài liệu giảng dạy về hai cuộc chiến Đông Dương cũng như lịch sử Việt Nam cho sinh viên sĩ quan Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis. Tác phẩm cũng đựơc dịch từng phần để làm sách tham khảo cho sinh viên sĩ quan của Học viện Quân sự Hà Nội, theo bức thư Anthony Grey viết cho Nguyễn Ước được in lại ở cuối sách.

Nhưng trước hết, Saigon là một tiểu thuyết, cho dù nó có bám sát lịch sử đến đâu, và Anthony Grey khi viết cuốn truyện dài này đã có một mục đích rõ rệt, như ông xác nhận sau đó, là mang đến sự hoà giải, để “góp phần hàn gắn những vết thương khủng khiếp và những đau khổ mà người dân ở mọi phía trong xứ sở Việt Nam vốn đã bị tả tơi vì một cuộc chiến quá dài, dài hơn của bất cứ xứ sở nào”. Chính vì hoài bão mục đích ấy, mà các nhân vật trong Saigon đều được Anhony Grey cho một sức sống mãnh liệt, kiên quyết và có phần cực đoan, mê mị, lúc yêu đương cũng như lúc thù hận, lúc sống, cũng như lúc chết. Nếu coi Saigon là một sân khấu, thì những con người mà Anthony Grey tạo ra và đưa lên sàn diễn đều đã sống hết mình, hoạt động hết năng lực và không nghỉ ngơi trước khi rời khỏi ánh đèn. Những tính cách mạnh mẽ, năng động và cực đoan ấy của nhân vật có thể là do bản tính cá nhân, có thể là do hoàn cảnh hun đúc, mà cũng có thể là do một thế lực nào đó cố tình huấn luyện để sử dụng, nhưng nhất định chúng là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch kéo dài quá lâu nơi đất nước Việt Nam, và khiến dân tộc chúng ta đã phải trả một giá quá đắt.

Tuy nhiên, dù Anthony Grey tài ba cách nào thì ông cũng vẫn là một người phương Tây từ ngoài nhìn vào đất nước Việt Nam, ông có tài giỏi cách mấy thì ông vẫn không thể nhập vai người Việt Nam, và khung cảnh sống cũng như các nhân vật ông tạo ra vẫn không tránh khỏi có phần khập khiễng, lạc loài dưới con mắt phân tích của độc giả người Việt vì họ chỉ là “người Việt gốc ngoại”, được xây dựng từ kiến thức, sách vở về đất nước, con người cũng như lịch sử và văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, giống như công chúa ngủ trong rừng, Saigon đã gặp Nguyễn Ước, để khung cảnh và các nhân vật của nó được thổi một luồng sinh khí Việt Nam để chúng được tái đầu thai. Nguyễn Ước đã làm một công việc chưa từng có là viết thêm vào một cuốn tiểu thuyết đã xuất bản và đang lưu hành. Từ trên 800 trang của Saigon, ông đã viết thêm khoảng 1/3 nữa để thành trường thiên tiểu thuyết TRĂNG HUYẾT dài hơn 1200 trang (Bản in của nhà xuất bản Nhân Văn, Canada năm 2004 gồm hai cuốn cùng khổ với Saigon, dày 621 trang và 645 trang). Mặc dù giữ nguyên bố cục của Saigon với tám phần, bắt đầu từ năm 1925 đời vua Khải Định, cho đến cuối tháng Tư năm 1975, Nguyễn Ước đã “viết chêm vào, khi thì trọn một chương, khi thì vài đoạn nghĩ tưởng, vài lời đối thoại, nhiều nhân vật phụ, v.v. để chính đính, minh hoạ; đào sâu tâm lý của các nhân vật người Việt, bổ túc nhiều chi tiết về hoàn cảnh chính trị, khuynh hướng cách mạng bản địa và thời đại, sự kiện lịch sử, nghi lễ cung đình, phong cảnh, nếp nghĩ, tục lệ và văn hoá dân tộc, v.v.” và điều mà ông “chủ tâm hơn cả là cố gắng để nói lên Việt tính của nhân vật và sự kiện, đồng thời trình bày sao cho hợp với cảm quan của độc giả người Việt”.

Chính trong ý nghĩa ấy, có thể nói là Nguyễn Ước đã góp phần sáng tạo các nhân vật, và cả khung cảnh sinh hoạt nữa để họ trở thành những người Việt Nam, sống trong xã hội Việt Nam với những nét văn hoá đặc thù và nhờ thế mà độc giả người Việt chúng ta có thể buồn vui theo họ. Nguyễn Ước quả nhiên cũng là một tác giả, và điều độc đáo đã được thực hiện: một tác phẩm tổng hợp của hai người chưa bao giờ gặp nhau, hoàn thành phần nọ cách phần kia hơn 20 năm đã ra đời như một tổng hợp của kiến thức, tài năng và cảm tính.”

Hoàng Khởi Phong nói với tôi về quyển sách này:

   – Anh cho rằng đây là tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam hay nhất từ trước tới nay, tác giả cuốn này là Nguyễn Ước đang có một số trở lực nên không thể tự xuất bản được, hai bản in mà anh đang cầm đây  là hai bản Nguyễn Ước lấy từ nhà in,  đây là 2 trong tổng số 10 cuốn Nguyễn Ước lấy lén từ nhà in. Những bất đồng giữa Nguyễn Ước với nhà in đã không giải quyết được, và Nguyễn Ước thực sự cần tìm một người có thể giúp Nguyễn Ước in tác phẩm này. Em hãy đọc, và nếu được, hãy giúp Nguyễn Ước.

Trên máy bay đi từ Cali về Washington DC, tôi đã đọc một phần   Trăng Huyết , và thấy rõ là bị cuốn hút về nội dung tác phẩm này đúng như lời Hoàng Khởi Phong nói, và sau đó ông ghi lại trong phần Bạt của tác phẩm  Trăng Huyết   khi tôi xuất bản mấy tháng về sau:

“Là một nhà văn tự học qua trường đời và qua các tác phẩm của những nhà văn đi trước, tôi không học Anthony Grey cách hành văn. Nhưng tôi học được trong tác phẩm Saigon rất nhiều điều về cách sử dụng những chi tiết lịch sử cho một cuốn tiểu thuyết lớn, bao trùm một không gian rộng gồm những biến động xẩy ra tại nhiều quốc gia và trải một thời gian dài suốt hơn nửa thế kỷ.

Sau cùng tôi muốn nói tới những đóng góp của Nguyễn Ước trong Trăng Huyết. Kể từ khi văn học Việt Nam chuyển từ văn chương Hán Nôm sang văn chương quốc ngữ đã được hơn một thế kỷ. Trong thời kỳ văn học mới ấy, văn chương Việt Nam, bằng những bản dịch, đã tiếp nhận rất nhiều tác phẩm của các nền văn học khác. Một trong những người tiên phong trong việc phỏng dịch các tác phẩm ngoại quốc có thể kể đến Hồ Biểu Chánh. Một số truyện của tác giả này là những phó bản của các tác phẩm viết bởi các nhà văn Pháp của thế kỷ 19. Ðiều đáng nói là Hồ Biểu Chánh không hề ghi chú rằng ông đã mượn cốt truyện của các tác giả ngoại quốc để chuyển đổi câu chuyện cho phù hợp với đời sống của người Việt ở trên đất Việt. Thời của Hồ Biểu Chánh là giai đoạn đầu của văn chương quốc ngữ. Cũng phải nói ngay là ông có công giúp cho các độc giả người Việt không có khả năng đọc tác phẩm ngoại quốc, có thể cảm nhận được các tác phẩm ấy. Sau Hồ Biểu Chánh một vài thập niên, cũng có một vài tiểu thuyết gia chuyên phóng tác các truyện ngoại quốc, vì nhu cầu của người đọc càng ngày càng tăng, tuy nhiên các cuốn sách này được ghi rõ là phóng tác, và phần lớn nhằm để giải trí cho người đọc hơn là những tác phẩm văn học. Sau cùng là những tác phẩm văn học được dịch đầy đủ với toàn bộ câu chuyện, đã giúp cho người đọc ở Việt Nam tiếp cận thật sự với nền văn học của các nước khác.

Tác phẩm Saigon của Anthoney Grey được hoàn tất năm 1982, với chiều dầy khoảng bẩy trăm trang, khi được Nguyễn Ước tiếp cận vào năm 2000 đã trở thành một cuốn tiểu thuyết khác, với một cái tên khác, là Trăng Huyết, có chiều dầy hơn một ngàn trang và khổ sách cũng lớn hơn. Ðể hình thành Trăng Huyết, bản thân Nguyễn Ước, theo như ông kể lại ở phần Tái bút, cũng bỏ ra nhiều năm trời sưu tầm, kiểm tra các tài liệu lịch sử và tham quan các địa điểm được dùng làm bối cảnh cho câu chuyện.

Nơi bìa trước của cuốn Trăng Huyết, người đọc nhận thấy hai tên tác giả Anthony Grey và Nguyễn Ước được đặt cùng một hàng. Trong các trang đầu của cuốn sách người đọc bắt gặp lá thư của Anthony Grey gửi cho độc giả của Trăng Huyết; ông viết không phải với tư cách của một tác giả cho phép dịch tác phẩm của mình sang một ngôn ngữ khác, mà là đồng thuận việc Nguyễn Ước cùng đứng tên với ông làm đồng tác giả của cuốn Trăng Huyết, bởi vì Trăng Huyết đã có những đóng góp đáng kể của Nguyễn Ước đến độ Anthony Grey không thể phủ nhận những đóng góp ấy.

Khi so sánh hai cuốn sách, người đọc có thể thấy trong khoảng bốn trăm trang đóng góp của Nguyễn Ước là những bổ túc cần thiết cho nguyên bản Saigon, bởi vì sau hai chục năm tác phẩm này hoàn thành, đã có những tư liệu mới được các văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Hoa cho công bố. Ðiều đặc biệt là những gì Nguyễn Ước đóng góp đã đan chặt lại với nguyên bản, như là một tấm lụa được dệt nguyên thủy, chứ không phải là một miếng vải khác đắp vào một tấm lụa bị hư hỏng vài đoạn. Trong Trăng Huyết có những đoạn được viết thêm vào trong các chương, hơn thế nữa Nguyễn Ước đã dựng thêm một số nhân vật, cũng như đôi khi đã viết hẳn một chương.

Ðiều thứ hai mà tôi bắt gặp trong tác phẩm này chính là chất văn chương trong toàn tác phẩm, dù được viết bởi nguyên bản Saigon của Anthony Grey, hay là bản dịch và sự đóng góp thêm vào trong Trăng Huyết của Nguyễn Ước. Cả hai tác giả này đã cho người đọc thấy cách sử dụng ngôn ngữ tuyệt vời trong toàn cuốn sách. Với hơn 1000 trang sách của bộ tiểu thuyết Trăng Huyết, Anthony Grey và Nguyễn Ước đã làm được một kỳ công trước đó hầu như chưa một cuốn sách nào đáp ứng được, là gói trọn lịch sử và chiến tranh Việt Nam cận đại của năm chục năm từ 1925 cho tới 1975. Tất cả những biến động lớn nhất xẩy ra cho Việt Nam trong nửa thế kỷ này, được ngòi bút tài ba, và tấm lòng ngùn ngụt của hai nhà văn này đúc lại thành một tác phẩm mà bất cứ ai quan tâm tới Việt Nam đều nên đọc.

Sau cùng tôi muốn nói về Trăng Huyết và những gì tôi học được ở Saigon của Anthony Grey qua Trăng Huyết với sự đóng góp của Nguyễn Ước là những bài học quý giá cho một nhà văn không được đào tạo bởi trường ốc. Tôi chân thành ngưỡng mộ và cám ơn cả hai tác giả đã cho tôi đọc lịch sử cận đại của nước tôi, trong một cuốn tiểu thuyết hay nhất về chiến tranh Việt Nam.”

Tác phẩm  Trăng Huyết   ấn bản đầu tiên do Kiến Văn Thời Đại xuất bản năm 2005 với lời giới thiệu của Nguyễn Minh Diễm, bạt của Hoàng Khời Phong và phần phỏng vấn của Ngô Vương Toại, bìa của Nguyễn Trọng Khôi đã được thực hiện khởi đầu là như thế.

Buổi trưa, sau buổi cơm hội ngộ với nhau, nhìn Hoàng Khởi Phong nhanh nhẹn bước ra ngoài sân và rút điếu thuốc hút, Đinh Cường nhìn tôi gật gù , “Ở cái tuổi của Hoàng Khởi Phong mà nhanh nhẹn như ông ta thật là quá quý”. Bài viết này cũng trong tinh thần đó, tôi muốn gửi tới anh Hoàng Khởi Phong một lời khen ngợi về sức làm việc bền bỉ, hăng say trong văn học, những nhận định của anh về mọi vấn đề  rất minh triết và rõ ràng, và vui hơn khi ở tuổi 70 mà sức khỏe vẫn như thời trai tráng.  Chúc mừng anh khi biết  Người Trăm Năm Cũ  đang dược viết những chương sau chót  để trở thành bộ Trường Thiên Tiểu Thuyết Lịch Sử có khoảng thời gian trong truyện dài nhất: TRĂM NĂM.

Virginia, tháng 11. 2014

Nguyễn Minh Nữu

source : Phố Văn Blog / Nguyễn Xuân Thiệp ( Hoa Kỳ)

No comments:

Post a Comment